CHUYỆN "TÁT"

Collapse
X

CHUYỆN "TÁT"

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Tinh Hoai Huong
    Senior Member

    • May 2009
    • 947

    CHUYỆN "TÁT"

    CHUYỆN "TÁT"

    Tình Hoài Hương
    *

    Những ngọn đồi cao thấp nhấp nhô đầy sương mù tỏa ra phủ kín thành phố, thỉnh thoảng mây trắng bay nhanh, lộ ra khoảng trời đêm và vầng trăng khuyết khi mờ khi tỏ. Trăng núp trong sương như con thuyền theo sóng nước bồng bềnh trôi đi trôi về. Qua các khung cửa kính ánh đèn muôn màu lung linh mờ mờ trong sương, theo Tánh thành phố Đà Lạt càng thi vị lãng mạn, huyền ảo, thật nên thơ và đẹp nhứt lúc về khuya trời đẫm sương mù và quạnh vắng.

    Năm 1951, anh chào đời tại một phố nhỏ ở cực Nam Trung phần tại Phan Rang. Phan Rang có vị trí 11o 18’ 14” vĩ độ Bắc thuộc tỉnh Ninh Thuận. Tỉnh Ninh Thuận là một lãnh thổ có ba mặt núi phía Bắc. Phía Nam có hai dãy núi cao lan ra gần biển, phía Tây giáp miệt núi của tỉnh Lâm Đồng. Phan Rang bốn mùa hầu như khô hạn, nóng hừng hực bốc hơi mạnh quanh năm, khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng gắt, oi nồng nóng nhứt và nhiều gió cát luôn ùa về.
    Người dân nơi đây cần cù siêng năng, chăm chỉ làm việc. Họ tự hào được thơm lây, vì tại miền đất khô cằn nầy đã sản sinh ra một vị nguyên thủ của nền Đệ Nhị Cộng Hòa: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

    Đến năm tuổi, Tánh cắp sách đi học tại trường Mẫu Tâm, một trường ở Phan Rang do các soeur Công giáo phụ trách. Sở dĩ anh đi học trường này là do sự giới thiệu của bác (anh của ba Tánh), bác lấy vợ người Công giáo. Trong thời gian ba năm học tại nơi đây, Tánh thuộc làu làu nhiều kinh, bây giờ lớn lên, anh chỉ nhớ lõm bõm Kinh Lạy Cha, Kính Kính Mừng.
    Từ lớp Bốn đến lớp Năm, cha mẹ cho Tánh chuyển một trường khác học tiếp bậc tiểu học. Thi vô lớp Đệ Thất trường công lập bị rớt, Tánh phải học lại lớp Nhứt. Năm sau thi lại, Tánh trúng tuyển lớp Đệ Thất trường công lập Lê Quý Đôn.
    Ba của Tánh trước đó là nhân viên của Ty Công Chánh tỉnh Ninh Thuận, (gia đình đạm bạc, nghèo, ba chỉ giàu con: tám người con trai, gái, mà anh là con trai trưởng). Đồng thời ba là một cầu thủ bóng tròn giỏi, ông đá ở hàng hậu vệ bảo vệ khung thành.

    Năm 1959, có một vị Trưởng ty Cảnh Sát Quốc Gia ở Đà Lạt xuống Phan Rang đi xem trận đấu bóng tròn giữa Ty Công Chánh và một đội khác. Khi mãn trận đấu, vị Trưởng ty rất thích lối đá của ba anh, nên ông xin Trưởng ty Công chánh cho ông được gia nhập hàng ngũ Cảnh sát Quốc-gia (CSQG) Đà Lạt.

    Trưởng ty Công Chánh và ba anh vui vẻ ưng thuận. Sau đó ít lâu toàn gia đình khăn gói lên Đà Lạt, ở tại cư xá cảnh sát đường Yersin (sau lưng nhà anh là sân banh của Ty Cảnh Sát. Ty và cư xá gần bên hông nhà thờ Con Gà). Từ nay anh vui vẻ hân hoan đi học tại trường Trung học Công lập Trần Hưng Đạo.

    Cũng như bao học sinh Đà Lạt thời đó, mỗi buổi sáng anh dậy sớm chuẩn bị làm vệ sinh, ăn chút điểm tâm. Có ngày cầm ổ bánh mì kẹp trứng chiên, hoặc bánh mì bơ và đường, anh ngấu nghiến nhai thức ăn, vừa rảo bước đi bộ đến trường xa nhà khoảng 6km.

