Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đời Chiến Binh - Chương 1. Tây Nguyên Khói Lửa Mịt Mù

Collapse
X

Đời Chiến Binh - Chương 1. Tây Nguyên Khói Lửa Mịt Mù

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đời Chiến Binh - Chương 1. Tây Nguyên Khói Lửa Mịt Mù

    Đời Chiến Binh
    Trương Dưỡng






    THAY LỜI TỰA
    Trong cuộc chiến Việt Nam, hầu hết Quân, Cán, Chánh,… miền Nam đã thực sự góp phần đáng kể trong việc bảo vệ đồng bào được sống yên ổn trong suốt 20 năm (1955- 1975) chống Cộng sản xâm lược miền Nam.

    Các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân ngoài nhiệm vụ giữ đường, đóng đồn, và bảo vệ thôn xóm; họ còn là thành phần chống du kích rất hữu hiệu. Bọn nằm vùng, nhà có con vô bưng, tập kết,… đều được họ theo dõi, quan sát, và sẵn sàng phát giác nếu chúng định về làng móc nối. Điều nầy các lực lượng chánh qui không tài bằng họ.

    Cảnh Sát, Công Chức, Quân Cảnh…. thì lo an ninh ổn định hậu phương để chiến sĩ yên tâm đánh giặc.

    Các Binh chủng Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp, Công Binh, Pháo Binh, Quân y, Quân Cụ, Truyền Tin đã yểm trợ chiến trường thật hữu hiệu.

    Các Sư đoàn Bộ binh với kỹ thuật nhổ chốt tài tình đã lập rất nhiều thành tích trong vùng trách nhiệm. Sư đoàn 1 Bộ binh (SĐ1BB) và SĐ2BB giữ vững tuyến đầu làm cho các lực lượng chánh qui của CSBV điêu đứng. SĐ5BB dưới quyền Tướng Lê văn Hưng đã vang danh qua trận An Lộc. SĐ7BB, SĐ9BB, SĐ18BB, SĐ22BB, SĐ23BB, SĐ25BB là những đơn vị thiện chiến đà lập nhiều thành tích hiển hách. Đâu có ai ngờ được các chiến sĩ SĐ21BB có thể chạy trên lục bình đuổi giặc giống như người biết khinh công trong chuyện kiếm hiệp. SĐ3BB tuy non trẻ nhưng đã lập nhiều chiến công xứng đáng.

    Biệt Động Quân, Trinh Sát, Thám Báo,… là thành phần trừ bị của các khu chiến thuật và các sư đoàn bộ binh. Các đơn vị nầy đã gây cho quân thù nhiều bối rối khi chạm trán với họ. Biệt Động Quân đánh giặc lưu động tính và tài giỏi không thua gì các đơn vị Tổng Trừ Bị.

    Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Cách Dù chuyên phá rối trong lòng địch, cung cấp nhiều tin tức tình báo quan trọng, coi thường sinh mạng mình, thật nguy hiểm vô cùng! Đặc biệt Liên đoàn 81 BCD đã lập nên chiến sử để đời tại trận An Lộc mà ai cùng nghe danh biết tiếng.

    Riêng 2 sư đoàn Tổng Trừ Bị (Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù) thì luôn luôn có mặt ở mọi chiến trường nóng bỏng, sôi động, và trận địa chiến. Đặc biệt thường xuyên hành quân tại vùng hỏa tuyến để ngăn chận các sư đoàn chính qui địch từ Bắc xâm nhập. Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) đã lập nên những thành tích oai hùng trong trận Mậu Thân, trận tái chiếm cổ thành Quảng Trị. Họ là những chiến sĩ tài giỏi, hào hùng, và nồng nàn yêu nước.

    Không ai không kính phục khi Đại tá Phạm văn Chung thốt lên lời thề bên dòng sông Mỹ Chánh. Theo lời Đại Tá Gerald H. Turley kể vào buổi trưa ngày 2 tháng 5 năm 1972, Đại tá Chung dừng lại bờ Nam sông Mỹ Chánh, ông đứng yên lặng và buồn bã nhìn đoàn người tị nạn đang chen nhau vượt qua cầu di tản vào thành phố Huế. Khoảng một giờ sau, khi đoàn người đã qua sông và xuôi về phương Nam, Thiếu tá Bob Sheridan quay lại hỏi Đại tá Chung: (1)

    – Đại tá, mọi người đã qua hết rồi. Bây giờ chúng ta làm gì đây? Có lui vào trong đó không?

    Đại tá Chung nhìn người sĩ quan Hoa Kỳ và nói với một giọng cương quyết:

    – Không, không! Chúng ta không lui nữa! Chúng ta là những chiến sĩ, chúng ta ở lại đây, bên bờ sông nầy để chận địch, sẽ không một tên Việt Cộng nào có thể vượt qua sông Mỹ Chánh mà còn mạng trở về.

    Lời nói khẳng khái của Đại tá Chung y như một lời thề, và quả thực các Lữ Đoàn 258, 369, và 147 đã không những giữ đúng lời nói, mà còn cùng các đơn vị Dù, BB, BĐQ, BCD, Thiết Giáp, Không Quân, Pháo Binh,… mở những đợt phản công tái chiếm lại thành phố Quảng Trị.

    “Đời Chiến Binh” nhằm mục đích nói lên sự chiến đấu anh dũng, gian lao, và nguy hiểm của các chiến sĩ trong những trận chiến quan trọng, gay cấn, và quyết liệt.

    Tác giả rất muốn viết về các cuộc hành quân oai hùng của các binh chủng khác, nhưng vì không quen nhiều nhân chứng có mặt tại chiến trường và cách hành binh riêng biệt của các đơn vị, nên chỉ đành viết về các cuộc hành quân của binh chủng Nhảy Dù, mà tác giả đã từng phục vụ gần 10 năm, và quen với cách điều quân, bố trận. Nhờ đó tác giả có thể hỏi thăm, tham khảo với các chiến sĩ đã trực tiếp tham chiến từ cấp chỉ huy, sĩ quan tham mưu, tới những chiến sĩ tại mặt trận. Họ là những “Nhân chứng sống thực” đã giúp cho các chuyện kể được thêm phần trung thực hơn.

    Trong phần phụ lục, mục đích phổ biến cho mọi người và hậu nhân biết về những chiến sĩ đã hy sinh oanh liệt, tác giả đã mạn phép trích hoặc phỏng theo một số bài nói về các vị Tướng tuẫn tiết và các anh hùng “Vị Quốc Vong Thân!”.

    Ngoài ra tác giả cũng tham khảo các sách, báo chiến trường có giá trị để cho bài viết được thêm phần súc tích hơn. Xin cám ơn những tác giả nầy.

    Gần như các sách viết về chiến tranh Việt Nam đều có chứa íl nhiều sai lầm. Do đó không chắc quyển sách nầy là một ngoại lệ! Một lần nữa xin nhấn mạnh, tác giả không phải là nhà văn nên coi đây chỉ là những chuyện kể, biết (và nghe) đâu viết đó xin quí vị thông cảm, và ước mong độc giả và hậu nhân phần nào có được cái nhìn về cuộc chiến và Đời chiến binh rõ nét hơn.

    Tài liệu tham khảo
    (1) Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh

    Cá nhân tham khảo
    – Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh SĐND
    – Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng LĐ2ND
    – Trung tá Nguyễn văn Đỉnh, Lữ đoàn trưởng LĐ1ND
    – Trung tá Nguyễn Hữu Nghiêm, Trưởng Phòng 2 SĐND
    – Trung tá Đào Thiện Tuyển, TĐT/TĐ8ND
    – Trung tá Bùi Đức Lạc, Tiểu đoàn trưởng TĐ1PB
    – Trung tá Nguyễn Đình Ngọc, TĐT/TĐ2ND
    – Thiếu tá Ngô Tùng Châu, TĐT/TĐ1ND
    – Thiếu tá Nguyễn văn Thành, TĐT/TĐ11ND
    – Thiếu tá Trần Công Hạnh, TĐT/TĐ2ND
    – Thiếu tá Nguyễn Quan Vân, TĐT/TĐ8ND
    – Thiếu tá Trần Toán, TĐP/TĐ8ND
    – Thiếu tá Nguyễn Văn Giới, TĐP/TĐ11ND
    – Thiếu tá Đoàn Phương Hải, sĩ quan Ban 3 TĐ11ND
    – Thiếu tá Trần Tấn Hòa, TĐP/TĐ6ND
    – Thiếu tá Trương văn Vân, TĐP/TĐ3ND
    – Thiếu tá Nguyễn Trọng Nhi, Ban 3
    – Thiếu tá Võ văn Đức, ĐĐT/ĐĐ1Trinh Sát
    – Đại úy Nguyễn Hiền Triết, Ban 3 TĐ2ND
    – Đại úy Trương văn Út, ĐĐT/ĐĐ2TS
    – Đại úy Đinh Viết Trinh, ĐĐT/ĐĐ111
    – Đại úy Lai ngọc Long, ĐĐT/ĐĐ114
    – Đại úy Trần văn Thể, ĐĐT/ĐĐ11
    – Đại úy Võ thế Hùng, ĐĐT/ĐĐ81
    – Đại úy Phạm Văn Hiệu, ĐĐT/ĐĐ83
    – Đại úy Tường, ĐĐT/ĐĐ92
    – Đại úy Trọng, ĐĐT/ĐĐ93
    – Trung úy Hà Mai Trường, TrĐT/ĐĐ84
    – Thiếu úy Tiến, ĐĐ83
    – Hạ sĩ Hải và BI Lê thuộc ĐĐ83
    – Tr/s Thiện, TĐ9ND
    – Anh Nguyễn Tri…

    Tài liệu tham khảo
    Báo Đa Hiệu, KBC, Mũ Đỏ và nhiều sách báo chiến trường của các nhà văn nổi liếng. Xin thành thật cám ơn quí vị nầy.





    TIỂU SỬ TÁC GIẢ TRƯƠNG DƯỠNG:
    – Sinh năm 1942 tại Phương Thạnh – Trà Vinh
    – Gia Cảnh: Vợ và 3 con trai
    – Cấp bậc sau cùng: Thiếu Tá
    – Năm 1973 bị tai nạn lật xe tại Huế gây liệt hai chân!

    Giáo Dục:
    – Trường Trung-học Bán-công Trần Trung Tiên – Vĩnh Bình
    – Trường Trung-học Âu Lạc, đường Trần Quý Cáp – Sàigòn
    – Trường Pétrus Trương Vĩnh Ký (Đệ Nhất B1) – Sàigòn
    – Đại Học Khoa Học và Đại Học Luật
    – Tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Khoá 20 Đà Lạt
    – Khóa Tác Chiến Trong Rừng tại Mã Lai năm 1966
    – Khoá Tham Mưu Trung Cấp tại Trường Võ Khoa Thủ Đức
    – Khóa Tác Chiến Điện Tử tại trường Truyền Tin Vũng Tàu
    – Khóa Electronic Technician tại Atlantic Vocational – Florida
    – Electrical Engineering tại Florida Atlantic University.

    Chức Vụ Đảm Nhận:
    – Liên-đội Trưởng Vũ khí Nặng, Đại Đội 90, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù – Sàigòn
    – Trung-đội Trưởng Trung Đội 1, Đại Đội 92 Nhảy Dù
    – Đại-đội Trưởng Đại Đội 91, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù
    – Sĩ quan Tham Mưu Lữ Đoàn III Nhảy Dù
    – Đại-đội Trưởng Chỉ Huy Công Vụ Lữ Đoàn I Nhảy Dù
    – Biệt-đội Trưởng Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử SĐ Nhảy Dù
    – Design Engineer (RF Engineer) tại hãng Điện tử Motorola

    Huy Chương Tưởng Lục:
    - Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng
    - 4 Anh Dũng Bội Tinh Nhành Dương Liễu, 3 Sao vàng…
    - 4 Chiến Thương Bội Tinh, Quân Phong Bội Tinh…
    - 2 Commandation With “V” Device

    Hơn ba mươi năm qua,

    bao đổi thay,
    bao thống khổ chồng chất!

    Giờ đây trên đất khách tha hương,
    kẻ còn người mất.

    Ngồi ôn cố tri tân,
    ghi lại và tưởng nhớ đến
    những trận chiến của Nhảy Dù.

    Nhớ lại bạn bè
    và các chiến hữu thân thương!

    Tưởng chừng như mới hôm qua!

    ___________________________________

    Chương 1. Tây Nguyên Khói Lửa Mịt Mù

    Pô Kô dậy sóng
    Tây Nguyên chuyển mình
    Bảo vệ dân tình
    Toàn quân sát Cộng

    *****

    CHARLIE - MỘT DẤU ẤN ĐỜI CHIẾN BINH
    “Anh hởi anh ở lại Charlie”, một câu hát quen thuộc trong bài ca “Người Ở Lại Charlie” do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác, để ghi nhớ người hùng Nguyễn Đình Bảo, Khóa 14 Đà Lạt, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù.

    Chúng tôi có dịp gần gũi Nhật Trường và gia đình qua người bạn thân, cố Đại úy Trần Duy Phước ĐĐT/ĐĐ93/TĐ9ND. Mỗi lần hành quân về, Phước rủ Tâm, Đại đội Trưởng Đại đội 94 Nhảy dù (ĐĐ94ND), Thành, Đại đội Trưởng ĐĐ92ND và tác giả, Đại đội Trưởng ĐĐ91ND, đến nhà Nhật Trường ăn cơm. Chị Trường rất khéo tay về gia chánh, còn Nhật Trường thì tửu lượng khá cao. Do quen thân với Phước, anh có cảm tình mặn nồng với Nhảy Dù, Nhật Trường đã sáng tác 2 bài ca “Người Anh Hùng Mũ Đỏ” và “Người Ở Lại Charlie” để tưởng niệm 2 vị sĩ quan Dù đã hy sinh ngoài mặt trận.

    *****

    “Charlie” là gì?
    Thế hệ trẻ sau nầy hát bài “Người Ở Lại Charlie”, có lẽ chẳng hiểu gì về xuất xứ ? Charlie là một địa danh? Hay một địa điểm nào trên đất Mỹ? Thật ra nếu không có trận tổng công kích mùa hè năm 1972 tại 3 Vùng Chiến Thuật thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây là một cái tên quân sự để gọi một cao độ nằm trong dãy núi chập chùng phía Tây Tân Cảnh.





    Charlie chỉ một ám hiệu truyền tin của chữ C ở quân đội trong tiếng Mỹ (hoặc Cải Cách trong Việt ngữ, phát âm là “Xê”) dùng để đặt tên cho căn cứ … Các vị trí quân sự trong khu vực hành quân vùng phía Tây Tân Cảnh, quận Dakto được đặt tên là Charlie, Delta, Hotel, Alfa, Bravo, Căn cứ 5, Căn cứ 6,.. để cho phi công Mỹ dễ đọc trên bản đồ hành quân.

    Căn cứ Charlie gồm 3 đỉnh đồi (960, 1020, và 1050) nối nhau bằng sườn dốc thoai thoải gọi là yên ngựa. Từ đây trông về hướng Tây Bắc là ngã ba Tam Biên, xe cộ của Lào và quân CSBV (BCH/Mặt Trận B3) chạy qua lại dập dìu, phía Đông là sông Pôkô và Quốc Lộ 14. Tại dưới chân Charlie là ngã ba đường xe “Ben” rộng lớn, xe Mololova của địch chuyển quân và tiếp liệu từ Tam Biên phải qua con đường nầy. Vì vậy Charlie là cái gai mà địch cẩn phải nhổ bằng mọi giá!

    Diễn Tiến Lịch Sử
    Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đã gián tiếp lật đổ chính phủ của Thủ Tướng Pháp Joseph Laniel. Năm 1968, Cộng Sản Bắc Việt với cuộc Tổng Công Kích đã gây ra hậu quả không lường tại nước Mỹ, vì đó là năm bầu cử. Như đã biết trước, Tổng Thống Johnson phải tuyên bố không ra tái ứng cử.

    Dân chúng Mỹ vì chán nản chiến tranh tại Việt Nam nên đã dồn phiếu cho Nixon với chính sách giảm dần sự can thiệp của quân lực Mỹ.

    Năm 1972 cũng là năm bầu cử Tổng Thống Mỹ, do đó CSBV hy vọng rằng một biến cố lớn như Tết Mậu Thân sẽ tạo được nhiều thuận lợi mới.

    Với ý đồ như vậy, Lê Duẫn, Tổng bí thư đảng CSBV, đã sang Nga trong mùa Xuân 1971 nhằm mục đích yêu cầu tăng thêm quân viện. Kết quả là CSBV đã nhận được nhiều chiến xa T-54, T-55, PT-76. Pháo binh hạng nặng như đại bác 130 ly, 155 ly, phòng không 23 ly, 57 ly, và cả hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 (Sagger). Giữa năm 1971, sau khi Lê Duẫn từ Nga về, Bộ Chính Trị đã ra Nghị quyết thứ 13 ban hành quyết định tổng tấn công miền Nam.

    CSBV chia kế hoạch tấn công ra làm 3 mặt trận chính. Mặt trận giới tuyến sẽ do hai Sư đoàn 304, 308, và bốn Trung đoàn độc lập 126 Đặc công, 31, 246, và 270 thuộc Mặt trận B5. Với sự yểm trợ của khoảng 200 chiến xa thuộc hai Trung đoàn 203 và 204, cùng ba Trung đoàn pháo 38, 68, và 84 đảm nhận.

    Các đơn vị nầy sẽ vượt qua khu phi quân sự để đánh chiếm tỉnh Quảng Trị. Đồng thời lúc đó Sư đoàn 324B CSBV cùng 2 Trung đoàn đặc biệt 5 và 6 sẽ từ thung lũng A Shau ở phía Tây đánh bọc vào thành phố Huế và đe dọa luôn Đà Nẵng.

    Mặt trận An Lộc ở vùng biên giới Việt-Miên do ba Sư đoàn 5, 7, và 9 cùng với khoảng 200 chiến xa tiến chiếm quận Lộc Ninh rồi đánh thẳng vào An Lộc, Bình Long. Nếu địch chiếm được An Lộc thì sẽ theo Quốc lộ 13 tiến về Sàigòn. Đồng thời Sư đoàn 1 CSBV sẽ tạo áp lực tại vùng Đồng Bằng sông Cửu Long để cầm chân các lực lượng tiếp viện từ Quân đoàn IV của QLVNCH

    Riêng tại mặt trận Tây Nguyên, Cộng sản Bắc Việt cho Sư đoàn 2 và Sư đoàn 320 với một trung đoàn chiến xa định đánh chiếm Kontum và tiếp theo Pleiku. Để yểm trợ cho mặt trận nầy. Sư đoàn 3 CSBV có nhiệm vụ đánh phá vùng Bình Định phía ven biển, đồng thời cầm chân các lực lượng ta tại đây. Sư đoàn 711 CSBV cũng được lệnh tạo áp lực quanh Đà Nẵng với cùng mục đích. Sự tấn công Tây Nguyên nhằm cắt đôi lãnh thổ VNCH theo đường ranh là Quốc lộ 19.

    Tại sao có hiện tượng Charlie?
    Mùa Hè năm 1972, Cộng quân Bắc Việt mở đợt tổng tấn công lần thứ hai, sau trận Tết Mậu Thân; mục đích gây tiếng vang trong dịp Tổng Thống Nixon của Mỹ sắp đi Nga tham dự hội nghị Thượng Đỉnh.

    Ngày 22 tháng 5 năm 1972, Nixon đi Nga, không ít thì nhiều chuyến đi ấy đã có tác dụng với cuộc đại tấn công của quân CSBV vào 3 Quân Khu của VNCH. Rất nhiều giả thuyết về cuộc kịch chiến nầy, nhưng tất cả đều đồng ý: chuyến đi đó chắc chắn có ảnh hưởng đến cuộc đại tấn công, và đây cũng là các trận đánh cuối mùa, một mùa hè đại loạn đẫm ướt máu tanh trên một quê hương đọa đày tên gọi Việt Nam!

    Rút kinh nghiệm qua sự thất bại trong trận Tết Mậu Thân, Cộng quân đổi chiến thuật mới. Địch dùng quân số đông để áp đảo từng vùng, và chiến thuật biển người thí quân để bù lại sự thiếu kém về hỏa lực phi pháo. Bọn chóp bu miền Bắc coi nhẹ sinh mạng con người còn thua trâu bò và bom đạn.

    Nếu không có trận tấn công mùa Hè 72, Nguyễn văn Thành đã được sang Mỹ học khóa Tham mưu Trung Cấp, nhưng Phòng 3 đã gọi về trình diện và bổ nhậm anh giữ chức Sĩ quan Phụ tá Hành quân LĐ2ND, một chức vụ không có trong cấp số chuyên nghiệp; nói rõ hơn là không có chó bắt mèo thay thế. Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, Bộ Chỉ Huy (BCH) Lữ đoàn chỉ có Đại tá Lịch, LĐT ; Thiếu tá Nguyễn Trọng Nhi – K20ĐL, Ban 3; và Thiếu tá Thành, làm phụ tá tham mưu.

    Vào cuối tháng 3 năm 1972, 2 Lữ đoàn Dù được lệnh hành quân vùng Dakto, Tân Cảnh, thuộc tỉnh Kontum. Bộ Tư lệnh Tiền phương SĐND và BCH/LĐ3ND đóng ở thị xã Kontum.





