Bửu Liệp - Người Đàn Bà 'Ngụy' Bán Nước Mía...

Collapse
X

Bửu Liệp - Người Đàn Bà 'Ngụy' Bán Nước Mía...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • KiwiTeTua
    Moderator

    • Jul 2008
    • 1917

    Bửu Liệp - Người Đàn Bà 'Ngụy' Bán Nước Mía...

    Bửu Liệp - Người Đàn Bà 'Ngụy' Bán Nước Mía Trước Cổng Sân Vận Động "Chiến Thắng"

    Thời “Ngụy”, sân vận động thị xã để dành biểu diễn thể thao thể dục. Nhưng một ngày sau khi giải phóng về, nó trở thành pháp trường mà “tội phạm” đầu tiên là viên tỉnh trưởng – kẻ không khiếp oai giải phóng, đã tử thủ đến viên đạn cuối cùng và đã bị bắt sống.

    Sau đó, sân vận động trở thành nơi lùa dân vào để nghe dân chăn trâu, chăn bò diễn văn diễn thuyết về sức mạnh chủ nghĩa Mác-Lê-Mao-Hồ-Khơ-Đặng… xà bần.

    Nhưng ít lâu sau đó là nơi bắn lộn giành ghế thấp ghế cao giữa cán Nam cán Bắc trong một cuộc xem đá bóng tròn tranh giải bán kết.

    Bây giờ thì nó lại là giường êm nệm ấm cho chị em ta chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp – hành nghề bán trôn nuôi miệng, là chốn nghỉ mát và địa điểm họp tham mưu của các băng quái nhũ trong thị xã và còn là cái mâm đặt bàn đèn cho các toán tình nhân của nàng Tiên Nâu.

    Trước cổng sân vận động có một Ngã Ba tục gọi là Ngã Ba Ống Quần. Ở giữa Ngã Ba này có một ngọn tháp cẩm thạch trắng của người Pháp dựng lên để ghi công binh sĩ của họ đã chết trận trong khi chiếm tỉnh lỵ này đâu hồi 189… gì đó. Chung quanh chân tháp là một vườn hoa khoe sắc bốn mùa. Xen lẫn trong những luống hoa là những chiếc băng đá trắng.

    Tại sao cảnh trí xinh đẹp vậy lại có cái tên là Ngã Ba Ống Quần? Đó là một danh từ truyền miệng như Xóm Cổ Cò, Chợ Cái Nhào, Rạch Bần Ổi... v.v… Những cái tên mộc mạc chỉ có ý nghĩa với dân địa phương. Để rõ cái hình tượng độc đáo về địa danh Ngã Ba Ống Quần, bạn hãy chịu khó lấy cái quần dài trải ra dưới đất hoặc bạn cứ tự nhiên nằm xuống bẹt rộng hai chân thì bạn sẽ thấy. Từ trong thị xã đi ra, xe chỉ chạy một đường. Đến đây rẽ ra như hai cái ống quần, mà ngay giữa “đáy quần” là ngôi tháp.

    Khi ông bà giải phóng về, việc đầu tiên là xử bắn viên tỉnh trưởng, việc thứ hai là phá tan tành ngôi tháp “tàn tích của đế quốc” để xây ngôi tháp mới kỷ niệm Giải Phóng, việc thứ ba là sửa tên Ngã Ba Ống Quần ra Công trường Chiến Thắng và luôn đó, đặt tên sân vận động là sân vận động Chiến Thắng. Thừa thắng xông lên người ta dựng trên đầu cổng một tấm áp phích, vẽ hình một đoàn người to bằng thật, gồm Công-Nông-Binh-Trí (không có “thương) và một đám thanh niên, thiếu nữ mặt tươi như hoa, vừa đi vừa hát hoặc la khẩu hiệu với những nắm tay hoặc búa liềm vung lên. Trên đầu họ là thủ cấp của một lão già, râu loe hoe, má phính, đôi mắt híp như sưng, dưới chân chạy một dòng chữ đỏ lòe:

    “Đánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng đất nước tươi đẹp gấp mười lần xưa. Lời Hồ Chủ Tịch”.

    Cái câu nói này đã trở thành một thứ thánh ngôn được đem ra dạy dỗ cho toàn miền Bắc hồi thời đánh Mỹ, dân quân cán (trừ Bộ Chính trị) lấy rau muống và đậu phụ làm thức ăn chính trong bữa cơm ngô vàng. Và người Bắc chính gốc lẫn người Nam tập kết cũng sẵn lòng mê tín như chính tác giả của câu nói đó.

