Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện Ngắn - Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn

Collapse
X

Truyện Ngắn - Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện Ngắn - Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn

    Người Về Từ Cõi Cchết
    Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn


    Hùng vừa nhận được thư của Bích-Đào từ Việt Nam gửi qua. Chàng nhảy lên như điên cuồng vì mừng rỡ. Chuyện năm đó vẫn còn sống rõ ràng trong trí óc chàng và đang diễn ra trong đầu chàng như một cuốn phim.

    Giải tỏa Quảng Trị:

    Buổi tối hôm đó, cách nay đã lâu lắm rồi, Chàng và hai người bạn Huy, Hải đang dự sinh nhật Bích-Đào, người yêu của Hải, một nữ tiếp viên hàng không duyên dáng của đường bay Saigon – Đà Nẵng. Đang dở dang buổi tiệc, thì được tin Bắc quân tràn qua sông Thạch-Hãn và uy hiếp tỉnh địa đầu Quảng Trị. Lệnh giới nghiêm cấm trại 100% vừa được ban hành. Hùng vội vã đưa Hải vào phi trường còn chàng và Huy trở về căn cứ ở ngoại ô thành phố Đà-Nẵng để nhận lệnh hành quân khẩn cấp.

    Hai pháo đội đại bác 175 ly được di chuyển bằng tàu Hải Quân ra cửa bể Thuận An, còn Hùng dẫn một đoàn xe tiếp tế đạn dược bằng đường bộ.

    Dân Huế, đã một lần kinh nghiệm vào dịp tết Mậu Thân, nên ùn ùn bỏ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng tạm trú. Hai dòng xe cộ gặp nhau trên đèo; Quân Đội hướng về phiá Bắc và dân chúng xuôi về phía Nam. Tuy nhiên nhờ sự khéo léo nhường nhịn lẫn nhau nên không đến nỗi sẩy ra hỗn độn. Người dân chạy loạn tuy vất vả nhưng rất thương các anh lính chiến, Hùng đã cảm động chẩy nước mắt khi nghe lời chúc tụng từ miệng các bà mẹ Trị Thiên hay nhận lãnh bánh trái từ các em gái hậu phương mang tặng. Tình quân dân thắm thiết. Dân Trị Thiên đã nhận rõ những hậu quả của tết Mậu Thân !!!

    Các căn cứ quân sự tai Đà Nẵng bắt buộc phải mở cửa để đón tiếp dân chúng hai tỉnh Quảng Tri và Thừa Thiên vào lánh nạn. Thành phố Huế im lặng và vắng vẻ như vừa trải qua một cơn dịch hạch, sự im lặng đến rợn người. Vài nhóm Thủy Quân Lục Chiến đứng canh gác một cách nghiêm chỉnh tại các ngả đường. Hùng đón đoàn cơ giới từ cửa Thuận An và sắp xếp thành một hàng dài trên quốc lộ 1, ngoại ô thành phố, để hướng về căn cứ “Cây số 17”, nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của Sư Đoàn Dù.

    Hùng được biệt phái làm trong “Trung tâm phối hợp Hỏa lực” của Sư đoàn Dù. Nhiệm vụ của chàng là theo dõi chiến trường và phối hợp tác xạ giữa pháo binh và không quân trên mục tiêu.

    Buổi sáng, trung tâm hành quân, báo thời tiết tốt, bầu trời trong vắt không một đám mây. Bộ Tư Lệnh xin 2 phi vụ đánh những mục tiêu bên kia bờ sông Thạch Hãn.

    Hùng lắng nghe trên hệ thống chỉ huy có tiếng gọi của phi tuần A37:

    - Hoàng Đế, Hoàng Đế, đây Thần Phong, nghe rõ trả lời.

    - Thần Phong, đây Hoàng Đế, tôi nghe bạn 5/5.

    Hùng nghe giọng nói của Hải trên máy vô-tuyến nên rất mừng rỡ, lòng nhủ thầm : “Có hắn, thế nào Bắc-Quân cũng được nếm mùi đau khổ. Mục tiêu sẽ được thanh toán kỹ càng”. Hải là phi công có biệt danh là Hải Lì, vì hắn rất lì lợm, bao giờ nhìn thấy rõ mục tiêu mới đánh chứ không ẩn núp trên tận mây xanh rồi đánh bừa cho xong chuyện. Hải tiếp tục:

    - Tôi sắp sửa vào vùng làm ăn, yêu cầu bạn “Clear” với mấy đứa con của bạn.

    Hùng trả lời:

    - Tôi nhận bạn 5/5.

    Hùng vội thông báo với tất cả các toán gà cồ, biệt danh của Pháo Binh, ngừng tác xạ để phi cơ vào vùng mục tiêu cho đến khi có lệnh mới.

    Hải báo cho từng mục tiêu đã đánh xong, những ngọn khói cao ngút trời chứng tỏ không ảnh và tài ném bom của không quân rất chính xác. Những tên lửa phòng không từ dưới đất bắn lên như pháo bông. Hải vẫn say sưa dội những cú sấm sét trên đầu địch.

    Tiếng Hải lại vang lên trong hệ thống vô-tuyến:

    - Hoàng Đế, Hoàng Đế, đây Thần Phong.

    - Thần Phong, đây Hoàng Đế.

    - Tôi kiểm soát các mục tiêu lần chót trước khi rời vùng.

    Bạn hãy cẩn thận, hôm nào gặp lại tôi sẽ thưởng bạn hai “con tàu biển” ở Đường Sơn Quán.

    - Cám ơn bạn trước, tôi chờ ngày đó.

    “Hai con tàu biển” đó là tiếng lóng của đám bợm nhậu đồ biển ở chiếc quán cóc không tên bên đường Quốc Lộ 1 ngoài thị xã Đà Nẵng. Đám bợm nhậu đặt tên cho quán đó là Đường Sơn Quán và con tàu là chai rượu Whisky ông già chống gậy uống vô 1 chai là “lắc lư con tàu đi”.

    Ngày đó đã chẳng bao giớ tới, lời hứa với Hải, Hùng chẳng bao giờ có dịp thực hiện bởi vì đó là chuyến bay cuối cùng của Hải. Chàng đã bị bắn rơi trên không phận Quảng Trị hôm đó, lúc vòng lại quan sát mục tiêu lần cuối cùng.

    Bắc quân tràn ngập thị trấn Quảng Trị và cố thủ trong “Cổ Thành” một thời gian dài. Hằng đêm, khoảng 3 giờ sáng, 8 khẩu đại pháo 175 ly được di chuyển trên quốc lộ 1, về phía Quảng Trị để bắn vào Cổ Thành đến trưa lại rút về. Những cuộc di chuyển trong đêm tối, không đèn đuốc và phải giữ yên lặng tối đa, thật là vất vả, nhất là những đêm trời mưa rả rích. Hai bên Quốc lộ vẫn còn xông lên mùi hôi thối của những xác chết chưa dọn hết, đa số nạn nhân là những người dân chạy loạn trong ngày đầu tiên mất Quảng Trị. Bắc quân đã không nương tay, bắn bừa bãi vào những người dân hốt hoảng đó. Đoạn đường ngắn ngủi này được báo chí mệnh danh là “Đại Lộ Kinh Hoàng”

    Những trưa hè nắng cháy da, đóng quân trên bãi cát hực lửa. Thỉnh thoảng một cơn gió hắt vào mặt một nắm cát nóng bỏng. Người lính pháo thủ với áo giáp, nón sắt luôn luôn bận rộn với những trái đạn nặng nề và những tiếng nổ ầm ỹ của cả mình lẫn địch quân, lại còn lo cho cái bao tử lép kẹp nữa. Sự sống chết chỉ cách nhau trong gang tấc, bận rộn và nhọc nhằn làm họ tạm quên cái chết cứ luôn luôn đeo đuổi bên mình. Khuân vác, ăn uống, đào hầm hố, tác xạ, nắng khô cổ, còn 2 lỗ tai phải chừa để nghe tiếng đạn pháo kích của Bắc quân.

    -PHÁO KICH ! PHÁO KICH !

    Những tiếng nổ long trời của hoả tiễn 122 ly hay đại bác 130 ly mà Bắc quân đã bắn tới từ bên kia sườn núi. Pháo đội pháo binh dù liền trả đũa khiến Bắc quân phải câm họng.

    Cho mãi đến khi tái chiếm cổ thành xong, mẹ Hải mới nhận được chiếc quan tài đựng những gì còn lại của đứa con đầu lòng thân yêu. Hùng xin phép đơn vị đưa xác Hải về Saigon. Bich Đào nhận được tin như sét đánh ngang tai, nàng buồn bã khóc lóc và xin được đi theo quan tài về Saigon đưa đám. Hùng còn nhớ rõ ngày bi thảm đó, chàng dìu Bich Đào đi theo quan tài như một cái xác không hồn và nghe nàng kể lể:

    Hải! sao anh bỏ em đi một mình, hãy chờ em . . ., em sẽ đến với anh để an ủi anh, cho anh khỏi cô đơn lạnh lẽo.

    Sau khi tình hình tương đối lắng dịu. Hùng được cử đi tu nghiệp bên Mỹ. Nhân dịp về Saigon, chàng ghé thăm gia đình Hải vào sau dịp tết Nguyên Đán. Bà cụ nhìn thấy chàng chợt nhớ tới đứa con yêu dấu, không cầm được nước mắt. Hùng cũng không quên ghé thăm mộ, thắp một nén nhang cho ngưới bạn thân. Sau khi cúng vái trước mộ, chàng chợt thấy một phong thư đè dưới bình nhang. Tò mò Hùng mở ra coi: đó là bức thư của bà cụ thân sinh ra Hải viết cho đứa con đã qua đời.

    Saigon ngày. . .

    Hải yêu dấu của Mẹ!
    Lại một mùa xuân nữa sắp đến, Mẹ không thể nào bỏ được thói quen viết thư hỏi thăm nhau giữa hai mẹ con mình mỗi lần năm hết tết đến. Mặc dù xuân này Mẹ không còn hy vọng Con trở về như những mùa xuân xa xưa, nhưng Mẹ vẫn thương nhớ Con vô chừng, bởi vì Con là một phần máu mủ của Mẹ.

    Từ ngày Bố con đền nợ nước, các con là niềm hy vọng, là lẽ sống và là cái phao để mẹ bám víu và nương tựa. Con đã làm cho mẹ hãnh diện và nhìn thẳng vào mắt mọi người như ngày xưa lúc bố con còn sống.

    Mẹ rất háo hức mỗi khi tết đến, nhưng cũng là lúc Mẹ nhớ Con nhiều nhất và xụt xùi nhiều nhất. Mẹ đã lang thang cả ngày ngoài chợ để cố quên đi những hình ảnh của Con. Con còn quá sống động trong lòng Mẹ. Những hình ảnh đó chất chứa trong tiềm thức của Mẹ và luôn đánh thức tâm tư Mẹ mỗi khi nhớ đến Con.