    BCH/Lữ đoàn 2 Nhảy Dù chuyển đến làng Võ Định, nằm sát Quốc lộ 14, đoạn đường từ Kontum ra Dakto. Vị trí Võ Định cách BTL/SĐ22BB của Đại tá Đạt (hy sinh ngày 24/5/72) gần 10 cây số về hướng Nam. Thành giữ chức Phụ tá, có nghĩa là cái gì cũng làm hết. Đại tá Lịch giao cái gì thì anh làm cái đó, bao thầu đủ thứ ! Nhiều khi đóng vai thường vụ, nhiều lúc lại coi như Tham mưu trưởng Lữ đoàn. Thành thấy cuộc đời mình cũng vui vui, vì thầy bói nói số Thành lên voi xuống chó quả thật bây giờ rất đúng với tình cảnh nầy.

    Sau ngày ra trường Võ Bị – Khóa 19 ĐL, Thành đã bôn ha từ Trung đội trưởng ở TĐ6ND, Đại đội trưởng TĐ9ND; anh đã cùng với các chiến sĩ Dù sống cuộc đời tung hoành ngang dọc trong rừng rậm, núi cao, hoặc đồng bằng mênh mông thật thỏa thích vô cùng. Muốn dùng phi pháo ở đâu, cứ xài; muốn quậy mấy anh Việt Cộng cỡ nào cũng có. Bây giờ vô sống trong không khí hậu tuyến ở BCH/Lữ Đoàn, không thích hợp với bản tánh của anh chút nào, Thành thích có quân trong tay để tung hoành ngang dọc thỏa chí tang bồng hồ thĩ!

    Trong giai đoạn thiết lập căn cứ hỏa lực lại Võ Định, Thành điều hành mọi công tác: hằng ngày phối hợp các ban ngành, các đơn vị tăng phái,… và hoàn thành chớp nhoáng trong 24 tiếng đồng hồ để có được nơi an toàn tối thiểu. Các đơn vị Nhảy Dù rất rành việc thiết lập căn cứ lưu động như thế nầy, họ coi việc lập căn cứ, đào hầm hố, dễ và cần thiết như ăn cơm bữa; họ làm nhanh và hoàn hảo không thua gì quân đội Mỹ với phương tiện cơ khí dồi dào.

    Các đơn vị trực thuộc được bố trí trên những dãy núi sừng sững phía Tây theo hình cánh quạt, bắt đầu bởi căn cứ Alfa (Anh Dũng) ở cực Bắc, đến Yankee (hay Yên Thế), lần xuống phương Nam có Charlie, Delta, Hotel, Metro, và chót hết là Bravo ở phía Đông Võ Định, nhằm bảo vệ phi trường Phượng Hoàng và BTL/Sư đoàn 22 Bộ binh tại Tân Cảnh.

    Ngày 15/3/1972, TĐ1ND được trực thăng vận vào vùng hoạt động, thiết lập căn cứ hỏa lực Alfa (sau bàn giao cho TĐ3ND) bảo vệ Pháo đội A1 của Đại úy Nguyễn Thành Tựu với 4 khẩu đại bác 105 ly. Sau nầy các pháo đội khác được lần lượt phối trí theo lệnh: Pháo đội B1 của Đại úy Hoàng văn Thái với 4 khẩu đóng tại Võ Định; Pháo đội C1 của Đại úy Nguyễn Cẩn Ngọc với 6 khẩu đóng tại căn cứ Bravo; Pháo đội D1 của Đại úy Nguyễn văn Hải với 4 khẩu đóng tại căn cứ Yankee. Vừa vào vùng, TĐ1ND đụng ngay với quân chánh qui Cộng Sản BV.

    Ngày 20/3/72, TĐ2ND đổ bộ trực thăng xuống thiết lập căn cứ “Charlie”. Phía Đông Bắc là các căn cứ 5 và 6 do TĐ3ND trấn đóng, dãy đồi nhỏ nầy có con đường tiến sát mà thiết giáp địch thường đi từ vùng Tam Biên (biên giới 3 nước Việt-Miên- Lào) về tấn công phi trường Phượng Hoàng và BTL/SĐ22BB đóng ở Ngã Ba Tân Cảnh. BTL/SĐND chỉ huy tổng quát.

    Một hôm, Thành “Râu” đáp trực thăng tới căn cứ Charlie, khi trở về anh đề nghị với Đại tá Lịch nên dời TĐ2ND lên vị trí cao hơn. Lúc đầu TĐ2ND đã dùng một trung đội đóng trên đỉnh làm tiền đồn, còn BCH đóng ở sườn thấp hơn. Sau đó được lệnh dời lên đỉnh để có lợi thế tối đa về phương diện phòng thủ.

    Ngày 25/3/72, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù vừa từ Sàigòn ra, và sau đó, được trực thăng vận vô Charlie thay thế TĐ2ND.

    TĐ2ND chuyển về phía Tây Nam bắt tay với TS2ND ở Delta rồi tiến qua eo “Út Bạch Lan” ở phía Nam, thiết lập căn cứ “Delta”. TĐ9ND làm thành phần trừ bị, đóng trong phi trường Phượng Hoàng, Tân Cảnh.

    Sau nầy TĐ7ND do Thiếu tá TĐT Trần Đăng Khôi – K16ĐL và Thiếu lá TĐP Nguyễn Lô – K18ĐL, vào thiết lập căn cứ Hotel ở phía Nam Delta.

    Tình hình địch
    Mặt trận B3 ở vùng Tam Biên chỉ huy trực tiếp các Sư đoàn 2, Sư đoàn 3, Sư đoàn 320, một trung đoàn chiến xa, và nhiều trung đoàn pháo,…chia 3 mũi dùi tiến đánh vùng Tây Nguyên.

    Sư đoàn 2 quấy rối trục lộ Võ Định – Kontum – Pleiku, Sư đoàn 3 đánh Bình Định, còn Sư đoàn “Thép” 320 thì trực tiếp đương đầu với các đơn vị Nhảy Dù ở vùng Tân Cảnh, Dakto. Hướng tiến quân được dọn đường bởi một trung đoàn pháo đặt từ rặng Big Mama Mountain sát biên giới

    Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những ngày hè đỏ lửa, một thứ lửa nhân tạo, lửa gây ra bởi sơn pháo, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly,… lửa xào xạc nức nở của thịt da nung chín, lửa có thêm tiếng oằn oại rên xiết của con người, lửa tử khí trùng trùng kín mít trên quê hương Việt Nam đau khổ đọa đày!!!

    Hoạt động của Lữ Đoàn 2ND
    Tại Charlie, hàng ngày Thiếu tá Tiểu đoàn phó Lê văn Mễ dẫn 2 đại đội đi về hướng Nam lùng địch và bắt tay với TĐ2ND, đang đóng tại Delta. Cộng quân đã kiềng chốt trên một đỉnh đồi (tạm gọi là Delta 1), giữa Charlie và Delta. Chúng lợi dụng địa thế dốc đứng, dễ thủ khó công, đã đào hầm hố kiên cố, ngăn chặn 2 đại đội của Mễ không thể tiến về Nam gặp TĐ2ND được! BTL/Quân đoàn II cũng như BTL/SĐND đã nóng lòng muốn có kết quả tốt đẹp của các đơn vị Dù. Do đó Đại tá Trần Quốc Lịch, LĐT/LĐ2ND, rất ưu tư và ra lệnh yểm trợ tối đa để Mễ dứt điểm Delta 1.

    Hồi đó Cố vấn Mỹ Quân đoàn II là John Paul Vann, ông ta là dân sự mà lại đóng vai trò Cố vấn “Khó hiểu” bên cạnh Tướng Ngô Dzu. Có một lần Vann cùng Tướng Dzu đi thị sát mặt trận và ghé đến BCH/LĐ2ND. Thái độ và cung cách lúc đó thật mất lịch sự: Vann mặc thường phục, ngậm điếu xi-gà và còn gác chân lên ghế coi mọi người xung quanh như pha.

    Trung Tướng Ngô Dzu, với gương mặt nhu mì, là một tướng hiền. Tháng 8/1970, Thiếu tướng Ngô Dzu, quyền Tư lệnh Quân đoàn IV (sau khi Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh tử trận) đã được Tổng thống Nguyễn văn Thiệu bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu II. Theo nhận xét của các giới chức Hoa Kỳ thì ông là một tướng lãnh thông minh, giỏi về tham mưu, hăng say phục vụ cho quân đội và đất nước. Tuy nhiên, ông không can đảm và cương quyết bằng Đại tướng Đỗ Cao Trí hay Trung tướng Dư Quốc Đống. Ông thông hiểu rành rẽ về chỉ huy tham mưu nhưng đã phải chịu đựng những tác phong hách dịch của anh Cố vấn hắc ám nầy.

    Vann đã gây khó khăn cho Tướng Ngô Dzu về nhiều lãnh vực trong cương vị Tư lệnh Quân đoàn (Charlie thất thủ cũng do chính Vann đã cản trở không cho B52). Tướng Dzu chỉ biết ngậm đắng nuốt cay vì thế yếu của một dân tộc nhược tiểu, của một quân đội phụ thuộc vào sự yểm trợ hỏa lực chiến lược.

    Mỗi lần phi cơ của J. Paul Vann bay vào vùng hành quân, Cộng quân ngưng pháo kích và phòng không im tiếng (có thể nội tuyến địch đã cài vào BTL/QĐII). Do đó Vann đã nghi ngờ những báo cáo hành quân của các đơn vị tại vùng Tân Cảnh.

    J. P.Vann sau nầy bị tử thương do tai nạn phi cơ. Cuộc đời hoạt động của Vann có một cuốn sách đã xuất bản tại Mỹ, mà người dịch dùng toàn từ ngữ của Việt Cộng.

    J. P. Vann, Trung tá bộ binh, làm Cố vấn cho SĐ7BB từ năm 63-65. Sau đó do lời báo cáo của đại úy James Scanlon khiến Vann bị cho về hưu non với lòng đầy thù hận. “Những người Cố vấn như ông J.P.Vann sẽ không bao giờ tạo được lợi ích gì, mà ông còn gây thêm nhiều khó khăn cho cuộc chiến” (2). Về Hoa Kỳ, Vann xin giải ngũ để tiếp tục đại học. Đến năm 1966, Vann trở lại Việt Nam làm Cố vấn dân sự cho chương trình Bình Định và Phát Triển. Vann rất hiếu thắng, kiêu căng, tự phụ, và thích làm anh hùng cá nhân.

    Vann định xen vào quyền chỉ huy nên đề nghị tướng Dzu thay đổi hai vị Tư lệnh Sư đoàn 22 và 23 là hai Thiếu tướng Triển và Cảnh. Hai vị Tướng nầy đã lập nhiều chiến công ở các vùng trách nhiệm. Sư đoàn 22 BB chịu trách nhiệm 5 tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn, Pleiku, và Kontum. Sư đoàn 23 BB coi 7 tỉnh: Ban Mê Thuộc, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Ninh Thuận, và Bình Thuận.

    Hai Tướng Triển và Cảnh biết Vann đang áp lực cúp các phi vụ yểm trợ chiến lược B52 (trước đây Vann đã từng buộc Tướng Huỳnh văn Cao ở SĐ7BB phải nghe lời Vann, Tướng Cao không chịu nên bị cúp hết các phi vụ trực thăng và khu trục, Tướng Cao cuối cùng phải nhượng bộ) và tình hình lúc bây giờ áp lực địch quá mạnh, nên họ nói với Tướng Dzu rằng:

    – Vì Đất Nước và Quân Đội, chúng tôi sẵn lòng làm đơn lên Tổng Thống xin từ chức bởi lý do sức khỏe!

    Vann đề nghị hai Đại tá Lý Tòng Bá và Đại tá Lê Minh Đảo ở Quân đoàn III, Tướng Dzu nói:

    – Quân đoàn II có nhiều Đại tá trẻ và giỏi như Đại tá Lê Đức Đạt, Tôn thất Hùng,... sao anh không chọn?

    Tình hình càng ngày càng khẩn trương, Tướng Dzu đành phải thỏa mãn gấp cho Vann, nhưng chỉ 50% vì ông cũng muốn giữ thể diện tối thiểu của cấp chỉ huy, chẳng lẽ lại phải cúi đầu nghe theo hắn hết. Ông đã đề nghị Đại Tá Lý Tòng Bá làm TL SĐ23BB và Đại Tá Lê Đức Đạt (TLP SĐ22BB) lên thay Tư lệnh SĐ22BB. Tướng Dzu tâm sự với sĩ quan tham mưu:

    –“Chỉ huy” của ông là một người Mỹ rất hăng say, nhưng không thông cảm cho hoàn cảnh và tình cảm của người Việt Nam! (3)

    Theo tin tình báo thì Hà Nội đã cho lệnh tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Mặt trận B3, tấn công vào tháng 4/72, để phối hợp ăn nhịp với Mặt trận Quảng Trị (QĐ1), và An Lộc (QĐIII). Nhưng giờ chót Hoàng Minh Thảo đã cho Sư đoàn 2 CSBV đương đầu và cầm chân SĐ22BB ở Tân Cảnh, còn Sư đoàn 320 CSBV sẽ tiến đánh Kontum.

    Vì thế Tướng Dzu đã ra lệnh LĐ2ND chiếm đóng ở Charlie và Delta,…để ngăn chận Sư đoàn 320 CSBV. Sau khi phối trí các đơn vị Dù trực thuộc vào những điểm trọng yếu để bảo vệ vùng Tân Cảnh, và phía Bắc thị trấn Kontum, BCH/LĐ2ND cho lệnh các đơn vị bung ra lục soát, tìm và diệt địch. Quan niệm Nhảy Dù là luôn luôn áp dụng thế công; đi đến đâu cũng tìm và đánh vào ngay căn cứ địa của địch.

    Tài liệu tham khảo
    (2) Lý Tòng Bá – Hồi ký 25 Năm Khói Lửa, trang 125
    (3) Trịnh Tiếu – KBC, Tú Quỳnh

    (còn tiếp)

  • #2
    Chương 2. Trở Về Quảng Trị

    Mùa Hè 1972
    (Diễn tiến hành quân của SĐ Nhảy Dù đặc biệt kể từ ngày N –28/6/75 – theo lệnh Tổng Phản Công của Quân Đoàn I)

    Cờ bay!
    Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu
    Vừa chiếm lại đêm qua bằng… máu





    SƠ LƯỢC DIỄN TIẾN
    Điều mà ít ai ngờ đến đã biến thành sự thật, một sự thật tàn khốc trong cuộc chiến tranh diệt chủng ở Việt Nam. Đó là việc Hà Nội công khai xua quân CSBV tràn qua sông ranh giới Bến Hải với hàng ngàn xe tăng, đại pháo 130 ly, cùng nhiều súng phòng không và hỏa tiễn 122 ly, địch dốc toàn lực quyết tâm xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Và nếu chiến cuộc không nổ lớn như vậy, cái tên Cổ Thành Đinh Công Tráng, dòng sông Mỹ Chánh, cũng như bao nhiêu địa danh xa xôi khác trên phần đất khốn khổ nầy đã không trở thành quen thuộc với mọi người như hiện nay.

    Ngày 2/5/72, chỉ còn Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến lại phía Bắc sông Mỹ Chánh. Trong khi đó quân CSBV dồn nổ lực tấn công Lữ đoàn 369 TQLC tại cầu Mỹ Chánh. Sau nửa ngày giao tranh, 17 trong 18 chiến xa T-54 của địch đã bị các chiến sĩ thiện chiến của ta bắn hạ.

    Hai trung đoàn CSBV bị thiệt hại nặng nề phải rút chạy về hướng rừng Hải Lăng. Ngày hôm sau, 3/5/72, cầu Mỹ Chánh đã được quân ta phá sập để cản bước tiến bằng cơ giới của địch.

    Tỉnh Quảng Trị xem như hoàn toàn bị lọt vào tay quân Cộng Sản BV!

    Khi hay tin Quảng Trị bị thất thủ, dân quân tranh nhau chạy về Huế. Cũng trong ngày 2/5/72, Thiếu tướng Trưởng được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu bổ nhậm chức Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I thay thế trung tướng Hoàng Xuân Lãm. Ông cấp tốc bay ra ngay nhiệm sở mới, cố đô Huế lúc nầy đang ở trong tình trạng hỗn loạn vô trật tự.

    Ngay khi đến Huế, Tướng Trưởng đã cấp tốc tổ chức phòng thủ chống lại áp lực của 3 Sư đoàn 304, 308, và 325 CSBV từ phía Bắc sông Mỹ Chánh, và Sư đoàn 324B ở phía Tây. Với một sự bình tĩnh đáng kính phục, không có một trách phạt hay quy lỗi cho một ai.

    Ông đã vãn hồi được trật tự trong hàng ngũ quân sĩ và đặt lại ngay hệ thống an ninh phòng thủ trên bờ sông Mỹ Chánh, sẵn sàng chờ đón một cuộc tấn công mới của địch. Vì họ đã chiếm được một phần đất khá sâu và đang muốn tiến xa xuống phía Nam khai thác thành quả chiến thắng vừa đạt được.

    Địch phải mất gần một tháng mới kịp bổ sung và tăng cường lực lượng để hòng tiếp tục khai thác thêm chiến quả. Một thời gian quá đủ cho tướng Trưởng kiện toàn xong hệ thống phòng thủ. Ông chẳng những chận đứng được đợt tấn công của quân Cộng sản Bắc Việt mà còn phản công dò dẫm ở một vài điểm, làm địch phải lúng túng và chùn bước tiến quân của họ lại. Ông đã nhận được lệnh phải tiêu diệt 4 sư đoàn chánh qui Bắc Việt đang đối diện ở bờ Bắc sông Mỹ Chánh, bằng 2 sư đoàn Tổng trừ Bị là Sư đoàn Dù và Sư đoàn TQLC mà hiện ông đã có sẵn trong tay.

    Ngày 8/5/72, Lữ đoàn 2 Dù ra tăng viện từ mặt trận Tây Nguyên. Đến ngày 22/5/72, thêm Lữ đoàn 3 Dù từ mặt trận An Lộc, và sau đó là Bộ Tư lệnh SĐND được chuyển vận ra bảo vệ cố đô Huế.

    Ngày 14/5/72, Tướng Phạm văn Phú, Tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh, đã trực tiếp chỉ huy cuộc phản công tái chiếm căn cứ Bastogne ở phía Tây Nam Huế. Chiều ngày 15/5, Trung đoàn 3 Bộ binh đã hoàn toàn làm chủ Bastogne.

    Ngày 28/6/72, cuộc tổng phản công của QLVNCH chính thức bắt đầu. Hai Sư đoàn ND và TQLC tấn công tuyến phía Bắc sông Mỹ Chánh, trong khi SĐ1BB đánh thọc ra hướng Tây thuộc dãy Trường Sơn.

    Mặt trận B5 đã tung ra chiến trường tất cả 6 sư đoàn gồm: 304, 308, 312, 320B, 324B và 325 (312 mới kéo từ Lào qua).

    Ba Tiểu đoàn 7, 9, 11 Nhảy Dù theo thế gọng kềm làm mũi nhọn vượt sông Mỹ Chánh tiến vào Quảng Trị. Chiến cuộc kéo dài dai dẳng cho đến ngày 25/7/72 lực lượng Dù (TĐ5ND) mới cắm được cờ Quốc Gia lên bờ ngoài Cổ Thành Quảng Trị.

    Hai ngày sau, Sư đoàn Dù chuyển vùng trách nhiệm phía Đông quốc lộ 1 lại cho Thủy Quân Lục Chiến, Cổ Thành Quảng Trị hình vuông với bề dài mỗi cạnh là 590 thước, chiều dầy và cao là 5 thước, đã được TQLC nổ lực dứt điểm vào ngày 16/9/72. Tàn quân của Trung đoàn 48 trong Cổ Thành đã rút chạy sang bờ Bắc sông Thạch Hãn.

    DIỄN TIẾN CHI TIẾT
    Trước ngày 28/6/72 (ngày N); Sư đoàn Nhảy Dù thỉnh thoảng vẫn cho các toán trinh sát và viễn thám vượt sông Mỹ Chánh đi sâu vào phía sườn Tây, dọc hành lang dãy Trường Sơn để dò la tình hình địch. Các tin tức do Viễn Thám cung cấp kể cả hình ảnh chụp được, cho biết địch đã tăng cường rất nhiều vào trận địa gồm: bộ đội, xe tăng, và pháo binh.





    Tuyến đầu của sư đoàn gần bờ sông Mỹ Chánh do Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù và Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù trấn giữ. Tất cả khinh binh của hai tiểu đoàn nầy đều được trang bị bằng hỏa tiễn M-72 hoặc hỏa tiễn 4 nòng MX-202 để phòng chống chiến xa địch (ngoài thành phần vũ khí cá nhân).

    Còn hỏa tiễn “Tow” mặc dù tiểu đoàn nào cũng có, nhưng vì địa thế núi đồi nhấp nhô trừng điệp, nên chỉ đặt trên những điểm cao phía sau để dễ điều khiển, và nhờ vậy các xạ thủ không bị hạn chế tầm nhìn, hơn nữa loại nầy khá cồng kềnh và nặng nề.

    Cũng cần nhắc lại là trong trận Hạ Lào, vì lần đầu tiên các binh sĩ Sư đoàn Dù đã chạm trán với chiến xa địch, nên bị hoang mang và lính quýnh, do đó họ đã sử dụng M-72 không hữu hiệu chính xác, thiếu hiệu quả khi bắn vào xe tăng địch. Rút kinh nghiệm nầy, lúc trở về hậu cứ, các đơn vị Nhảy Dù (kể cả đơn vị chuyên môn như Truyền Tin, Công Binh, Tiếp Vận ) đều được huấn luyện kỹ càng và liên tục. Để binh sĩ chính mắt trông thấy hiệu quả của M-72 khi bắn tập vào các chiến xa (đã hư hỏng, được làm mục tiêu thực tập).