    Nhưng đã mười một năm qua rồi, cái Ngã Ba Ống Quần vẫn còn trơ khấc kia. Chưa có cái tháp nào mọc lên, còn họ hàng nhà công nông hò la trên đầu cổng sân vận động thì đã thừa thắng biến đi đâu cả. Có lẽ thấy rằng cứ đứng mãi trên đó thì chẳng ai xây dựng đất nước tươi đẹp hơn xưa được, cho nên mọi người đều tình nguyện và lặng lẽ tuột xuống đi kinh tế mới! Người lại xung phong đi Cam Bốt, kẻ hồ hởi gia nhập băng đảng, thậm chí mở tiệm mát-xa. Xác áp phích tả tơi cùng mưa gió, bây giờ chỉ còn lại có cái khung gỗ như bộ xương nan một chú Rồng Tre khổng lồ và vài mẩu vải bay phất phơ theo gió chướng gió nồm. Nhưng có một điều vẫn không thay đổi. Đó là cái tên Ngã Ba Ống Quần. Kể ra miệng người cũng khó bẻ. Người ta vẫn gọi là Ngã Ba Ống Qưần thay vì Công trường Chiến Thắng, gọi sân vận động suông thay vì sân vận động Chiến Thắng.

    Nhưng khách đến đây ngoài việc xem đá bóng hoặc ngoạn cảnh cũng còn một lý do mà ít ai nghĩ tới, hoặc có nghĩ tới mà chỉ âm thầm tự nhận chứ không tiết lộ ra. Đó là sự hấp dẫn của người đàn bà Ngụy bán nước mía trước cổng cái sân vận động Chiến Thắng này. Bà ta có dáng dấp thanh tú, mặt mũi xinh đdẹp và đôi tay giống tay mỹ nhân mà xưa kia hay chỉ mới hôm qua Thái tử Đan đã chặt đứt để tặng cho một thực khách. Bà ta có một cuộc đời Điêu Thuyền, nghĩa là có đến hai chồng nhưng để rồi chẳng có chồng nào. Bà không thể yêu lão già bạo ngược đã đành, nhưng cũng không được yên ôn để yêu viên tướng trẻ tài hoa.

    Cuộc đời đã xô đẩy cho tay mỹ nhân trở thành tay quay cái bánh xe gỗ thô kệch để pha chế những cốc nước giải khát rẻ tiền nhất.

    Bà ta có cái tên lạ đời: Bửu Liệp! Theo chữ nghĩa Việt Nam thời nay thì những ai có cái tên mang chữ “Bửu” là thuộc dòng dõi hoàng gia họ Nguyễn. Nhưng đối với bà thì có lẽ là một trường hợp nhầm lẫn hoặc một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Còn “Liệp” có nghĩa gì? Người thì bảo đây là tiếng phát ra từ mồm một người Tàu nên “đẹp” thành ra “Liệp” rồi dần dà trở thành thói quen, có người lại bàn đây là Bửu Điệp, Bửu Tiệp hoặc Bửu Thiệp, nhưng khi làm khai sinh người ta viết sai cũng như trường hợp tên của Bác Hồ vậy. Tên thật của Bác là “Nguyễn Ái Đế Quốc” (4 chữ), không phải “Nguyễn Ái Quốc” (3 chữ). Tại sao? Vì hồi Bác đi Tây, Bác nuôi mộng làm quan để trở về cai trị dân tộc của Bác chứ không phải đi tìm con đường giải phóng dân tộc Việt. Nhưng vì đế quốc Pháp đã bác đơn của Bác xin vào học trường Thuộc Địa nên Bác căm thù đế quốc bèn đi sang Nga tìm Lê-nin. Do đó cái tên Nguyễn Ái Đế Quốc trở thành Nguyễn Ái Quốc.

