1. Người cộng sản làm cách mạng không phải để mang đến hạnh phúc cho người dân , mà họ làm cách mạng để người dân mang hạnh phúc
đến cho người cộng sản.
2. Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh và là loài trùng độc sinh sôi nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời.
3. Cộng sản sinh ra từ nghèo đói và ngu dốt , lớn lên bằng dối trá và bạo lực và sẽ chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của nhân loại.
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Cây Cộng Sản, Cỏ Hồ Chí Minh, tên nghe đến lạ. Phan Khôi là người đã đặt ra cái tên thực vật quái dị đó cách đây trên nửa thế kỷ. Nhiều người không còn nhớ nữa. Nhưng người bây giờ hỏi cây đó, cỏ đó tự đâu mang về? Trồng ở đâu?
Theo Phan Khôi cho biết thoạt đầu tiên Cây Cộng Sản mọc ở các đồn điền của Tây ở chung quanh các vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang để che đất cho mát gốc. Riết rồi Cây Cộng sản mọc tràn lan, chui vào mọi ngõ ngách khiến đất trở nên khan hiếm… Tây thuộc địa muốn trừ khử đi cũng không xong. Người Pháp mới đặt ra cái tện tiếng Tây là Herbe communiste. Đáng lẽ phải dịch là cỏ Cộng Sản mới đúng.
Không biết tại sao có người lại dịch là Cây Cộng Sản. Người dân thường không biết tiếng Pháp nên dung dị họ gọi đơn giản là cây Bọ Xít hay Cây Chó Đẻ.
Tôi nghĩ nên giữ cái tên nguyên thủy của nó lúc ban đầu là Cây Cộng Sản. Vả lại là người có văn hóa, tôi chẳng muốn gọi biếm nhã là cây Bọ Xít hay cây Chó Đẻ. Nghe thô tục quá.
Người Pháp trừ khử Cây Cộng Sản không xong.Từ một cây ra nhiều cây đến rừng cây. Nó như nạn dịch bèo tây, cỏ lùm. Cứ thế mà lan ra.
Nước mình xưa nay không ai ưa gì các cây dại đó.
Như trong Nam người ta chỉ quen trồng dừa, nhất là dọc theo các kinh rạch. Ngoài Bắc thì cây cau. Cả hai thứ cây đều đem lại lợi ích trăm bề.
Cây dừa nước làm nên cái văn hóa miệt vườn trong cái thế sông nước với con người. Nó trở thành biểu tượng văn hóa dân gian cho một nửa phần đất nước của “vùng đất mới” hay đất của lục châu. Xưa gọi là lục châu, sau này đổi ra lục tỉnh. Người dân miền Nam quý mảnh đất này còn gọi là vùng lạc thổ. Tức là đất đem vui hay đất lành, đất hạnh phúc.
Miền Bắc có cây cau, dáng cau thẳng đứng, được trồng ngay hàng thẳng lối hai bên sân nhà. Cau là một sản phẩm dùng trong các dịp quan hôn tương tế và đi vào huyền thoại dân gian như truyện Trầu Cau… và câu truyện dân gian: Con mèo mà trèo cây cau…
Cả hai thứ cây đó là biểu tượng cho con người Việt Nam mỗi miền về các mặt phong tục, nếp sống, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử.
Sau này có Cỏ Cụ Hồ từ đâu đến? Phải chăng sau đó là cái họa bắt đầu từ cây cỏ, thực vật? Đất lành nay thành đất dữ. Nhiều người rủ nhau bỏ xứ mà đi. Nay có đến hơn 3 triệu nguời lìa xa đất mẹ.
Miền Bắc thì nay ít còn thấy cây cau như hồi nào. Nếu còn cây nào thì như thể một mình đối chọi với Cây Cộng Sản. Phải chăng, những cây cau cuối cùng còn sót lại là hình ảnh của các ông nhà văn như Nguyễn Khải, nhạc sĩ Tô Hải còn sót lại?
Cây dừa miền Nam có hy vọng may mắn hơn số phận cây cau miền Bắc chăng?
Nhưng còn cỏ Hồ Chí Minh là cỏ gì? Cái này theo dân miền sơn cước đặt ra. Có cụ già người Thổ thấy có loại cỏ dại không biết từ đâu mọc tràn lan khắp nơi. Trước đây thì cỏ đó không có. Nhưng từ ngày có cụ Hồ về đây lập chiến khu thì tự nhiên cỏ mọc nhiều. Người miền sơn cước vốn mê tín, dị đoan nên chẳng biết gọi tên cỏ là gì.