    Tết là những ngày thiêng liêng với đầy cảm xúc, vui mừng, hân hoan của mọi người chung quanh. Còn riêng Mẹ, ngày Tết chính là ngày làm Mẹ rơi nhiều nước mắt nhất, làm trái tim mẹ tan nát nhất. Mẹ đang nghe những tiếng cười vui của trẻ thơ, những bài ca hát chào đón Chúa Xuân trở về trên vạn vật, những tiếng pháo vỡ tim mừng xuân mới, và hình ảnh của một cậu bé với đôi mắt mở to đen láy, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú mang hình ảnh của Mẹ và Bố Con; cậu bé nũng nịu chạy xà vào lòng Mẹ, rúc vào ngực Mẹ để tìm sự che chở. Cánh tay Mẹ đã không còn bồng bế được Cậu như ngày xưa. Mẹ không còn chỗ nào để trốn chạy những kỷ niệm đó. Con ơi! Bởi vì những kỷ niệm đó ở ngay trong tim Mẹ.

    Mẹ còn nhớ, lần đầu tiên Con xa mẹ, đó là ngày con mới cắp sách đi học. Con xúng xính trong bộ quần áo mới, hãnh diện với chiếc cặp da mới trên vai, khép nép bên tà áo của Mẹ. Nhìn nét mặt đăm chiêu. Mẹ cũng biết lòng Con vừa háo hức vừa bồn chồn. Mẹ thấy thương con vô cùng, Mẹ không nỡ rời Con, cái ngày đầu tiên ấy, thế là hai mẹ con mình cùng ngồi trong lớp học. Hôm sau, con đã ôm lấy Mẹ, hôn từ giã và tung tăng đi đến trường.

    Con còn nhớ không, lúc 9 tuổi Con đã làm cho mẹ tưởng rằng Con vẫn còn tin : “nếu Con ngoan ngoãn, Tết đến Bà Tiên sẽ ban cho Con nhiều quà bánh” (Sau này, lớn lên Con mới nói là Con biết chẳng Bà Tiên nào cho Con quà cả nhưng Con muốn được Mẹ vui trong ngày Tết, Con muốn được nhìn thấy nét mặt Mẹ hân hoan trìu mến mỗi lần mua sắm quần áo mới cho Con, nên Con vẫn giả bộ tin như vậy). Đúng vậy, Con ơi! đó là món quà đặc biệt nhất, Mẹ thích nhất mà Con đã tặng cho Mẹ, bởi vì nhìn nét mặt ngây thơ tin tưởng Trời Phật của Con, làm Mẹ sung sướng đổ lệ.

    Một trong những hình ảnh Mẹ nhớ nhiều nhất là Con rất thích ăn bánh bông lan có kem vanille, Một buổi tối trước khi đi ngủ, Mẹ làm đĩa bánh bông lan để trong tủ bếp, sáng thức dậy, Mẹ thấy lớp kem trên mặt bánh đã bị hớt sạch. Mẹ biết ngay Hải là thủ-phạm, nhưng Mẹ gỉa bộ nói với Con, là chú bé tí hon (trong chuyện cổ tich Mẹ đọc cho Con nghe hôm trước) đã chui vào nhà mình trong lúc đói bụng đã ăn hết lớp kem trên mặt bánh. Ừ, làm sao Mẹ có thể giận Con cho được, khi Con ngẩng lên nhìn mẹ với cặp mắt ngây thơ và biết ơn mẹ đã bao dung, hai mẹ con mình đã cười to đồng lõa, Con đã bá cổ vòi vĩnh Mẹ để mẹ hôn lên chiếc má bầu bĩnh “dễ ghét” đó mà tha lỗi cho Con.

    Hải ơi! Mẹ có thể ngồi cả ngày bên bàn viết và xụt xùi với những hình ảnh của Con, nhưng Mẹ không muốn các em Con thấy Mẹ khóc sưng mắt. Vả lại Con cũng đâu muốn như vậy phải không Hải?

    Con ơi! Ngày Tết đã kề cận, Mẹ lại một lần nữa cám ơn Trời Phật đã cho Mẹ một món quà đẹp đẽ nhất trong đời đó là đứa con trai đầu lòng của Mẹ, ngoan ngoãn, đẹp trai và hiếu thảo. Mẹ đã được hưởng trọn vẹn trong 25 năm có Con.

    Mẹ của Con

    Từ ngày tỵ nạn qua Hoa Kỳ, Hùng đã nhiều lần viết thư cho Bích Đào nhưng không bao giờ nhận được thư trả lời. Cách nay hơn một tháng nhân dịp có người bạn về thăm Việt Nam, gia đình cũng ở Đà Nẵng, Hùng căn dặn kỹ lưỡng cố tìm cho được Bích Đào. Cuối cùng người bạn cũng tìm được. Bích-Đào đã dọn về một căn nhà nhỏ ở ngoại ô. Người bạn vì bận rộn nhiều nên chỉ kịp trao thư của Hùng, chứ không có thì giờ nói chuyện lâu cho nên Hùng cũng không có thêm tin tức nào khác. Chàng chẳng biết làm gì hơn là mong ngóng thư hồi âm.

    Hôm nay thư vừa đến. Hùng cầm lá thư trên tay đã lâu, hồi hộp mà chưa dám mở ra coi. Chàng nhắm mắt hồi tưởng lại những ngày cũ, lòng thầm nhủ: “Còn bất hạnh gì nữa xẩy ra cho nàng?”

    Thật lạ lùng, khi chưa nhận được thư thì mong mỏi, đến khi nhận được lại ngại ngùng. Hùng có cảm tưởng như hồi còn đi học, mỗi lần thi xong chỉ mong có kết quả, đến lúc bạn bè rủ đi xem bảng thì lại ngại ngùng. Kết quả thi Tú Tài I và II đều do bạn bè báo cho biết. Lũ bạn ai cũng nói “Thằng Hùng nó chắc đậu rồi nên chẳng thèm đi coi!”.

    Hùng mở thư ra, để trên bàn, liếc qua đầu thư “đúng là nét chữ của Bích-Đào rồi”, chàng nhủ thầm như vậy, rồi ra tủ lạnh uống một ly nước đầy. Chàng quơ vội bức thư và chạy vào phòng học.

    “Đà-Nẵng ngày…

    Anh Hùng thân mến,

    Nhân được thư Anh, em rất mừng.
    Đã lâu nay em cố gắng tìm kiếm anh, mà không biết sao liên lạc được. Hôm nay được tin anh đã định cư ở Hoa Kỳ em rất mừng đến chẩy nước mắt, cứ tưởng anh bỏ thân trong trại học tập nào rồi! Cám ơn Trời Phật đã phù hộ cho anh.

    Gia-đình em vừa được nhận cho đi định cư theo diện H.O. nhưng còn một vài thứ giấy tờ lỉnh kỉnh nữa, ảnh phải lo cho xong nên chưa kịp viết thư cho anh. Ảnh cũng nhớ anh lắm. . . .”

    Hùng vừa đọc đến đó bỗng ngạc nhiên tự hỏi “Ai kìa? Chẳng lẽ chồng Bích Đào cũng quen với mình?” Chàng vội liếc nhanh xuống cuối thư.

    “ . . . Chúng em được 2 trai, 1 gái, các cháu cũng ngoan ngoãn và giống bố cháu y hệt giống cả cái “lì” nữa anh ơi.

    À quên, nẫy giờ chỉ viết chuyện nhà lòng vòng quên mất. Anh em mình đã xa nhau lâu lắm rồi, anh đâu có biết chuyện gì đã xẩy ra nhỉ !

    Ngày ấy, Đà Nẵng bị mất, em cũng chẳng biết chạy đi đâu và cũng chẳng biết làm gì để sống nên Ba Má em phải bán căn nhà ngoài phố để tìm cách đi vượt biên, mấy lần đều thất bại. Gia đình em phải dời ra ngoại ô để tìm kế sinh nhai. Bỗng một hôm, có một người đàn ông đen đúa ốm yếu đến tìm em, tại căn nhà này, nơi em đang ở. Anh không thể tưởng tượng được đâu, em đã ngất xỉu, không biết mình đang sống hay đã chết rồi. Em đã khóc hết nước mắt, vì mừng, vì sợ, vì không tin rằng chuyện xẩy ra là có thật trên cõi đời này. Bây giờ em ngồi đây viết thư cho anh mà em vẫn còn run và nước mắt cứ đổ ra lã chã, em phải ngừng lại đi rửa mặt mấy lần cho tỉnh để viết xong lá thư cho anh. Người đàn ông thân tàn ma dại đó chẳng nói được gì chỉ ôm em mà khóc. Trời Phật ơi, anh biết ai đó không? Hải của em đó anh ơi! Em tưởng là hồn ma hiện về, em nhéo vào tay xem có phải em đang ngủ mơ không? Rồi lại nhéo vào tay của ảnh nữa. Trời Phật ơi!, ảnh kêu đau em mới tin là Hải thật của em rồi. Chúng em ôm nhau khóc vang cả nhà, làm hàng xóm không biết chuyện gì, họ bu lại đầy nhà, cả công an, khóm trưởng cũng chạy tới nữa.

    Ảnh kể lại chuyến bay cuối cùng của ảnh bị bắn rơi, ảnh nhẩy dù ra được, nhưng cánh dù rơi xuống phía Bắc sông Thạch Hãn còn chiếc máy bay rớt xuống bờ sông phía Nam. Có lẽ khi đám “Chung Sự” nghĩ rằng cái mộ gần máy bay chắc là của phi công nên mới giao về cha mẹ ảnh. Thực sự ảnh bị giải về Bắc và giam chung với anh em “Biệt-kích nhẩy ra Bắc” bị bắt từ trước. Nhà em sẽ viết thư cho anh sau.

    Vài hàng thăm anh, khi nào qua đến bên đó anh em mình sẽ có nhiều thì giờ tâm sự.

    Thương anh nhiều.
    Bích-Đào

    TB. Mẹ của Hải, hiện đang ở bên Mỹ với người em của Hải, anh hãy liên lạc về địa chỉ sau đây:
    . . . . . .
    Last edited by Phòng Trực; 10-09-2024, 06:34 AM.

  • #2
    Đứa Con Dị Chủng

    Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn


    Chắc bạn cũng có nghe câu chuyện về ông Phó Thủ Tướng Đức gốc Việt, từng là đứa trẻ mồ côi bên Việt Nam. Tôi thật sự cảm động muốn khóc, không phải vì ông là người có tài, đẹp trai, ăn nói khôn ngoan hay làm lớn mà vì nếu cha mẹ nuôi không mang ông về Đức, có thể hôm nay ông cũng đã là kẻ lang thang đầu đường xó chợ ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam.

    Bạn tôi muốn kể cho quý vị nghe về một đứa trẻ bụi đời, lang thang đầu đường xó chợ trên đất Hoa Kỳ, nhờ mẹ nuôi Việt Nam mang về chăm sóc, dậy dỗ đã trở nên người hữu dụng.

    ***

    Tôi lượm được thằng Michael ở bên xa lộ 45 South trên đường từ Houston đi Clear Lake. Dạo đó vào khoảng năm 1982, tôi mới ra trường và bắt được một job thơm phức làm cho cơ quan NASA ở Houston trong Mission Control Center, do một ông bạn học cùng lớp giới thiệu. Cuộc đời tôi gặp bao nhiêu là may mắn bất ngờ, đúng là trời giúp, cho nên tôi vẫn nhớ ơn ông Trời, cố gắng học làm người tử tế, dù có chịu thiệt thòi một chút cũng cam lòng.