    Tánh đi học về nhà suốt mấy năm ròng rã như thế mà không hề thấy mệt, một phần do khí hậu Đà Lạt mát mẻ, trong lành và dễ chịu. Bắt đầu từ nhà mình có hai ba đường đi, nhưng Tánh ưa đi qua lối cầu Ông Đạo, từ đường Lê Đại Hành lên Khu Hòa Bình, rồi anh đổ dốc Minh Mạng. Hoặc đi trên đường Hàm Nghi xuống dốc hướng chùa Linh Sơn, xuống cuối đường Phan Đình Phùng, từ đó quẹo anh qua Nguyễn Hoàng dọc theo khu nghĩa trang Số 4.

    Đi ngoài phố đông vui hơn, vì những đoạn nầy anh hòa nhập với nhiều bạn học từng tốp nhỏ trong trường cùng đi bộ chung. Học sinh hân hoan bước mau, vui vẻ chuyện trò rôm rả, mà quên mệt nhọc và không biết mỏi chân là gì. Chính trên đường phố, các bạn đã đặt cho anh một biệt danh thân mật nghe lạ và vui vui, vì ít có ai tên "Tát". Nhân buổi kia cùng bạn đi học, anh kể hồi ấy thi rớt, Tánh bị ba bợp cho mấy cái tát tai. Lẽ thứ hai trong lớp có tới bốn người tên Tánh.

    Cũng có thời gian từ nhà anh đi xuống đường Phạm Ngũ Lão (khu Lục Lộ xưa kế trường Tiểu học Nazareth, dưới khuôn viên trường là dãy nhà nội trú của nữ “học trò” và con trẻ mồ côi). Anh đi trên đường Bà Triệu nơi có cầu Bá Hộ Chúc, rồi đi qua đường Cường Để, đi tới đầu đường Phan Đình Phùng.

    Sau này khi ba anh mua cho con chiếc xe đạp, Tánh vui mừng cưỡi xe lang thang chạy nhiều nơi mau gấp bốn năm lần ì ạch leo dốc xuống đồi; nên Tánh có rộng thời gian chạy xe phom phom ngang qua dốc Nhà Bò, chạy tới ngã ba Pasteur - Yersin. Thả dốc ở ngã ba Yersin quẹo tay phải, anh đạp xe chạy tới khu nhà Đèn, tới góc Ba Toa. Anh lại đi trên đường Hai Bà Trưng, chạy về đầu khu số Bốn - Số Sáu mà tới trường.

    Có nhiều lần anh đạp xe từ khu Hòa Bình đến Hàm Nghi, rồi đổ xuống dốc Ngã Ba Chùa. Nổi hứng anh đạp xe từ nhà ra phố, quanh khu Hòa Bình một vòng ngắm mấy tiệm Chà Và, rồi chạy trên đường Hàm Nghi đến trường Bùi Thị Xuân, tò mò nhìn mấy em mặc đồng phục xanh, áo len đen, quần trắng đội nón lá, họ nhí nhảnh hồn nhiên vui tươi như mộng. Rồi Tánh đi tắt đường Nguyễn Công Trứ ra đường Nguyễn Hoàng, tới trường.
    * * *

    Tuy bắt đầu đi học đúng tuổi, nhưng vì năm xưa Tánh thi vô lớp Đệ Thất bị rớt, nên khi Tánh thi đậu Tú tài Hai, năm 1970, xui xẻo không vô được đại học do luật tổng động viên. Vì vậy tháng 10 năm 1970 anh nhập ngũ khóa 6/70 trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức, khóa cuối cùng trong năm 1970.

    Tại Phan Rang Tánh lên xe đò đi đến trung tâm II nhập ngũ ở Nha Trang. Hôm sau phi cơ C 130 chở những sinh viên vô Sài Gòn, rồi xe GMC chở anh em đến trại chuyển tiếp Nguyễn Tri Phương ở Hóc Môn. Tất cả khóa sinh ở tại đây khoảng vài tuần để làm hồ sơ. Rồi sinh viên sĩ quan trừ bị được chở đến trại Võ Tánh, thuộc Tiểu đoàn 61 A khóa sinh, Liên đoàn A (gọi chung là Trung tâm Huấn luyện Quang Trung).