    Đầu tháng 6/1972, địch đã mở đợt tấn công thăm dò vào TĐ11ND ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, bằng Nhị thức Bộ binh Thiết giáp. Thoạt đầu Cộng quân pháo kích liên tục, và lúc mờ sáng bộ binh địch và chiến xa đã càn lên, xông vào tuyến phòng thủ của TĐ11ND (sở dĩ xe tăng T-54, thủy xa học sắt PT-76, và BTR-85 đã qua sông dễ dàng, vì công binh địch đã ủi và đổ đất làm một cầu ngầm, nước chỉ sâu đến cổ chân, với độ dốc bờ sông khoảng 30 độ).

    Cùng thời gian đó, địch đã pháo kích vào vị trí đóng quân của TĐ2ND và căn cứ Nancy do một đại đội Dù trấn giữ cầu phao băng qua sông Mỹ Chánh (do Công binh Quân đoàn I thiết lập). Nhờ chuẩn bị hầm hố chiến đấu kiên cố và đúng cách, nên khi chiến xa địch vừa tới, các binh sĩ TĐ11ND đã hạ ngay 2 chiếc T-54 bằng súng chống chiến xa M-72 và XM-202 (hỏa tiễn lân tinh 4 nòng). Bộ đội địch hò hét xung phong, nhưng bị đẩy lui bởi các súng cá nhân, đại liên, và ngay cả lựu đạn. Địch cố gắng nhào lên nhiều lần nhưng đều bị đẩy lui.

    Cộng quân núp theo sau xe T-54, PT-76, và thủy xa BRT-85 để mong chọc thủng phòng tuyến của ta. Trong lúc đó Tiểu đoàn trưởng TĐ11ND đã yêu cầu pháo binh bắn hỗn hợp đầu đạn chạm nổ, từ trên không chụp xuống làm cháy và hư hại thêm mấy chiếc thiết giáp, và làm hàng ngũ địch tan rã bỏ chạy tán loạn về phía sau. Đoàn xe tăng địch tháo lui về hướng bờ sông và để lại nhiều tên bị thương, bị chết, cùng vũ khí ngổn ngang.

    Thấy địch rút lui, rối loạn hàng ngũ, Tiểu đoàn trưởng ra lệnh truy kích. Các chiến sĩ Dù, đang rất hân hoan vì đã sử dụng hiệu quả các súng chống chiến xa M-72 và XM-202, nghe lệnh vội nhào ra khỏi hố chiến đấu. vừa đuổi theo bắn vừa hò hét vang trời. Anh em rượt dịch qua khỏi bờ sông mới quay trở lại thu lượm chiến lợi phẩm.

    Vì tháo chạy trong cơn hoảng loạn, nên khi qua sông, các chiến xa địch đã đâm húc lẫn nhau, tranh đường chạy trước, khiến một số xe bị lật nghiêng ngả, xích sắt hướng lên trời, giống như cua bị lật ngửa, nằm đó mà máy hãy còn nổ.

    Tổng cộng trong trận nầy, địch thiệt hại bỏ xác tại chỗ trên 100 tên, bắt được 5 tù binh của Trung đoàn 66, Sư đoàn 324 CSBV, ngoài ra còn tịch thu hàng trăm vũ khí đủ loại. Bốn chiến xa T-54 bị hạ tại chân đồi ngay trước đại đội tiền đồn; 7 chiếc bỏ lại còn người thì chạy mất. Tại điểm vượt sông có 9 chiến xa T-54, PT-76, hoặc BTR-85 nằm ngổn ngang do lúc tranh giành trốn chạy, đã đâm sầm vào nhau lật nghiêng và bị kẹt dồn thành cục nên không di chuyển lên bờ được.

    TĐ11ND bị tổn thất khoảng 20 (vừa chết và bị thương); đa số do pháo địch bắn trước giờ tấn công. Sau nầy Trung đoàn 4 (thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh) tăng phái cho Sư đoàn Dù, đến trấn thủ đồi Trần văn Lý để các đơn vị Dù tiến lên phía Bắc, vượt qua sông Mỹ Chánh, tiến thẳng tới sông Nhung, vùng Trường Phước. Các Tiểu đoàn Dù đã lục soát và tịch thu được một số thiết giáp chở quân loại BTR-85, mỗi xe có trang bị hai súng đại liên 12 ly 8 do Trung Cộng chế tạo. Các chiến xa nầy vẫn còn tốt đã được che dấu trong các lùm cây bên bờ sông Mỹ Chánh.

    Ngày 28/6/1972 (ngày N), TĐ1ND và TĐ2ND vượt sông Mỹ Chánh lúc 5 giờ sáng và tiến đánh địch trong cảnh trời còn mờ tối. Vì bị bất ngờ, địch chống trả yếu ớt chỉ lo trốn chạy hoảng loạn về hướng Bắc và để lại rất nhiều vũ khí nặng. Đặc biệt là các giàn pháo phòng không trang bị 2 đại bác 57 ly có ghế ngồi cho xạ thủ xoay trở vòng vòng.

    TĐ1ND do Thiếu tá La Tịnh Tường – K9TĐ (sau bị bệnh nên Thiếu tá Lê Hồng thay thế) chỉ huy, đã tịch thu được 14 chiếc xe phòng không và nhiều vũ khí đủ loại khác, cùng bắt sống 5 tù binh.

    Bên cánh trái là TĐ2ND do Thiếu tá Nguyễn Đình Ngọc – K19ĐL, chỉ huy, đã đánh trúng ngay bộ chỉ huy của Trung đoàn 203 chiến xa địch. Khi nghe tiếng la xung phong và các chiến sĩ Dù ào ạt nhào lên, các bộ đội tùng thiết địch đã chạy tứ tán về hướng núi và phía Bắc, bỏ lại 3 chiến xa T-54 máy vẫn còn đang nổ và đèn còn chiếu sáng.

    TĐ2ND đã tịch thu được nhiều súng cối 61 ly và 82 ly vẫn để nguyên tại vị trí bố phòng. Hai ngày sau các chiến xa địch được lái về căn cứ hành quân của SĐND tại cây số 17, gần An Lỗ. Nhờ chiến công nầy, Ngọc “Ngà” được lên Trung tá đặc cách mặt trận.

    Ngày 2/7/72 mở đầu cho giai đoạn II, TĐ9 và TĐ11 Nhảy Dù được trực thăng vận xuống phía Bắc của sông Nhung, con sông nhỏ bắt nguồn từ hướng Đông Bắc, qua Trường Phước, Mai Đằng, Thương Xá, để vào Thạch Hãn ở phía Đông Quảng Trị. TĐ11ND bên phải, TĐ9ND bên trái, cùng chiếm từng thước đất trên những đồi trọc, dưới ánh nắng oi bức của Mùa Hè Đỏ Lửa!

    Bắc quân pháo cản đường bằng hàng loạt đủ loại 130, 122, 82 ly,…Nhưng đoàn quân không dám chần chừ, mọi người quyết đội pháo vào lấy lại mảnh đất Quảng Trị thân yêu.

    Trên đoạn đường dài 9 cây số, từ Giáp Hậu qua Mai Đằng, đến La Vang Thượng, binh sĩ thấy cảnh vật gần như không còn sự sống. Các đoạn đường nhựa thì lỗ chỗ hố bom, trên bãi cát điêu tàn bốc hơi dưới mặt trời đỏ lửa thì toàn là cảnh chết: vật chết và người chết!

    TĐ9ND chia quân 2 ngã, cánh cực Tây do hai đại đội của Đại úy Trọng – K25TĐ, ĐĐ91 và Đại úy Ngưu (94) tiến đánh vùng Tân Lê, Phước Môn…Bảo vệ sườn phải có Đại đội 92 của Tường – K26TĐ, sườn phải có Trung úy Vàng – K1/68TĐ. Cả ba Tường, Vàng, Trọng,…đều bị thương trong cuộc tiến quân nầy! Riêng Ngưu bị hy sinh tại Tân Téo! Thăng lên thay thế.

    Đại úy Đinh văn Tường bị mảnh B40 ghim vào xương bả vai, nhưng vì thiếu sĩ quan nên Bác sĩ Tính mổ tại chỗ. Trong khi Đại úy Trần Ngọc Chỉ và Thiếu úy Mặc Đạm đè tay chân và Bác sĩ Tính đang mổ thì địch pháo kích liên tục gần 10 phút. Mọi người phóng vào hầm ẩn núp, bỏ Tường nằm trên băng-ca máu chảy lai láng. Hết pháo kích BS Tính trở ra tiếp tục!

    TĐ7ND do Thiếu tá TĐT Trần Đăng Khôi chỉ huy, và TĐP Nguyễn Lô. Binh sĩ vượt qua cầu Mỹ Chánh vào khoảng 4 giờ khuya, chiếm vùng Lương Điền, Tân Tường, Trường Vinh, lần đến Nam sông Ô Khê, để bảo vệ bãi đáp cho TĐ9 và TĐ11.

    TĐ7ND vượt qua sông Nhung làm mũi dùi cực Đông, một thiết vận xa bị chìm, Tiểu đoàn tiến chiếm làng An Thái, tiêu diệt nhiều chốt cản đường, vượt qua quốc lộ I bố trí tại phía Nam ngã ba Long Hưng.

    Từ Hải Lâm, Thiếu tá Lê văn Mễ họp bộ chỉ huy Tiểu đoàn thiết kế hoạch hành quân “Bắc tiến”. Chỉ tay trong bản đồ, Tiểu đoàn trưởng Lê văn Mễ nói với Thành:

    – Toa thấy cái La Vang Hữu nầy không?
    – Thấy. – Thành trả lời.

    – Toa thấy cái La Vang Chính nầy không?
    – Thấy rồi, còn chi nữa không “Ôn”?

    – Toa dẫn hai đại đội chiếm La Vang Hữu xong, quẹo tay trái vây Vương Cung Thánh Đường, bọc từ hướng Tây Nam đánh cả hai mục tiêu…Có gì thắc mắc?
    – Không. – Thành thì khi nào cũng ít nói, trầm lặng như mặt nước chiều thu.

    TĐ11ND tiến chiếm nhà thờ La Vang. La Vang là một địa danh nổi tiếng về mặt tôn giáo, theo truyền thuyết La Vang là tên một loại cây mọc hoang rất nhiều ở đây, người địa phương gọi là lá vang (nấu canh chua gà ăn rất ngon).

    Trong lịch sử Việt Nam, 200 năm về trước là thời kỳ đàn áp tín ngưỡng, cấm đoán Công Giáo. Tương truyền rằng một số giáo dân bị nhà Tây Sơn lùng bắt vì nghi họ theo linh mục Bá Đa Lộc giúp chúa Nguyễn Ánh. Họ trốn trong nhà thờ La Vang, bị đói khổ và bệnh tật; hằng ngày chỉ biết cầu nguyện. Dưới triều đại vua Cảnh Thịnh, giữa tháng 8 năm 1798, Đức Mẹ Maria đã hiện ra bảo hái lá vang nấu nước uống sẽ hết bệnh. Từ đó La Vang được xem như Thánh địa của người Thiên Chúa Giáo được truyền tụng là nơi có nhiều phép lạ xuất hiện.

    Tới đầu thế kỷ này một giáo đường đã được xây dựng tại đây. Sau nhiều lần tái thiết, ngôi nhà thờ khang trang cuối cùng đã được Tòa Thánh La Mã phong làm Vương Cung Thánh Đường.

    Đường vào La Vang tuy ngắn nhưng đó là đoạn đường của tử thần. Đoạn đường nầy có một cây cầu nhỏ, cầu Trường Phước. Cái tên Trường Phước có nghĩa là phước đức lâu dài, nhưng hôm nay cây cầu nầy là một trong những nơi đổ máu nhiều nhất. Máu của những chiến sĩ Công binh Chiến đấu Liên đoàn 10 đang dọn đường cho quân ta tiến lên, máu của các chiến sĩ Dù đang tiến đánh về thôn La Vang.

    Cộng quân không dàn ra để chận đường, mà chỉ pháo dọc theo QL 1, đạn pháo rơi bên trên và chung quanh cầu, biến đây thành một vùng tử địa. Trước sức tiến vũ bão của các chiến sĩ Dù, chiến xa địch phải hạ nòng súng đại bác xuống bắn trực xạ một cách vội vàng để rút chạy. Thấy 2 chiếc T-54 đang trấn giữ trước nhà thờ, gần tượng đài Đức Mẹ, binh sĩ của Thành nhanh chóng bắn cháy cả hai, rồi đánh đuổi lực lượng địch bên trong nhà thờ, làm chủ tình hình sau 3 giờ giao chiến.

    Vương Cung Thánh Đường chỉ còn mặt tiền, tòa Thánh Đường đẹp vào hàng quốc tế ngày nào không còn nữa! Hàng dương xanh khô lá trốc gốc, mái nhà thờ xiêu vẹo tan nát… Thành đứng trên mặt sân trước chính tòa, mặt sân đá tảng rộng mênh mông và phẳng lặng nay bị cày nát chỉ còn từng phiến đá vỡ sắc cạnh… Cảnh vật lặng lẽ, không tiếng chim hót trên cành cây, không tiếng cầu kinh rộn ràng vang dội khắp dãy Trường Sơn âm u tịch mịch, mang theo chiều rộng không gian nỗi bi thảm thiêng liêng của người trần tục, Vô Nhiễm!

    – Chiến tranh bậy thật!

    Thành làm dấu thánh giá, đứng dậy bỏ tràng hạt vào túi áo, đội nón sắt bước đi… Tượng Đức Mẹ La Vang bị mảnh đạn pháo chém mất một phần đầu! Thành nhìn hướng Bắc, nơi con đường đất đỏ dẫn về La Vang Tả. Tưởng đến những ngày Tết Mậu Thân, anh và Dưỡng đã đánh địch tại ngã tư gần căn cứ Trung đoàn 1 Bộ binh, tưởng đến những ánh đuốc bập bùng của đoàn người trẩy hội đêm trăng rằm trong những ngày đất nước còn thanh bình. “Chiến tranh bậy thật”, sự phiền muộn của Thành chỉ được diễn tả bởi bốn chữ trách móc nhẹ nhàng và ngắn gọn!

    Chính Bắc, cứ một hướng mà đánh, từng nhà, từng hầm, từng chốt địch… Chiến sĩ Dù phải đánh bằng lựu đạn, cá nhân chiến đấu vận dụng tối đa.

    Trục chính do Thiếu tá Lê văn Mễ dẫn thằng 114 (của Lại Ngọc Long), 113 của Điền Minh Xuyến. Thành dẫn Hùng móm (112) và Đinh Viết Trinh (111) đánh kẹp nách dọc đường rầy chiếm mục tiêu kế tiếp là nhà ga xe lửa.

    Từng thước đất lúc nầy được đánh lấy lại bằng một giờ, một buổi…Khúc xương nầy thật khó nuốt (cửa họng chính của Quảng Trị) dầy đặc “Chốt cứng”, mà TĐ11ND cùng Liên đội 81 Biệt Cách Dù của người hùng Phan Văn Huấn, Phạm Châu Tài phải cố gắng nuốt gần trợn trừng con mắt!

    Làm sao qua khỏi mấy cái “Khách sạn” nầy? “Khách sạn” là mục tiêu được đặt bằng tên những nơi ăn chơi nổi tiếng mà các sĩ quan Dù thèm thuồng tưởng nhớ nhưng chỉ có thể dùng nó để nhắc nhở cho đỡ buồn: Majestic, Maxim, Continental

    Thực tế những khách sạn ở đây với nhiều lớp kẽm gai, mỗi “Phòng ngủ” trí một khẩu thượng liên, được “Cover” bởi hàng rào súng cối.

    Làm sao đánh? Nhờ mấy đứa con của “Hổ xám” (Biệt Cách Dù) đánh thử bằng chiến thuật đột kích suốt hai đêm cũng không xong!

    Thành chỉ huy 111 và 112 tiến đánh nhà ga, Hùng “móm” định cùng Tú Trinh “Ra ga tiễn em đi”, nhưng gặp “Em” thứ dữ, em răng đen mã tấu thuộc dân chơi Hồ Gươm chính cống, em đeo dây ngực bằng dây đạn AK, em xách “Ví” đựng toàn bằng lựu đạn chày. “Em” là đứa con cuối cùng của đảng: Sư đoàn 325 Tổng trừ bị.

    Hùng và Trinh cứ thay phiên nhau “Hạ” em, hai người định tiễn em đi nhưng chẳng em nào muốn đi, em bám chắc nhà ga. Đoạn đường rầy không đầy 400 thước mà suốt 5 ngày cùng không thể vượt qua! Cái ngã ba xa xa đó là đường Trần Hưng Đạo, đường nầy dẫn vào chợ Quảng Trị, chỗ đó địch đã tử thủ trong nhà thương.

    Suốt ngày 11/5/72, Hùng không thể chiếm được mục tiêu, anh từ hăng hái vui tánh của những ngày đầu trên đường giải tỏa quê nhà là tỉnh Quảng Trị nầy. Bỗng nhiên Hùng đổi tánh, la ó om sòm:

    – Muốn chết phải không? Tại sao mi không đào hầm? Tao la mi còn hơn để Việt Cộng bắn mi vỡ sọ…!!

    Hùng nói những câu không bao giờ nói (Hùng nổi tiếng thương lính), anh đổi tánh một cách thất thường….Điềm gì đây ? Chiến tranh thường có những sự kiện kỳ lạ như thế, người sắp chết thường đổi tánh (Cố Thiếu tá Lê văn Huệ của TĐ9ND bị con ve vô rún, rồi sau đó vài ngày, tự nhiên đứng khơi khơi trên đường rầy cao, rút súng Colt-45 bắn chỉ thiên thúc hối xung phong, để rồi bị địch bắn trúng 2 viên đạn chết không kịp trối!).

    Hùng gọi máy nói chuyện với Bác sĩ Liệu:
    – Lấy được khẩu K-54 nào thì tôi cho ông…Liệu ơi, sao moa nhớ mẹ moa quá, hôm ở Kontum vượt thoát trở về có mấy ngày phép lại không đi thăm bà.. Chiếm xong Quảng Trị moa sẽ xin phép vài ngày vô Đà Nẵng thăm mẹ …Chỉ còn 400 thước là moa thấy cái nhà ở lúc nhỏ, vì thế cứ nhớ bà già!!

    Thảm thương thay, con chim kêu tiếng bi ai trước khi chết, con người linh thiêng hơn biết tìm chốn quê hương để đi về!

    Ngày 14/7/72, đúng 3 tháng sau ngày rút khỏi Charlie, Hùng bị một quả đạn pháo vô tình và cay nghiệt rơi trúng ngay võng nằm! Hùng hy sinh sau những ngày chinh chiến không ngừng nghỉ. Khóa 22 Đà Lạt của Hùng ra trường nhằm Tết Mậu Thân, một số hy sinh ngay từ những ngày mới trình diện đơn vị.

    Sau gần 5 năm đánh giặc, Hùng đã đi xa đến cuối trời miền Nam, Hùng từng đến hang sâu, núi thẳm của miền Tây Nguyên, giờ đây đã quay về cố thổ, bây giờ Hùng đã trở về Quảng Trị, nơi chôn nhao cắt rún của Hùng!!! Người chiến sĩ trẻ tuổi, can trường đã đi hết đoạn đường khổ nạn của quê hương Việt Nam đọa đày, và trở về chết tại nhà xưa (cách 100 thước)!!!

    Từ vùng núi phía Tây, dọc theo dãy Trường Sơn, địch chuyển quân tăng cường định phản kích các đơn vị Nhảy Dù.

    Lữ đoàn I Nhảy Dù, do Trung Tá Lê văn Ngọc chỉ huy, càn quét địch từ Nam lên Bắc lấy quốc lộ 1 làm chuẩn, mỗi bên sâu vào 3 cây số. Tiến từ Mỹ Chánh tới sông Nhung, vượt qua La Vang, tái chiếm Hải Lăng; thẳng vào thành phố Quảng Trị, giao tiếp với TĐ5ND đang chiếm giữ làng Tri Bưu.

    Trong trận tái chiếm quận Hải Lăng, thiếu tá Trần văn Sơn, Tiểu đoàn trưởng TĐ3ND, bị thương hư một mắt, và Thiếu tá Võ Thanh Đồng thay thế. Với sự yểm trợ của Pháo binh và Không quân, cùng sự chiến đấu dũng cảm kiên cường của chiến sĩ Nhảy Dù, nên trên đường tiến quân, mặc dù địch đã pháo hàng ngàn đạn đại bác đủ loại: 105 ly, 122 ly nòng ngắn và nòng dài, 130 ly…vào các đơn vị Nhảy Dù; nhưng vẫn không ngăn cản được bước tiến của quân ta.

    Đầu tháng 9/1972, LĐ1ND đã làm chủ tình hình, chiếm lại phần lớn đất đai Quảng Trị, đáng kể nhất là căn cứ của Trung đoàn 11 Thiết kỵ và căn cứ Trung đoàn I Bộ binh. Sư đoàn 304 CSBV đã bị LĐ1ND đánh đuổi về hướng Bắc. LĐ1ND tiếp tục mở rộng vùng trách nhiệm về hướng Tây, chiếm núi Tân Téo (phía Tây Bắc La Vang); rồi thọc sâu xuống làng Như Lộ gần bờ sông Thạch Hãn, cách cầu Lò Rèn Quảng Trị khoảng 2 cây số đường chim bay.

    Hàng ngày, các đơn vị của LĐ1ND và LĐ3ND đều chạm địch, thường ở cấp trung đội, đại đội, và đôi khi tới cấp tiểu đoàn.