    Số là hôm đó tôi đi làm trễ, vừa từ xa lộ I45 rẽ vô NASA road 1, thấy một thằng nhóc đi bộ lang thang bên lề đường, vai mang ba lô to tướng, kiểu ba lô mang vai của quân đội, như ngày xưa tôi nhận được khi mới vào trường Võ Bị. Nhóc đưa ngón tay cái lên ngoắc ngoắc xin quá giang, tôi vội dừng xe lại hỏi:

    - Mầy muốn quá giang hả?

    - Yes, Sir!

    Hắn vội vã quăng cái ba lô ra sau xe truck, với tay mở cửa và nhảy phóc lên ngồi cạnh tôi, mùi mồ hôi bốc lên nồng nặc. Không chịu nổi, tôi phải quay vội cửa kiếng xe xuống. Tôi hỏi chàng “Trẻ Tuổi Bụi Đời”:

    - Mày muốn đi đâu?

    - Đi đâu cũng được!

    - Nhà mày ở đâu?

    - Tôi không có nhà, mới từ OMAHA quá giang xe xuống đây.

    Tôi nghĩ trong bụng: ”Gặp thứ thiệt rồi”.

    -Tao phải đi làm bây giờ, thôi tao thả mày xuống Clear Lake Park, ở đó có đủ cả phòng vệ sinh và chỗ che mưa nắng, đến trưa tao kiếm cái gì cho mày ăn.

    Bà xã tôi hay cằn nhằn về vụ cho mấy tay “bụi đời” quá giang xe. Kể ra thì cũng nguy hiểm, chẳng may gặp anh chàng khùng nào đó coi mạng người như cỏ rác, vậy là giống như giao trứng cho ác! Nhưng tôi quan niệm khác, sống chết có số, ngày xưa lúc còn xông pha trận mạc, mình đâu có tránh đạn được, toàn là đạn tránh mình thôi. Cho nên mỗi khi lái xe một mình, gặp người xin quá giang, nếu thuận tiện tôi vẫn “dzớt” như thường. Kể như đền ơn những người từng cho tôi quá giang hồi mới chân ướt chân ráo định cư ở Oklahoma City. Hồi đó, mỗi ngày đi làm phải lội bộ hàng mấy cây số trên đường đầy tuyết. Nếu gặp xe nào cho quá giang thôi mừng hết lớn.

    Từ sở làm đến hồ Clear Lake chỉ mất vài phút lái xe, tôi vẫn hay ra đó ăn trưa, giỡn với mấy con chim hải âu bằng cách liệng lên cao một miếng bánh mì sandwich thế là cả đám nhào xuống kiếm mồi, bu lại chung quanh, tôi chỉ vung tay ra cũng túm được một chú. Đôi khi buồn ngủ quá bèn đánh một giấc như “Những Ngày Xưa Thân Ái”.

    Buổi trưa tôi mua 2 phần ăn rồi lái xe đi kiếm “Chàng Bụi Đời”. Đậu xe vào parking, nhìn ra mấy bàn picnic sát bờ hồ, thằng nhóc ngồi đó đang chăm chú xem cuốn album cũ nát. Thấy tôi đến, nhóc vội đứng lên chào và rất mừng rỡ, có lẽ vì túi đồ ăn khá lớn tôi mang đến. Hắn đưa cho tôi cuốn album và giải thích:

    - Tôi thấy sau kiếng xe của ông có dán cái huy hiệu nhảy dù, chắc ông là người Việt Nam?

    - Sao mày biết?

    - Ba tôi cũng từng chiến đấu ở Việt Nam, trên mũ cũng có cái huy hiệu giống như cái ông dán sau xe. Đây ông xem có đúng không?
    Hắn vừa nói vừa chỉ vào tấm hình chụp một chàng lính Mỹ mặt non choẹt, trên dưới 25 tuổi, đầu đội mũ đỏ của lính nhảy dù Việt Nam thời xưa, cổ áo mang hai bông mai vàng đàng hoàng. Nếu không có cái mặt Mỹ ai dám bảo không phải là lính nhảy dù Việt Nam?

    Tôi nhìn tấm hình thấy quen quen, đúng là thằng Doug Salvatore, Trung Úy trong ban Cố Vấn của tiểu đoàn tôi. Sở dĩ tôi nhớ tên anh ta vì hắn hiền khô it nói, rất thích đội chiếc mũ đỏ nhẩy dù lệch hẳn qua một bên, gặp ai trong tiểu đoàn bất kể cấp bậc, cũng dơ tay chào miệng lẩm nhẩm “hảy đù kú gắn” Ai cũng cười hiểu rằng hắn muốn nói “Nhảy Dù cố gắng”, Doug cũng cười theo. Hắn hiền khô it nói, nhưng mỗi khi nhờ gì hắn đều giúp đỡ tận tình, từ việc gọi hải pháo, phi vụ oanh kích, máy bay tải thương đến xin vật liệu xây cất doanh trại. Mấy chiếc xe của tiểu đoàn hết bình điện muốn nổ máy, kêu hắn đến là xong ngay, đẩy xe chạy băng băng một chút xíu, thả chân số là nổ máy liền. Hắn có thêm một biệt danh khác là “cargo 5 tấn”, ý nói mạnh như xe vận tải 5 tấn. Thỉnh thoảng hắn còn mua tặng tôi cả đồ trong PX nữa. Lính trong tiểu đoàn gọi hắn là “Đất”. Biệt danh đó cũng gần giống với tên thiệt. Mỗi lần gọi “Đất” hắn chỉ nhe răng ra cười. Sau này biết được ý nghĩa của chữ “Đất” hắn càng thích thú hơn, Một lần tôi hỏi hắn, sao tên của bạn là Salvatore, hơi giống như Salvadore vậy, thế bạn có phải gốc Nam Mỹ không? Hắn nói chẳng có liên quan gì cả, tổ tiên hắn đến từ Tây Ban Nha.

    Hắn đã cứu tiểu đoàn tôi nhiều lần trong các cuộc hành quân thời “Mùa Hè Đỏ Lửa” nhờ xin được kịp thời những phi vụ yểm trợ vũ bão từ đệ thất hạm đội hay từ căn cứ Utapao bên Thái Lan.

    Trong trận giải cứu An-Lộc, tuyến phòng thủ của đại đội bị chọc thủng. Tôi bị một mảnh cối vào bụng, máu ra lênh láng. Thằng Đất một tay bắn M16, một tay kéo tôi vào gốc cây cao xu. Hắn xin trực thăng tải thương vào bệnh viện dã chiến Mỹ, nếu không tôi chắc đã đi luôn rồi. Tôi mang ơn cứu tử của Đất từ ngày ấy. Sau trận An Lộc, hắn về Mỹ. Tôi mất liên lạc với hắn từ ngày tan hàng. Bây giờ lại gặp con hắn ở đây, đúng là số Trời. Tôi mừng rỡ ôm lấy thằng bé, hỏi cuống quýt:

    -Tao là bạn của Doug, ba mày bây giờ ở đâu?

    Hắn rớm nước mắt:

    - Thật không? Ông là bạn của Ba tôi hả? Ba tôi chết cách nay 3 năm rồi.

    - Kể tao nghe đi, sao vậy?

    - Ổng bị đụng xe trên xa lộ bởi một người say rượu, chết ngay tại chỗ.

    - Má mày đâu mà để mày đi lang thang như vầy?

    - Má tôi có chồng khác, tôi không thể sống với cha ghẻ nên bỏ nhà ra đi.

    - Mầy đi má mầy có biết không?

    - Cả nhà còn ngủ, chẳng ai biết.

    - Mầy còn nhớ số phone nhà không.

    - Tôi có đây, nhưng giá nào tôi cũng không về đâu.

    - Tao đâu có nói là bắt mầy về nhà, chỉ là gọi cho má mày yên tâm thôi, để bả khỏi báo cảnh sát, mầy hiểu không?

    - Dạ hiểu.

    - Thôi được rồi, quăng đồ đạc lên xe rồi đi theo tao.

    Tôi dẫn thằng bé lại Motel 6 và thuê phòng cho nó ở một đêm, thủng thẳng tính kế lo cho nó. Dù sao nó cũng là con của ngườì bạn đã có ơn cứu mạng tôi, tôi quyết tâm cứu lại con bạn. Có câu của Phật dạy “Dẫu xây 9 cái gì gì đó, cũng không bằng làm phúc cứu cho một người”. Biết đâu cha nó đã dẫn nó lại cho tôi? Tôi dặn thằng bé, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đàng hoàng, chờ tôi sẽ tới đón nó trong vòng hai tiếng đồng hồ nữa.Tôi lái xe về sở, kể chuyện hoàn cảnh của thằng nhóc với xếp và mấy người bạn làm cùng nhóm, xin xếp cho nghỉ vài ngày để lo cho nó. Mỗi người khuyên một câu, đại khái nói tôi phải cẩn thận với mấy đứa trẻ bụi đời. Chúng nó có cả ngàn chuyện rắc rối, hút sách, đánh lộn, cướp giựt, có khi nó còn thưa ngược lại là mình lợi dụng làm chuyện bậy bạ v…v…Tôi đã quyết tâm cứu nó nên bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên chân thành đó. Tôi chở thằng nhóc vào sở và giới thiệu với mọi người, đồng thời gọi điên thoại cho mẹ nó, cho biết nó đang đứng cạnh tôi và muốn nói chuyện với bà.

    Tôi tránh ra một nơi để hai mẹ con nói chuyện được tự nhiên. Một lúc sau trở lại, nhóc nói mẹ nó muốn đươc tiếp chuyện tôi. Bả ngỏ ý trao toàn quyền cho tôi và cầu xin tôi giúp cháu, bởi vì đời sống trong nhà bà như ở địa ngục, cha ghẻ con ghẻ không ngày nào là không gây gỗ nhau. Tôi chấp nhận lời cẩu khẩn của bà, yêu cầu bà viết cho tôi tờ giấy, giao thằng Mike cho tôi, hứa không kiện tụng gì cả và phải có thị thực chữ ký đàng hoàng. Tôi cho bà địa chỉ nhà tôi, số điện thoại sở và nhà, cần gì cứ gọi cho tôi biết. Tôi nghĩ, có thể sẽ gặp rất nhiều rắc rối sau này, nhưng chấp nhận vậy. Xưa kia tôi đã từng chấp nhận biết bao rủi ro nguy hiểm khi ra trận, bây giờ có chút đỉnh nhằm nhò gì?

    Tôi phân vân không biết có nên nói thiệt với bà xã không? Chắc phải nói rồi, nhưng dẫn nó về nhà chắc là bả không thể nào chấp nhận được, đành phải gởi thằng nhỏ lại bà chị. Chị tôi có một quán ăn Việt Nam. Khi còn ở quê nhà, chị cũng mở nhà hàng nho nhỏ, từng nuôi nhiều tay anh chị trong quán cho nên du đãng không đứa nào dám phá phách hay đòi đóng hụi chết! Tính tình chị phóng khoáng cởi mở, mấy đứa du thủ du thực đều nể mặt.

    Buổi chiều, tôi dẫn thằng nhóc lại nhà hàng, kêu cho nó một dĩa cơm đồ biển thật to, thằng nhóc chỉ ăn một loáng là hết sạch, như thể đã nhịn ăn cả tháng rồi. Dặn nó ăn xong cứ ngồi đó. Đợi vãn khách, tôi gặp chị, nói rõ hoàn cảnh của nó xin chị mở rộng tay cứu giúp nó, chỉ có chị mới làm được việc này thôi. Xin chị cho nó một chỗ ở tạm, còn mọi thứ khác tôi sẽ lo. Chị hơi lưỡng lự một chút, thở dài:

    - Thôi được, sau khi đóng cửa tiệm, cậu chở nó về nhà, chúng ta sẽ nói chuyện với nó.