    Trong trại này, địa hình mọi khu vực đều giống nhau, nghĩa là bất cứ nơi nào cũng có những con đường nhựa băng qua các doanh trại. Ngay đầu các khu nhà ở là những hồ nước “trang trí sinh hoạt” (hồ nước tắm của sinh viên sĩ quan thì ở khu khác sạch sẽ tươm tất kín đáo). Độc đáo nhứt là toàn bộ khu vực nầy chỉ trồng một loại cây bã đậu thân to sù sì cành lá sum sê mát rượi.

    Chính vì các chỗ các nơi đều giống nhau, nếu ai không phải đã từng sống ở nơi nầy, thì không thể tìm ra lối đi. (Cho nên Tết Mậu Thân 1968, một toán việt cộng vi phạm lệnh hưu chiến đã lọt vô đây, họ ngu ngơ đi đứng lớ ngớ láo nháo, không biết đường nào dẫn đến đường nào mà chạy ra hương lộ. Thế là chẳng mấy chốc bọn chúng đã bị quân ta tóm trọn ổ).

    Từ nơi này, Tánh được huấn luyện những bài học căn bản cho một người lính Bộ binh, những ngày dầm sương dãi nắng nhọc nhằn và gian truân đã tôi luyện cho anh một thân thể mạnh khỏe, rắn chắc, cường tráng. Bây giờ trông anh cao ráo lịch lãm và oai dũng đến không ngờ!

    Tết năm 1971, để đề phòng bọn việt cộng vi phạm lệnh hưu chiến như lần Tết Mậu Thân 1968, toàn bộ Tiểu Đoàn của anh đi ứng chiến ở Sài Gòn. Nhận được lệnh này, SVSQ ai ai cũng hăm hở vui vẻ lo chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Trung đội của Tánh đóng tại khu vực Cây Da Sà Phú Lâm. Đây là một địa danh tập trung nhiều tay anh chị giang hồ, nhưng trong những ngày ngắn ngủi đóng quân tại đây, mọi sinh hoạt của người dân diễn ra thanh bình, yên tĩnh, không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra.
    * * *

    Sau 9 tuần huấn luyện, học tập, làm bài về các môn thi một cách hoàn hảo tốt đẹp, Tánh chuyển qua trường Bộ binh Thủ Đức, để hoàn tất giai đoạn 2: đào tạo một sĩ quan căn bản Bộ binh. Trong thời gian học ở Thủ Đức, anh có ba kỷ niệm đáng nhớ:

    Sài Gòn khi ấy có dịch đau mắt, một số đông SVSQ không thể đi học; nhà trường tập trung họ về ở một khu riêng biệt, để tránh lây nhiễm, SVSQ khác dù không đau cũng được nghỉ theo.

    Kỷ niệm thứ hai: hồ sơ tử sĩ, quả phụ của Bộ Cựu Chiến Binh bị tồn đọng, (vì thiếu nhân viên), họ đem hồ sơ qua Thủ Đức nhờ SVSQ làm giúp, thời gian kéo dài cả tháng, trong tháng đó SVSQ phè phỡn sống như công chức, sáng vác ô đi tối vác về.

    Kỷ niệm thứ ba đáng nhớ nhứt và cũng gian khổ nhứt là, để chuẩn bị diễn hành ngày Quân lực 19/6/1971, Tiểu đoàn 3 của anh gồm 1600 SVSQ được lựa chọn ra 200 người cao ráo, tập dợt diễn hành. Tánh “cao ráo sạch sẽ trẻ trung" tự hào mình có tí lịch sự như ai, anh được chọn, thời gian tạm nghỉ học ba tháng. Bởi thế, các khóa khác thời gian học ở Thủ Đức là 6 tháng, riêng khóa Tánh học kéo dài đến 9 tháng.

    Ngày Quân lực 19/6/1971, Tánh là một trong những SVSQ được vinh dự về Sài Gòn tập trung trước Dinh Độc Lập làm lễ. Sau đó đi diễn hành:hùng tráng, oai nghiêm linh hoạt và đẹp mắt.

    Từ năm 1968 trở đi, bài tập rất nhiều và những bài thi chấm hết sức gắt gao, cuối khóa thế nào cũng có SVSQ thi rớt tốt nghiệp, phải ra trường với cấp bậc Trung sĩ. Khóa 6/70 của anh cũng thế, có nhiều đêm trong mùa thi, SVSQ phải đốt nến để học (theo quy định toàn bộ doanh trại tắt đèn sau 21 giờ), ai cũng lo lắng cố gắng chăm chỉ ôn luyện, mong kỳ thi có kết quả tốt.