    Trong cuộc tiến quân của các đơn vị Dù có một chuyện ngộ nghĩnh là trận chiến tại cầu Trường Phước, ở 2 cây số phía Nam La Vang. Lúc đó địch sử dụng các chiến xa chở quân BTR-85 và thiết giáp yểm trợ loại nhẹ là PT-76, tiến thẳng từ Bắc xuống Nam trên quốc lộ 1. Khi vừa qua khỏi cầu thì bị đơn vị Dù chận lại; sau gần hai giờ quần thảo, địch bị pháo binh, khu trục, và các vũ khí chống chiến xa bắn dồn dập.

    Cộng quân chịu không nổi phải rút chạy; quân Dù nhào ra truy kích, khiến chiến xa địch hoảng loạn, tranh lấn nhau chạy đến nỗi một chiếc PT-76 vừa qua cầu chưa kịp đổ dốc thì chiếc PT-76 kế đã trèo lên nóc chiếc trước, khiến địch phải bỏ xe chạy trốn lấy người.

    Khi quân Dù đến cầu, thấy cảnh tượng đó cứ để y nguyên. Sau nầy báo chí đến chụp hình, và đầu năm 1973 lúc dân chúng lên thăm nhà thờ La Vang, thường dừng lại để chụp hình lưu niệm. Có lẽ hiện nay, một số người dân miền Trung vẫn còn giữ được những tấm hình nầy (bên trái của 2 chiếc PT-76 là 1 chiếc BTR-85 bị đứt xích còn nằm nghiêng tại đó).

    Tháng 9/1972, Lữ đoàn 3 ND, do Đại Tá Trương Vĩnh Phước chỉ huy, đã tiến sâu vào dãy Trường Sơn để tái chiếm căn cứ Barbara. Cuộc tiến quân thật gian nan vì đồi núi trùng điệp, cây rừng rậm rạp, rất khó quan sát; thời tiết lại luôn luôn bị mây mù che phủ, không thể sử dụng không yểm. Chỉ có pháo binh 105 ly (tối đa 11 cây số) và 155 ly (tối đa 14 cây số rưỡi) yểm trợ.

    Nhờ có nhiều điểm che dấu, nên địch thường ẩn nấp chận đường tiến quân. Nhất là khi càng gần căn cứ Barbara, cây rừng càng rậm rạp. Từ dưới chân núi nhìn lên chỉ thấy một màu xanh thẫm; đường lên núi lại thẳng đứng và ngoằn ngoèo; từ chân núi nhìn lên binh sĩ không thấy rõ căn cứ.

    Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh SĐND, chỉ thị LĐ3ND phải chiếm cho được căn cứ chiến thuật nầy. để ngăn chận đường xâm nhập của CSBV, và để làm đài quan sát điều chỉnh pháo binh tiêu diệt các khẩu pháo địch, mà vẫn hay bắn về chỗ trú quân của ta tại cầu Mỹ Chánh và căn cứ Nancy.

    Sau những lần đánh ban ngày không kết quả, Lữ đoàn trưởng quyết định cho đột kích đêm. Nhiệm vụ được giao phó cho TĐ8ND do Trung Tá TĐT Văn Bá Ninh và Thiếu Tá TĐP Đào Thiện Tuyển chỉ huy.

    Sau khi họp các đại đội trưởng, Trung Tá Ninh quyết định dẫn hai đại đội thọc sâu vào phía Tây căn cứ Barbara; và tiểu đoàn phó chỉ huy hai đại đội còn lại tiếp tục tấn kích mặt chính để cầm chân địch (kiểu dương Đông kích Tây). Quả nhiên với yếu tố bất ngờ, hai đại đội đã trèo dốc lên tới đỉnh; rồi dàn quân đồng loạt vừa bắn vừa la xung phong vang rền đỉnh núi. Địch bị trở tay không kịp, hoảng hốt chạy tán loạn.

    Trận nầy TĐ8ND bắt được khá nhiều tù binh thuộc sư đoàn 324; tịch thu rất nhiều vũ khí đủ loại; và đặc biệt nguyên một đoàn xe tiếp vận hơn 20 chiếc gồm xe Zin, Molotova….Trên xe còn chất đầy lương khô, đạn dược, và mìn bẫy đủ loại. TĐ8ND có 1 sĩ quan bị hy sinh và 3 binh sĩ bị thương.

    Ngày hôm sau Trung tá Ninh cho lái nguyên đoàn xe vận tải đến căn cứ Nancy; rồi tiếp tục chạy qua cầu Mỹ Chánh, An Lổ, cuối cùng về tới cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh), nơi bản doanh của Sư đoàn Nhảy Dù. Dân chúng hai bên đường thấy đoàn xe đi qua, dẫn đầu là chiếc Jeep của quân cảnh Dù, tiếp sau là hơn 20 chiếc xe chở đầy trang cụ của CSBV còn nguyên cây lá ngụy trang quanh xe, cùng một số cờ VC. Mọi người đều vỗ tay hoan hô và reo hò mừng rỡ vang trời.

    Lục soát chung quanh chân núi căn cứ Barbara, các binh sĩ Lữ đoàn 3 còn tịch thu một số súng đại bác 122 ly nòng dài; những xe súng phòng không gắn đại bác 37 ly và 57 ly.

    Ngoài ra còn lấy lại được mấy khẩu đại bác 105 ly của ta mà địch đã chiếm được lúc trước tại phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Chính chúng đã kéo những súng nầy xuống Barbara để bắn vào các vị trí đóng quân của các đơn vị Dù.

    Giữa tháng 9/1972, LĐ2ND được lệnh tiến sâu vào sườn núi phía Tây (BCH Lữ đoàn đóng tại cầu Trường Phước), với nhiệm vụ mở sâu rộng vào các vùng đồi núi để tìm và tiêu diệt địch, nhằm mục đích ngăn chận không cho địch tiến về phía Nam và đồng bằng ở hướng Đông.

    Vào cuối tháng 9/1972, thời tiết luôn thay đổi, mây xám bao phủ đầy trời, tầm quan sát từ trên cao bị hạn chế. Mưa nhiều nên di chuyển và tiến quân khó khăn. Địch thường xuyên sử dụng pháo binh tầm xa (130 ly, 122 ly nòng dài) bắn vào các vị trí đóng quân của Dù.

    Từ căn cứ Barbara, đài quan sát của TĐ8ND cho biết ban đêm các đoàn xe địch di chuyển ở sườn Tây khá nhiều; đèn xe chiếu sáng một đoạn dài.

    Giữa tháng 10/1972, LĐ2ND được lệnh tái chiếm căn cứ Ann ở phía Tây tỉnh Quảng Trị 12 cây số đường chim bay (căn cứ Ann trong bản đồ gọi là vùng động Ông Đô).

    Nỗ lực chính là TĐ7ND của Thiếu tá Trần Đăng Khôi, cánh trái có TĐ5ND của Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu – K14ĐL, (sau đó Thiếu tá Bùi Quyền lên thay); đoàn quân trực chỉ về căn cứ Ann.

    Hai tiểu đoàn của Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá Đồng trấn giữ mặt Bắc không cho địch xuống tiếp viện; đồng thời có nhiệm vụ bảo vệ sườn phải cho TĐ7ND.

    Thời tiết lúc nầy mưa giông gió lốc liên miên, nước sông dâng lên do nguồn cao từ núi đổ xuống. Việc tiếp tế và tản thương rất khó khăn; trực thăng phải bay rà thấp ngọn cây mỗi khi vào vùng các Tiểu đoàn. Khu vực động Ông Đô (căn cứ Ann) là vùng đồi núi trọc, chỉ có cỏ và rất ít bụi cây. Đứng trên đỉnh căn cứ có thể nhìn thấy Ái Tử (ở phía Nam Đông Hà và phía Bắc cầu Thạch Hãn). Tại đây cùng có thể quan sát vùng Nam Cam Lộ và Hưng Hóa. Trên căn cứ có một pháo đội 155 ly, trước do quân Mỹ đóng căn cứ hỏa lực nầy, sau bàn giao lại cho quân đội VNCH trấn giữ.

    TÁI CHIẾM CỔ THÀNH
    Trên đường tiến quân, khi vừa vượt qua ngã ba Long Hưng, phía Đông quốc lộ I, TĐ5ND đã chạm địch nhiều lần, đa số là các đơn vị pháo binh và phòng không của địch.





    Theo phóng viên Chad Huntley của UPI, các vị Tư Lệnh chiến trường đã đưa ra 3 kế hoạch khác nhau để tái chiếm Cổ Thành Đinh Công Tráng. Kế hoạch thứ nhất là các lực lượng Dù và TQLC sẽ tấn công chính diện. Kế hoạch thứ hai là cho Không Quân san bằng Cổ Thành ra bình địa. Kế hoạch chót là bao vây để địch đói khát sẽ đầu hàng.

    Cuối cùng, để khỏi bị trì hoãn đợi ăn pháo địch, kế hoạch thứ nhất được thi hành, đôi bên sẽ đối mặt phân tài cao thấp và thử gan anh hùng. Dưới con mắt của hàng chục phóng viên chiến trường từ khắp nơi trên thế giới, rồi đây hàng triệu người khác sẽ biết tới trận thử lửa để đánh giá khả năng và tinh thần chiến đấu của chiến sĩ QLVNCH.

    Theo sử liệu, Cổ Thành được xây lên từ thời vua Gia Long nhà Nguyễn. Thành xây bằng đất, chung quanh có hào sâu. Tới triều vua Minh Mạng năm 1838, thành được phá đi và xây lại bằng gạch dầy và cao 5 thước. Người ta ước lượng có chừng một trung đoàn địch với vũ khí, đạn dược, và lương thực đầy đủ đang trú ẩn kỹ trong những lô cốt kiên cố chung quanh tường thành và các công sự chắc chắn bên trong Cổ Thành.






    Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù được vinh dự nhận trách nhiệm tiến chiếm Cổ Thành Đinh công Tráng, trung tá TĐT Nguyễn Chí Hiếu – K14ĐL, và Thiếu tá TĐP Bùi Quyền– K16ĐL, là hai sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường từ trận Mậu Thân 68, Kampuchia 69, Hạ Lào 71, đến trận nổi tiếng An Lộc, Bình Long năm 1972. Bây giờ trên chiến trường sôi động Trị Thiên nầy, hai anh đang hướng dẫn Tiểu đoàn thiện chiến Nhảy Dù trên đường tiến chiếm Cổ Thành.

    Địch quân phục sẵn để chào đón những chiến sĩ TĐ5ND, mặc dầu phi pháo yểm trợ tối đa, nhưng vừa đánh vào là dội ra ngay, quân ta bị cắt ra làm ba, mỗi đại đội phải chiến đấu riêng rẽ. Các binh sĩ Dù vừa đánh vừa đào hầm trú ẩn, đôi khi phải gọi pháo bắn ngay trên đầu mình vì địch và ta đang cài răng lược, nhưng Cộng quân bị thiệt hại nhiều vì quân số đông hơn và không có hầm trú ẩn cấp thời như quân ta.

    Với sự yểm trợ hữu hiệu của phi pháo, Đại đội 51 của Trương Đăng Sĩ – K21ĐL, cùng Đại đội 52 của Hồ Tường – K26TĐ, Đại đội 53 của Lê Hữu Chí – K20ĐL, và Đại đội 54 của Nguyễn Tiến Việt – K23ĐL, đã đập tan các chốt địch, tiến thẳng lên Tri Bưu, Đông Bắc Cổ Thành Quảng Trị. Các đại đội tịch thu được nhiều vũ khí nặng, khoảng 10 đại bác 130 ly và 122 ly.

    Đối diện với Cổ Thành, các Đại đội trưởng của TĐ5ND cảm thấy khựng người. Một mục tiêu vô cùng kiên cố, chung quanh có hào sâu chừng gần 10 thước. Cổ Thành nguyên là doanh trại của Tiểu khu Quảng Trị, tháng 4/72 vừa qua, Bộ Tư lệnh SĐ3BB từ căn cứ Ái Tử đã dời về đây. Tướng Vũ văn Giai, TL/SĐ3, đã cho tu bổ và xây dựng thêm nhiều hệ thống phòng thủ kiên cố mới. Khi lọt vào tay địch, nơi đây trở thành một khối đá to được bao bọc bởi những hỏa tập cận phòng bằng 130 ly và 122 ly từ bên kia sông Thạch Hãn và bằng những súng đại bác 57 ly, 75 ly, B40, và thượng liên đặt trên bờ thành mà những xạ thủ đã bị xích chân vào súng.

    Sau hơn 2 tuần đối trận, TĐ5 hao khoảng 100 người vừa chết và bị thương, cuối cùng Tiểu đoàn quyết định chọn toán cảm tử để dựng cờ làm khí thế cho cuộc chiến đấu cam go nầy.

    Nhiều người tình nguyện, nhưng 8 chiến sĩ được chọn, họ là những chiến sĩ trước đây đã ở trong Lực Lượng Đặc Biệt, từng nhảy toán vào lòng địch. Trung tá Hiếu quyết định làm một việc ngoài quyền hạn của mình, anh đã thăng cho mỗi người hai cấp để 8 chiến sĩ hiểu rằng, mọi người đều kính trọng các anh, những tráng sĩ Kinh Kha thời nay.

    Buổi chiều ngày 24/7/1972, sau khi chiếc oanh tạc cơ cuối cùng rời vùng, hoàng hôn cũng vừa phủ xuống trên Cổ Thành. Tiếng súng thưa thớt rồi im hẳn làm cho chiến trường bỗng nhiên chìm trong khung cảnh tĩnh mịch. Nhưng chính trong những giây phút người lính tưởng sẽ được nghỉ ngơi giây lát sau một ngày dài đột pháo nhích lên từng tấc đất, thì thật ra đây là khoảng thời gian nguy hiểm nhất, vì địch thường lợi dụng đêm tối mò vào đánh đặc công. Bởi vậy khi màn đêm phủ xuống, đó là thời gian “Thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ”.

    Nhưng buổi tối hôm nay, 8 chiến sĩ Dù trong toán “Quyết tử” đang chuẩn bị vượt qua đoạn đường cam go nhất trong đời, đoạn đường từ điểm xuất phát đến chân bờ thành, một đoạn đường mà hơn 2 tuần nay, ngày nào các chiến sĩ Dù cũng đổ máu để thâu ngắn từng tấc đất, nhưng mà bờ tường của ngôi thành cổ kia vẫn còn sừng sững như ngạo nghễ như thách đố!

    Cái khoảng trống 300 thước đó là vòng đai của tử thần. Một màn lưới hỏa lực dày đặc bao phủ vòng đai nầy, giả thử nếu một con bò sút chuồng chạy vào thành, lập tức nó sẽ bị hàng chục viên đạn ghim vào mình trước khi đến dưới bờ thành. Lại thêm những toán đặc công hoặc tiền đồn địch “Độn thổ” bên ngoài để kịp thời phát hiện những toán xâm nhập.

    Khi được giao phó nhiệm vụ tái chiếm Quảng Trị, các lực lượng ta đã chuẩn bị sẵn những lá cờ để dựng lên Cổ Thành, và đêm nay, toán cảm tử của ta sẽ thực hiện công tác thiêng liêng đó. Tại điểm xuất phát, 8 chiến sĩ Dù đều sẵn sàng. Hạ sĩ Trần Tâm làm trưởng toán, Hạ sĩ Hồ Khang được chỉ định giữ lá cờ để sẵn sàng cắm lên trên Cổ Thành.

    Khoảng 4 giờ sáng, trong bóng đêm, tám dũng sĩ lặng lẽ khởi hành; sau lưng họ, cấp chỉ huy, bạn đồng đội dõi mắt nhìn theo, gửi gắm nơi họ những lời chúc bình an, những niềm tin và niềm hy vọng. Họ ra đi như Kinh Kha sang Tần ngày xưa, sông Dịch Thủy tuy rộng nhưng vẫn dễ qua hơn 10 thước hào sâu trước mặt. 9 bậc thềm rồng của vua Tần thủy Hoàng tuy cao nhưng dễ lên hơn 5 thước tường thành cổ nầy.

    Tám người mất hút trong bóng đêm rất nhanh. Những người ở lại theo dõi trông chờ, họ cầu mong đêm nay vẫn liên tục yên tĩnh. Thời gian như ngừng lại, không có tiếng người, không có hỏa châu, không có tiếng súng, chỉ có tiếng côn trùng vọng lên giống như đêm nay là đêm thanh bình của những ngày chưa xảy ra cuộc xâm lấn của quân Bắc phương.

    Trong bóng đêm dày đặc, các đồng đội đang gườm súng ứng chiến sẵn sàng, họ đếm từng phút và lắng tai nghe từng tiếng động. Chưa có tiếng súng nổ nghĩa là toán cảm tử vẫn chưa bị lộ. Nhưng nếu hỏi giờ nầy họ tiến tới đâu thì không ai có thể trả lời. Có thể 100 thước, 200 thước, đang vượt hào sâu, đang đứng dưới chân thành, cũng có thể đã bị bắt sống một cách nhẹ nhàng để chờ toán khác tiếp tục tiến vào?

    Mọi người chỉ biết chờ đợi, đoán mò. Bỗng ngay hướng họ vừa đi, trên mặt thành, một bóng đen đột nhiên nhô lên giữa bầu trời mờ sáng, bay phất phới theo chiều gió: Lá cờ!

    Cùng lúc đó, trong sự tĩnh mịch của chiến địa, những tiếng hô dõng dạc vang lên: “Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù chiến thắng, Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!”

    Tiếng hô lồng lộng trong đêm khuya vang dội cả Cổ Thành. Lúc ấy trời sắp sáng, Trương Đăng Sĩ và Hồ Tường dẫn quân vượt qua hào sâu, tiến theo chỗ 8 dũng sĩ đã chiếm góc thành làm đầu cầu. Bỗng một loạt đại bác 57 ly trực xạ vào nơi dựng cờ, cả chục cây thượng liên cùng châu mũi vào nhả đạn như mưa. Ánh sáng của màn lửa đạn làm nổi lên một lá cờ vàng ba sọc đỏ đang cắm trên mặt thành, mới vừa tung bay trước gió nay đã rơi xuống phủ trên mình Hạ sĩ Hồ Khang, người chiến sĩ cắm cờ trên bờ thành đã vĩnh viễn ra đi, bỏ lại vợ và 3 con còn thơ dại!

    Trương Đăng Sĩ và Hồ Tường là 2 Đại đội trưởng trẻ tuổi, gan dạ, đã lập nhiều chiến công oanh liệt tại Hạ Lào và An Lộc. Hai anh chỉ huy anh em đại đội, lợi dụng toán Quyết Tử chiếm được đầu cầu ở bờ thành, vượt qua “Vòng đai tử thần”, vượt qua hào sâu dưới chân thành với sự yểm trợ tối đa của pháo binh và không quân. Khi những khinh binh đi đầu đã dựng trở lại ngọn cờ thì một tai nạn thảm khốc xảy ra: hai phi tuần khu trục của ta, không biết vì một sự lầm lẫn nào, đã chúi xuống trút bom ngay trên đầu 2 đại đội, Trương Đăng Sĩ la lên thất thanh trong máy truyền tin, bom nổ, cả 2 đại đội tan nát: gần 40 bị thương, 4 hy sinh trong đó có Hồ Sĩ Thơ và TS Hồ Con,… là những chiến sĩ kiên cường! Bây giờ ở Úc Châu, với thân hình đầy thương tích, mỗi lần nhớ lại cơn ác mộng nầy, Sĩ cảm thấy ngậm ngùi thương cho số phận người chiến binh QLVNCH, binh chủng Nhảy Dù, và Đại đội 51 của anh.

    Ngày 27/7/72, lực lượng Dù được lệnh bàn giao Cổ Thành lại cho TQLC, sự thay đổi nhiệm vụ đột ngột nầy có một số người thắc mắc, nhưng lệnh hành quân là nhiệm vụ chung của tất cả, danh dự cũng là danh dự chung của quân nhân QLVNCH.

    Ngày nào cũng có tù binh giải giao Ban 2 Lữ đoàn, tù binh đa số là Trung đoàn 141 và 165 thuộc Sư đoàn 324 CSBV.

    Hai Đại đội của TĐ7ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô – K18ĐL, trên đường tiến quân gặp nhiều trở ngại hơn, vì quân số bộ binh địch tập trung dài từ bờ Bắc sông Nhung tới đồi 24, nhiều nhất là ở dưới chân núi căn cứ Ann. Cộng quân có pháo binh và chiến xa yểm trợ; vì là vùng đồi trọc nên công binh địch đã lập các con đường dọc ngang, để vận chuyển tiếp liệu và đồng thời dễ dàng điều động chiến xa. Bộ binh địch thường đào hầm khoét sâu vào các đồi núi để tránh bom đạn của Không quân và Pháo Binh của la. Thời tiết mưa gió triền miên đã ảnh hưởng đến sự yểm trợ của Không Quân và tiếp tế tản thương của các tiểu đoàn; những trở ngại thiên nhiên cũng làm chậm bước tiến quân của TĐ7ND.

    Cuối tháng 10/72, TĐ7ND cũng tiến được tới sát căn cứ Ann; và sau các cuộc đụng độ đẫm máu, tiểu đoàn đã chiếm được đồi yên ngựa, đồi 24 ở phía Đông, và các đồi ở mặt Nam căn cứ Ann. TĐ7ND đã tiêu diệt được một số chiến xa ở chân đồi. Ba đại đội đi đầu, mỗi đại đội được cung cấp một toán tiền sát viên pháo binh để sử dụng hỏa lực tiêu diệt các chiến xa, các vị trí phòng không, và vị trí súng cối, súng cộng đồng của địch.

    Hai pháo đội 105 ly của TĐ1PB Dù đã yểm trợ cho TĐ7ND rất hữu hiệu. Khi trời sáng tỏ, Không quân cũng được dành ưu tiên cho TĐ7ND. Xác địch nằm la liệt trên đường tiến quân.