    Tôi mừng rỡ quá xá, cám ơn chị rối rít, tôi quay đi để che giòng lệ tuôn trào. Chị lúc nào cũng quan tâm và che chở bao bọc tôi. Cha mẹ mất sớm, chị săn sóc và nuôi nấng tôi như mẹ, lúc nhỏ tôi vẫn sống với chị cho đến khi nhập quân ngũ. Những lần bị thương thập tử nhất sinh chị vẫn là người bên cạnh tôi. Lớn lên mỗi khi gặp rắc rối trong cuộc đời, tôi đều chạy đến chị. Thật là Ông Trời đã cho tôi một bà chị để thay thế mẹ. Chị góa chồng từ năm 1970, ở vậy nuôi ba đứa con trai. Tôi và gia đình chị đã may mắn thoát được trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam, nhưng đứa con thứ nhì của chị đã ra đi vĩnh viễn trên đường vượt biển, trong lúc con tàu còn lênh đênh trên đại dương.

    Qua Mỹ, hai chị em xin được việc làm trong một nhà hàng Tàu. Chị phụ nấu bếp, còn tôi làm chân “chạy bàn”. Chị bắt tôi phải đi học, chỉ cho làm cuối tuần thôi. Nhiều khi thấy chị vất vả quá, tôi xin chị cho tôi nghỉ học để phụ giúp gia đình nhưng chị cương quyết từ chối. Chị nhắc nhở tôi đó là bổn phận của chị đã được cha mẹ giao phó trước khi nhắm mắt, phải lo cho tôi ăn học đến nơi đến chốn, thành gia thất đàng hoàng, nếu không sau này làm sao nhìn mặt các người nơi suối vàng. Mỗi năm, vào ngày giỗ cha mẹ. chị bắt tôi phải thề trước vong linh các cụ là không được bỏ học dù bất cứ hoàn cảnh nào, cho nên tôi cố gắng học, vật lộn với tiếng Anh tiếng u, những phương trình đại số và toán giải tích. Những thứ đó chỉ còn lờ mờ trong trí óc cằn cỗi của tôi sau bao nhiêu năm lăn lộn ngoài chiến trường. Nhiều khi làm bài không kịp, phải ngủ đêm ngay tại trường trong các phòng học. Có lần mệt mỏi quá, tôi đã ngủ gục khi lái xe về nhà, rõ ràng tôi đã thắng xe lại khi đến đèn đỏ, thế mà vẫn tông vào đít xe trước mặt. Báo hại phải năn nỉ chủ xe rồi bỏ tiền túi ra bồi thường. Đã bao lần tôi muốn bỏ cuộc
    nhưng tôi tự nhủ “Nhảy dù cố gắng!” nhưng phần lớn vẫn là không muốn phụ lòng mong ước của chị. Ngày tôi ra trường, khi nhìn tôi được gọi tên lên lãnh bằng, chị là người la to nhất, hơn cả mấy đứa nhóc. Chị sung sướng hơn cả tôi, tôi ra trường, nhưng mảnh bằng là của chị, công lao là của chị. Hai chị em ôm nhau chụp hình kỷ niệm mà nước mắt chị ướt trên ngực áo tôi. “Thế là tâm nguyện của chị đã thành, chỉ còn việc cưới vợ cho cậu nữa là xong”, chị nói với tôi như thế trong buổi tiệc ăn mừng. Tôi đã già đầu rồi, bao nhiêu năm chiến trận, đã từng chỉ huy hơn một đại đội nhảy dù, thế mà chị vẫn nghĩ tôi còn con nít.

    Trở lại chuyện thằng nhóc, 10 giờ tối, tiệm bắt đầu dọn dẹp đóng cửa. Tôi dẫn nó lại giới thiệu với chị và xin phép chị chở thằng nhóc về nhà trước.

    Tôi cắt nghĩa qua loa về phong tục tập quán của người Việt, kính trọng người lớn tuổi hơn mình, nhất là người già cả, thế nào là tiên học lễ hậu học văn, kính trên nhường dưới, những điều căn bản đạo đức của người Việt không tìm thấy trong sách giáo khoa ở trên đất Mỹ này. Nhóc hứa với tôi từ nay sẽ chăm chỉ học hành không la cà hút sách nữa. Nghe vậy tôi cũng yên lòng. Tôi thấy thương nó như chính con tôi vậy.

    Buổi tối, cả nhà quây quần trong phòng family room. Thằng nhỏ được mang ra trình diện:
    • Đây là Mike, còn đây là bà Ánh, hai người con của Bà là Dũng và Trí.

    Cả nhà bắt tay nhau và nói lời chúc tụng xã giao. Bà chị tôi dặn thằng Mike:

    Từ nay con gọi ta là Má Ba, mặc dù tên của ta là Ánh, ta đã nhận con là con, ta sẽ đối xử với con như hai đứa con của ta, con có chịu không?

    Thằng nhóc nói lí nhí:

    - Yes, Má Ba.

    - Con bao nhiêu tuổi?

    - Dạ 14.

    - Thằng Trí 16 là anh Hai, thằng Mike ta đặt tên Việt Nam là Mai, là anh Ba, thằng Dũng trẻ nhất 12 tuổi là Út cũng gọi là thằng Tư nghe chưa. Tất cả đều dạ ran, Thằng Mike chẳng hiểu đầu đuôi ra sao tôi phải cắt nghĩa cho nó hiểu.

    Con lớn nhất của Má Ba nickname gọi là Number Two, nó được gọi là Number Three, trên thằng Tư một bực. Nó thắc mắc sao không có Number One. Má Ba trả lời đó là luật lệ. Còn luật nữa là ở nhà chỉ nói tiếng Việt thôi. Bắt đầu từ ngày mai, thằng Mai cũng phải nói tiếng Việt. Má Ba cho một đặc ân, trong mấy tháng đầu, nếu thằng Mai không biết tiếng Việt, cho phép thằng Hai và thằng Út nhắc nhở.

    Chị tôi nói tiếp:

    -Ngày mai cậu Út dẫn thằng Mai đi xin học, về nhà phải học và làm bài tới 9 giờ tối, sau đó muốn coi TV hay làm gì khác tùy ý, 10 giờ tối phải đi ngủ. Chủ Nhật phải đi lễ sớm, thằng Mai phải ghi danh học Việt Ngữ ở trường Nhà Thờ như hai đứa kia. Thằng Út lên dọn phòng cho thằng Mai ngủ.

    Tôi cười nói với chị:

    - Toàn là “phải” này “phải” kia y như bà “xếp” của em vậy.
    Thằng Mai “phải” nghe lời Má Ba nghe chưa!

    Nhóc vội vàng trả lời: “Yes, Sir!”

    Chị lườm tôi:

    -Mấy đứa này phải dặn kỹ càng như vậy mới được, còn không vào lỗ tai này ra lỗ tai kia mất cậu ơi!

    Hướng về thằng Mai chị tôi hỏi:

    -Sao mày bụi đời?

    Thằng Mai rớm nước mắt, ngập ngừng một lúc mới thốt nên lời:

    - Má Ba ơi, con rất cô đơn và buồn khổ, lớn lên không cha. Cha ghẻ của con là một người cộc cằn, khó tánh và nghiện rượu, trong nhà cãi lộn xảy ra hàng ngày. Tất cả giận giữ của mẹ và cha ghẻ đều đổ lên đầu con. Cuối cùng con phải bỏ nhà ra đi.

    - Rồi mày ở đâu, làm sao mà sống?

    - Con phải ngủ dưới gầm cầu hay trốn vào mấy căn nhà bỏ trống. Ăn cắp đồ, lục thùng rác hay bán cần xa ma túy để kiếm sống.

    Chị xoa đầu thằng nhóc và khuyến khích nó rồi dẫn tôi đến thắp nhang bàn thờ cha mẹ, hứa sẽ chăm nuôi thằng Mai như con chị. Chị nói với tôi có lẽ Chúa mang thằng Mai cho chị, để an ủi chị những lúc thương nhớ thằng con đã bỏ chị ra đi. Thế là chị lại có ba đứa con như xưa. Tôi thấy chị lau vội hai giọt nước mắt vừa lăn trên má.

    ***

    Bà chị tôi áp dụng luật lệ giang hồ và rất nghiêm khắc với mấy đứa con. Anh rể tôi qua đời từ khi mấy đứa còn rất nhỏ. Anh là một Phật tử thuần thành, vẫn hay đi Chùa vào những dịp lễ lớn. Chị là con chiên của Chúa, hai người khác đạo nhưng vẫn sống với nhau hòa thuận, đạo ai nấy giữ, mấy đứa con thì vừa cho đi nhà thờ vừa cho đi chùa. Sau khi anh mất chị ở vậy, làm ăn vất vả để nuôi con ăn học. Qua Mỹ, tôi và chị đi làm công một thời gian, hai chị em để dành được một số vốn nhỏ rồi mở tiệm ăn Việt Nam. Bạn bè Mỹ của mấy đứa cháu đến nhà chơi phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn Việt Nam. Có lần chị giải thích với mấy đứa con:

    Chúng mày tới nhà bạn Mỹ phải nói tiếng Mỹ, tiếng của cha mẹ chúng nó phải không? Ăn đồ ăn của cha mẹ chúng nó phải không? Vậy thì chúng nó cũng phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn của tao, thế mới công bình chứ. Mấy đứa con hết ý luôn.

    Mấy đứa nhóc Mỹ ăn đồ ăn Việt Nam riết rồi đâm ghiền, món gì cũng không từ, nước mắm, mắm tôm cũng mê luôn, chúng gọi mắm tôm là mắm “con chuột”.

    Chỉ một thời gian ngắn, thằng Mai đã có thể nói chuyện thông thường hằng ngày bằng tiếng Việt. Nó lớn lên trong tình thương gia đình của chị tôi, nó rất hãnh diện có một mái nhà ấm cúng và
    một người mẹ thương yêu chăm sóc cho nó Ngày thường cả ba đứa nhỏ đều đi học. Ngày Chủ Nhật, sáng đi lễ nhà thờ rồi theo học lớp Việt ngữ tại đó, chiều đi lên chùa học võ VOVINAM và họp Hướng Đạo. Ngày này qua tháng nọ, thằng Mai đã thành một đứa nhỏ Việt Nam từ cách ăn nói lễ phép, đi thưa về trình hẳn hoi, biết khoanh tay chào người lớn tuổi, biết cầm hai tay dâng đồ ăn cho Má Ba, biết quỳ lạy trước bàn thờ cha mẹ tôi. Ngày Tết cũng biết mừng tuổi chị tôi, biết cầm cờ vàng đi biểu tình ngày quốc hận. Nó hòa đồng với tụi nhóc Việt Nam chẳng khó khăn gì. Gặp người Việt họ vẫn tưởng Mai là đứa con lai, ai cũng khen ngoan và lễ phép, có đâu ngờ rằng nó là thằng Mỹ con chính hiệu con nai vàng! Nếu mấy đứa con nít Việt Nam lớn lên trên đất Hoa Kỳ bị gọi là “Chuối” ngoài da vàng, nhưng trong đầu óc đã Mỹ hóa hoàn toàn! Thì phải gọi thằng Mai là bánh bao, ngoài thì trắng trong thì hầm bà lằng đủ thứ.