    Ngày 23/10/1971, Tánh ra trường với cấp bậc Chuẩn úy, được nghỉ phép mười ngày trước khi ra đơn vị, sự vụ lệnh ghi nơi đến trình diện: thuộc quyền sử dụng của Quân Đoàn IV và Quân Khu IV tại Cần Thơ. Sáu lời thề của Sĩ Quan Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, hay còn gọi là trường Sĩ Quan Trừ Bị Bộ Binh Thủ Đức, tuyên thệ trước khi ra trường:

    Điều 1: Tôi nguyện chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để chiến đấu cho sự sống còn của Tổ Quốc, của gia đình và của chính bản thân tôi.

    Điều 2: Tôi tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của cấp chỉ huy, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu chia rẽ của giặc cộng.

    Điều 3: Tôi luôn kính già thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.

    Điều 4: Tôi luôn tâm niệm làm mất lòng dân, xua dân về phía giặc cộng là tự sát.

    Điều 5: Tôi luôn đối xử tốt với tù binh cộng sản, không ngược đãi, đánh đập họ, không đụng đến đồ đạc cá nhân của họ, để thêm bạn bớt thù.

    Điều 6: Thực hiện các điều trên là tôi tích cực xây dựng tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho toàn dân, tôi sẽ được đền bù bằng sự cảm mến yêu thương của đồng bào.
    ***

    Năm 1972, anh bị thương ở hai chân vì mìn việt cộng gài ở Suối Tàu Ô, cách An Lộc khoảng 20km. Lúc đó An Lộc thuộc tỉnh Bình Long. Họ đưa Tánh về bệnh viện Lai Khê sơ cứu, sau đó chuyển về bệnh viện 4 dã chiến ở Bình Dương. Nằm ở Bình Dương mấy tháng, anh về Quân y viện Nguyễn Huệ, Nha Trang cho gia đình tiện chăm sóc vì hai chân Tánh không đi được.

    Về Nguyễn Huệ nằm ở phòng Ngoại thương 2 (dành cho sĩ quan) do bác sĩ Đại úy Lê Hà Minh điều trị. Khi vết thương đã lành, chỉ có bác sĩ điều trị mới có quyền cho mình ra Hội đồng Giám định Y khoa, bệnh nhân không có quyền xin ra.
    Đầu tiên, Hội đồng Giám định Y khoa có khoảng 6-7 bác sĩ cho anh loại 2. Loại 2 tuy được giải ngũ, nhưng không được trợ cấp và có thể xin ở lại quân ngũ làm công việc nhẹ. Khoảng hai tuần sau Tánh ra Hội đồng Giám định Y khoa tối cao, cũng khoảng 6- 7 bác sĩ, nhưng có bác sĩ Thiếu tá Chỉ huy trưởng bệnh viện làm giám định Hội đồng.

    Tại Hội đồng này, anh được phân loại 3, là loại nặng nhất, giải ngũ vĩnh viễn, có phụ cấp hàng tháng. Quyết định của Hội đồng này là quyết định chung thẩm, không bàn cãi nữa.

    Cuối năm 1973 giải ngũ, về Phan Rang ở, vì gia đình ba má các em đã dọn về đây. Trong thời gian bị thương chỉ có cha mẹ và các em vô thăm, Tánh không có bồ bịch, đã lâu có một lần yêu nhưng bây giờ không còn ai. Năm 1974 ở ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp Đà Lạt đầu đường Hàm Nghi có tuyển nhân viên, anh lên Đà Lạt nộp đơn, nhưng bị từ chối, Tánh đập bàn với tên phó giám đốc, vì Thương Phế Binh được ưu tiên, mà tại sao mình bị loại?

    Về Phan Rang thấy có tuyển người ở ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp (Ninh Thuận), Tánh lại nộp đơn. Giám đốc là một cựu thiếu úy trước đây làm việc ở Liên Đoàn Liên Binh Phòng Vệ phủ tổng thống (Ngô Đình Diệm), sau 1/11/1963 ông giải ngũ. Có thể vì cùng là cựu quân nhân, nên ông chấp thuận cho Tánh vô làm cho đến ngày tan hàng.
    * * *
    Tình Hoài Hương

    Viết xong ngày 25-6 -2025, tặng bạn "TÁ" Phan Rang

    Hình mượn trên internet, xin miễn thứ bản quyền.

    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...