Vì thế người ta gọi cho tiện là Cỏ Cụ Hồ.
Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ cứ thế mà lan tràn cho đến lúc người Pháp phải ra đi. Người Mỹ đến thay chỗ người Pháp. Sau này người Mỹ đến đây cũng tìm cách diệt Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ. Nhưng cũng không được. Họ đã phải dùng đến thuốc khai quang.
Vậy mà diệt cũng không xong.
Thuốc khai quang, bom săng đăc, B52 trải thảm. Hết lớp này đến lớp khác. Nhưng chỉ ít lâu sau không biết từ đâu Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ lại xuất hiện nhan nhản. Có người kẻ sĩ như Nguyễn Ngọc Lan lúc ấy lo sợ Mỹ khai quang quá, hủy hoại sinh thái đã viết rằng: Cho cây rừng còn xanh lá. Nếu lúc này, Nguyễn Ngọc Lan còn trên dương gian này thì chỉ xin được hỏi cây rừng nào? Có Cây Cộng Sản hay Cỏ Cụ Hồ không? Có lẽ, ông sẽ lắc đầu quầy quậy. Đừng hỏi.
Câu truyện Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ dù sao cũng chỉ là truyện dân gian, ví von tưởng tượng. Phần người viết vốn không quen viết phiếm luận.
Bản chất thật thà nên gọi thẳng tên Cây Cộng Sản là chủ nghĩa cộng sản, Cỏ Cụ Hồ là đám cán bộ, đảng viên đảng cụ Hồ. Người viết tự hỏi nay đã hơn 30 năm mà cái đảng ấy vẫn muốn diệt, san bằng cây dừa miền Nam, sau khi đã thanh toán xong cây cau miền Bắc? Cây dừa vốn làm nên sinh cảnh miền Nam, cái hồn của dân miệt vườn.
Cây cỏ miền Nam có tội tình gì mà cứ muốn diệt cho bằng được?
Và sau đây là những phân tích, lý giải, trình bày của người viết bài này.
Hoàn cảnh Cây Cau và Cây Dừa
Sự thực là khi người cộng sản vào Hà Nội năm 1954, họ coi người dân từ vĩ tuyến 17 trở như “người của họ,” cây cau và họ là một gốc về phương diện hành chánh, lịch sử, quản lý, chính trị. Họ cư xử như người “trong một nước,” dù là thứ nước của một đảng độc tài toàn trị.
Nếu có những thành phần chống đối trong cái “trong một nước” không tránh khỏi thì cùng lắm nó giới hạn vào một nhóm người, một cá nhân. Chẳng hạn, khi mới tiếp thu Hà Nội, có sự phân biệt người “Hà Nội Mới” và người “Hà Nội cũ” trong cách sống, cách ăn mặc. Một bên gọn ghẽ sạch sẽ, “văn minh thành thị” nề nếp trong cử chỉ lời ăn, tiếng nói. Ta gọi là Tỉnh. Bên kia ăn mặc lố bịch lôi thôi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói quê mùa. Ta gọi là Quê. Quê và tỉnh chỉ đại diện cho nếp sống văn hóa cá biệt, nhưng vẫn có thể sống chung.
Sau này ở miền Nam, cũng có sự khác biệt giữa Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam. Nhưng khác biệt rõ nét và sâu sắc hơn nhiều. Khác đến đối kháng, đến muốn hủy diệt nhau. Nó không còn là tỉnh với quê nữa. Mà là nếp sống văn minh và nếp sống lạc hậu. Kẻ thua trở thành nạn nhân đủ kiểu của kẻ thắng. Nhưng ở một mặt khác, đôi khi kẻ thua là kẻ mở mắt cho kẻ thắng,dẫn đường cho một lối sống mới khác hẳn thế giới u tối, kìm kẹp của Cỏ Cụ Hồ.
Nhưng chẳng bao lâu sau ở miền Bắc sau 1954 thì khái niệm mới cũ tan loãng do những áp lực dân số của định luật đa số. Khái niệm mới cũ không còn lý do tồn tại, vì cũ mới gì cũng chỉ còn là những con người cùng khổ cùng một lo toan cơm áo.