    Mai và thằng Út học chung một lớp, đi đâu cũng có nhau, anh em rất thân thiết. Nó hay săn sóc hỏi thăm sức khỏe chị tôi, bắt chước thằng Út rót nước mời chị mỗi khi chị đi làm về, đôi khi còn nấu những món ăn nhà quê của người bản xứ mời chị ăn. Má con càng ngày càng thắm thiết. Chị cũng rất thương nó, có khi còn hơn cả mấy đứa con ruột của chị. Chị vẫn hay than thở với tôi “Tội nghiệp thằng Mai, có mẹ cũng như không.”

    ***

    Một hôm chị nhờ tôi vô trường xem có chuyện gì xảy ra cho thằng Mai và thằng Út, vì nhà trường yêu cầu chị đón chúng nó về nhà. Hai đứa đã đánh lộn với một đám học sinh khác trên xe buýt và bị bị đuổi học hai ngày. Chị tôi chửi cho một trận nên thân và phạt đứng úp mặt vào tường 2 tiếng đòng hồ và dặn lần sau không được đánh lộn nữa.

    -Tại sao hai đứa mày đánh lộn? chị hỏi.

    Thằng Mai dành phần:

    -Tại mấy đứa học sinh trên xe buýt chọc ghẹo thằng Út ăn hiếp nó, goi nó là “chink choong” hay “Ê Chinese go home”. Con đã nói thằng Út với con là anh em, chúng nó không chịu để yên cho thằng Út. Thế là đánh nhau.

    - Lần sau phải thưa nhà trường, không được đánh lộn nghe không? tao bảo không nghe, tao không chửi bằng tiếng Việt nữa đâu. Tao sẽ ra trước cửa nhà chửi chúng mày bằng tiếng Mỹ cho tất cả hàng xóm nghe cho xấu hổ cả lũ.
    Từ đó thằng Mai không dám đánh lộn nữa.

    ***

    Mai và Út ra High School cùng một lượt, rồi ghi danh vào UT (University of Texas at Austin) cùng với anh Hai của chúng. Tôi mua cho hai đứa một chiếc xe Toyota nhỏ để thỉnh thoảng về thăm nhà. Tôi nhận phần trợ cấp tài chánh cho ba đứa nhỏ thêm vào số tiền trợ cấp của chính phủ, để tiếp tục chương trình đại học. Chị tôi cuối tuần nào cũng lái xe lên Austin để tiếp tế đồ ăn cho mấy nhóc. Chị một đời làm thân cò lặn lội bờ ao, nay tóc đã bạc quá nửa, con cái đã đi hết, nhà cửa thật trống vắng. Tôi mời chị qua ở chung với tôi, nhưng chị một mực từ chối, tôi phải biểu mấy đứa nhỏ nhà tôi qua thăm hỏi chị thường xuyên. Đôi khi chúng ngủ luôn lại nhà chị và coi chị như mẹ chúng.

    Một hôm tôi nhận được cú điện thoại của thằng Mai gọi về:

    - Cậu Út ơi, cứu con với.

    - Mày làm sao vậy?

    - Con đang ở City Jail! Cậu đừng cho Má Ba hay nghe, bả biết được, chửi con thì cả hàng xóm đều biết, con xấu hổ lắm không dám về nhà đâu.

    - Mày biết xấu hổ sao còn làm bậy.

    - Con bị oan Cậu ơi.

    - Mấy thằng trong tù, đứa nào mà chẳng kêu oan.

    - Cậu không tin con, thì ai tin con bây giờ?

    - Nói tao nghe thử oan nỗi gì.

    - Con gọi điện thoại trong nhà tù, chỉ được gọi giới hạn thôi. Cậu lên đây bail con ra rồi con sẽ giải thích cho Cậu nghe, Cậu phải tin con mới được.

    Tôi sợ thằng Mai dính vào cần xa ma túy thì tiêu đời, tôi vội hỏi nó:

    - Mày buôn bán ma túy phải không?

    - Đâu có nào, con bị cảnh sát gài bẫy, nói là con solicit prostitutes.

    Tôi thở ra nhẹ nhõm, chỉ là tội thường phạm thôi, chắc chỉ bị cảnh cáo hay làm public service vài giờ là cùng.

    -Thôi được, mai tao sẽ lên đó lãnh mày về.

    Sáng hôm sau lên đến nơi, Mai đã dược chuyển về nhà tù của County rồi. Tôi phải nhờ văn phòng “Bail Bond” để lãnh nó ra, trả hết $500 tiền bail và $250 tiền lệ phí cho văn phòng. Sau khi nạp tiền bail, thằng Mai được thả ra chờ ngày ra tòa. Tôi hỏi Mai:

    - Mày nói cho Cậu nghe, làm sao mà cảnh sát bắt mày?

    - Cậu ơi, con oan thiệt mà. Sáng hôm qua con đi đổ xăng, thấy có con nhỏ bị hư xe, con tới coi giúp nó, cuối cùng là chẳng có hư gì cả chỉ là hết xăng thôi.

    - Nó ăn mặc sexy lắm phải không?

    - Sao Cậu biết?

    - Thì nó muốn làm mờ mắt mày để nó nói gì thì mày cũng OK, tao còn lạ gì chuyện đó.

    - Cậu còn chọc quê con nữa! Con nhỏ nói nó đi bụi đời vì không ở nhà được với cha ghẻ, mấy hôm nay sài hết tiền rồi, chẳng còn xu teng nào trong túi. Con nghĩ tới hoàn cảnh của con ngày xưa nên muốn giúp nó, giống như Cậu đã giúp con vậy.

    - Thế tao giúp mày tao có bị cảnh sát bắt không?

    - Cậu đừng la con nữa mà. Nó nói cái gì nhỏ lắm con nghe không rõ con nghĩ là nó muốn xin tiền để đổ xăng. Dù nó không xin thì con cũng cho mà, thế là con đưa cho nó $20. Con nhỏ vừa cầm tiền là đám cảnh sát chìm nhào tới còng tay con liền. Con hỏi tại sao họ bắt con, họ nói là con mắc tội mua dâm. Con nói chỉ là cho tiền con nhỏ đổ xăng thôi, không tin cứ hỏi con nhỏ kia thì rõ, đám cảnh sát nói mai mốt ra Tòa mà cãi.

    - Con nhỏ đó cũng là cảnh sát chìm để gài bẫy mày thôi, mầy xập bẫy rồi làm sao ra được.

    - Con xin con nhỏ nói vài lời công bằng cho con, nó chỉ cười cười thôi. Con muốn đục cho nó mấy cái quá đi.

    - May mà mày không đục nó, chỉ nặng tội thêm, thôi được đi kiếm cái gì ăn đã, tội mày cũng nhẹ, để tao nhờ luật sư lo cho. Lần sau muốn giúp ai phải cẩn thận. Mày phải lựa lời nói cho Má Ba biết, kẻo mai mốt bả biết được thì liệu hồn đó.

    - Vậy tối nay con sẽ gọi cho Má Ba, Cậu nhớ nói giúp con một tiếng nghe, không thôi bả chửi con sặc máu đó.

    - Người ta nói “oánh sặc máu” chứ chửi sặc máu sao được mày!

    - Thì con nói vậy Cậu hiểu rồi, Má con chửi cũng sặc máu đó Cậu ơi!

    - Biết dzậy sao còn làm bậy.

    - Con oan mà Cậu.

    Tôi nhờ văn phòng bail bond giới thiệu một luật sư, giá $300 lệ phí.

    Vì chưa có tiền án, thằng Mai chỉ bị phạt 2 ngày làm công tác cộng đồng thôi.

    ***

    Mai và Út ra trường cùng một lượt. Chị Ba và tôi cùng đi dự lễ mãn khóa, Chị rất mừng, ôm hai đứa con mà mắt đỏ hoe nói với chúng:

    -Các con ơi, đây là sự thành công lớn nhất trong đời Má, tất cả các con đã thành tài và nên người.

    Mẹ ruột của Mai vì bịnh nặng không thể đến được, ba ghẻ của nó cũng không muốn đến. Thằng Út được hãng Boeing ở Seattle nhận vào làm, Út ở chơi với Mẹ hai tuần rồi đi nhận việc. Thằng Mai đã có ý ở nhà với chị tôi, nên ngỏ ý:

    -Má à, đã từ lâu con nghĩ, anh Hai và thằng Út đều đi làm ở xa, con muốn ở lại nhà để săn sóc Má, cho nên con đã nạp đơn vào trường Baylor College of Medicine ở Houston. Khóa Fall sắp tới sẽ nhập học. Con xin Má cho con về thăm Mẹ con ở OMAHA rồi trở lại ngay. Từ nay con sẽ mãi mãi ở nhà với Má và chăm sóc cho Má suốt đời.

    Chị tôi rất cảm động khi nghe những lời chân tình đó, không cầm nổi nước mắt, ôm thằng Mai khóc vùi:

    - Má rất cám ơn con đã lo cho Má, con không cần phải làm vậy, Má tự lo được mà.

    - Má không sinh ra con nhưng đã cứu vớt con từ bãi sình lầy và ban cho con đời sống mới đầy ắp tình thương, chau chút cho con từng miếng cơm manh áo. Không kể những ngày đau ốm bênh hoạn, Má luôn luôn ở bên con, cầu nguyện cho con chóng khỏi. Tha thứ cho con bao lỗi lầm.

    - Thiên Chúa đã mang con giao cho Má, Má chỉ làm bổn phận của một người mẹ như bao nhiêu người mẹ khác trên thế gian này.

    Mẹ ruột thằng Mai bị ung thư phổi, qua đời chẳng bao lâu sau đó. Tôi và thằng nhóc bay về Omaha đưa đám, đó là lần cuối cùng nó gặp lại mẹ và cha ghẻ. Ông nay cũng đã già lắm rồi, những chuyện cũ hầu như không nhắc lại nữa, nhưng khoảng cách thì vẫn còn đó. Khó cho ai mở đầu một cuộc hòa giải, mặc dầu cả hai đều muốn. Tôi phải làm một nhịp cầu để hai người bắt đầu đối thoại và tha thứ cho nhau. Chỉ là những hiểu lầm thôi. Ngày chia tay, Ông Già và thằng Mai ôm nhau khóc vùi, những giận hờn đều trôi theo giòng nước mắt.

    ***

    Mấy năm qua thật mau, Thằng Mai ra trường và nội trú tại Texas Children Hospital trong khu vực Medical Center ở Houston. Nó muốn trở thành một BS Nhi Khoa để săn sóc cho trẻ em, nhất là
    những trẻ em bụi đời. Thằng Mai bây giờ đã là một Bác Sĩ, nhưng với tôi, nó vẫn chỉ là thằng nhóc bụi đời. Nhóc được rất nhiều trường học và Juvenile Probation Center mời đi nói chuyện về đề tài “Run Away From Home” Trẻ Em Bụi Đời.. Nó trở thành một thần tượng của đám con nít vô gia đình. Nhưng không phải đứa nào cũng may mắn như nó, phải có một cơ duyên và một quyết tâm sắt đá mới vượt qua bao thử thách. Đường đời có bao nhiêu ngã rẽ, được mấy khúc phẳng phiu?