    Tên bà Bửu Liệp có lẽ cũng là một trường hợp lầm lẫn nào đó. Bây giờ thì sự nhầm lẫn đã trở thành sự hiển nhiên nói quen miệng, viết quen tay, không sửa đổi được nữa. Nhưng cái điều quan trọng nhất cho một sinh vật là chính nó, thân hình nó, trí tuệ nó, tình cảm nó chứ không phải là cái tên của nó. Cho nên mặc dù chẳng ai hiểu “Liệp” là nghĩa gì người ta vẫn thích đến mua nước mía của bà để được bà đáp cho một câu hỏi, để được hai bàn tay bà bốc đá bỏ vào ly cho uống, hay hơn thế nữa, được bà tặng cho một nụ cười xã giao mà kẻ nhận được lại đinh ninh rằng nụ cười đó chỉ dành riêng cho mình.

    Bà Bửu Liệp có chồng làm Trung úy trong Biệt Động Quân, và đang nghỉ mát trong một trại nào đó để cho bà phải ở nhà tần tảo nuôi mấy đứa con và sống trong những vòng mắt thèm thuồng của bầy sói đói giải phóng.

    Vì có chồng là sĩ quan Ngụy, tự nhiên bà được Nhà nước coi là dân Ngụy chính cống. Mặc dù chính phủ và đảng có thừa lượng khoan hồng nên không tính tới cái chữ “Bửu” hoàng gia của bà, nhưng bà vẫn không được hưởng một quyền lợi gì của một công dân, như phiếu thực phẩm, đi họp phường… Ngoài ra bà luôn được chính quyền nhắc nhở rằng chồng bà có nợ máu với nhân dân.

    Mãi tới năm thứ mười giải phóng đất nước, bà Bửu Liệp mới được ông phường trưởng – người tới lui nhà bà nhiều nhất – cho phép bà bằng miệng, kinh doanh cá thể cái xe bán nước mía ở trước cổng sân vận động Chiến Thắng, một công việc không hèn mọn nhưng cũng chẳng vinh quang.


    Hình minh hoạ

    Chẳng bao lâu sắc đẹp của bà được đồn đại khắp thị xã, khắp miền Nam, rồi lan ra cả miền Bắc, đến nỗi luồng dư luận đã trở thành dân dao:

    Thứ nhất Bửu Liệp
    Thứ nhì Thanh Nga
    Thứ ba Thẩm Thúy Hằng

    Bây giờ sắc đẹp của ngườI đàn bà Ngụy bán nước mía đã bay ra khỏi biên cương và ám ảnh cả đám dân Ngụy tị nạn khắp thế giới nữa. Nhiều người về thăm nhà, nghe đồn, đã tìm đến đây để uống một ly nước mía của xứ này. Và những ai đã nhìn thấy dung nhan bà Bửu Liệp cũng âm thầm đau khổ nhưng không có cách gì cứu vớt nó trước khi rời quê mình trở ra nước người, nên chỉ nói một câu bâng quơ: “Hẹn tái ngộ” dẫu biết mình chẳng bao giờ dám trở về nước lần thứ hai.

    ***

    Bỗng một buổi chiều, như thường lệ, dân chúng đến xem đá bóng, ngẩn ngơ như mất hồn: người đàn bà Ngụy chẳng còn đứng ở trước cổng quay bánh xe cán mía với đôi tay ngà nữa.

    Số là thấy sắc đẹp của Bửu Liệp đã trở thành một món hấp dẫn phi thường, tỉnh ủy bèn xem bà ta như một ngưồn lợi doanh thu và biến nghề cá thể của bà ra “công tư hợp doanh.” Người ta đưa bà vào phía trong cổng. Ai muốn uống nước mía “công tư hợp doanh Bửu Liệp” phải mua tích-kê như đi vào xem đá banh. Mỗi tích-kê xem đá banh 500 đồng tiền Cụ, mỗi tích-kê vào uống nước mía giá gấp đôi. Một ly nước mía trước kia giá 200 đồng, bây giờ tăng 500% tức là 1,000 đồng. Một ngàn đồng cho một ly nước mía trong lúc lương bác sĩ 45 ngàn, lương công an 28 ngàn, lương tỉnh ủy 60 ngàn, trong lúc một con tem gửi thư đi Mỹ, Úc là 4300 đồng, những con số chỉ có ở xứ xã nghĩa Việt Nam. Thế nhưng, nước mía “công tư hợp doanh Bửu Liệp” vẫn cứ bán chạy vèo vèo đến nỗi ty Nông Nghiệp phải khuyến khích dân chúng bỏ bớt diện tích cấy lúa để trồng mía và nhà máy nước đá phải tăng năng suất 500% để có nước đá phục vụ cho xe nước giải khát này. Trong lúc xí nghiệp quốc doanh đóng cửa, nông trường quốc doanh bị giải tán thì số ly nước mía tăng vọt mỗi ngày. Nhưng nhà nước không phải thuê thêm nhân công mà chỉ một mình Bửu Liệp chu toàn. Và còn đặc sắc hơn nữa là chất lượng vẫn bảo đảm, nước mía vẫn thơm ngon mát bổ. Dù phải xếp hàng, chen lấn, khách vẫn vui lòng. Nhiều khách hàng chậm chân nên không được nếm ly nước mía tuyệt vời của người đàn bà Ngụy. Do đó nảy ra chợ đen đầu cơ tích trữ, con buôn phơi khô cất kỹ lưỡng như hợp tác xã miền Bắc phơi khô nước đá lạnh cất trong kho, rồi chờ dịp lễ lộc đem bán lại mỗi ly với giá một tờ giấy Cụ 5,000 đồng mới in. Nếu khách đòi hai ly thì phải xùy ra mười ngàn, một chinh cũng không mẻ.
    – Chào bà! Tôi xin tự giới thiệu để bà biết tôi là ai nhé! Hì hì…