Vì thế, Cây Cộng Sản không có tâm trạng kẻ chiến thắng đối với kẻ thua cuộc. Không có so bì gìữa Cây Cộng sản và cây cau. Không có não trạng đế quốc. Cho nên cũng không có mấy cảnh cố vơ vét, chiếm đoạt cho bằng được.
Trái lại, tại miền Nam Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam là những lực đối kháng muốn truy diệt. Từ đó nảy sinh ra hiện trạng cá nhân vơ vét theo cá nhân, chính quyền vơ vét theo chính quyền như thể chiếm miền Nam là “một chiến lợi phẩm” giữa hai nước thù địch. Hàng đoàn xe trở về Bắc vật tư, kho dự trữ, xe cộ, máy móc.
Người ta nói rằng Cỏ Cụ Hồ khi vào miền Nam tối mắt lại, lòng tham nổi dậy, gặp gì cũng vơ vét.
Chẳng hạn, hãng Cogido còn tồn kho 8000 tấn giấy in. Thế là chở ra Bắc. Tất cả các xe hơi mới của các hãng Citroen, Renault, Peugeot cũng được lệnh chở ra Bắc. Hãng Engineco có 165 xe đã được nối đuôi nhau ra Bắc. (xem thêm La mousson de la liberté - Viet Nam Du colonialisme au Stalinisme, Friang Brigitte, Plon, 1976)
Sĩ quan, cán bộ thì chuyên chở về Bắc, xe Honda, salon, tủ lạnh, tivi, quạt máy, vải vóc, đồ gia dụng, thuốc Tây. Từ chổi cùn dế rách khuân tất, dọn sạch.
Người nước ngoài nhận xét, đây là một hình thức tự thực dân hóa chính người mình hay đúng ra là một cuộc hôi của.
Nay xe Honda chạy đầy đường thành phố Hà Nội thay cho xe đạp và nhất là dẹp bỏ xe điện một toa. Một nét đẹp cổ của thủ đô Hà Nội. Xem ra có sự lấn lướt về giá trị giữa hai miền. Cái gì của miền Nam thuộc vật chất thì được coi là tốt, là đẹp, là tiện nghi, là văn minh tiến bộ.
Sự vơ vét chiếm chiếm đoạt mang tính chất nhà nước, như một định chế bất khoan nhượng, luật rừng. Cái luật rừng ấy củng cố thêm cho cái hào quang chiến thắng và làm mờ lương tri và lẽ phải. Dựa vào chiến thắng biến chuyện vơ vét thành chuyện chính đáng, tự nhiên.
Như một thứ cướp ngày.
Năm 1975, khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản thì có hơn 30.000 công xưởng kỹ nghệ rơi vào tay chính quyền mới. Có hằng trăm cơ sở kỹ nghệ có từ 1000 đến 3000 công nhân viên nay do nhà nước quản lý.
Một phần các cơ sở kỹ nghệ tập trung trong khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, thành lập năm 1963, rộng hơn 300 hectares, cách Sài Gòn 25 kilômét. Nơi đây có nhiều hãng: Như Chế biến thực phẩm. Chế biến Hóa chất. Sản xuất vật liệu xây dựng. Sản xuất Giấy và các sản phẩm giấy. Các hãng Thủy tinh. Hãng Bao Bì. HãngThép, hãng Cáp điện. Hãng Sơn gỗ.
Tiêu Biểu có các hãng Coronel, Vimytex, Vinatexco, Sicovina. Các hãng dược phẩm như Roussel, Vina-Spécia, Hoechst, hãng sữa Nestlé. Về kỹ nghệ, có các hãng xăng dầu Nhà Bè, các hãng dệt (năng xuất 240 triệu mét/năm)các hãng bia, nước ngọt,(250 triệu lít/năm) hãng sữa, các hãng thực phẩm như Bột Ngọt, làm mì gói, dầu ăn. Các hãng như Pin Con Ó, hãng bông gòn Bạch Tuyết. Các nhà máy xi măng, nhà máy giấy.
Rồi đến các cảng biển như bến cảng Sài Gòn bốc dỡ 7 tiệu tấn/năm. Các hãng tàu biển, các kho hàng. Thu tất. Chở tất cả về Bắc cái gì chở được.