    Comment


    • #3
      CÂY CU BIÊN GII
      MINH ĐẠO NGUYỄN THẠCH HÃN

      Tôi đứng ngay tại Ngã Ba Hàm Rồng nhìn dáo dác chung quanh. Buổi trưa nắng chang chang. Thỉnh thoảng một cơn gió nổi lên cuốn theo những đám bụi đỏ mù trời. Tôi dụi mắt mấy lần cố tìm những gì thân quen của một quá khứ yêu dấu xa xưa. Người tài xế của hãng du lịch chạy đến bên tôi thắc mắc:
      - Anh kiếm cái gì thế ? con đường trước mặt đi về hướng Phú Nhơn đến tận Ban Mê Thuột, bên trái là ngõ về quận lỵ Phú Thiện và tỉnh Phú Bổn, còn đằng sau là con đường mình mới từ Pleiku ra đây. Anh muốn đi đâu thì cứ cho tôi biết, tôi sẽ đưa anh đến nơi đến chốn.
      Không lưu tâm gì đến anh tài xế, tôi vẫn đứng yên đó thầm nghĩ:
      - Dù đã lâu lắm rồi nhưng làm sao quên được. Mình đã để lại một đoạn đời hoa bướm, môt mối tình đầu tha thiết nơi rừng núi này. Quang cảnh chung quanh vẫn vậy, nhưng con đường trải nhựa có thêm nhiều ổ gà, vắng người qua lại và hàng quán xơ xác tiêu điều hơn xưa.
      Rồi tôi trả lời bâng quơ:
      - Tôi đang chụp hình.
      - Tôi đâu thấy anh mang máy hình?
      - Ồ, chụp hình trong đầu ấy mà.
      Nguời tài xế há hốc mồm ra ngạc nhiên, anh ta nói lẩm bẩm trong miệng nhưng đủ cho tôi nghe rõ:
      - Mấy ông nội Việt Kiều thật là lẩm cẩm.
      Tôi leo lên xe và hối người tài xế chạy về phía quận Phú Nhơn. Chiếc xe mướn của hãng du lịch tương đối còn mới, lồng lộn lao về phía trước, lúc nghiêng qua trái, lúc lách qua phải để tránh những ổ gà và khúc đường bể chưa được sửa chữa. Mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ được sửa chữa nữa. Hàng trăm thứ chuyện quan trọng hơn người ta còn chẳng thèm để ý tới, xá gì một con đường nhỏ ở một thành phố xa xôi hẻo lánh này. Để mặc tài xế đánh vật với chiếc xe và con đường, tôi thả hồn chìm về dĩ vãng ...

      Pleiku…
      Ngày ấy đã xa lắm rồi…
      Tôi, một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới thành lập. Tiểu Đoàn tân lập, từ sĩ quan đến binh lính, hầu hết là những thành phần khó sài từ các đơn vị khác gởi về. Dĩ nhiên tôi cũng ở trong thành phần bất hảo đó. Từ miền biển bị đưa lên miền núi và chỉ huy một đám quân hỗn tạp gồm đủ mọi thành phần. Tôi còn đang tập những bước đi chập chững của nghề chỉ huy thì bị quăng ra chiến trường. Ngày ấy, cũng trên con lộ này, tôi dẫn hai con Gà Cồ Đại Pháo 105 ly để yểm trợ cuộc hành quân trực thăng vận tái chiếm quận lỵ Phú Nhơn mà Bắc Quân vừa mới tràn ngập đêm hôm trước.
      Ngã ba này bình thường chỉ có vài quán cóc lèo tèo để bán đồ ăn thức uống cho khách của xe đò chạy đường Pleiku - Phú Bổn hay Pleiku – Ban Mê Thuột. Hôm đó dân chạy loạn từ Phú Nhơn ra rất đông, từ những làng Thượng, hoặc mấy khu dinh điền và những người làm ăn buôn bán chung quanh quận lỵ. Đồng bào thấy lính đi tái chiếm quận, họ rất mừng rỡ, người hỏi thăm, người cho quà bánh. Để đáp lại tấm thạnh tình, đám lính tặng lại dân chúng thuốc lá và những đồ hộp Quân Tiếp Vụ. Họ ở quận nhỏ xa xôi cũng nghèo khổ như lính vậy thôi.

      Từ sáng sớm, lo đốc thúc tải đạn, sửa soạn xe cộ, đại bác, hàng trăm thứ phải làm cho một cuộc trực thăng vận, cho nên bao tử đã cồn cào. Phi cơ câu súng đại bác phải xin từ căn cứ Mỹ ở Quy Nhơn lên, nên chờ cũng còn lâu. Tôi rủ anh chàng Chuẩn Uý Trung Đội Phó kiêm Đề Lô vào quán bên đường kiếm cái gì lót bụng. Dân quận lỵ bu lại hỏi thăm tình hình, đánh nhau có lâu không? chừng nào có thể về quận được? Toàn những câu hỏi mà chỉ có Trời mới trả lời được.
      Có tiếng một cô gái hỏi thăm ông chủ quán người Việt gốc Hoa:

      - Mấy anh ấy đi giải toả quận Phú Nhơn phải không ông chủ.
      - Tôi đoán vậy, cô thử hỏi mấy ổng coi.
      Tôi quay lại, người vừa hỏi là một thiếu nữ độ đôi mươi, nàng mặc chiếc áo dài trắng học trò, trông rất hiền thục, đang hỏi thăm người chủ quán, tôi hỏi lại cô gái:
      - Sao cô đoán tụi này đi giải tỏa Phú Nhơn ?
      - Em mới từ Tuy Hòa lên Pleiku hôm qua. Sáng nay đáp xe đò vô quận, không ngờ kẹt từ sáng đến giờ.
      - Cô cũng ở quận Phú Nhơn sao?
      - Em dạy ở trường tiểu học Phú Nhơn, còn nhà em ở Tuy Hòa.
      - Cô nên về Pleiku kiếm chỗ ngủ đỡ qua đêm nay.
      - Em không có ai quen ở Pleiku cả, vả lại em nóng lòng không biết nhà cửa, trường ốc ra sao?
      - Cô có lo lắng thì cũng chẳng làm gì được, tốt hơn hết là kiếm chỗ nào nghỉ đỡ qua đêm nay, chờ giải tỏa xong mới về được.
      - Đám học trò của em chạy ra đây cũng đông lắm, em không thể bỏ chúng được. À này các anh đừng pháo vào trường học nghe.
      Tôi vỗ vai Châu Đề Lô vừa cười vừa nói:
      - Cái đó cô phải nhờ ông Châu mới được, ổng chỉ đâu là nơi đó thành bình địa.
      Châu vội lên tiếng:
      - Trường của cô giáo tụi này không dám đụng tới đâu.
      Tôi chế diễu Châu:
      - Bạn hứa một mình chứ không có tôi can dự trong đó đâu nghe. À nãy giờ mình nói chuyện mà quên giới thiệu. Tôi tên Lập, anh bạn này tên Châu. Còn quý danh cô là ...
      - Em tên là Quỳnh Hoa, các anh hứa là phải giữ lời đó à nghe!
      Tôi chọc ghẹo Quỳnh Hoa:
      - Nếu thế thì Quỳnh Hoa phải đền cái gì mới được chứ ?
      Tôi nhìn người con gái nước da trắng hồng, mịn màng như trứng gà bóc, đôi môi đỏ như cánh bích đào, cặp mắt to đen láy trông thật thông minh lanh lẹ, mái tóc thề phủ xõa ngang lưng, nụ cười tươi như hoa với hàm răng đều đặn như những hạt bắp vừa đủ lớn. Nhìn Quỳnh Hoa đứng giữa đám học trò nhà quê lem luốc bẩn thỉu, tôi có cảm tưởng nàng là bà tiên giáng trần, đang cầm cây đũa thần gõ trên đầu đám chúng sinh đầy đau khổ. Nàng rất bạo dạn tuy hơi lo lắng, nhưng không có cái e lệ như những cô gái kinh thành. Tôi tự nhủ:
      - Bông hoa vương giả này sao lại mọc ở chốn rừng không mông quạnh này nhỉ?
      Quỳnh Hoa thấy tôi nhìn cô chăm chú, có vẻ mắc cỡ đôi má càng hồng hào thêm, còn đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Châu vội đề nghị:
      - Thôi bữa nào giải toả xong, đãi tụi này một bữa cơm dân dã được không Quỳnh Hoa?
      - Em nấu ăn dở lắm, nhưng em sẽ đãi các anh một chầu bún bò Huế, được không?
      Tôi làm bộ nuốt nước miếng:
      - Ôi chao, chưa thấy mùi mà đã thèm nhỏ dãi rồi.
      Có tiếng trực thăng từ xa vọng lại, chúng tôi từ giã Quỳnh Hoa rồi vội vã đốc thúc anh em binh lính để cuộc di chuyển được mau chóng. Bình, anh chàng tài xế xe jeep của tôi chạy lại hỏi:
      - Mình cần về hậu cứ lấy thêm gì nữa không Ông Thầy?
      - Chắc đủ rồi, vả lại cũng không còn kịp nữa.
      Tôi móc túi đưa cho Bình một ít tiền lẻ và nói:
      - Em vào trong quán mua vài gói mì và một hộp trà, tối nay mình ăn mừng chiến thắng.
      Bình cầm tiền, nheo mắt chọc tôi:
      - Cái cô hồi nãy coi bộ chịu đèn Ông Thày lắm rồi đó nghe.
      Tôi thấy thích thú trong lòng nhưng cũng làm bộ chống chế:
      - Con gái đời nay đẩy đưa lắm, đừng tưởng bở.
      Trời bắt đầu đổ mưa khi trực thăng vừa bốc hai khẩu đại bác. Tôi nhìn bầu trời đen nghịt mà lo lắng cho những giờ phút nguy hiểm gian lao sắp tới bởi vì tôi vừa phải chiến đấu với địch quân vừa phải yểm trợ cho quân bạn ngay từ phút đầu trong thời tiết mưa gió bão bùng này. Những cơn mưa trên miền núi thường dai dẳng và mang theo gió lạnh thấm đến tận xương tủy của những người lính Pháo Thủ, vừa thiếu ăn vừa phải làm việc cực nhọc. Tôi thầm hỏi liệu đêm nay trực thăng có kịp đổ quân để bảo vệ hai con gà cồ của mình không?

      Hai khẩu đại bác cùng với 4 túi đạn 105 ly và chiếc xe Jeep được thả xuống một ngọn đồi trọc. Dưới cơn mưa tầm tã, đất đỏ lầy lội, đám pháo thủ thoăn thoắt làm việc: hì hục đẩy hai khẩu pháo lại gần nhau, khuân vác đạn dược, dựng cây truyền tin, nhắm hướng súng. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, những trái đạn đầu tiên đã được phóng đi liên tục để dọn bãi đáp cho hai tiểu đoàn Bộ Binh đổ bộ xuống mục tiêu.