    Bửu Liệp nhìn trân trân ông khách lạ.

    Đó là một lão già cao lớn mặc áo cán bộ Mao Trạch Đông màu xanh, đầu đội kê-pi công nhân cũng màu xanh, mặt nám nhiều vết như lọ chảo dính rửa không ra, miệng hô hốc như sẵn sàng ngoạm, tiếng nói thì toàn dấu nặng chình chịch.

    Bửu Liệp chưa hết ngạc nhiên thì lão già tiếp:
    – Tôi là Ba Voi đây mà!

    Bửu Liệp giật mình: bà có nghe trong dân gian cái tên này từ lâu.

    Lão già tiếp:
    – Bà hãy tự nhiên! Tôi đến đây vì nghe dư luận về bà. Quả tiếng đồn không sai. Bà đẹp lắm!

    Bửu Liệp nhớ mang máng có thấy cái khuôn mặt này ở đâu rồi. À, trên TV! Không phải một mà nhiều lần. Ấy, chết chửa. Bửu Liệp quì mọp run rẩy.
    – Xin ngài tha tội chết. Kẻ ngu đần đang bệ kiến mặt rồng mà không biết. Ngài nào có phải là Voi là Gấu gì! Việt Nam thống nhất giàu đẹp muôn năm! Đảng Cộng Sản Diệt Nam muôn năm! (Bửu Liệp phát âm chữ V như chữ D).

    Lão Ba Voi xua tay:
    – Trước kia, khi cách mạng còn trong trứng nước, ta luôn luôn giữ đúng quan điểm ba cùng với thần dân, nhưng từ ngày thống nhất sơn hà, ta hưởng quá nhiều miếng đỉnh chung cho nên quên khuấy việc rèn cái quan điểm ấy đi. Nay nhân dịp du Nam, ta thân hành tới đây thử xem cho biết thực hư, đồng thời để giũa lại quan điểm cũ.

    Lão tiếp luôn:
    – Ta đã có đủ tam cung lục viện, chẳng thua vua Tự Đức chẳng kém Trụ Vương. Nhưng con lợn lòng ta lúc nào cũng sẵn sàng đồng khởi. Vậy ta chẳng ngại gì mà phán rằng ta có ý định kiệu nàng về làm bí thư riêng cho ta.

    Bửu Liệp rụng rời cả tay chân, không dám ngóc đầu lên.

    Nhưng đất dày đặc, bà không thể chui đi đâu được, chỉ lí nhí trong miệng:
    – Dạ kẻ ngu này đã có chồng có con!
    – Thì đã sao nào?

    – Dạ đạo tam cang ngũ thường của người Việt Nam không cho phép.
    – Ô, cái đó xưa rồi, thời đại này không phải noi theo các thứ luật lệ cổ hủ nữa. Như ta đây có vợ có con hồi còn trẻ, nhưng trui luyện đạo đức cách mạng tới đâu, ta lấy vợ bé tới đó. Lớp thì do bọn dưới trướng dâng cho, lớp ta cuỗm vợ người, không có ai tự nguyện đến với ta cả. Vậy mà ta có đến bảy, tám mụ nái sề rồi. Còn như sự hoạt động trong bóng tối của ta thì cả báo Nhân Dân cũng tường thuật không xuể. Thần dân còn ai mà dám chẳng noi theo đạo đức của ta?