    Đầu tháng 11/1972, sau những đợt phi pháo, TĐ7ND rốt cuộc đã chiếm được căn cứ Ann; 6 khẩu pháo 105 ly của TQLC trước khi rút đã phá hủy và bỏ lại trên căn cứ nầy nay càng bị hư hại hoàn toàn.

    TĐ7ND bắt sống khoảng 30 tù binh thuộc Trung đoàn 66 và 165 của Sư đoàn 324 CSBV; tịch thu khoảng 300 vũ khí trong đó có cả súng cối 160 ly do Liên xô chế tạo. TĐ7ND cũng bị tổn thất (vừa chết và bị thương) khoảng một đại đội! Có 2 Đại đội trưởng và 10 sĩ quan bị thương!

    Chính Tướng Ngô Quang Trưởng khi nghe tái chiếm được căn cứ Ann cũng đã thừa nhận là căn cứ Ann, vùng Động Ông Đô rất khó đánh, ông đã hết lời khen ngợi chiến sĩ TĐ7ND.

    Sau khi ổn định vị trí, TĐ7ND được TĐ6ND ra thay thế để rút về tuyến sau tái bổ sung quân số và làm lực lượng trừ bị.

    Từ lúc mất vị trí quan trọng (căn cứ Ann), địch tập trung nỗ lực định chiếm lại căn cứ nầy và các điểm tựa vừa mất. Cộng quân pháo kích dữ dội vào vị trí các đại đội của TĐ6ND bằng đủ loại: hỏa tiễn 107 ly và 122 ly; rồi ồ ạt tấn kích với chiến xa yểm trợ. Binh sĩ TĐ6ND đã đào hầm sâu vào sườn đồi để tránh pháo địch. Lúc địch tấn công thì họ nhô ra khỏi miệng hầm, sử dụng súng cá nhân, lựu đạn, và súng cộng đồng chống trả.

    Phía Bắc căn cứ Ann khoảng 1 cây số rưỡi có một ngọn đồi yên ngựa, tuy hơi thấp nhưng có thể chế ngự và kiểm soát được đường tiến quân từ sườn Đông và sườn Tây căn cứ Ann. Tại đó có một số tử giác mà địch có thể lợi dụng được. Vì vậy một đại đội TĐ6ND đã trấn giữ, nên việc phòng thủ căn cứ Ann được bảo đảm hơn.

    Suốt 2 tuần lễ, Cộng quân luân phiên tấn công căn cứ và điểm tựa nhiều lần; nhưng địch đều bị thất bại phải chạy tháo lui bởi hỏa lực cùng sự chống trả quá kiên cường của chiến sĩ TĐ6ND và của Pháo binh yểm trợ cận phòng.

    Khi truy kích, TĐ6ND của Trung Tá Nguyễn văn Đỉnh tịch thu được hàng trăm súng đủ loại, xác địch nằm ngổn ngang dưới chân đồi, không bắt giữ được một tù binh nào cả.

    Pháo đài bay B-52 đã dội hàng trăm tấn bom xuống phía Bắc và sườn Tây của căn cứ, gây cho địch tổn thất rất nặng nề. Có thể nói TĐ6ND với tài chiến đấu dũng cảm của binh sĩ, cùng sự yểm trợ dồi dào của phi pháo, nên đã loại ra khỏi vòng chiến ít nhất 2 tiểu đoàn thuộc SĐ 308 CSBV. TĐ6ND có 3 Đại đội trưởng bị thương, khoảng 150 quân nhân vừa chết và bị thương.

    Để hỗ trợ cho cuộc tấn công vào căn cứ Ann, địch đã tung một trung đoàn thọc sâu vào thung lũng phía Đông căn cứ giữa TĐ3ND và TĐ6ND để tấn công đồi 90 và các đồi khác do TĐ3ND trú đóng nhằm mục đích cắt đứt đường tiếp viện cho TĐ6ND. Cộng quân đưa vào rất nhiều hỏa tiễn 107 ly (loại 12 nòng do Liên Xô chế tạo), cùng súng cối 82 ly, đại bác 75 ly, và súng phòng không 12 ly 8, 37 ly để bắn chận các trực thăng tiếp tế và tản thương; đồng thời liên lục pháo kích vào chỗ trú quân của ta.

    Trận chiến giằng co ngọn đồi chiến thuật 90 giữa hai bên xảy ra nhiều lần. Ban ngày binh sĩ TĐ3ND chiếm thì ban đêm địch phản công lấy lại. Thấy vậy BTL/SĐND đưa TĐ8ND lên tăng cường cho LĐ2ND.

    TĐ8ND được lệnh thọc sâu tiến đánh địch tại vùng thung lũng gọi là mục liêu 18 (giữa TĐ6ND và TĐ3ND). Đang khí thế hăng hái sau thời gian chỉ chỉnh bị và bổ sung, TĐ8ND đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Với rất ít thiệt hại mà chỉ trong 2 ngày đã làm chủ mục tiêu 18, lấy được kho đạn gồm súng cối 61 ly, 82 ly, hỏa tiễn 107 ly, do địch vội vã rút chạy nên không kịp phá hủy … Cộng quân bỏ lại trạm xá với những thương binh còn quấn băng đầy người, đang nằm chết tại các hầm cứu thương.

    Binh sĩ Dù tung ra lục soát, đào xới các ụ đất khả nghi và tịch thu được súng cối, đại bác không giật 57 ly, máy truyền tin, súng đại liên, và nhiều súng cá nhân.

    Tháng 11/1972 thì toàn vùng chạy dài từ Bắc căn cứ Ann xuống đến phía Nam qua căn cứ Barbara trong dãy Trường Sơn đều hoàn toàn yên tĩnh. Các đơn vị Dù tiếp tục bung rộng vùng kiểm soát, đã tịch thu thêm được nhiều xe vận tải chở quân và trang cụ chiến đấu, cùng lương thực (gạo) của địch.

    Ngoài ra ta còn phát giác hàng đoàn xe tiếp tế đã bị bom B52 đánh trúng, nằm nghiêng ngửa đổ tung tóe trên đường xâm nhập.

    Giữa tháng 12/1972, khi hòa đàm Ba Lê sắp đến hồi kết thúc quan trọng, Sư đoàn Dù cho lệnh các đơn vị mở rộng ra hướng Tây. TĐ8ND chiếm đánh căn cứ Suzie ở phía Tây căn cứ Ann khoảng 3 cây số, và thọc sâu tới sát bờ sông Thạch Hãn. Chỉ trong 10 ngày Tiểu đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ.

    TĐ2ND được lệnh chiếm vùng “Động Tiên” ở Tây Nam căn cứ Suzie khoảng 4 cây số. TĐ2ND chiếm được vùng nầy sau một tuần lễ giao tranh lẻ tẻ; binh sĩ lục soát tịch thu rất nhiều lương thực gồm: gạo, thịt, và cá hộp, cùng lương khô do Trung cộng cung cấp. Địch bỏ chạy vì các kho nầy do hậu cần canh giữ, không đủ khả năng chống đỡ lại các binh sĩ thiện chiến của TĐ2ND.

    Tháng 3/1973, sân bay Hòa Mỹ (tức căn cứ Evan cũ), do LĐ2ND trách nhiệm, được dùng để các máy bay C130 Hoa Kỳ chở tù Phiến Cộng đáp xuống, rồi dùng GMC chở chúng ra bờ sông Thạch Hãn trao đổi tù binh theo Hiệp Ước Ba Lê quy định.

    Hàng ngàn tù binh CSBV đã được trao trả cho phía bên kia, và ta cũng đã nhận về một số rất ít những chiến sĩ VNCH do địch bắt trước kia (quân CSBV thường giết hại tù binh).

    Tháng 9/1972, khi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu ra thăm Quảng Trị, đã đến tận bản doanh SĐND ở Hiệp Khánh. Tại đây, sau khi nghe Tư lệnh SĐND và các sĩ quan tham mưu trình bày diễn tiến hành quân, và kết quả các trận đánh, Tổng Thống đã ra sân trước coi các chiến lợi phẩm tịch thu được của địch gồm: chiến xa T-54, PT-76, BTR-85, các đại bác 122 ly, 751y nòng ngắn và nòng dài, 130 ly,…các súng hỏa tiễn và đạn 1071y, 122 ly, SA7, AT3; các loại súng cối: 61 ly, 82 ly, 120 ly, và 160 ly (do Liên Xô chế tạo); máy truyền tin, các xe vận tải Zin và Molotova sắp hàng đầy sân. Cùng nhiều trang cụ chiến đấu và quân trang quân dụng

    Tổng Thống cũng bước lên đứng cạnh pháo tháp xe tăng T-54 và bảo tài xế lái chạy 1 vòng sân; rồi ngồi trên ghế giàn phòng không 37 ly, sử dụng tay quay điều khiển súng lên, xuống, và quay vòng 360 độ .

    Các đơn vị thuộc SĐND đã hoàn thành được nhiệm vụ giao phó, vì chúng ta có những binh sĩ gan dạ, chịu đựng, và thiện chiến; các Hạ sĩ quan ưu tú nhiều kinh nghiệm chiến trường; các sĩ quan Trung, Đại đội trưởng tài giỏi, đa năng, đa hiệu; các Tiểu đoàn trưởng điều quân rất xuất sắc, phản ứng lanh lẹ, ước tính chính xác, và sử dụng hỏa lực yểm ượ hữu hiệu ….

    Trong một thời gian hạn định, Tướng Ngô Quang Trưởng đã điều động 2 đơn vị Tổng Trừ Bị tái chiếm lại được Quảng Trị, nơi địch quân đã dồn hết lực lượng chủ chốt để thách đố quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Trưởng đã diệt địch không phải bằng một cuộc phản công đại quy mô, mà bằng những cuộc tấn kích nho nhỏ và liên tục, mỗi ngày một khác và ở những địa điểm không giống nhau, nhằm mục đích tiêu hao để rồi diệt gọn địch. Ông tiếp tục cho hành quân phản công lấn đất lần về đến thị xã Quảng Trị. Sau đó chiếm lại thành phố và bao vây rồi trương cờ lên Cổ Thành Đinh Công Tráng.

    Ông cho lệnh bố trí quân phòng thủ phía Nam sông Thạch Hãn, dùng phía Bắc bờ sông như vùng trái độn để củng cố và tổ chức các tuyến phòng ngự, sử dụng trọng pháo tối đa để ngăn chận địch quân tiến gần bờ sông (Ngũ Giác Đài và các danh tướng ngoại quốc hết sức khâm phục sự chiến đấu dũng cảm của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, SĐND và Sư đoàn TQLC nói riêng).

    Sau trận nầy, địch quân hoàn toàn mất khả năng chiếm giữ thị trấn Quảng Trị, vì Cổ Thành đổ nát, thị xã tan tành bởi bom, đạn pháo; nên chánh quyền lập thị trấn mới tại quận Triệu Phong, phía Bắc sông Mỹ Chánh. Địch quân núp vào dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, thỉnh thoảng pháo vài quả khuấy rối, như để chứng tỏ còn hiện diện tại đây. Vì vậy các đơn vị Dù thay phiên nhau lên các đỉnh núi cao trong dãy Trường Sơn, lập căn cứ đóng đồn giống như Địa Phương Quân.

    Điều đáng buồn là Đại Tá Nguyễn Trọng Bảo, Tham mưu Trưởng SĐND, đi quan sát bằng trực thăng, chẳng may máy bay bị địch bắn trúng và rớt xuống vùng phía Đông Bắc cầu Mỹ Chánh, ông bị tử thương cùng Trung Tá Huỳnh Long Phi, CHT/Pháo Binh SĐND. Đại úy Lang bị thương chân và phỏng nặng cấp ba, còn Đại úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn thì thật may thoát khỏi nạn vì vợ ra thăm nên Đại úy Lang đi thế. Tin nầy làm Tướng Đống rất đau buồn vì bị mất đi một vị Tham mưu Trưởng tài ba, mưu lược, và tận tụy,…đã từng giúp ông rất đắc lực trong nhiều năm qua.

    Để kết thúc loạt ghi nhận nầy, chúng tôi xin nghiêng mình ghi ơn quân nhân các cấp của SĐND, TQLC, BĐQ, BB, BCD, Pháo Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Không Quân,… đã đem xương máu ra hiến dâng cho Tổ Quốc….Có những chiến sĩ đã nằm xuống vĩnh viễn, có những người đã thành phế nhân; có những người đã thành tù nhân trong các trại tập trung… tất cả đã xả thân bảo vệ đất nước sống còn, mong cho nhân dân miền Nam được tự do no ấm, hạnh phúc hơn mấy chục năm dài….

    Vận nước đến lúc suy vi!!! Những biến cố bất lợi đã xảy ra liên tiếp, khiến mọi người ly tán, nhà tan, nước mất! Hàng triệu người phải lưu vong…

    Nhưng chúng ta tin rằng, rồi đây sẽ có những ngày tươi sáng, thanh bình. Thế hệ chúng ta đã không được hưởng, thì thế hệ con cháu chúng ta sẽ hưởng ….Theo lịch sử, không một chế độ bạo tàn nào, chỉ biết dùng vũ lực để trấn áp dân chúng, mà có thể sống lâu (Vương Mãng, Tần Thủy Hoàng bên Tàu và Hồ quý Ly, Hồ chí Minh của Việt Nam); chúng sẽ phải sụp đổ trong nay mai.

    Gương sáng trước mắt đã thấy đó: Chế độ Cộng sản Liên Sô đã gãy đổ tan nát; các nước Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi Cộng sản đã phải gục nhường bước cho nền dân chủ Tự Do đi lên


    Hãy tin đi, chúng ta sẽ có ngày nầy.
    ______________________


    Chương 3. ĐỒI 1062 - Mặt Trận Thường Đức

    Đồi một không sáu hai
    Nhiều mìn bẫy chông gai
    Cộng quân kiềng chốt sẵn
    Lính Dù quyết ra tay


    SƠ LƯỢC DIỄN TIẾN (6)
    Vào mùa Thu năm 1974, áp lực địch lại Vùng I Chiến Thuật gia tăng khủng khiếp; Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã họp các Tư Lệnh quân, binh chủng bàn kế hoạch phòng thủ cuối cùng trên toàn Quân khu I. Đặc biệt những điểm “Nóng” như Huế, Chu Lai, và Đà Nẵng, bản doanh của Quân đoàn I.

    Tại mặt trận Thường Đức, Sư đoàn Dù đã chiến thắng vẻ vang trên ngọn đồi 1062. Nữ tướng Nguyễn thị Định hiên ngang tuyên bố sẽ vào Đà Nẵng như chỗ không người. Lời tuyên bố ngạo mạn đó đã bị các chiến sĩ dũng cảm Nhảy Dù xóa sổ và niêm phong. Viên Tư Lệnh lực lượng CSBV tại Thường Đức phải mất chức do bị thiệt hại nặng nề.




    Trong suốt năm tháng miệt mài quần thảo với dân chơi Hồ Gươm BV, các chiến sĩ Dù chưa từng thấy chiến trường nào mà quân Cộng Sản lại làm hầm hố vô cùng kiên cố như mặt trận Thường Đức. Những hầm chữ A để chống bom được đào sâu như những giếng nước, hoặc làm dưới những khe suối được che chở bằng vách đá và cây rừng cổ thụ. Đường dây điện thoại chằng chịt như mạng lưới điện thoại ở thành phố Sàigòn. Mọi sự liên lạc vô tuyến hạn chế để tránh bị ta phát giác. Tuy nhiên phòng Truyền Tin của Sư đoàn Nhảy Dù cũng đã bắt được những mật điện quan trọng của địch, và đã giải hóa một cách dễ dàng. Nhờ vậy ta đã biết được kế hoạch điều quân của các lực lượng tham chiến CSBV tại Thường Đức.

    Các chiến sĩ Dù đã quần thảo với địch trên những đỉnh núi cao liên tục không giây phút ngừng nghỉ. Miền rừng núi trùng điệp, hiểm trở và cao chất ngất không làm sờn lòng chiến đấu của những chiến sĩ trẻ Nhảy Dù. Tuổi đời đầy nhựa sống yêu đương, nhưng họ nào sá chi tấm thân nam nhi, từ bỏ những vui chơi nhộn nhịp, để một lòng bảo vệ non sông, cho đồng bào miền Nam được thở không khí Tự Do và Thanh Bình.

    Từ chân núi nhìn lên đỉnh cao vời vợi, người chiến sĩ Dù nghĩ đến sự tiếp vận khó khăn của địch và ta, một bịch gạo, một băng đạn, được chuyển vận thật là cả một vấn đề, thật gay go, gian nan, và khổ cực (phải dùng dây kéo lên). Nhất là nước đâu để có thể nấu ăn trên những rặng núi cao ngất từng mây.

    Những khó khăn về địa hình địa vật cho trận chiến, tuy nhiên, đã có bài toán giải đáp do thiên nhiên tạo ra. Thật thơ mộng, thật trữ tình, những thác nước cuồn cuộn ngày đêm như dâng hiến cho người chiến sĩ Dù trầm mình thoải mái sau những phen đụng độ nẩy lửa với quân thù. Họ đã ngồi lại từng giờ để thả hồn theo bọt nước bắn tung lên không gian, như những hạt kim cương đang vờn giỡn với lính chiến hoa Dù. Thiên nhiên đã giàu sang hóa đời người chiến sĩ. Họ có cả một vũ trụ bên mình!

    Năm 1973, sau khi Hiệp định Đình chiến được ký kết tại Paris; chiến cuộc Việt Nam tạm ngưng, 2 Sư đoàn tổng trừ bị (Nhảy Dù và TQLC) vẫn còn lưu giữ tại Quân khu I. Lấy Quốc lộ I làm ranh giới; Sư đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc lộ I, từ Cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (Quảng Trị). Sư đoàn TQLC trấn giữ phía Đông, từ quốc lộ I ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc.

    Các đơn vị thuộc SĐ Nhảy Dù chiếm những cao địa, tiến sâu vào dãy Trường Sơn gần các căn cứ Ann (Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến thuật chế ngự toàn vùng hành quân.

    Từ Nam cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, BTL/SDND) là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Đoàn I: SĐ1BB trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân; phía Nam là trách nhiệm của SĐ3BB và SĐ2BB. Cả hai khu vực Bắc và Nam Hải Vân đều có các đơn vị Biệt động quân, Địa Phương Quân…

    Đối diện với SĐND là Sư đoàn 325 Trị Thiên. Gọi là Sư đoàn Trị Thiên thực ra bộ đội của sư đoàn nầy rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại Quân khu I lúc nầy tương đối yên tĩnh.

    Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Mỹ đã xong, CSBV bắt đầu vi phạm mạnh Hiệp định Ba Lê 27/1/1973, thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực. Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách vi phạm Hiệp ước, địch đánh chiếm thị trấn Phước Long (cuối năm 1974) và một số thị trấn thuộc QĐ III. Thấy Hoa Kỳ không có phản ứng gì, CSBV bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ binh, Pháo binh, Cơ giới… địch ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.

    Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng I Chiến thuật, với ý đồ cầm chân các đơn vị thiện chiến Tổng Trừ Bị của ta. Hai Sư đoàn chủ lực 304 và 324, cùng các Trung đoàn Pháo, chiến xa,.. của địch bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam.

    Là một điểm chiến lược vì địa thế núi rừng hiểm trở dễ thủ khó công. Thường Đức ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 50 cây số, và phía Tây giáp với Lào, nơi có đường mòn Hồ chí Minh, phát xuất từ Nghệ Tỉnh, dọc theo biên giới Hạ Lào, chia nhánh rẽ qua Lao Bảo, Khe Sanh, thung lũng Ba Lòng, Ashau, Thường Đức, Kontum,…Chạy dài theo QL 14 xuống Nam tới Bình Long, Tây Ninh. Cộng quân ngày đêm chuyển vận quân dụng tiếp tế cho mặt trận Thường Đức nầy.

    Trong vòng 2 năm, sau hiệp định Ba Lê, địch đã không ngừng tu bổ đường mòn và biến thành “Xa lộ không đèn”, bề rộng mặt đường hơn 10 thước, xe chạy hai chiều. Ngoài ra Cộng quân còn lập hệ thống dẫn dầu từ Bắc vào đến tận Lộc Ninh. Địch cũng đã tăng cường chuyển vận bộ đội chính quy, vũ khí, và chiến cụ vào miền Nam gấp nhiều lần so với lúc trước.

    Tình hình Quân khu I đổi khác ngay vào cuối năm 1974; áp lực địch gia tăng mạnh mẽ ở phía Nam đèo Hải Vân.

    Ngày 8/8/1974, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn trực thuộc vào vùng hành quân ở Đại Lộc thuộc Đà Nẵng. Trước đó 1 ngày, Tiểu đoàn 79 BĐQ bị quân Cộng sản Bắc Việt gây áp lực nặng nề tại vùng trách nhiệm ở quận lỵ Thường Đức.

    Ngày 11/8/1974, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được lệnh cùng 3 tiểu đoàn di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm cho Liên đoàn 15 Biệt động quân. Bộ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù đặt bản doanh lại gần bờ biển Non Nước, phía Đông thành phố Đà Nẵng.

    Một dãy núi cao chạy dài từ sông Vu Gia và Liên tỉnh lộ 4 về phía Bắc, những ngọn đồi thấp ở phía Nam của dãy núi nầy đã bị Trung đoàn 29 CSBV chiếm giữ, mà đã ngăn chận mọi tiếp tế của đơn vị Biệt động quân xuyên qua đèo Thường Đức.