Rồi còn các phi trường
Xin được đưa một vài chi tiết mà Cỏ Cụ Hồ gọi là “chiến lợi phẩm” tại phi trường Tân Sơn Nhất. Trong bài: Những ngày đầu tiếp quản Tân Sơn Nhất, ông Trần Vĩnh Khâm cho hay: Ngoài các cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhà xưởng. Họ tịch thu được 2 DC6, 7 DC3, 5 DC 4 một B.727, một 707. Cộng thêm 76 máy bay quân sự gồm các loại C.130, Ch.47. C.7A, v.v… (Trích Trần Vĩnh Khâm, người trách nhiệm tiếp quản sân bay Tân Sơn Nhất, thuộc cục cảng Hàng Không Việt Nam)
Tôi thật ngạc nhiên không hiểu các vị tổng giám đốc Hàng không VN lại có thể để lại một cách phí phạm những phi cơ phản lực như B.727 như vậy cũng như vô số máy bay vận tải quân sự. Với chừng đó máy bay, ít lắm cũng cứu được vài ngàn người ra khỏi Việt Nam.
Chưa kể các căn cứ quân sự và quân trang, quân dụng với hàng ngàn xe tăng đủ loại của Việt Nam và của Mỹ để lại
Về Ngân Hàng Quốc Gia và 16 tấn vàng
Chiếm được Sài Gòn là nghĩ ngay tới tài sản ở ngân hàng. Nay thì đã rõ TT Nguyễn Văn Thiệu đã không dính dáng gì đến 16 tấn vàng mà dư luận đã đổ oan cho ông. Khi người cộng sản chiếm được Sài Gòn thì cái “chiến lợi phẩm” đầu tiên mà họ nghĩ tới là Ngân hàng Quốc Gia ở 17 bến Chương Dương. Theo lời tường thuật của ông ông Huỳnh Bửu Sơn, kiểm soát viên, người giữ chìa khóa hầm chứa vàng và Ông Lê Minh Kiêm, người giữ mã số hầm bạc của ngân hàng quốc gia như sau. Tháng 6/1975, có lệnh kiểm kê. Ông Huỳnh Bửu Sơn lãnh trách nhiệm kiểm kê số vàng và tiền. Vàng có 1234 thoi, nặng 12 hoặc 14kg/một thoi. Và hơn một ngàn tỉ đồng tiền Việt Nam. Cả hai bên đã làm một kiểm kê thì số lượng vàng để lại trong ngân hàng ăn khớp với giấy tờ. Công việc hoàn tất, ông Huỳnh Bửu Sơn trao lại cho đại diện chính quyền mới là ông Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản ngân hàng.
Nay được hỏi số vàng đó đi đâu thì ông Ba Châu, nguyên Tổng Giám Đốc ngân hàng trả lời cho biết như sau:
Khi tiếp quản, liệu tiền vàng có bị thất thoát không? Ông trả lời nước đôi. Theo tôi thì không thể. Ngân hàng của chính quyền cũ quản lý rất chặt, ta cũng chặt.
Số vàng đó sau này đi về đâu? Nó trở thành tài sản quốc gia, được quản lý theo luật pháp của chính quyền cách mạng, sau đó là của nhà nước Việt Nam thống nhất? (TríchTrở lại câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30/4/1975 VnMedia.Vn, ngày 17/10/2006)
Câu hỏi còn lại bây giờ vẫn là: Số vàng đó sau này đi về đâu? Và nếu tiêu thì tiêu vào việc gì?
Lần này thì không ai có thể có câu trả lời được. Bởi vì rất chặt và cũng chặt đã hẳn khác nhau.
Tất cả rơi vào tay Cỏ cụ Hồ.
Nhưng 16 tấn vàng có nhằm nhò gì. Theo một ông Tây, ông Michel Tauriac, tác giả nhiều cuốn sách viết về Việt Nam. Tauriac kết án nặng nề chế độ cộng sản Hà Nội là 50 năm tội ác và dối gạt. Ông viết báo chí ở Việt Nam chỉ là công cụ được trả tiền để tuyên truyền “phúc âm” của chế độ: “Ils ne sont payés que pour diffuser l’évangile du régime.” (Trích Viet Nam. Le dossier noir du communism de 1945 à nos jours, 2001, trang 187). Không biết ông tính toán làm sao mà cho rằng việc diện người Hoa đi bán chính thức đã đem về cho chính quyền Hà Nội 25 tấn vàng.
Nhưng theo tôi nếu nhà nước chiếm 25 tấn vàng thì chủ tầu người Hoa cũng ẵm thêm 25 tấn nữa. Vị chi là 50 tấn vàng. Michel Tauriac gọi những người di tản là những con bò sữa cho chế độ cộng sản Hà Nội vắt sữa.