    Bửu Liệp dập đầu lia lla:
    – Dạ thưa ngài, ngài làm như thế sợ e thất âm đức.
    – Ô, lão Tổ của ta lấy cả đày tớ gái trong nhà trong lúc mụ vợ quí tộc ở ngay bên cạnh nhưng có thất gì đâu. Hơn nữa Người vẫn được đệ tử nhang đèn đều đều.

    Bửu Liệp thấy nguy cấp tới nơi. Từ lúc Ba Voi đến, khách giải khát đã rút nhanh, nếu lão già tỏ tình một cách thô bạo thì bà chẳng biết cầu cứu với ai!

    May quá, từ phía ngoài cổng bỗng có tiếng chân rầm rập, rồi một người nai nịt hẳn hoi chạy vào khấu đầu:
    – Bẩm đồng chí, tôi là xếp đại lý phân phối đạo đức của tỉnh, tôi có nhiệm vụ bảo vệ đạo đức lẫn con người của đồng chí trong chuyến kinh lý này. Tôi xin cấp báo!
    – Có chuyện gì, nói ngay!

    – Dạ có một lão già tự xưng là bạn học cũ của đồng chí, hai bên xa cách đã mấy chục năm, nay nghe tin đồng chí đến đây, ông ta mừng lắm nên xin đến tay bắt mặt mừng cho thỏa lòng mong nhớ.

    Ba Voi quát:
    – Đem giam thằng ấy ngay!
    – Dạ… Theo luật pháp nhà nước thì muốn giam ai phải có lý do ạ!

    – Nó muốn ám sát ta đấy!
    – Dạ… Tại sao đồng chí dám phán lời vàng ngọc như vậy?

    – Ta chẳng bao giờ đến trường thì làm gì có bạn học?

    Tên xếp đại lý bật ngửa vì lời nói chân thành của Ba Voi. Hơn nữa vốn tin tưởng mù quáng vào cấp trên nên hắn nghĩ rằng Ba Voi vào đây là để thăm dân Nam kỳ vượt biên được mấy chục phần trăm chứ không có sự lẹo tẹo gì khác, nên hắn khúm núm:
    – Thưa đồng chí, chúng tôi xin kinh mời đồng chí về dinh quốc khách dự tiệc ạ. Dạ… tình hình an ninh ở vùng này không tốt lắm!
    – Ồ, Vì nhân dân quên mình, Vì nhân dân hi…i sinh! – Ba Voi cất giọng ồ ồ như trâu đái.

    – Dạ có tin từ thủ đô đánh vào cho hay đệ nhất phu nhân đổ ghè tương nên vừa tự sát ạ!

    Tên xếp đại lý thấy Ba Voi có vẻ miết với mụ bán nước mía nên sáng tác ngay một cái tin theo kiểu báo Nhân Dân, nhưng Ba Voi điềm nhiên đáp:.
    – Đó là điều ta mong mỏi nhất – rồi tiếp luôn – Sẵn đây ta cho mi biết là người đàn bà bán nước mía này sẽ về làm bí thư riêng cho ta đấy nghe! Ngươi phải ra sức bảo vệ, không cho đứa nào léng phéng.
    – Dạ mụ này nằm trong diện “dân Ngụy” đấy ạ!

    Ba Voi xua tay vun vút:
    – Ta đã chán mấy bà giải phóng rồi! Đám đó chỉ được cái tinh thần Bôn-xê-đít, ngoài ra thì vứt đi cả.
    – Dạ tôi nghe đồn đồng chí đã có nghiên cứu mấy cô đào cải lương Ngụy ở thành phố Bác rồi. Thêm mụ này nữa sợ e đồng chí không còn sức làm nghĩa vụ quốc tế ạ!

    – Ngươi có biết mỗi ngày ta uống mấy lít nhau ngâm mật và nhậu bao nhiêu dĩa tái dấm hài nhi không?
    – !!!!

    ***

    Bửu Liệp đẩy chiếc xe nước mía về nhà. Đường đá lởm chởm. Bốn bánh sắt long lay lăn rầm rầm hòa cùng tiếng khua của nhưng ly cốc làm thành một thứ âm thanh tương tợ tiếng cười ròn của một bầy quỉ sứ. Bửu Liệp càng đẩy nhanh, tiếng cười càng vang to.