    Điểm cao nhất (1235) của dãy núi nầy cách TL4 khoảng 6 cây số về phía Bắc, và đỉnh 1062 ở phía Nam của 1235 khoảng 2 cây số; địch quân đã chiếm đỉnh nầy để có thể quan sát đoạn đường từ Đại Lộc đến Thường Đức, và địch đặt tiền sát viên điều chỉnh pháo binh bắn chính xác vào khu dân cư và các đơn vị bạn ở Đại Lộc. Nhiệm vụ của các đơn vị Nhảy Dù là phải chiếm đỉnh đồi 1062 và các cao điểm phía Nam tới TL4. Để giải tỏa sự hăm dọa tấn công các vùng phía Tây Đà Nẵng, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức.

    Ngày 18/8/1974, 3 Tiểu đoàn 1, 8, và 9 Nhảy Dù vừa vượt tuyến xuất phát thì đã chạm trán với những đơn vị thuộc Trung đoàn 29 CSBV ở phía Đông đồi 52 (xã Hà Nha), chính nơi đây Sư đoàn 3 Bộ Binh đã phải rút lui chiến thuật do áp lực địch quá đông đảo và vũ khí tối tân hơn!

    Sau một tháng đánh nhau với 3 tiểu đoàn Dù, 2 bên đều bị thiệt hại nặng nề (địch bị nhiều gấp 4 lần ta). Mặt Trận B3 ra lệnh Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 2 CSBV tới Thường Đức để tiếp ứng cho Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 CSBV. Như vậy Trung đoàn 66 có thể giúp đỡ Trung đoàn 29, để họ rảnh tay tấn công các đơn vị Nhảy Dù.

    Đầu tháng 9/1974, Trung đoàn 24 của Sư đoàn Điện Biên 304 CSBV cũng nhập vào trận chiến, cuối cùng ngày 19/9/1974, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062. Trong khi quân ta đã làm chủ 1062 hơn 2 tuần lễ thì Trung đoàn 66 CSBV hợp với Trung đoàn 29, và Trung đoàn 24 (-) định dùng quân số đông để áp đảo Lữ đoàn 1 Nhảy Dù.

    Vào ngày 2/10/1974, Tiểu đoàn 2 và 9 Nhảy Dù đang lục soát ở khu vực 1062 và dãy Sơn Gà, khám phá ra khoảng 300 xác địch trên đỉnh 1062 trong giai đoạn 1 nầy, và bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư đoàn 304 CSBV, tức Sư đoàn Điện Biên, sư đoàn thiện chiến hàng đầu của tướng CSBV Võ Nguyên Giáp.

    Suốt mấy tuần sau, các chiến sĩ Dù đã chống trả nhiều cuộc tấn công của Sư đoàn 304, địch định giành lại 1062. Bởi sự điều khiển phi pháo tài tình của các sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, nên các đơn vị Dù vẫn giữ vững 1062 mặc dầu địch đã pháo kích mãnh liệt rồi dùng chiến thuật biển người thí quân định tràn ngập 1062. Một trường hợp ngẫu nhiên, khi Trung đoàn 24 CSBV đang xâm nhập vào vùng tử địa (hỏa tập tiên liệu) ở dọc theo đồi 383 và 126 thì bị hỏa lực tập trung của Pháo binh ta đồng loạt khai hỏa gây 250 địch quân bị thiệt mạng.

    Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với hai Sư đoàn 2 và 304 CSBV, LĐ1ND gồm 4 Tiểu đoàn tham chiến bị tổn thất vừa chết và bị thương khoảng 500 chiến sĩ ! Địch bị thiệt mất trên 1200 người và 14 tù binh thuộc 304.

    Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung đoàn 24 CSBV, sau khi được tái bổ sung và tái trang bị, đã mở một cuộc tấn công khác vào đỉnh 1062, địch dùng súng phóng hỏa “Đốt” 1062, khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi nầy!

    Ngày 1/11/1974, đồi 1062 lại một lần nữa bị địch chiếm giữ!

    Trong khi ở Bắc Hải Vân, áp lực địch rất nặng vì quân Dù bị rút đi, Trung Tướng Trưởng không chấp thuận đề nghị kéo quân Dù về bảo vệ Bắc Hải Vân, ông còn lệnh cho Tướng Lê Quang Lưỡng phải lấy lại đồi 1062 với bất cứ giá nào. Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 8/11/1974, và chỉ 3 ngày sau, lực lượng Dù đã chiếm lại đồi 1062. Quân ta thành lập tuyến phòng thủ trên các triền núi, đập tan những toán đặc công cuồng tín định quấy phá quân Dù, khoảng 20 tên đã bị Trinh Sát Dù hạ thủ.

    Dầu cho cuộc giằng co giữa hai bên còn kéo dài thêm vài tuần nữa, lực lượng Dù tiếp lục bung rộng vùng kiểm soát, cuộc chiến đấu đẫm máu nhất từ ngày ký Hiệp Định ngừng bắn coi như chấm dứt. Sư đoàn Dù đã bị hy sinh gần 500 chiến sĩ, và khoảng 2,000 bị thương. Địch quân chết 2,000 và bị thương 5,000 người (tài liệu của Col. William E. Legro trong “Vietnam from Cease-Fire to Capitulation”).

    Bảy tiểu đoàn Dù (trong 9 tiểu đoàn) đã lâm chiến suốt 3 tháng, với 3 tiểu đoàn đánh thẳng vào mục tiêu chính là đồi 1062, các tiểu đoàn còn lại hoạt động xung quanh vùng hành quân để bảo vệ an ninh hậu tuyến và làm lực lượng trừ bị, sẵn sàng thay thế các lực lượng chính. Và bởi trung tuần tháng 10/74, 6 tiểu đoàn đã lần lượt ngự trị ngọn đồi máu 1062 nầy, địch đã dòm ngó quân Dù trên đỉnh 1235, nhưng Tướng Lưỡng không đủ lực lượng để kiểm soát luôn dãy đồi cao nầy, đồng thời địch vì tiêu hao quá nhiều nên cũng không dám trở lại tấn công đơn vị thiện chiến của SĐND. (Thiếu Tá Võ văn Huệ – K20ĐL, khi ở Đà Nẵng, một cai tù CS hỏi: “Lính gì mặc áo rằn ri đánh ở trận Thường Đức sao liều mạng, hăng máu, và dữ tợn quá vậy? Huệ trả lời: “Đó là lính Nhảy Dù”)

    Vào cuối năm 1974, chỉ còn TĐ1ND và TĐ7ND ở lại giữ vùng 1062 nầy, họ đặt BCH tại đỉnh Đông Lâm, khoảng 4 cây số phía Đông 1062. Mùa mưa đến, cả hai bên cần thời gian để chuẩn bị cho mùa khô kế tiếp.

    (6) W.E. LeGro – Vietnam from Cease-Fire to Capitulation

    DIỄN TIẾN CHI TIẾT
    Cộng quân tấn chiếm các xã, quận, và căn cứ quân sự của ta ở Quảng Nam, Đà Nẵng, và Quảng Ngãi.

    Sự việc mất các đồn lũy xảy ra thường xuyên; câu nói thông thường lúc bấy giờ là “Mất liên lạc”: Quận A “Mất liên lạc”; đồn B “Mất liên lạc” ….

    Mất liên lạc cũng đồng nghĩa với “Di tản chiến thuật” của hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972; và mọi người đều hiểu quân ta đã rút lui và địch đã chiếm mất rồi !!!

    Ngay cả khu Đồng bằng Quảng Đà, nơi có bản doanh Quân Đoàn I và phi trường lớn Đà Nẵng cũng bị lay động, lâm nguy!

    Quận lỵ Thường Đức “Mất liên lạc”, phi trường Đà Nẵng và bản doanh Quân Đoàn I thường xuyên bị pháo kích. Các đơn vị địa phương (SĐ1BB, SĐ2BB, ĐPQ, NQ) hầu như bị địch bao vây tấn công tràn ngập và bị mất liên lạc nhiều nơi.

    Áp lực địch nặng nề đến nỗi dân Đại Lộc đã phải gồng gánh, bồng bế nhau chạy ra thị xã Đà Nẵng.

    Đức Tổng giám Mục Phạm Ngọc Chi đã có lần tâm sự với các quân nhân Sư đoàn Nhảy Dù như sau:

    – Tình hình tại đây làm cha lo quá; mất xã, mất quận, và mất các cứ điểm quân sự hầu như xảy ra liên tục; cho đến cả Đà Nẵng cũng bị pháo kích nữa! Giống như ngày xưa, lúc cha còn ở Bùi Chu chuẩn bị dìu dắt giáo dân vào Nam. Chỉ khác một điều là khi xưa đất nước mình còn có miền Nam để vào, chứ bây giờ thì chạy đi đâu? Lo âu, sầu não đè nặng tâm tư, cha chỉ còn biết cầu nguyện!

    Ngay khi hay tin Thường Đức bị thất thủ, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh chiến trường vùng Hỏa Tuyến, đã biết rõ ý đồ của địch. Ông cho rằng chúng định lợi dụng địa thế hiểm trở chiến lược của vùng rừng núi trùng điệp xung quanh đồi 1062 để bày binh bố trận (chiến xa, biển người, và trận địa pháo), thách đố và cầm chân các đơn vị thiện chiến Tổng Trừ Bị.

    Do đó Tướng Trưởng đã cho lệnh di chuyển pháo binh nặng của Quân đoàn I, gồm các pháo đội đại bác 175 ly và 155 ly tới Đại Lộc, gần Thường Đức; đồng thời điều động 2 Lữ đoàn Dù (-) vào tăng cường nhằm thanh toán 2 Sư đoàn chính quy CS Bắc Việt. Đây là trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa ta và địch kể từ khi có hiệp định ngưng bắn Ba Lê 27/1/1973!

    Vào thời điểm 1973-1974, biết mình không còn là lực lượng trừ bị để phản ứng khi cần; Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh SĐND đã tâm sự với các sĩ quan tham mưu:

    – Lực lượng mình đang bị cầm chân dọc theo dãy Trường Sơn (Barbara, Ann, Mỹ Chánh); bây giờ nếu địch tấn công và chọc thủng phòng tuyến, tràn theo hành lang sông An Lỗ vào Đồng Bằng Trị Thiên. Anh em mình chắc chỉ còn đường ra biển!!

    Mối lo không có lực lượng trừ bị là một dằn vặt thường trực với vị Tư lệnh trẻ tuổi nầy.

    Quả vậy, đây chỉ là nói giả dụ tới việc địch tấn công vào khu vực trách nhiệm của SĐND thôi; nếu địch thọc sâu cắt đứt đèo Hải Vân làm cho Nam, Bắc Hải Vân không còn tiếp ứng được cho nhau nữa thì sẽ ra sao?

    Chắc ước tính của Quân đoàn I là: cuộc tấn công sắp tới của địch sẽ theo trục Bắc – Nam giống như Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Do đó, Quân đoàn đã dồn nỗ lực đào hầm, đặt chướng ngại vật chống chiến xa ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, chuẩn bị phòng thủ rất chu đáo.

    Riêng Tướng Lưỡng và Bộ Tham mưu Sư đoàn không đồng ý như vậy. Cuộc tấn công lần nầy của địch chắc không tốn kém, hao tổn sức lực như năm 1972, mà chúng chỉ cần chọc mũi dùi thật lẹ và mạnh từ Tây sang Đông, cắt đứt khu vực Quân đoàn I làm đôi ở đèo Hải Vân thì sẽ dụ lực lượng trừ bị tới giải tỏa như vậy coi như một chiến thắng đáng kể của chúng rồi!

    Với mối lo âu ấy, làm sao có được trong tay lực lượng trừ bị khá mạnh để có thể phản ứng ngay khi tình hình đòi hỏi?

    Và sau đây là kế hoạch để có quân trừ bị của Sư đoàn Nhảy Dù:

    Giảm quân số tại hậu cứ, các văn phòng, các đơn vị hành chánh, yểm trợ tiếp vận, và ngay cả trung tâm huấn luyện cũng phải giảm bớt để dồn ra vùng hành quân. Chuyển 2,000 thặng số Quân Y cho bệnh viện Cộng Hòa quản lý (nhờ vậy ta có thêm 2,000 quân để bổ sung và tăng cường). Tại khu vực hành quân, các Tiểu đoàn cũng trích quân số để lập thành những đại đội đặc biệt.

    Bộ chỉ huy LĐ2ND được chỉ định huấn luyện kỹ thuật tác chiến (từ quy ước tới không quy ước), ngay cả kỷ thuật đặc công, và được mang danh hiệu là các “Đại đội Đa Năng”.

    Việc thành lập và huấn luyện các đại đội đa năng nầy làm các ông trong tòa Đại sứ Mỹ quan tâm, thắc mắc nhiều. Các phái đoàn tùy viên quân sự ngoại quốc tới thăm SĐND đều đặt câu hỏi về đơn vị đa năng:

    * Ngân sách nào cung ứng để thành lập?
    * Lập các đơn vị nầy để làm gì?
    * Có bao nhiêu đơn vị đa năng?
    * Ở cấp nào? đại đội hay tiểu đoàn?
    * Tại sao lại gọi là Đa Năng?

    Ban Tham Mưu Sư đoàn đã được Tướng Lưỡng ra lệnh cứ giải thích cho họ biết. Chính phủ và quân đội không mất đồng xu nào để có được các đơn vị nầy, kể cả trang bị. Tất cả đều nằm trong phương trình như x = a+b+c; và chúng tôi có 12 đại đội đa năng trong Sư đoàn Nhảy Dù; nếu gọi các đơn vị nầy là “d” thì a+b+c+d cũng vẫn bằng x thôi.

    Và cuối năm 1973, SĐND đã có trong tay 12 đại đội đa năng dùng làm trừ bị. Lúc cần thành lập tiểu đoàn, lực lượng nầy sẽ là 3 tiểu đoàn hay một lữ đoàn trừ bị.

    Với lực lượng đa năng nầy, vùng đóng quân của bộ chỉ huy và bản doanh sư đoàn có thêm sự an toàn; có thể dẹp yên mọi quấy rối của địch; kể cả du kích ở hậu tuyến.

    Tình hình tổng quát vào thời điểm giữa năm 1974: tình hình Bắc Hải Vân tương đối yên tĩnh, trong khi vùng Nam Hải Vân rất sôi động và nguy ngập. Thượng tuần tháng 7/1974, SĐND nhận được lệnh khẩn cấp từ Quân đoàn I : “Đưa ngay lực lượng Nhảy Dù vào Quảng Đà; chỉ để lại một Lữ đoàn (+) ở Bắc Hải Vân cho dân chúng khỏi hoang mang rúng động”.

    Tướng Lưỡng ra lệnh cho Sư đoàn (-) gồm LĐ1 và LĐ3 vào Đà Nẵng; trước khi đi ông nói với ban tham mưu: “Mình sẽ vào Đại Lộc; lấy được quận Thường Đức địch sẽ đánh thẳng vào Đà Nẵng!”

    Chỉ tay vào bản đồ Tướng Lưỡng nói tiếp:
    – Sau khi các bộ phận của mình đã vào tuyến xuất phát, ta sẽ cho nỗ lực chính tiến theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà; rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính sẽ là LĐ1ND. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng cho LĐ1ND.

    Tình hình địch lúc bấy giờ là Sư đoàn 324 đang chiếm đánh Thường Đức. Lữ đoàn 2 Nhảy Dù và một tiểu đoàn Đa Năng ở lại trấn giữ Bắc đèo Hải Vân.

    Trên phương diện tình báo, khi các cánh quân Nhảy Dù tới tuyến xuất phát; kiểm thính qua dàn máy vô tuyến điện báo của Sư đoàn; bất ngờ vào đúng tần số liên lạc của đối phương.

    Nghe chúng báo cáo với nhau như sau: “Ngụy Dù đang ở Tây Đại Lộc…, TĐ1ND tại xã…, TĐ9ND đang di chuyển từ A …. tới C…., TĐ8ND đang ở làng…”.

    Báo cáo của địch rất chính xác về vị trí của các đơn vị Dù. Đại úy Phước, sĩ quan truyền tin SĐND, ngoài đặc tính siêng năng, cần mẫn, và cẩn thận, anh còn rất thích thú dò tìm tần số liên lạc của địch.

    Khi những báo cáo của địch ngưng, anh lại rà máy tìm ra địch ở tần số khác và tiếp tục nghe được các báo cáo của chúng về Nhảy Dù.

    Biết được như vậy, Tướng Lưỡng sửa đổi kế hoạch; cho lệnh Lữ đoàn 1 cứ để các tiểu đoàn chính ở chỗ mà địch đã biết, ông tung các đại đội Đa Năng 19, 21, 27 bất ngờ lấn chiếm các cao điểm; di chuyển về trái, tiến sâu về phải … Cứ hoán chuyển vị trí liên tục cho đến khi tới sát được Thường Đức …Và các báo cáo của địch sau nầy cho thấy có sự bỡ ngỡ, hoang mang! Nghe địch hỏi nhau là các đơn vị của Dù hay của các đơn vị khác tới tăng cường?

    Hết lệnh cho các Đại đội Đa Năng 19, 21. 27 lại đến lệnh cho Đa Năng 1, 2, 3 tung quân đột kích nhiều hướng. Thế là địch không còn báo cáo chính xác vì sự biến hóa linh động của các đơn vị Dù.

    Trận đánh đẫm máu, lớn nhất giữa ta và địch kể từ khi có Hiệp Định ngưng bắn 27/1/1973, khi Lữ đoàn I ND và các đơn vị tăng cường xuất trận vào thay thế Trung đoàn 2 của Sư đoàn 3 Bộ Binh.





    Ngay khi đoàn xe chở quân vừa tới làng Hà Nha 1 ở dưới chân núi cách Thường Đức 10 cây số về hướng Đông, Cộng quân đã pháo kích ‘‘Chào mừng” bằng nhiều loạt đạn khác nhau. Một số dân chúng chạy theo lính Địa Phương Quân, thấy Nhảy Dù đến liền ngừng lại. Một niềm tin mãnh liệt chợt bừng lên đối với những người dân khốn khổ sống trong vùng rừng núi hoang vu nầy. Đi đâu thì cũng “Đất cày lên sỏi đá!”. Họ chỉ có một hy vọng nhỏ nhoi là trở lại sinh sống trong những căn nhà tranh với những luống ngô khoai bên triền núi cao, mà họ đã đổ mồ hôi canh tác trong nhiều tháng qua!

    Trung Tá Nguyễn văn Đỉnh – K15 ĐL, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, một sĩ quan trẻ tuổi tài ba; anh từng lập nhiều chiến tích trong SĐND, trận Đại Bàng 800, trận Mậu Thân, trận Hạ Lào, hành quân tái chiếm Quảng trị,… nhất là trận Bình Long, An Lộc, anh đã chỉ huy Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đổ bộ trực thăng vào Đồi Gió, sau đó đã mở đường máu từ Tân Khai, Xa Trạch, lên Xa Cam bắt tay với Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù trong thị xã An Lộc.

    Trong Giai đoạn I, Trung Tá Đĩnh ra lệnh cho Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù dọc theo TL4 chiếm làng Hà Nha và bảo vệ cánh trái. Đại đội 83 của Đại úy Hiệu được lệnh đánh chiếm 2 làng Hà Nha 1, Hà Nha 2 để giải tỏa đồn Địa Phương Quân, cứ điểm cuối cùng của lực lượng phòng thủ trong quận Đại Lộc nầy. Khi vừa gần tới bờ làng thì gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch. Hiệu thấy đơn vị vừa mới xuống xe, binh sĩ chưa ăn uống. Bên kia sông địch lại đặt đại bác không giật bắn vào chiến sĩ Dù (một chiếc xe vừa chạy gần tới Đại đội 83 thì bị bắn cháy).

    Hiệu đề nghị rút lui để cho Pháo binh dập, nhưng Thiếu tá Vân sợ dân làng bị liên lụy, nên thúc Hiệu cứ tấn công vào. Chấp hành lệnh, Hiệu dàn cả hai trung đội xung phong thần tốc, địch hốt hoảng bỏ chạy. Ta chiếm được làng Hà Nha với một giá rất đắt: hai Trung đội trưởng tài giỏi nhất của Hiệu là Thiếu úy Tiến và Thiếu úy Thành bị hy sinh, Đại úy Hiệu hoàn thành nhiệm vụ nhưng lòng rất xót xa!

    TĐ1ND chiếm đỉnh cao Đông Lâm trên dãy Sơn Gà bảo vệ sườn phải; TĐ9ND đi trục chính đánh chiếm đám rừng tràm, hướng về mục tiêu: Đồi 1062.

    Giai đoạn II, Tiểu đoàn 8 làm nỗ lực chính, chia quân hai cánh, cánh phải do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy tiến về hướng điểm C thay thế TĐ1ND trên đỉnh Sơn Gà, mục tiêu là đồi 1062.

    Thiếu Tá Vân, XLTV Tiểu đoàn Trưởng TĐ8ND, cho lệnh Đại đội 81 của Đại úy Võ Thế Hùng đi đầu; bọc hậu có Đại đội 82 của Trung úy Hùng “ốm”. Tiểu đoàn trừ do Thiếu Tá Trần Toán – K18ĐL, chỉ huy. Anh cho Đại đội 83 của Đại úy Phạm văn Hiệu – K23ĐL, đi chính diện, và Đại úy Đồng văn Minh – K26TĐ, dẫn đại đội 84 đi sườn phải, tiến lên hướng 1062.

    Thành phần nỗ lực chính của Lữ đoàn I Nhảy Dù bắt đầu xung trận, khi các đơn vị vừa vượt tuyến xuất phát khoảng 1 cây số, thì chạm địch mạnh với quân số áp đảo, họ phải giành giật từng ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận Thường Đức.