Nếu thế thì phải chăng ngoài loại Cỏ Cụ Hồ còn có loại sữa miền Nam bị Cỏ Cụ Hồ vắt sau khi chiếm miền Nam?
Mặc dầu ăn ngập đầu, ngập cổ, mặc dầu tham lam vô độ, họ vẫn có thể không biết ngượng đưa ra tuyên cáo trấn an lừa phỉnh dân chúng miền Nam như sau: “Không có bất cứ tổ chức nào, không có bất cứ đơn vị quân đội nào có quyền trục xuất những người ở trong các biệt thự đó cũng như tịch thu tài sản của họ.”
Nói thì ngon lắm. Năm 1981, tôi bảo lãnh được gia đình qua. Căn nhà của tôi ở số 224B Nguyễn Huỳnh Đức, nhà nước không cho bán, cũng không cho nhường lại cho em gái tôi. Họ đã chiếm nhà và chỉ cho một mảnh giấy vỏn vẹn ghi rõ từng chữ sau đây: Nhà này do nhà nước quản lý. Vậy bây giờ có trả lại không? Quản lý là lấy luôn? Một bất công xảy ra cho một người là một đe dọa cho cả mọi người? Không phải chỉ một gia đình tôi là nạn nhân mà hằng vài trăm ngàn gia đình người miền Nam. Hằng trăm ngàn cây dừa miền Nam đã bị đốn chặt nhường chỗ cho những Cây Cộng Sản, những Cỏ Cụ Hồ.
Tự nhiên mà lấy, công khai mà lấy. Lấy vô tư. Cái tự nhiên vô tư trở thành một vô thức tập thể, cướp của người không hối hận mà còn hãnh diện. Nó có khác gì tâm trạng những vua quan thời xưa xâm chiếm đất nước Chiêm Thành không? Nó còn tồi tệ hơn chế độ thực dân Pháp một bực.
Cỏ Cụ Hồ là loại cỏ ăn được đủ thú, một mối đe dọa cho những cây dừa miền Nam. Sau này, nếu có chống đối, có vùng lên thì chỉ trông cậy vào những cây dừa đã mất nhà, nhất là mất đất đứng dậy vùng lên. Họ sẽ nhân danh cây cỏ, nhất là cây dừa miền Nam đòi lại công lý.
Đến ngay những người trước đây vốn là dân miền Nam chính hiệu, nhưng sau này theo Măt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau 1975, họ cũng tự coi mình là kẻ chiến thắng, hành xử như kẻ chiến thắng. Cũng mỗi ông từ bưng biền trở về, ông nào cũng được cấp một căn nhà, nhiều khi đồ dùng trong nhà còn nguyên vẹn.
Ngoài các cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng. Họ an nhiên tin chắc họ xứng đáng được ở những căn nhà đó. Như ông cách mạng Lữ Phương chẳng hạn. Đứng về mặt thuần túy Cách Mạng, các ông như Lữ Phương vốn là người tự hào theo cách mạng vì lý tưởng Mác Xít, tự hào vì con đường giải phóng dân tộc, tự hào vì đủ thứ. Ông có nghĩ rằng căn nhà ông đang ở nay công bằng của lẽ phải nên trả lại người chủ cũ, nếu người ta đòi hoặc dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ hay trăm ngàn người lính ngoài mặt trận? Tất cả những thành phần đó, họ có xứng đáng ở căn nhà đó hơn ông không? Và đã có một ai trong số hàng triệu những người đó được ở trong những căn nhà tương tự?
Nếu có những Cỏ Cụ Hồ sau này từ bỏ lớp Cỏ Cụ Hồ thì đó là những cựu cán binh, cựu bộ đội, cựu kháng chiến Nam bộ- Những người đã hy sinh cả đời mình cuối cùng bị loại bỏ- Đó là những thành phần sẽ đứng lên đòi công lý sau lớp nông dân miền Nam mất đất ở trên.
Phần ông Lữ Phương, tôi giả dụ rằng ông Lữ Phương đang chiếm ngụ căn nhà lại chính là căn nhà của tôi. Có thể là bất hạnh cho ông Lữ Phương và may mắn cho tôi vì tôi đã gặp được một con người đã hy sinh đi theo lý tưởng cách mạng, đã dám hy sinh cả mạng sống mình, ông có thể nghĩ lại trao trả một căn nhà hợp pháp lại cho chủ cũ là tôi không?