    – Rồi ta sẽ sống ra sao trong những ngày tới giữa những cặp mắt thèm khát như những que sắt luôn luôn chọc vào da thịt ta? Chuyện gì vừa xảy ra? Đó là chuyện thật hay chỉ là ác mộng? – Bửu Liệp tự hỏi.

    Chiếc xe lăn đi. Nàng tựa hẳn vào thành xe. Nàng không biết chính nó cuốn nàng đi hay nàng đẩy nó tới. Những vạt đá đã mòn vì các loại bánh xe sắt xe cây như muốn chuyển mình lật tung vật nặng đè lên không chịu bẹp im.

    Con đường hun hút giữa hai hàng cây cao giao cành như họng rắn cứ nuốt mãi con mồi bằng sắt, bằng gỗ và bằng thịt xương. Con rắn đã béo núc và dài đuồn đuộc nhờ nốc cơ man những cốc nước mía từ đôi tay người đàn bà Ngụy.

    ***

    Bửu Liệp là ai?

    Ở ngoài khơi vịnh Bắc có một quần đảo là Bạch Long Vĩ, hòn đảo to nhất tên là Nàm Vàn. Trên bản đồ Việt Nam, chùm đảo này giống như những hạt tấm mẳn. Đảo Nàm Vàn chỉ là một trong những hạt tấm kia. Ai có đến đây thì biết. Vừa đặt chân lên đảo là đã nghe mùi tanh tôm cá.

    Ở đây dân sống bằng nghề đánh cá. Tôm cá nhiều như lúa gạo trong đất liền. Ngoài ra còn nuôi bào ngư, hải sâm. Riêng về cá mực, vào mùa gió chướng, dân trên đảo không đủ chỗ phơi. Cá tắp vào tận sân nhà, trẻ con cứ ra nhặt lấy vứt lên vách đá. Đá nóng như sấy, nên cá khô cả hai bề mà không phải trở.

    Ở cuối đảo Nàm Vàn có một ngư dân tên Vương Hòa Miễn. Ông Miễn là người Việt gốc Hoa cũng như số đông ngư dân trên đảo. Hai vợ chồng làm nghề đánh cá. Bà Miễn có thai vẫn ngồi thuyền. Sau khi sanh con gái đầu lòng, bà gởi con để rảnh tay cùng chồng đi biển.

    Đứa con gái vừa lên ba thì bị bọn cướp biển bắt cóc lúc đang chơi ở trước sân nhà.

    Ở gần Bạch Long Vĩ có một hòn đảo không tên. Nó đứng rời ra như một đảo hoang trên đó chỉ có một hòn núi trọc, trong núi có một cái hang gọi là Thiết Cốc. Bợn cướp biển đi bắt hoặc mua con nít ở Móng Cái, Tiên Yên, Hải Phòng, Cát Bà đem về nhốt ở đó, dồn đủ chuyến thì chở sang Tàu bán.

    Số phận của đám trẻ thơ nầy sẽ tùy thuộc những người mua được chúng.

    Đứa con gái của họ Vương được bán cho một chủ tiệm chạp phô. Hai vợ chồng không con cho nên thương cô bé như con. Cô gái được đổi họ Vương ra họ Trương, họ của ông chủ tiệm – và từ đó bỏ tên cũ lấy tên mới: Bửu Điệp. Trương Bửu Điệp nghiễm nhiên trở thành con gái của gia đình này.

    Khi Trương Bửu Điệp lên sáu thì vợ chồng ông chủ tiệm họ Trương sang Sài Gòn cùng với người bạn tên Châu Ao hùn vốn mở một tiệm tạp hóa ở Chợ Lớn.

    Lúc này chiến tranh Việt Pháp đang diễn ra ác liệt trên đất nước Việt Nam. Cửa tiệm phất to nhờ tài buôn cửa trước bán cửa sau của chủ. Người bạn của họ Trương chỉ có một đưa con trai tên Châu An bị bắt lính và chết ở trận Hòa Bình năm 1950. Vài năm sau vợ chồng chủ tiệm họ Trương qua đời.