      Trận tái chiếm quận Phú Nhơn hôm đó đã thành công hoàn toàn nhưng Châu Đề Lô đã bị thương nặng, một mảnh đạn B40 của địch quân đã chọc một lỗ lủng lớn ở bụng của hắn. Toán Pháo Binh được di chuyển về phía sau quận hành chánh để sẵn sàng yểm trợ cho lực lượng bảo vệ quận.
      Một buổi sáng, sau khi sửa sang tuyến phòng thủ tạm ổn định, tôi ghé thăm Quỳnh Hoa. Ngôi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Anh em quân nhân trong quận đang giúp một tay sửa sang những chỗ bị trúng đạn. Tôi đến bên lớp học của Quỳnh Hoa, nàng đang say sưa tập hát cho các em nhỏ. Có tiếng một em bé báo động:
      - Thưa cô có Ông Lính tới kiếm.
      Nàng quay lại, gật đầu chào. Tôi ướm thử xem nàng còn nhận ra tôi không:
      - Ông Lính kính chào Cô Giáo, Cô Giáo còn nhớ Ông Lính này không?
      Nàng không thể nhịn cười được lối diễu cợt của tôi, nhưng cũng chẳng chịu thua:
      - Ông Lính đi đâu mà lạc vô đây?
      - Ông Lính đi lạc vào Thiên Thai đó ạ, không biết Tiên Nữ có cho Ông Lính thăm rừng Đào Tiên không.

      Nàng cũng lém lỉnh không vừa trả lời tôi bốp chát:
      - Ông Lính tỉnh lại đi, đây là chốn phàm tục, làm gì có nàng Tiên nào đâu.
      - Chứ Quỳnh Hoa không phải là Tiên sao?
      Nàng nghe tôi khen không khỏi e thẹn:
      - Anh Lập làm Quỳnh Hoa mắc cỡ quá hà! Người ta xấu như ma mà so sánh với Tiên, anh có mơ ngủ không đấy? Anh Châu có khỏe không anh Lập?
      - Châu bị thương nặng đang nằm ở quân y viện Pleiku.
      - Trời ơi, có nguy hiểm lắm không anh?
      Thấy mặt Quỳnh Hoa biến sắc, tôi thấy hơi ghen tỵ với bạn mình, nhưng vội trấn an:
      - Chắc không đến nỗi nào, nhưng phải nằm nhà thương một thời gian.
      - Hôm nào anh có đi thăm anh Châu cho em đi theo với nghe.
      Tôi tự nhủ thầm sao nàng dễ xúc động như vậy nên hứa đại cho xong chuyện:
      - Cuối tuần tôi phải về hậu cứ nhân tiện ghé đón Quỳnh Hoa đi thăm Ông Châu luôn thể, được không?
      - Gia đình ảnh đã biết tin chưa vậy anh Lập?
      - Gia đình ảnh ở Pleiku đã được thông báo rồi.
      Tôi hỏi thăm qua loa về tình trạng trường ốc và nơi ở của nàng rồi vội vã cáo lui, hẹn gặp lại sáng thứ bảy. Quỳnh Hoa hiện ở trọ tại nhà bà Hiệu Trưởng, một người bạn cũ của gia đình nàng. Chồng bà cũng là một cựu quân nhân giải ngũ, có tiệm tạp hóa ngoài chợ.
      Sáng thứ bảy, tôi cho tập họp Trung Đội, giao doanh trại cho Ông Thượng Sĩ Thường Vụ rồi hối đám quân xa chuẩn bị xe cộ về hậu cứ lãnh lương thực và đạn được. Tôi gọi Bình vào văn phòng rồi dặn:
      - Bình à, coi lại xe cộ, xăng dầu đầy đủ, bữa nay mình về hậu cứ đồng thời ghé thăm ông Châu luôn thể. À hôm nay có một người bạn xin quá giang nữa nghe.
      - Ai vậy Ông Thầy?
      - Cô giáo bữa mình gặp ngoài ngã ba Hàm Rồng đó nhớ không em.
      - Ồ, vậy em phải rửa xe cho thật sạch mới được.
      - Lính tác chiến mà chú mày làm như lính kiểng ở thành phố không bằng, không sợ tụi hậu cứ nó cười sao?
      - Sức mấy mà tụi nó dám cười thầy trò mình.
      Tôi ghé lại nhà Quỳnh Hoa, nàng đã chờ sẵn, vẫn chiếc áo dài trắng hôm nào. Nét mặt vui vẻ, nụ cười tươi như hoa trông mới duyên dáng làm sao! Nàng bước ra cửa đón tôi:
      - Chào anh, mời anh vào trong nhà uống miếng nước đã.
      - Chào cô Quỳnh Hoa, cám ơn cô để khi khác, thôi chúng ta lên đường kẻo trễ.
      Đến hậu cứ, tôi nhận tiếp liệu rồi hẹn tất cả tập trung lúc 2 giờ chiều để trở ra Phú Nhơn. Tôi chở Quỳnh Hoa vào bệnh viện. Châu vẫn còn thiếp trong giấc ngủ mê, khuôn mặt trắng bệch, hơi thở yếu ớt. Bà mẹ của Châu nhìn thấy chúng tôi thì không cầm nổi nước mắt. Bà bắt đầu thút thít khóc. Tôi tự hỏi trong những ngày qua người mẹ đau khổ này đã đổ bao nhiêu nước mắt cho đứa con yêu dấu của mình. Chiến tranh thật tàn nhẫn! Nó như một con qủy luôn luôn cười cợt trên sự đau khổ của con người. Nó lấy xác chết làm chiến lợi phẩm. Quỳnh Hoa nhìn thấy Châu, bỗng hai hàng lệ tuôn trào. Tôi đưa chiếc khăn tay, nàng cầm lấy, che lên mắt và đi vội ra ngoài. Tôi không ngờ nàng quá nhạy cảm và thương tâm như vậy đối với một người bạn mới quen. Tôi an ủi bà mẹ của Châu mấy câu rồi vội vã đi tìm Quỳnh Hoa. Nhìn nàng đứng dựa chiếc cột ngoài hành lang bệnh viện, đôi vai rung lên từng hồi, có lẽ nàng đã quá xúc động. Tôi chẳng biết làm sao để an ủi nàng. Miệng lưỡi cứng đơ, chân tay thừa thãi, tôi lặng lẽ đến bên nàng, mắt tôi cũng bắt đầu nhòa lệ, tôi ôm lấy đôi vai bé bỏng của nàng. Quỳnh Hoa quay mặt lại và úp mặt vào vai tôi khóc nức nở như một đứa con nít. Có lẽ những đau khổ thầm kín lâu nay được dịp tuôn ra theo dòng nước mắt. Tôi để mặc nàng khóc cho vơi mối thương tâm. Một vài người đi ngang dòm chúng tôi với đôi mắt dò hỏi rồi bỏ đi. Chuyện khóc lóc có lẽ quá bình thường ở nhà thương. Nàng khóc một lúc rồi im lặng, chỉ còn những tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi an ủi nàng:
      - Em đừng khóc nữa, anh Châu chắc không đến nỗi nào đâu, mẹ ảnh nói Bác Sĩ cho hay ảnh đã qua cơn hiểm nghèo rồi chỉ chờ bình phục thôi.
      Nàng thì thầm bên tai tôi:
      - Em nhớ ba em hồi đó, cũng nằm ở bệnh viện này trong cơn hấp hối, nên em không cầm nổi nước mắt, xin anh tha lỗi cho em.
      - Anh xin lỗi em, không ngờ cuộc thăm viếng này đã gợi cho em những đau đớn như vậy.

      - Anh đừng nói vậy, anh không có lỗi gì cả, chỉ vì em tủi thân đó thôi.
      Khi đã tỉnh trí, nhìn thấy một bên vai áo tôi ướt đẫm nước mắt, có lẽ thấy hơi ngượng ngùng nên Quỳnh Hoa đẩy nhẹ tôi ra và lí nhí mấy lời xin lỗi. Tôi vội dìu nàng ra xe và rủ ra ngoài phố kiếm gì ăn. Tôi dẫn Quỳnh Hoa vào quán như một đôi tình nhân gắn bó bên nhau. Những cặp mắt nhìn soi bói của đám thực khách mà quá nửa là lính tráng khiến nàng hơi bối rối. Tôi nhìn nàng với đôi mắt nồng nàn, thầm cám ơn Thượng Đế đã cho tôi có dịp làm quen với người con gái dễ thương và thùy mị như vậy. Sự hiện diện của nàng trong đời sống cô đơn và đầy hiểm nguy ở nơi tiền đồn bất trắc khiến tôi thấy những gánh nặng trên vai bỗng nhẹ hẳn đi. Quỳnh Hoa là một dòng suối ngọt, một bóng mát, một hy vọng, một nơi yên tĩnh, êm đềm cho linh hồn và thể xác mệt mỏi của tôi trong cuộc chiến tàn nhẫn đầy máu và nước mắt này. Tôi luôn cảm thấy rằng sau nét mặt vô tư ngây thơ, Quỳnh Hoa có một sức thu hút kỳ lạ, giống như một vùng đất mới chứa đầy những bí mật quyến rũ đối với những nhà thám hiểm. Đúng vậy, nàng chính là sự thiêng liêng kỳ bí, một vườn địa đàng cho riêng tôi. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao nàng quá đau lòng khi thăm Châu trong bệnh viện nên muốn tìm hiểu thêm:
      - Quỳnh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa?
      - Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về đấy ngay.
      - Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không?
      - Ngày xưa, ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đã bỏ cả cuộc đời để xây dựng và cải tiến cái quận đèo heo hút gió này. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng từ miền ven biển và từ ngoài Bắc di cư lên đây lập nghiệp rất đông, đã được chính quyền tận tình giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn điền của một xã phía tây quận lỵ, ba em đã lọt vào ổ phục kích và bị sát hại. Em lớn lên, muốn tiếp nối cái hoài bão của ba em là nâng cao dân trí để họ có thể hiểu được ý nghĩa của sự tự do, dân chủ, công bình và lẽ phải.
      Tôi thầm nghĩ những mỹ từ tự do, dân chủ thật quá mơ hồ đối với những người lính tác chiến, với đám dân quê nghèo thất học ở đây. Gia đình, vợ con, miếng cơm manh áo, mạng sống có lẽ gần gũi hơn. Tôi thấy vừa kính nể vừa thương hại người con gái mới lớn mang trong lòng một hoài bão quá lý tưởng, quá to lớn. Nàng đúng là một Tiên Nữ mà Thượng Đế đã gởi xuống cõi trần đầy khổ đau này.
      Sau nhiều lần đi thăm Châu, chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn. Tôi tìm thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm gia đình cho tương lai. Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng yêu bởi vì chỗ nào cũng thấy đoá hoa quỳnh nở rộn ràng.
      Chúng tôi đã yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ chảy qua quận lỵ làm chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi yêu. Bên bờ sông những hàng cây phượng vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa mưa nước phù sa đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần hết cây cầu sắt nhỏ bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề ngang chỉ đủ cho một chiếc xe đò qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ những bãi cát trắng tinh. Người ta đào cát thành những vũng nước trong, gánh về để uống. Giữa lòng sông nước trong vắt chảy lững lờ, nhìn thấy cát và sỏi tận dưới đáy. Mấy chàng Pháo Thủ thường ra tắm sông để được chiêm ngưỡng những nàng thôn nữ cao nguyên ngực no tròn và tự nhiên một cách vô tư. Tôi yêu núi rừng cao nguyên, mỗi buổi sáng thức dậy đứng trên đồi nhìn chung quanh chỉ thấy một màu xanh rì, mênh mông như biển cả. Tôi yêu con sông bé nhỏ, tôi yêu cây cầu sắt cũ kỹ đưa người qua sông, tôi yêu hàng phượng vĩ học trò, tôi yêu sân trường tiểu học Phú Nhơn, tôi yêu con đường nhựa bé bỏng chạy qua quận lỵ và băng qua núi rừng cao nguyên. Tôi yêu và yêu rất nhiều, bởi vì ở đâu cũng thấy hình bóng của nàng. Tôi yêu vô cùng những buổi chiều hai đứa dẫn nhau ra bờ sông, lang thang dưới những hàng cây xanh um, hoặc ngồi trên thành cầu nhìn dòng nước hững hờ trôi. Nàng ngồi bên tôi, đong đưa hai bàn chân trắng muốt, cười nói vô tư như một Thiên Thần. Trời đất, vũ trụ, thời gian như ngừng hẳn, ôi đẹp đẽ và thanh bình đất nước tôi!
      Ở đó, bấy giờ, không nghe tiếng súng nổ, không nghe tiếng gầm gừ của máy bay phản lực, không gian hoàn toàn yên tĩnh.
      Chúng tôi đã dệt những giấc mộng tương lai đơn sơ và êm đềm.