Cả đời tôi đi làm. Không tham nhũng, không hối lộ. Không phạm pháp. Tất cả còn lại là chữ KHÔNG.
Tôi là Cây Dừa miền Nam chính hiệu.
Tôi đã bị Cỏ Cụ Hồ lấn áp, cướp cạn. Tôi để dành để dụm cả đời mới có nhà, có xe, có cửa. Ra đi có giấy tờ. Nhưng chịu cảnh trấn lột trắng tay. Hai cha con ra đi đã nộp 18 lạng vàng cho Cỏ Cụ Hồ. Không còn một xu dính túi, chỉ còn nhét dấu được đôi chút nữ trang làm của hồi môn cho con dâu sau này.
Có đất nước nào như đất nước chúng ta không?
Tôi trắng tay, ai là kẻ có trách nhiệm? Có một nước văn minh nào trên thế giới hành xử như quý ông không?
Tôi hỏi để mà hỏi thôi. Sau tôi, hàng ngàn, hàng vạn hàng trăm ngàn người, người dân quê, giới lao động đã bị nhà nước thu vét tài sản đến không còn đồng xu dính túi.
Nhưng tôi cũng nghĩ tới những nạn nhân chiến thắng, cũng bị bỏ rơi như tôi. Đó là các thương binh, bộ đội, các đàn bà góa miền Bắc vì có chồng đi làm vật hy sinh, có “những làng không chồng” trong số họ. Tất cả đều dành hy sinh cho Cỏ Cụ Hồ. Họ được gì? Cách mạng ở chỗ nào, thưa các ông?
Cho nên, người cộng sản đánh đuổi chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ để cuối cùng khoác cho mình một chủ nghĩa tự thực dân (autocolonisation) chính người dân của mình, coi tất cả những gì thuộc miền Nam đều là một thứ “chiến lợi phẩm.” Ngay cả “chiến lợi phẩm” là con người.
Phải chăng, chiến lợi phẩm là chính con người? Phải chăng đó là điều tệ hại nhất mà ta có thể tưởng tượng ra được.
Viết được đến như thế thì thôi và khoảng cách giữa con người với con người còn cách xa nhau lắm.
Cho nên, tài sản thì họ chiếm đoạt. Nhà cửa họ chiếm đoạt. Tiền bạc họ chiếm đoạt. Nghĩa là tất cả những gì thuộc giá trị vật chất như đất đai, kho tàng, thì đều thuộc về họ.
Tất cả đều rất thơm, rất tốt. Tranh nhau mà lấy.
Sau 1975, phần lớn các khu biệt thự đường Bà Huyện Thanh Quan, Công Lý, Pasteur, Nguyễn Du cũ nay là nhà của quan chức lớn nhỏ. Những khu buôn bán như Nguyễn Huệ, Gia Long, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, chợ An Đông, Chợ Lớn Mới thì nay vợ con quan chức miền Bắc vào chiếm ngụ buôn bán.
Chưa thấy một ai trong số họ chê bai hoặc từ chối tài sản Mỹ Ngụy để lai. Chưa ai có can đảm, muối mặt dám nhận rằng đó là tài sản do bóc lột, ăn cướp của dân nghèo. Chưa một người nghèo khổ nào, chưa một người bộ đội nào được phân chia nhà cửa, đất đai của chế độ Sài Gòn.
Tất cả những người đã hy sinh cho chế độ cộng sản thì đều được chia một phần bánh vẽ. Bánh vẽ không làm bằng tay mà bánh vẽ bằng mồm.
Nhưng tất cả những gì còn lại liên quan đến con người miền Nam từ văn học, xã hội, lịch sử thì đều là “tàn dư,” đều xấu.
Họ đã đồng hóa chiến thắng quân sự đi đôi với đạo đức, đi đôi với các tiêu chuẩn giá trị tốt xấu.
Họ đã giản lược xã hội con người dựa trên Nhị nguyên tính: chính và tà. Kẻ chiến thắng đồng nghĩa với chính nghĩa. Kẻ thua được đồng loại với Tà. Đó là một thế gìới truyện giản lược của Kim Dung: Đại diện cho chính phái và tà phái.