    Đoạn đường dài hơn 5 cây số, bên trái là sông Vu Gia, bên phải là những triền núi thuộc dãy Sơn Gà. Chiến xa và pháo binh địch bố trí bên kia sông có lẽ để giữ BCH Hành Quân. Chủ lực quân của địch tập trung trên các đỉnh cao phía sau quận Thường Đức; Cộng quân đang chiếm giữ các đỉnh 1062, điểm cao 1235, 383, 293, 126, và đóng chốt dọc theo các sườn núi.

    Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và kỷ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Dù trước khi họ thực sự tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.

    Giai đoạn đầu, đội hình tấn công của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù như sau (xem sơ đồ đính kèm): Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù (TĐ9ND) giữ trục chính ở giữa; TĐ8ND đi cánh trái, dọc theo trục lộ sát bờ sông Vu Gia, tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa Phương Quân cũ (trên cao điểm 52), một mục tiêu của giai đoạn I; TĐ1ND đi cánh phải, tiến chiếm cao điểm Đông Lâm (mục tiêu A), rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Gà tiến hướng Tây tới 1062.

    TĐ9ND giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi che phủ. Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, trung úy Nhơn, ĐĐT/ĐĐ92, trung úy Thăng, ĐĐT/ĐĐ94, Đại úy Trọng – K25TĐ – ĐĐT/ĐĐ91, cùng Đại đội 93 của Đại úy Tửu muốn đến đồi 383 để tiến sát tới đỉnh 1062, họ còn phải hăng qua 1 cánh rừng tràm nữa, các chiến sĩ của TĐ9 không sao qua đến được bìa rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ cứ điểm B trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm nầy vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau, TĐ9 đã dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được! Đại úy Tửu bị thương chân nên Đại úy Tường từ ĐĐ90 ra thay thế.

    (còn tiếp)


    Comment


    • #3
      Chương 4. Trận Đèo Hải Vân

      Đỉnh Bạch Mã, Cộng quân chế ngự
      Đèo Lăng Cô, bị địch quấy rầy!
      Quân Nhảy Dù được lệnh giải vây,
      Chỉ một trận dẹp tan sào huyệt.




      Từ Thường Đức, TĐ11ND được điều về trấn đóng phía Tây thành phố Đà Nẵng, đơn vị đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ vòng đai để giữ an ninh cho dân chúng ăn Tết. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng ở một thôn xóm nghèo nàn, hiu quạnh.

      Trong một buổi tham dự thánh lễ do Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận tại vùng nầy, Ngài đã phân tích tình hình thế giới và diễn biến tại đất nước mình. Một vị linh mục người Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam, sau thời gian hết nhiệm vụ đã ở lại tình nguyện làm Linh Mục ở xứ đạo nhỏ bé nầy!

      Với một giọng đọc kinh âm hưởng người Bắc, với mái tóc bụi đời xỏa ngang vai, vị linh mục người Mỹ hàng ngày cùng chịu chung những đau khổ của những người dân Việt nghèo khổ trong thôn xóm.

      Thời gian nầy, Thành được chính thức làm Tiểu đoàn trưởng, thay thế Trung tá Lê văn Mễ về làm Trưởng Phòng 3 Sư đoàn Nhảy Dù.

      Từ ngày TĐ11ND để lại người anh cả Nguyễn Đình Bảo trấn thủ nghìn Thu tại đỉnh Charlie ở Tân Cảnh, Thành và Mễ đã cùng chia sẻ trọng trách dìu dắt anh em binh sĩ Tiểu đoàn trên khắp chiến trường đầy cam go và nguy hiểm. Hai người như bóng với hình, khi còn làm Đại đội trưởng ở TĐ9ND trong các trận Lam Sơn 60, Mậu Thân tại Huế và Quảng Trị.

      Rồi những ngày ở TĐ11ND, hai anh em đã cùng nhau đội pháo diệt tăng từ đồi Trần văn Lý ỏ Mỹ Chánh đến La Vang trong trận tái chiếm Quảng Trị. Hai người cùng là dân Huế trọ trẹ, sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, cùng cố gắng bảo vệ mảnh đất quê hương miền Trung, giành giựt từng tấc đất với dân chơi Hồ Gươm CSBV.

      Trong thời tiết lạnh giá của miền Trung, Thành lãnh trách nhiệm con chim đầu đàn, ở một thời kỳ chiến tranh tăng cường và hung hiểm!

      Để chuẩn bị đón xuân trong đơn vị, tiểu đoàn mua một con bò về phân chia cho các chiến sĩ; khi dẫn bò con đi thì bò mẹ đứng nhìn với giòng lệ rơi xuống đất ! Thành chợt bàng hoàng suy nghĩ về một triết lý cuộc đời. Loài vật còn biết xót xa nhỏ lệ, trái lại con người vỗ ngực cho mình là đạo đức cách mạng, đủ thứ chủ thuyết giáo điều, nhưng họ đã thản nhiên đưa quân vào Nam tạo ra cảnh chết chóc giết người một cách không thương xót.

      Con vật đâu biết nói để dấu kín một nghiệp dĩ của mình mà tạo hóa đã an bài! Ước gì tiếng nói của loài vật làm cho con người hiện thời hiểu thế nào là nghiệp cùng sinh, chắc thế giới lúc đó sẽ được sống trong cảnh thanh bình.

      Người chiến sĩ Nhảy Dù thường hay dễ vui, dễ quên đi hình bóng Tử Thần lúc nào cũng kề cận bên mình sẵn sàng để điểm danh tên họ! Đời Chiến Binh ít khi được hưởng Xuân đoàn tụ với thân quyến, họ chỉ vui Xuân nơi tiền tuyến để quên đi những gì đến với cuộc đời đầy vất vả, gian nan, và nguy hiểm!

      Trong buổi tiệc liên hoan, khi men rượu đế đã nhập vào, họ không còn biết trời trăng mây khói, ôm nhau nhảy lả lướt không có điệu nào đúng nhịp với điệu nào: hít đất, nhảy xổm….cũng cho vào điệu nhạc tự tạo của các chiến sĩ đang “Vô cơ…vô …vô … vô …” cùng với tiếng vỗ tay. Đó là điệu nhạc phổ thông của các chàng lính trẻ sáng tạo để nhảy múa vui chơi. Văng vẳng bên tai, những tiếng cười phụ họa của dân làng, đủ hạng người, hạng tuổi. Các phái đoàn dân chính địa phương cũng đến chia sẻ sự vui chung giữa dân và quân!

      – Úi chao, vui quá! Các sĩ quan đều trẻ tuổi chịu chơi hí! Nhảy Dù có khác, quan với lính hòa mình chung vui với nhau?

      Đó là những tiếng nói phát ra từ các giới đồng bào địa phương tới ủy lạo chiến sĩ ăn Tết, những thế nhảy xổm, nhảy trâu, nhảy nai….hòa cùng tiếng vỗ tay thật là vui vẻ, yêu đời!

      Chiến sĩ tiền tuyến luôn luôn hưởng Xuân trước, để canh phòng và ứng chiến bảo vệ an ninh cho đồng bào ăn Tết trong ba ngày Xuân.

      Tết Mậu Thân 1968, Cộng sản Bắc Việt không còn biết tôn trọng tục lệ cổ truyền của Tổ Tiên, họ đã tấn công khắp miền Nam. Thay thế tiếng pháo mừng Xuân bằng tiếng súng đại bác, địch đã đồng loạt mở các cuộc đánh phá ngày thiêng liêng của người dân với chiêu bài là giải phóng nhân dân miền Nam ruột thịt (ruột tan thịt nát!). Họ đã giết bao nhiêu thanh niên để thi hành kế diệt chủng của Trung cộng. Cũng vì trận Tổng tấn công nầy nên dân chúng miền Nam lúc nào cũng đề phòng cẩn mật trong những ngày Tết!

      Nói đến trận Mậu Thân, tôi nhớ lại những kỷ niệm không bao giờ quên của đời lính chiến. Hồi đó tôi và Thành cùng chung đại đội (ĐĐ92), Thành là Tr/úy Đại đội trưởng, tôi là Tr/úy Trung đội trưởng; hai anh em đều cùng bị thương tại ngã tư La Vang – Quảng Trị.

      Qua suốt một ngày quần thảo với hai trung đoàn quân chánh qui Bắc Việt từ bên kia sông Bến Hải vào, Đại đội 92 chỉ còn 36 người có thể tiếp tục chiến đấu, đa số đều bị thương nặng và một ít bị hy sinh!

      Toàn thể mọi người đều mệt đừ nên được lệnh án binh bất động. Cộng quân cũng ê càng và tìm đường rút lui; 36 người chúng tôi ngồi chung quanh gò mả thấy địch kéo nhau từng đoàn như kiến, mọi người đều gườm tay súng và được lệnh chỉ bắn xả láng khi nào bị chúng đi ngay mình, bằng không đi sát cạnh cùng kệ chúng vì mệt đừ quá rồi, có đánh chỉ ôm nhau chết chùm thôi!

      Đêm đó trời tối mù, Cộng quân chỉ đi sát phòng tuyến, mọi người đều nín hơi tay cầm lựu đạn, súng lên nòng; nhưng hai bên đều “Lịch sự” biết nhường nhau những phút nghỉ ngơi vì ai nấy đều quá kiệt lực! Gọi trực thăng Mỹ lên yểm trợ, nhưng họ chỉ bay lượn trên đầu chiến sĩ cho vui! Lượn qua lại vài vòng rồi bay về hậu cứ! Thật là một điều chưa từng xảy ra trên các chiến trận. Đồng Minh Hoa Kỳ đã có âm mưu trong trận Tổng tấn công Mậu Thân nầy? Họ muốn đo lường sức tự chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Hay họ muốn bỏ ngõ cho miền Nam lọt vào tay Cộng Sản ? Thân phận một nước nghèo nàn, phải chịu số phận tủi hờn đau đớn như thế đó!!!

      Dân chúng ở Quảng Trị đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị Nhảy Dù để phản công Cộng quân; đồng bào đã nấu cơm, tiếp đạn, phụ tải thương. Khi nghe tôi và Thành bị thương, mấy “O” gái trong khu vực đóng quân đã khóc thầm để ghi lại tình quân dân đậm đà như thế đó!

      Chỉ cần một vài giòng lệ của các em gái hậu phương mà các chàng chiến sĩ đã quên đời, quên mình để hưởng một vài rung động nho nhỏ là đủ lắm rồi!

      Thành bị thương chân nên phải chống gậy tiếp tục dẫn dắt 36 chiến sĩ Đại đội 92 cùng với tiểu đoàn vào giải tỏa Thành Nội Huế, dân chúng cứ theo nhìn một cách kỳ cục. Anh nói:

      – Về đi, kẻo bị lạc đạn!
      – Đi theo để coi mặt các ôn (ông)! Chao răng, ôn giống ôn già Việt cộng Thân Trọng Một (chỉ huy Trung đoàn VC ở Thành Nội) rứa hè?

      Vừa đau nhức vì vết thương. Thành tức cười khi nghe dân Huế tâm tình, anh đáp lại:

      – Lạ rứa, các ôn mụ hè, làm răng Nhảy Dù lại giống Việt cộng được. Về đi, đạn lạc, tội mấy ôn mụ lắm! Khi mô yên rồi nói chuyện sau, nhìn mặt tui sau!

      Cả hai bên cùng cười và họ đi về nhà với giọng Huế lí nhí:

      – Thiệt lạ bà con hè, sao giống cách chi lạ? Tụi tui về ôn hí, lấy lại Thành Nội cho tụi tui ôn hí!

      Trên đường đi đến BCH Lữ đoàn Dù để nhận lệnh hành quân trên đèo Hải Vân. Thành nhớ lại ngày đã qua, và những hình ảnh trận Mậu Thân như sống lại trong ký ức. Tết Mậu Thân 68 giữ chức Đại đội trưởng, Xuân 75 làm Tiểu đoàn trưởng, qua bảy năm dài chiến đấu thường xuyên chạm trán quân thù, bạn bè lần lượt rơi rụng. Bạn bè trong đơn vị Nhảy Dù là thứ bạn bè sớm còn chiều mất, sắt đá cũng nhỏ lệ, núi rừng cũng để tang! Thành ngồi trên xe Jeep bùi ngùi hát khẽ:

      “Một ngày, ngày đã qua,
      Ôi, một ngày… ngày chóng qua.
      Một ngày, một chiều… âm thầm đã…
      … đã trôi qua… không còn gì.

      Ôi Chinh chiến, đã mang di… bao bạn bè!
      Ngựa hồng đã mỏi gót,
      chết trên đồi Quê Hương
      Còn có ai? Không còn gì!!”

      Hình ảnh Lê văn Huệ, Nguyễn Đình Bảo, Thừa, Hổ, Lộc, Đại, Phước “Đào hoa”, Hùng “Móm”, Phương “Lùn”, Thuận văn Chàng,…như phảng phất đâu đây !

      “Lúc bấy giờ, trên cánh Đồng Chiêm Bắc Việt,
      Bên con lạch nhỏ Đồng Nai,
      Trong đám rừng sâu Trung Việt;
      Phút chốc liệt vị đã hóa ra người thiên cổ!
      Sự nghiệp đang công theo đuổi,
      Nav cũng dành gián đoạn giữa đường!
      Chí tang bồng hằng mong thực hiện,
      Thôi cũng đành ôm hận nghìn thu!
      … Chiến Sĩ Trận Vong!”

      Đèo Hải Vân là một điểm chiến lược quan trọng, nối giữa Đà Nẵng và Huế. Nếu để địch chế ngự Hải Vân. coi như con rắn bị gãy xương sống, khó mà bò trườn tấn công đối thủ, dù để tự vệ!

      Lúc đó, tại điểm cao nhất của đèo, Cộng quân đang đặt những ổ súng phòng không và đài quan sát để chế ngự đường bay từ Đà Nẵng ra Huế và làm chướng ngại tại đèo Lăng Cô.

      Thành cùng Thiếu tá TĐP Giới – K19TĐ, và sĩ quan Tiền sát Pháo binh lập kế hoạch hỏa lực để yểm trợ cho cuộc đột kích đêm mà mục tiêu chính là đỉnh cao nhất của đèo Hải Vân. Mọi người nhìn bản đồ, xác định địa hình địa vật, ước đoán tình hình địch và bạn. Với kinh nghiệm nhiều năm trên chiến trường, việc lập kế hoạch để đè bẹp địch không có gì khó khăn.

      Nhất là đối với Pháo binh Dù, tinh thần yểm trợ hết mình cùng với kinh nghiệm bắn chính xác, ào ạt, mà các pháo thủ đã nhiều lần giúp cho chiến sĩ Dù vững tâm mỗi khi xung trận. Với lối tác xạ nhanh nhẹn, chính xác, và kỹ thuật cao, Pháo binh Dù không thua gì các Pháo binh Đồng Minh. Các vị chỉ huy đơn vị Dù coi Pháo binh là một vũ khí yểm trợ quan trọng và cần thiết. Pháo binh giúp các đơn vị đỡ thiệt hại tổn thất về sinh mạng, là yếu tố thiết yếu để đánh phủ đầu và làm tiêu hao lực lượng địch. Trong khi binh sĩ chuẩn bị cuộc hành quân đêm thì Thành và Giới lo điều chỉnh những hỏa tập tiên liệu. Súng cối 81 ly và 60 ly của Tiểu đoàn cũng được điều động tới vị trí tác xạ, sẵn sàng các yếu tố cho cuộc đột kích đêm.

      Thiếu tá Giới, là một sĩ quan trẻ tuổi, gan dạ, và đánh giặc liên tục từ ngày ra trường. Anh đã bị VC thưởng cho vài mảnh B40 trên đầu nên mỗi lần thay đổi thời tiết thì đầu của Giới đau nhức vô cùng, mặt đỏ gay, và anh lính truyền tin bên cạnh phải thủ sẵn nón sắt, nếu không sẽ bị u đầu! Khi nổi cơn lên, Việt cộng mà gặp Giới coi như đời tàn, anh sẽ quậy cho chúng tơi bời hoa lá để trả thù vết thương hằn sâu trên đầu của mình.

      Đúng bảy giờ tối, các đại đội đã sẵn sàng tại tuyến xuất phát với kế hoạch chuẩn bị tỉ mỉ. Tinh thần các chiến sĩ không có gì nao núng; đối với họ, việc tấn công địch là như ăn cơm bữa. Xuân, họ đã hưởng rồi. Rượu, nhạc, văn nghệ đã đầy đủ. Ngoài ra còn có em gái hậu phương tươi cười duyên dáng cùng chung vui trong ba ngày Xuân.

      Giờ đây các chiến sĩ chỉ còn biết giao duyên súng đạn với mấy anh Cộng quân không biết an bình mà chỉ biết quấy rối thôi! Giới nói với chiến sĩ trước khi xuất trận là quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trước khi mặt trời lên.

      Thành nhìn những chiến sĩ thân thương, trên vai đeo nặng những quân dụng mà phải trèo đèo vượt suối ban đêm để đi đánh mục tiêu gay go và nguy hiểm, anh xúc động và thầm kính phục những chiến sĩ Dù lúc nào cũng cố gắng thi hành bổn phận thật hoàn hảo mà không bao giờ đòi hỏi một lợi ích riêng tư. Họ chính là những người cao cả đáng khâm phục, một lòng bảo vệ tổ quốc tạo sự an bình cho dân chúng ở hậu phương.

      Màn đêm từ từ hạ xuống, mây trên đỉnh đèo như vờn quanh, như vuốt ve thân hình các chiến sĩ. Trời càng khuya càng âm u, đoàn quân đi theo hàng dọc. Đại đội 114 của Đại úy “Khủng” Long đi đầu. Khoảng hai giờ khuya thì đến tiền đồn của Biệt Động Quân Biên Phòng. Pháo binh được lệnh bắn khuấy rối vào mục tiêu suốt đêm để địch lo xuống hầm tránh pháo và bị mất ngủ, tiếng pháo gầm thét như tiếng trống thúc quân và cũng nhằm mục đích dẫn đường cho đoàn quân âm thầm đến mục tiêu một cách chính xác.

      Tiếng máy truyền tin êm đềm theo dõi những bước chân của cánh quân đi đột kích. Những nơi nghi ngờ địch trú ẩn đều bị Pháo binh chiếu cố. Những tiếng nổ như trời gầm, như sóng vỗ đều đặn từ khi các chiến sĩ bắt đầu xuất phát.

      Đêm nay, trên đỉnh đồi lạnh buốt, màn sương dày đặc, gợi lại hình ảnh thời còn là Sinh Viên Sĩ Quan ở Đà Lạt. Trong màn đêm lạnh giá năm nào, Thành là một sinh viên khờ khạo, ôm súng Garant gác trên đồi Bắc lạnh cắt da!

      Hôm nay, trên đỉnh đèo Hải Vân, với tuổi đời chưa chín muồi mà đã phải mang một trọng trách đối với mạng sống của hàng trăm chiến sĩ thân thương thuộc cấp. Nhiệm vụ đơn vị do chính hai vị Tướng (Trưởng và Lưỡng) theo dõi và bắt buộc phải hoàn thành trước lúc bình minh.

      Tình hình ở Huế lúc bấy giờ rất bi đát! Dân chúng lần lũ di tản vào Đà Nẵng càng ngày càng đông. Ba má và bà con thân thuộc của Thành và một số binh sĩ trong TĐ11ND còn đang kẹt ở Huế. Họ cùng các đồng đội cần phải giải tỏa áp lực tại đèo Hải Vân, giữ vững an ninh điểm huyết mạch cho Huế – Đà Nẵng; như vậy tình hình may ra được cứu vãn.

      Bước tiến của cánh quân Thiếu tá Giới vẫn được theo dõi đều đặn trên máy truyền tin, tiếng Pháo binh tiếp tục nổ đều lên mục tiêu. Cộng quân mà đối đầu với lực lượng Nhảy Dù chỉ có nếm mùi Pháo binh Dù cũng đã ngất ngư con tàu đi! Cánh quân đột kích vẫn tiến quân âm thầm không có gì trở ngại. Có lẽ địch không không thể ngờ, trong một địa thế gay go hiểm trở mà các chiến sĩ Dù dám đi trong đêm tối đến “Gõ cửa” họ?

      Thành đang ngồi tại phòng hành quân, trong một pháo đài cổ của lính Pháp để lại, anh túc trực theo dõi những bước chân của 2 đại đội đang lầm lũi trong đêm tối. Khoảng bốn giờ khuya, TĐP Giới báo cánh quân đã đến chân mục tiêu. Pháo binh ngưng tác xạ, địch mệt đừ rời giao thông hào vào chỗ ngả lưng ngủ say sưa không biết trời đất gì hết.

      Giới truyền lệnh cho hai đại đội dàn đội hình chuẩn bị bò lên mục tiêu. Khi cách mục tiêu khoảng 20 thước, mọi người đều rút chốt lựu đạn. Bài học tấn công đêm, đột kích đêm, mọi người đều đã có kinh nghiệm và được nhắc lại chiều hôm qua. Sau khi có lệnh, mọi người tiếp tục bò lên tới sát doanh trại địch rồi dùng lựu đạn ném vào các lô-cốt, các kho chứa, và các khe đá có đặt bộ chỉ huy. Địch bị tấn công bất ngờ, vì còn mê ngủ do suốt đêm thao thức nên lạng quạng không trở tay kịp. Lớp thì bị bắt sống, lớp chạy trốn, và lớp thì bị tử thương.

      Địch chỉ chống trả yếu ớt, quân ta làm chủ tình hình ngay từ lúc đầu. Một vài binh sĩ xung phong và rượt địch hăng quá nên rớt lăn kềnh xuống bên kia sườn núi lọt nhằm đám lính Việt Cộng đang băng chạy, hai bên vật nhau rốt cuộc vì ít người nên bị họ bắt. Có một binh sĩ của Lại Ngọc Long vì bị thương chân nên địch không thể đem theo và anh bị chúng dùng lưỡi lê đâm mù hai mắt bỏ lại sườn đồi! Chiến sĩ Dù nầy đã phải lắng tai nghe và bò về hướng tiếng sóng biển, mãi tới ba ngày sau mới gặp được quân bạn đang hành quân cứu về!