      Tôi thì thầm bên tai nàng:
      - Quỳnh Hoa ơi, mai này chiến tranh chấm dứt, anh sẽ cất một căn nhà bên bờ sông này, em sẽ tiếp tục dạy học, còn anh sẽ biến vùng đất màu mỡ này thành một đồn điền trù phú, em có chịu không?
      - Anh trồng cho em một vườn trái cây mít, ổi, xoài, đu đủ, mảng cầu nghe anh.
      - Ừ, anh sẽ trồng bất cứ cây gì em muốn.
      - Anh hứa thương em và chiều chuộng em như ngày xưa ba yêu thương và chiều chuộng em nghe.
      - Anh hứa.
      - Anh đừng bỏ em, như ba đã bỏ em một mình, em sợ lắm.
      - Không, anh sẽ không bỏ em một mình.
      - Nghe anh nói thơ mộng và sung sướng qúa, cám ơn Trời Phật đã cho em gặp anh. Có lẽ ba đã run rủi cho em gặp anh đó. Lập ơi, em thương anh lắm, anh biết không?
      - Sao em thương anh nhiều dữ vậy?
      - Không biết nữa, có lẽ em thấy anh giống ba em. Anh chiều chuộng em, anh là người lớn, bao dung, đại lượng, biết nhiều, hiểu nhiều. Anh biết không, hôm em gặp anh đi hành quân, em thấy anh oai hùng quá, giống như ba em ngày xưa. Mấy ông lính thương anh lắm phải không?
      - Không, mấy ông ấy ghét anh lắm.
      - Cái mặt xạo, ai mà ghét anh. Anh nhiều đào lắm phải không? nói cho em nghe đi.
      - Có mình em thương anh thôi, thiệt đó.
      Tôi ngồi bên nàng, uống từng giọt tình yêu ngọt ngào, nghe trái tìm mình đập từng điệu nhạc run rẩy trên lối vào Thiên Đường chỉ có hai đứa chúng tôi. Nàng đã dạy cho tôi biết mơ mộng, thấy đời đáng yêu hơn, những thứ đó tôi đã đánh mất từ khi mới lớn, từ khi bước chân vào quân ngũ, tôi vẫn nghĩ tuổi trẻ của tôi đang đi vào ngõ cụt với những giấc mơ hãi hùng. Đời tôi thật trống rỗng nếu không có nàng. Tôi thấy yêu thương nàng quá đỗi. Quỳnh Hoa vẫn còn vẽ những giấc mơ của nàng nhưng tôi không còn nghe gì cả, chỉ thấy cánh môi hồng mấp máy, hơi thở thơm tho mùi mía lùi phà trên mặt tôi. Bất chợt, tôi ôm và hôn nàng say đắm, người nóng bừng như có dòng điện chạy ào ạt từ tim lên đầu. Nàng đẩy nhẹ tôi ra:
      - Coi kìa, người ta cười mình đó.
      - Ai mà dám cười mình.
      Nàng đánh trống lảng, bâng quơ hỏi tôi:
      - Anh ơi, cây cầu này có tên không anh.
      - Anh cũng chẳng biết nữa, hay là mình đặt cho nó một cái tên làm kỷ niệm nghe.
      - Em cho anh đặt đó.
      - Ừ, hay là mình gọi là Cây Cầu Biên Giới nghe em.
      - Cái tên nghe cũng hay đấy, nhưng mà nghe có vẻ chia ly quá. Giống như trong bài “Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu” của Nguyễn Văn Đông vậy.
      Tôi phì cười:
      - Mới thương nhau mà em đã nghĩ đến chuyện chia ly rồi.
      - Nhưng mà em sợ lắm, thời buổi chiến tranh... Lỡ mai này, anh bỏ em ở đây một mình, em buồn lắm đó.

      Tôi cố gắng đặt niềm tin vào trái tim đang hoang mang của nàng:
      - Không, anh sẽ không bỏ em một mình, anh sẽ xin với mẹ để cưới em, chúng ta sẽ mãi mãi bên nhau.
      Nàng reo lên sung sướng như một đứa con nít, mắt sáng ngời những tia hy vọng, rồi ôm lấy tôi. Ôi mùi thơm ngọt ngào, tôi làm bộ đẩy nhẹ nàng ra:
      - Coi chừng người ta thấy, họ cười mình đó.

      Vẻ mặt hân hoan. Nàng không còn e dè gì nữa, trả lời tôi một cách táo bạo:
      - Ai cười hở mười cái răng!
      Thật không ngờ, nơi rừng rú hoang vu nguy hiểm này ai nghe đến cũng rợn tóc gáy. Bạn bè, người thân, lâu không gặp nhau, hỏi tôi bây giờ ở đâu, tôi trả lời ở quận Phú Nhơn tỉnh Cheo Reo, ai cũng lè lưỡi chọc tôi bộ hết đất rồi sao lên miền Thượng ở vậy, tôi chỉ cười khì. Bây giờ tôi đã có lý do để trả lời họ ... Bởi vì tôi mê hoa quỳnh, thế thôi.
      - Anh làm gì ngồi thừ ra thế, hãy nói tiếp về tương lai của chúng ta cho em nghe đi.
      - Anh đang sung sướng quá nên làm một bài thơ kỷ niệm.
      - Ồ, anh biết làm thơ nữa sao? Hãy đọc em nghe đi, em sẽ thưởng cho anh.
      - Ừ, anh đọc thơ con cóc, em đừng cười nghe. Em biết thơ con cóc không? Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra.
      Nàng đọc tiếp:
      - Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi... với anh !!! Em thích thơ con cóc lắm. Em sẽ làm con cóc như trong chuyện cổ tích gì đó, anh học trò có người vợ cóc xấu xí, đêm đêm hiện nguyên hình là một nàng Tiên săn sóc cho chồng. Ban ngày là một con cóc lẽo đẽo theo chồng.
      - Nếu em là một nàng Tiên cóc, anh sẽ bỏ em vào ba lô mang theo khi đi hành quân để lúc nào em cũng ở bên anh.
      - Anh phải đọc thơ cóc cho em nghe. Ơ, nếu vậy mấy ông lính sẽ gọi anh là người điên đó.
      - Điên vì em, thì anh cũng chịu.
      Nàng bá cổ tôi nũng nịu:
      - Thôi đừng đánh trống lảng, đọc thơ con cóc cho em nghe đi anh.
      - Ừ, anh đọc nghe, cấm cười đó, đứa nào cười anh khóa miệng lại cho mà coi.
      Thế là tôi phải đọc bài thơ con cóc của tôi cho nàng nghe:
      Chiều về thấp thóang bên sông,
      Thấy Quỳnh thơm ngát thấy lòng xôn xao
      .

      Nàng cười rũ rượi, hai tay đánh liên hồi vào vai tôi. Một ngày như mọi ngày trôi qua, trong thung lũng tình yêu, bên cây câu biên giới, nỗi chết đã chịu tạm rút lui, để nhường chỗ cho tình yêu hoa bướm ngọt ngào. Tôi lấy con dao găm đeo bên mình khắc câu thơ trên thành cầu sắt để đánh dấu một chặng đường yêu đương…
      Tôi đánh rơi giấc mơ trên con đường nóng bỏng khi nghe ông tài xế léo nhéo bên tai:
      - Anh muốn vào chợ hay đến nhà ai ở quận Phú Nhơn?
      Tiếng người tài xế kéo tôi về thực tại. Giấc mơ thật ngắn ngủi, như cuộc tình của chúng tôi.
      - Anh cho tôi lại trường tiểu học.
      Quang cảnh vẫn không thay đổi mấy, ngôi trường tiểu học vẫn như xưa. thời gian như ngừng trôi ở quận lỵ nhỏ bé này. Phố chợ đìu hiu vẫn còn kia, hàng rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn còn đó, nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa quỳnh đã từng in dấu chân nơi chốn này. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn đủ chỉ thiếu một người. Tôi hối người tài xế chạy ra phía cây cầu. Chiếc cầu sắt nhỏ bé đầy dấu kỷ niệm, tôi như trong giấc mơ, Chàng Tú Uyên ngày xưa khi tỉnh giấc không thấy người đẹp trong tranh đâu nữa, chắc cũng ngỡ ngàng như tôi hôm nay thôi. Tôi bước lên cầu, ngồi đúng vào chỗ ngày xưa chúng tôi đã từng có một thời mơ mộng. Tôi ngồi bệt xuống, hai chân đong đưa, mắt nhìn xa xăm trên những ngọn phượng vĩ bên sông, cố tìm chút nắng vàng ngày xưa của một buổi chiều tà. Tìm mãi cũng chẳng thấy đâu, không thấy một dấu tích gì của nàng. Nơi thành cầu này tôi đã hôn những nụ hôn đầu tiên trong đời, vẽ những giấc mơ đầu tiên trong đời và những bài thơ con cóc đầu tiên trong đời tôi. Đúng là cây cầu chia ly như nàng đã nói. Bây giờ nàng ở đâu, hay đã bỏ xác trên tỉnh lộ Số 7 trên đường di tản về Tuy Hoà. Ồ phải rôì, tôi phải tìm lại bài thơ con cóc, có lẽ đó là kỷ niệm duy nhất còn lại của tôi với nàng. Tôi dò từng tấc sắt trên thành cầu, bài thơ còn đó nhưng đã dài thêm hai câu:
      Chiều về chiều vẫn một mình,
      Trách người năm cũ bỏ tình bơ vơ.

      Tôi bay về Hoa Kỳ lòng buồn miên man, bao nhiêu háo hức của ngày trở lại Việt Nam đã tiêu tan đâu mất chỉ còn lại sự mệt mỏi và chán chường. Tôi đã đi mọi nơi, để tìm tung tích của Quỳnh Hoa nhưng cũng không có tin tức gì. Ngày ấy nếu tôi không bị kẹt ngoài Huế, chắc chúng tôi đã chết bên nhau hay cùng nhau lênh đênh trên con tàu vượt biển. Thời gian thấm thoát trôi đi, tóc tôi đã bắt đầu điểm bạc. Mỗi lần đi đâu, thấy bóng dáng mái tóc thề và chiếc áo dài trắng lòng tôi lại xôn xao như ngày nào bên chiếc Cầu Biên Giới.

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X