    Trương Bửu Điệp là người độc nhất kế thừa cái gia tài của họ Trương để lại. Vẫn thủy chung như nhất với bạn, Châu Ao không gian lận để cướp phần hùn của bạn mà còn nhận Bửu Điệp là con gái của mình. Trương Bửu Điệp lại đổi ra Châu Bửu Điệp. Châu Ao nghiễm nhiên là cha của Bửu Điệp. Năm 1960, Châu Bửu Điệp được mười tám tuổi và đang học gần hết Trung Học. Cô nói và viết tiếng Việt, tiếng Tàu lẫn tiếng Pháp gần như nhau.

    Một hôm bỗng có một người Pháp trẻ tuổi bất ngờ xuất hiện. Anh chàng người Pháp này chính là con người bạn đồng đội của Châu An. Anh ta cho biết rằng trong lúc chung sống ở đơn vị, Châu An có khoe với bố anh ta rằng mình có một đứa em gái mới tám tuổi nhưng dung nhan đã hứa hẹn sẽ là một mỹ nhân.

    “Ông ấy đã cho bố tôi địa chỉ, hình của em Bửu Điệp – chàng trai Pháp nói – và hẹn năm nay Bửu Điệp được mười tám tuổi thì bố tôi sẽ dẫn tôi đến xem mắt. Nhưng sau khi ông ấy tử trận thì bố tôi cũng hi sinh. Bố tôi hi sinh ở Điện Biên Phủ với cấp bực Trung Tá Pháo Binh. Tôi họ Đờ (*) và là con một của gia đình. Tôi mong ước cưới được một người vợ Việt Nam, một đất nước mà bố tôi đã phụng sự.”

    Bửu Điệp có cảm tình với người thanh niên Pháp ít nhiều, nhưng nàng cho biết là gia đình rất đơn chiếc không thể đi xa. Người thanh niên đành đau khổ cáo lui.

    Ông Châu Ao biết con gái mình đẹp, đẹp lắm nữa là đằng khác. Nhiều nhà thương buôn, công chức to đến xin làm suôi với ông nhưng Châu Ao bảo tùy ý con.

    Hai mươi hai tuổi, Bửu Điệp mới hiến dâng trái tim của mình cho một sĩ quan trẻ Việt Nam. Năm đó cuộc chiến tranh trở nên ác liệt. Một lần, Bửu Điệp mang một xe quà cáp và hàng hóa của bố lên một bệnh viện ở tận Ban Mê Thuột để ủy lạo chiến sĩ.

    Trong bệnh viện đầy ắp chiến thương, Bửu Điệp đã gặp ý trung nhân. Giai nhân ngộ anh hùng. Năm sau họ cưới nhau một cách “dã chiến” trên rừng.

    Trong một lần thăm chồng, Bửu Điệp đã lọt vào mắt đục của một Đại Tá Mỹ. Ông này làm quen, rồi một hôm đột ngột hỏi:
    – Tôi trả cho chồng bà một số tiền lớn rồi bà thuộc về tôi, được không?
    – Tiền để mua hàng hóa! Trái tim đàn bà không phải để bán! Bửu Điệp trả lời thẳng thắn.

    Năm 75, Bửu Điệp không định chạy vì chồng bị thương vừa lành đang điều dưỡng tại nhà. Bốn năm sau chồng mới bị bắt nguội đưa vào trại cải tạo.

    Nhiều kỹ sư, cố vấn Nga được cán bộ dẫn tới uống nước mía ở cổng sân vận động Chiến Thắng với ý định khoe với các đồng chí một nét đẹp tỉnh nhà và tạo cơ hội cho các đồng chí Liên Xô trêu ghẹo chơi.

    Bửu Liệp chỉ cười lễ độ. Nhưng trong bụng nghĩ thầm:
    – Người Liên Xô xù xì, không có vẻ công tử như người Mỹ. Họ có bàn tay rất to. Đứng gần họ người ta có cảm giác là từ họ bốc ra một mùi làm khó chịu: mùi hôi.
    – Lương kỹ sư của tôi nuôi bà nổi không? Một người Nga bập bẹ.

    Bửu Liệp xua tay:
    – Tôi không biết tiếng Nga!

    Than ôi! Chuyện đàn bà muôn thuở vẫn là chuyện thế gian! Và chuyện thế gian lại chính là chuyện Thiên Đàng.
    (Trích trong ĐỎ và VÀNG của Xuân Vũ)

    (*) Họ “Đờ” (De), một trong những giòng họ giàu nhất nước Pháp.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...