Hay nói theo ngôn ngữ chính trị thời nay phân chia thế gìới lưỡng cực: Thế giới Cực của điều xấu (Axes du Mal) và một thế giới cực của điều tốt (Axes du Bien).
Bổn phận của chúng ta ngày nay là đánh tụt giá tất cả những quan điểm cực đoan về điều xấu, điều thiện. Trong đó có quan điểm cực đoan giáo điều của Cây cộng sản.
Cây dừa miền Nam vẫn là biểu tượng giá trị tinh thần, văn hoá, tình cảm của miền Nam.
Tôi rất mừng là cho đến lúc viết bài này cây dừa miền Nam vẫn còn đứng vững, vẫn trụ. Nhưng một mặt khác, tôi cảm thấy ngượng, vì bài viết của tôi so với thực tế bây giờ thì chỉ là truyện muối bỏ biển.
Ngày nay, Cỏ Cụ Hồ tham lam trấn lột cả nước, gấp 10 lần so với năm 1975. Trấn lột một cách ngang nhiên, không còn pháp luật.
Nhưng cũng vì thế nay không chỉ có những người tỵ nạn ở Hải ngoại chống lại người cộng sản. Mà cả nước chống. Mọi người chống cái đảng “ăn cướp” ấy. Người ta tự đặt câu hỏi liệu cái đảng ấy còn đứng vững được bao lâu?
Như nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả Truyện kể năm 2000 hiện nay đang ở Cali thăm bạn bè Người Việt Hải Ngọai đã dặn dò Vũ Thư Hiên như sau: “Chúng mình phải viết về những gì chúng mình thấy. Trách nhiệm đấy.
Theo gương các người đã từng sống trong chế độ cộng sản đã viết như những người chứng tố cáo chế độ ấy như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Chí Thiện, nhạc sĩ Tô Hải.
Tôi đã viết và sẽ còn viết, mặc dầu tiếng nói nhỏ nhoi và không trọng lượng bằng những người trên.
Nguyễn Văn Lục
đến cho người cộng sản.
2. Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh và là loài trùng độc sinh sôi nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời.
3. Cộng sản sinh ra từ nghèo đói và ngu dốt , lớn lên bằng dối trá và bạo lực và sẽ chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của nhân loại.
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Cây cộng sản, cỏ cụ Hồ
Nguyễn Văn Lục
Nguyễn Văn Lục
Cây Cộng Sản, Cỏ Hồ Chí Minh, tên nghe đến lạ. Phan Khôi là người đã đặt ra cái tên thực vật quái dị đó cách đây trên nửa thế kỷ. Nhiều người không còn nhớ nữa. Nhưng người bây giờ hỏi cây đó, cỏ đó tự đâu mang về? Trồng ở đâu?
Theo Phan Khôi cho biết thoạt đầu tiên Cây Cộng Sản mọc ở các đồn điền của Tây ở chung quanh các vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang để che đất cho mát gốc. Riết rồi Cây Cộng sản mọc tràn lan, chui vào mọi ngõ ngách khiến đất trở nên khan hiếm… Tây thuộc địa muốn trừ khử đi cũng không xong. Người Pháp mới đặt ra cái tện tiếng Tây là Herbe communiste. Đáng lẽ phải dịch là cỏ Cộng Sản mới đúng.
Không biết tại sao có người lại dịch là Cây Cộng Sản. Người dân thường không biết tiếng Pháp nên dung dị họ gọi đơn giản là cây Bọ Xít hay Cây Chó Đẻ.
Tôi nghĩ nên giữ cái tên nguyên thủy của nó lúc ban đầu là Cây Cộng Sản. Vả lại là người có văn hóa, tôi chẳng muốn gọi biếm nhã là cây Bọ Xít hay cây Chó Đẻ. Nghe thô tục quá.
Người Pháp trừ khử Cây Cộng Sản không xong.Từ một cây ra nhiều cây đến rừng cây. Nó như nạn dịch bèo tây, cỏ lùm. Cứ thế mà lan ra.
Nước mình xưa nay không ai ưa gì các cây dại đó.
Như trong Nam người ta chỉ quen trồng dừa, nhất là dọc theo các kinh rạch. Ngoài Bắc thì cây cau. Cả hai thứ cây đều đem lại lợi ích trăm bề.