      Hai đại đội của Giới báo cáo đã chiếm mục tiêu là căn cứ Hậu cần của Trung đoàn Bạch Mã và tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm gồm kho chứa quân trang quân dụng, nhiều vũ khí trong đó đáng kể nhất là phòng không 37 ly mà địch đã dùng chế ngự, hăm dọa an ninh đèo Lăng Cô.

      Được tin chiến thắng, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đã cùng với Tướng tư lệnh SĐND đến nơi khen thưởng, và đèo Hải Vân được giải tỏa đem lại an ninh đoạn đường Huế – Đà Nẵng.

      Thành gọi trực thăng tải thương và mang chiến lợi phẩm về BTL/SĐND. Tướng Lưỡng không ngờ kết quả mau chóng và thu hoạch được nhiều như vậy, ông đã hết lời khen ngợi!

      Các khẩu phòng không thật tối tân và to lớn, cùng tài liệu bắt được trên xác Cộng quân cho biết chúng thuộc Trung Đoàn Bạch Mã.

      Bạch Mã là địa danh thắng cảnh nổi tiếng của miền Trung từ thời Pháp thuộc. Khí hậu và phong cảnh đẹp không khác gì Đà Lạt. Trung đoàn Bạch Mã có nhiệm vụ trấn giữ vùng Bạch Mã, chiếm đóng đèo Hải Vân, cắt đứt liên lạc giữa Huế và Đà Nẵng. Kế hoạch nầy đã bị Giới tịch thu được trong hầm chỉ huy của Cộng quân cùng với sơ đồ phòng thủ và bố quân. Dựa vào đó, Pháo binh ta lập tức bắn vào các điểm đóng quân của địch.

      Kế hoạch chiếm lĩnh đèo Hải Vân của Trung đoàn Bạch Mã đã bị các chiến sĩ Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù bẻ gãy. Cộng quân đã trả thù bằng cách hành hạ và chọc thủng mắt chiến sĩ Nhảy Dù của ĐĐ114, hành động nầy thật vô cùng dã man. Khác với chúng, các chiến sĩ ta luôn luôn đối xử với tù binh địch tử tế và nhân đạo; cho ăn uống và chăm sóc vết thương đầy đủ, tôn trọng theo luật tù binh Quốc Tế.

      Anh chiến sĩ Nhảy Dù bị thương và bị Cộng quân hành hạ dã man đó, đã nghe tiếng sóng biển lần mò trở ra. Thật là một gương chịu đựng phi thường!

      Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã làm chủ tình hình đèo Hải Vân, giúp cho người dân tỵ nạn từ Huế vào Đà Nẵng an lành. Một cảnh tượng đau thương và đau lòng khi thấy những bà mẹ phải sinh con bên lề đường, rồi đứng dậy tiếp tục bồng con sơ sinh nhập đoàn di tản. Họ thà chết giữa đường còn hơn sống với loài quỷ dữ Cộng sản!

      Huế từ đây sẽ lọt vào tay Cộng quân. Dân chúng đã khiếp sợ sự tàn sát tập thể của Cộng sản Bắc Việt trong Tết Mậu Thân 1968. Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến cùng các đơn vị đồn trú địa phương…đã đổ xương máu gìn giữ, xây dựng những nơi bị chiến tranh làm đổ nát (Công Binh đã lập lại tỉnh lỵ Quảng Trị mới tại Hải Lăng), bảo vệ miền Trung cho dân chúng được sống an bình. Giờ đây, đã phải đành rút bỏ vì vận nước đổi thay! Ai hiểu được sự đớn đau của các chiến sĩ Nhảy Dù, TQLC, BB, BĐQ, ĐPQ… ngày đó !

      Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã bàn giao lại đèo Hải Vân cho Thủy Quân Lục Chiến và rút về Sàigòn để lãnh nhiệm vụ mới. Sau khi bàn giao cho TQLC, Đà Nẵng cũng trải qua bao nhiêu trôi nổi và hy sinh chết chóc điêu linh thời kỳ đó!

      Huế và Đà Nẵng lần lượt rơi vào tay Cộng sản, cả niềm đau đớn Dân Tộc đang bao trùm đồng bào Miền Nam. Thành và các chiến sĩ Nhảy Dù có bố mẹ, bà con tại miền Trung thân yêu cũng đành ôm trọn nỗi niềm chia cắt không biết bao giờ sum họp!

      Miền Trung ơi, xin chào thân thương. Xin ngoảnh mặt lại thắp nén hương lòng cho các chiến sĩ đã nằm xuống trên mảnh đất nghèo nàn nầy!

      Sư đoàn Nhảy Dù đã để lại một sự thương mến cho dân miền Trung, nhất là dân Quảng Trị và Huế.

      Họ đã từng nói:
      – Xin lấy lại Quảng Trị cho chúng tôi! Hoan hô Nhảy Dù.

      Những lời nầy của dân chúng đứng hai bên Quốc Lộ 1 trong Mùa Hè Đỏ lửa 1972 vẫn còn văng vẳng bên tai các chiến sĩ Dù!




      Chương 5. Màn cuối Đời Chiến Binh
      (Tháng 4 năm 1975)

      Trận Phan Rang

      Màn cuối Đời Chiến Binh
      Cảnh đồ thán sanh linh
      Quân dân gườm tay súng
      Thề giữ nước hết mình!





      Bắt đầu tháng 3/75 trở đi, chiến cuộc ở Miền Nam VN trở nên rất khốc liệt! Cộng quân dốc toàn lực lượng để chiếm đoạt Miền Nam. Các tỉnh phía Bắc và phía Tây Cao Nguyên đã lần lượt mất vào tay CSBV.

      Thực sự cuộc chiến Việt Nam từ sau hiệp định Genève 1954 không phải là cuộc chiến giữa Nam và Bắc thuần túy của dân tộc VN. Đây chính là bãi chiến trường giữa hai thế lực Tư Bản và Cộng Sản. Quân Lực VNCH đã được Mỹ trang bị và huấn luyện có thể nói là một quân đội có tầm vóc quốc tế. Rồi chính Mỹ đã “Xóa sổ” QLVNCH trong năm 1975! Chứ không phải CSBV! Đây là thân phận của một dân tộc nhược tiểu nghèo nàn, đành phải cam chịu sự tủi hờn, buông súng một cách nhục nhã!!! Một trò chơi của thế giới Tư Bản!

      Sự thành công, sự thất bại của cuộc chiến đấu giữa hai miền Nam, Bắc. Những người VN – phe theo Cộng Sản, phe theo Tư Bản – chắc đã hiểu cuộc chiến hơn thua như thế nào? Và thế giới chắc cũng đã hiểu lý do tại sao? Phe thắng và phe bại cho đến nay đều ngỡ ngàng nỗi lòng Dân Tộc! Tuy nhiên đến nay một số người trong phe thắng cũng như phe bại vẫn còn trong tăm tối! Chưa chịu hiểu triết lý sinh tồn của loài người trong vũ trụ.

      Giờ nầy sau hàng chục năm từ mốc 1975, một số người vẫn còn chưa nhìn lại con đường dân tộc, vẫn còn sân si, u mê, và chia rẽ (chia rẽ dân tộc là chiến lược lâu nay của Trung Cộng để cai trị VN một cách tinh vi). Dân tộc VN chưa đi đến một tương lai sáng tỏ do vì không đi theo đạo lý của Tổ Tiên cũng như các tôn giáo khác để áp dụng cho đời. Nước Mỹ tiến đến siêu cường vì họ đã dựa trên các nguyên tắc giáo lý xây dựng và quản trị trong Kinh Thánh. Chính Tổng thống Hoa Kỳ khi nhậm chức đã đặt tay thề trước Kinh Thánh.

      Dựa vào lý lẽ trên, cuộc chiến cuối cùng của tháng Tư năm 75 đến hồi kết thúc, với vô số cán binh Cộng sản sinh Bắc tử Nam khi xâm chiếm miền Nam, đã nói lên một ý nghĩa bất chấp mọi thủ đoạn, mọi sinh mạng để đoạt nên thế lực và thỏa mãn tham vọng của đám cầm quyền Hà Nội!!! Chính bọn Trung ương đảng Hà Nội đã bắt chước chính sách chia rẽ nên tung người và tiền bạc ra hải ngoại để các phe phái cắn xé lẫn nhau, còn Bộ Chính trị đảng Cộng sản ở trong nước thì ngồi cười một cách hả hê! Ngư ông đắc lợi!

      Trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng đó, Thiếu tá Nguyễn văn Thành, Tiểu đoàn trưởng TĐ11ND, nhận lệnh hành quân vùng Phan Rang. Thành là sĩ quan tài giỏi đã lập nhiều chiến công khi còn ở TĐ9ND. Anh có tài điều binh và biết tận dụng phi pháo để bớt hao tổn binh sĩ thuộc cấp. Trận tái chiếm Quảng Trị năm 1972, anh đã chỉ huy TĐ11ND dùng phi pháo, M72, và MX202… tiêu diệt hàng chục chiến xa tại đồi Trần văn Lý.

      Ở đèo Hải Vân, TĐ11ND do anh làm Tiểu đoàn trưởng đã dũng cảm đánh tan BCH Trung đoàn Bạch Mã của địch và chiếm được những điểm chiến thuật chế ngự toàn khu vực Đèo nầy, cùng bẻ gãy kế hoạch cắt đứt Hải Vân nhằm nhốt các đơn vị Tổng Trừ Bị ở vùng tuyến đầu Thừa Thiên, Quảng Trị.

      Huế đã mất trong tay CSBV vào 24/3/75.

      Sau khi bàn giao cho TQLC đèo Hải Vân, TĐ11ND trở về Sàigòn để nhận nhiệm vụ mới. Đà Nẵng cùng bị Cộng quân thôn tính. Miền Nam hồi đó như con mồi trước miệng con trăn khổng lồ là Trung cộng và Liên sô, bị nuốt dần dần vào bao tử chúng. Chính đảng Cộng sản VN đã trói buộc quê hương VN để đút vào miệng con trăn Trung cộng, Liên sô nầy!!!

      Dân chúng miền Trung cơ hàn vẫn ngàn đời khổ lụy. Họ giờ đây đang chịu một sự tang tóc, chia ly, và hãi hùng chết chóc!

      Thật là xót xa khi sự hy sinh của các chiến sĩ lúc bấy giờ trở thành vô nghĩa. Vì họ chiến đấu dưới một cuộc trao đổi có tính toán về kinh tế giữa Mỹ và quan thầy Trung cộng mà đã mang nhiều lợi lộc cho họ. Duy chỉ dân lộc Việt Nam phải gánh chịu đau thương, khốn khổ, tù đày, lưu vong…!

      Ngày 20/3/1975, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù được lệnh cấp tốc rời khỏi vùng Bắc đèo Hải Vân (lúc đó BCH/LĐ2ND đóng lại đèo Phước Tường), bàn giao vùng nầy cho Thủy quân Lục chiến. Toàn bộ Lữ đoàn phải có mặt tại phi trường Đà Nẵng trước 5 giờ sáng ngày 21/3/1975 để được không vận vô Sàigòn.

      Về hậu cứ Lữ đoàn tại căn cứ Nguyễn Huệ ở Biên Hòa, và được lệnh Tổng Tham Mưu ứng trực 100% quân số (thời gian nầy vừa nghỉ dưỡng quân, vừa tái trang bị, và vừa để ứng chiến từ 21/3/1975 đến 7/4/1975).

      Ngày 7/4/1975, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù gồm: TĐ3ND, TĐ7ND, và TĐ11ND cùng Đại đội 2 Trinh sát,…đang ứng trực thì được lệnh khẩn cấp phải lên đường ra Phan Rang nội trong ngày bằng phi cơ CI30 và C119.

      Là quê hương của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, Phan Rang lúc đó được xem như tuyến đầu phía Bắc của miền Nam. T/T Thiệu, trăm mối nghìn lo, lòng phiền não, vấn vương đủ điều! Phan Rang là quê cha đất tổ của ông, và cũng là tuyến đầu lúc nầy, không thể bỏ rơi; ông cũng không muốn để mình bị bơ vơ, bất ổn tại Sàigòn khi vắng bóng chiến sĩ Dù. Lực lượng Dù là điểm tựa vững chắc. Trong giai đoạn chiến tranh, sự phòng vệ Tổng Thống Phủ và Thủ Đô Sàigòn, chẳng bao giờ thiếu bóng những người lính Nhảy Dù. Nơi nào Nhảy Dù đến là đem lại sinh khí và niềm tin tới đó. Vì Phan Rang là nơi chôn nhao cắt rún của Tổng Thống, nên ông đành phải bóp bụng đưa ra một Lữ đoàn Dù đến để trấn an dân chúng.

      Từ trên phi cơ nhìn xuống thấy làn nước mênh mông biển cả chìm đắm trong đêm tối với những con tàu đang chạy loạn từ miền Trung vào; người chiến sĩ Nhảy Dù lúc ấy lòng quặn đau trăm chiều, thương cho người dân thống khổ, lo cho gia đình không biết có yên ổn không? Nhất là những chiến sĩ có gia đình ở vùng di tản, không biết giờ nầy thân nhân họ có rút được vào Nam chưa? Trăm mối nghìn lo, nhưng họ cũng đành dứt bỏ một bên để thi hành nhiệm vụ cao quí là bảo vệ dân và giữ gìn từng tấc đất cho quê hương, cho tự do. Một điều hãnh diện của toàn thể lực lượng Nhảy Dù trong những giây phút sắp tàn của cuộc chiến. Họ vẫn không từ bỏ đơn vị, đã chiến đấu tới phút cuối cùng. Còn sống còn chiến đấu để bảo vệ từng giọt máu, từng hơi thở của nhân dân miền Nam!

      Khoảng 2 giờ khuya ngày 8/4/75 thì hoàn tất việc chuyển vận. Tới Phan Rang chiều ngày 7/4/75 trên chiếc phi cơ đầu tiên, Đại Tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn Trưởng LĐ2ND, đến ngay Bộ Tư lệnh Tiền Phương Quân đoàn 3 (do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư Lệnh) để gặp Tướng Lưỡng, Tư Lệnh SĐND; và nhận được lệnh như sau:

      a) Thay thế LĐ3ND để bảo vệ phi trường Phan Rang; sẵn sàng yểm trợ cho các đơn vị Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đang chạm địch mạnh trong rừng tại khu vực Khánh Dương và Đèo Cả (thuộc tỉnh Khánh Hòa) gồm TĐ2ND và TĐ6ND; bốc họ bằng trực thăng đưa đến phi trường Phan Rang, rồi không tải về Sàigòn dưỡng quân và tái bổ sung.

      b) Đặt thuộc quyền sử dụng của Quân đoàn 3 để tăng cường lực lượng và tìm kiếm các quân nhân LĐ3ND thất lạc trong rừng Khánh Dương.

      c) TĐ5ND vẫn ở lại tăng cường cho Lữ đoàn 2 phòng thủ phi trường Phan Rang trong 5 ngày rồi cùng được không tải về hậu cứ ở Biên Hòa.

      d) Trung Tá Trần Đăng Khôi – K16ĐL, Lữ đoàn Phó LĐ3ND, phải ở lại để tiếp tục tìm kiếm và đón các binh sĩ còn lưu lạc trong rừng để đưa họ về Hậu Cứ.

      Theo thuyết trình của các sĩ quan tham mưu Phòng 2 và Phòng 3 Quân đoàn III thì tình hình đang nguy ngập tại tỉnh lỵ Phan Rang và các vùng phụ cận. Địch đang ở tại xã Ba Tháp và Ba Râu ngay trên Quốc lộ 1, cách ranh tỉnh có 3 cây số.

      Dân chúng ào ạt tản cư về hướng tỉnh Phan Thiết, phố xá và chợ búa vắng tanh. Các công chức tỉnh đa số đã di tản; ngay cả Đại Tá Tỉnh Trưởng cũng rút về Phan Thiết. Sau đó ông trở lại để cùng các công chức điều hành công việc chánh quyền tỉnh; đồng thời tập họp thu gọn lại các lực lượng Nghĩa Quân, Địa Phương Quân.

      Các lực lượng địa phương ở giáo xứ Hồ Diêm gần bờ biển (phía Đông xã Ba Tháp) vẫn giữ trị an và bảo vệ được xứ đạo dù áp lực địch rất nặng.

      Đại Tá Lương là một sĩ quan Nhảy Dù kỳ cựu, anh tốt nghiệp khóa 4 Thủ Đức (cùng khóa với Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Lê Quang Lưỡng). Anh làm Trung đội trưởng, Đại đội trưởng ở Tiểu đoàn 3; rồi Tiểu đoàn phó, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù. Anh đã lập nhiều chiến công hiển hách và đã tham dự trên 8 saut nhảy dù trận.

      Ở Hạ Lào mặc dù làm Tham Mưu Phó kiêm Trưởng Phòng Hành quân SĐND, nhưng anh thường xuyên bay thị sát mặt trận, nơi mà các phi công đều ớn khi phải bay vào vùng; vì phòng không địch đầy dẫy khắp nơi, có lần máy bay anh bị bắn phải đáp khẩn cấp xuống đồi 31 và phải ở lại với BCH Lữ đoàn 3 Nhảy Dù của Đại tá Thọ mấy ngày, cùng với Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó SĐND.

      Chính anh đã bốc được Trung tá Phạm Hy Mai, LĐP/LĐ3ND, và Trung tá Phái, TĐT/TĐ3ND, khi đồi 31 bị thất thủ; sau khi đồi 30 bỏ ngỏ, anh đã vào bốc trung tá Thạch và nhóm thất lạc 7 người của Hạ sĩ Hứa thuộc TĐ2ND tại 5 cây số phía Tây Nam căn cứ hỏa lực 30, trong trường hợp thật gây cấn và nguy hiểm như sau:

      Năm 1971, khi đang bay thị sát cuộc di tản của TĐ2ND, hiệu thính viên của Trung Tá Lương (lúc đó còn là Trung Tá) bắt được tín hiệu cầu cứu:

      – Em là Hạ Sĩ Hứa thuộc TĐ2ND, tụi em còn 6 người với em là 7; tụi em đang ở lưng chừng đồi, em còn súng, hai quả khói, và gương soi; xin đơn vị nào của SĐND nhận được lời cầu cứu nầy đến ngay cứu chúng em!!!

      Tiếng kêu cứ lập đi lập lại nhiều lần!

      Trung tá Nguyễn Thu Lương suy nghĩ mình làm Tham Mưu Phó Hành Quân SĐND, nếu liều mạng đáp xuống rủi ro trúng vào gian kế địch thì có đáng không? Nhưng anh đã từng nhiều năm chỉ huy đơn vị tác chiến, hằng ngày sát cánh với binh sĩ nên rất thương thuộc cấp. Do đó anh quyết định bàn với Trung tá Peachy, chỉ huy phi cơ C&C, bay vào vùng để tìm cách bốc những người nầy về. Khi bay gần căn cứ 30, anh nghe được tiếng của Hứa; Trung tá Lương nói viên cố vấn phi hành đoàn Mỹ bảo phi công thử bay vòng trở lại coi có phải cầu cứu thật hay địch bắt buộc tù binh dụ máy bay xuống?

      Trung tá Lương nói với Hứa:

      – Anh nhìn về đồi 30 coi mặt trời hiện đang ở bên trái hay bên phải?
      – Dạ bên trái.

      Sau khi định hướng, Trung tá Lương tự nói thầm: “Như vậy họ đang ở hướng Tây Nam của đồi 30”.

      – Các anh khoan thả khói, chưa nhận vị trí mà hết khói thì không xuống được.
      – Em còn một trái khói màu xanh và một trái màu tím!

      – Tôi sẽ bay thấp và thẳng khi nào thấy máy bay đúng hướng thì chiếu gương ngay.

      Trực thăng bay qua lại mấy lần, và Hứa bên dưới điều chỉnh:
      – Không! Bên trái em.

      Trở lại vòng thứ nhì thì nghe Hứa nói:
      – Không! Bên phải em.

      Lần thứ 3 thì nghe tiếng la mừng rỡ của Hứa:
      – Dạ đúng! Đúng! Đang bay thẳng vào mặt tụi em!

      Hứa chiếu gương và nói:
      – Em đang ở dưới bụng máy bay!

      Trung Tá Lương nhìn dưới sườn đồi thấy 5, 6 người mình trần tay cầm áo đang phất qua phất lại, anh bảo:
      – Thả trái khói xanh!

      Hứa làm theo, phi công trực thăng thấy khói, bay là là sát ngọn cây để nhìn kỹ coi có gì khả nghi không? Rồi Trung Tá Lương bảo sẵn sàng chờ trực thăng tới gần thì thả khói tím và phải phóng nhanh lên khi máy bay đáp xuống. Sau khi bốc lên, anh lấy bi-đông nước cho họ uống giải khát; Trung tá Peachy vừa đưa bao thuốc thơm vừa đưa ngón tay cái lên ngụ ý khen ngợi toán binh sĩ Dù biết cách thoát hiểm mưu sinh! Còn 7 chiến sĩ TĐ2ND thì mừng rỡ và gật đầu cám ơn mọi người trên máy bay đã không sợ nguy hiểm dám liều lĩnh đáp xuống vùng sôi động để cứu 7 người!

      (còn tiếp)

      Comment


      • #4
        Bản đồ Charlie:
        Kontum - Tam Biên

        Comment



        Hội Quán Phi Dũng ©
        Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




        website hit counter

        Working...
        X