Cây Dừa Nước
Cây dừa nước làm nên cái văn hóa miệt vườn trong cái thế sông nước với con người. Nó trở thành biểu tượng văn hóa dân gian cho một nửa phần đất nước của “vùng đất mới” hay đất của lục châu. Xưa gọi là lục châu, sau này đổi ra lục tỉnh. Người dân miền Nam quý mảnh đất này còn gọi là vùng lạc thổ. Tức là đất đem vui hay đất lành, đất hạnh phúc.
Miền Bắc có cây cau, dáng cau thẳng đứng, được trồng ngay hàng thẳng lối hai bên sân nhà. Cau là một sản phẩm dùng trong các dịp quan hôn tương tế và đi vào huyền thoại dân gian như truyện Trầu Cau… và câu truyện dân gian: Con mèo mà trèo cây cau…
Cả hai thứ cây đó là biểu tượng cho con người Việt Nam mỗi miền về các mặt phong tục, nếp sống, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử.
Sau này có Cỏ Cụ Hồ từ đâu đến? Phải chăng sau đó là cái họa bắt đầu từ cây cỏ, thực vật? Đất lành nay thành đất dữ. Nhiều người rủ nhau bỏ xứ mà đi. Nay có đến hơn 3 triệu nguời lìa xa đất mẹ.
Miền Bắc thì nay ít còn thấy cây cau như hồi nào. Nếu còn cây nào thì như thể một mình đối chọi với Cây Cộng Sản. Phải chăng, những cây cau cuối cùng còn sót lại là hình ảnh của các ông nhà văn như Nguyễn Khải, nhạc sĩ Tô Hải còn sót lại?
Cây dừa miền Nam có hy vọng may mắn hơn số phận cây cau miền Bắc chăng?
Nhưng còn cỏ Hồ Chí Minh là cỏ gì? Cái này theo dân miền sơn cước đặt ra. Có cụ già người Thổ thấy có loại cỏ dại không biết từ đâu mọc tràn lan khắp nơi. Trước đây thì cỏ đó không có. Nhưng từ ngày có cụ Hồ về đây lập chiến khu thì tự nhiên cỏ mọc nhiều. Người miền sơn cước vốn mê tín, dị đoan nên chẳng biết gọi tên cỏ là gì.
Vì thế người ta gọi cho tiện là Cỏ Cụ Hồ.
Cỏ cụ Hồ - Việt cộng
Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ cứ thế mà lan tràn cho đến lúc người Pháp phải ra đi. Người Mỹ đến thay chỗ người Pháp. Sau này người Mỹ đến đây cũng tìm cách diệt Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ. Nhưng cũng không được. Họ đã phải dùng đến thuốc khai quang.
Vậy mà diệt cũng không xong.
Thuốc khai quang, bom săng đăc, B52 trải thảm. Hết lớp này đến lớp khác. Nhưng chỉ ít lâu sau không biết từ đâu Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ lại xuất hiện nhan nhản. Có người kẻ sĩ như Nguyễn Ngọc Lan lúc ấy lo sợ Mỹ khai quang quá, hủy hoại sinh thái đã viết rằng: Cho cây rừng còn xanh lá. Nếu lúc này, Nguyễn Ngọc Lan còn trên dương gian này thì chỉ xin được hỏi cây rừng nào? Có Cây Cộng Sản hay Cỏ Cụ Hồ không? Có lẽ, ông sẽ lắc đầu quầy quậy. Đừng hỏi.
Câu truyện Cây Cộng Sản, Cỏ Cụ Hồ dù sao cũng chỉ là truyện dân gian, ví von tưởng tượng. Phần người viết vốn không quen viết phiếm luận.
Bản chất thật thà nên gọi thẳng tên Cây Cộng Sản là chủ nghĩa cộng sản, Cỏ Cụ Hồ là đám cán bộ, đảng viên đảng cụ Hồ. Người viết tự hỏi nay đã hơn 30 năm mà cái đảng ấy vẫn muốn diệt, san bằng cây dừa miền Nam, sau khi đã thanh toán xong cây cau miền Bắc? Cây dừa vốn làm nên sinh cảnh miền Nam, cái hồn của dân miệt vườn.
Cây cỏ miền Nam có tội tình gì mà cứ muốn diệt cho bằng được?
Và sau đây là những phân tích, lý giải, trình bày của người viết bài này.
Hoàn cảnh Cây Cau và Cây Dừa
Cây Cau
Sự thực là khi người cộng sản vào Hà Nội năm 1954, họ coi người dân từ vĩ tuyến 17 trở như “người của họ,” cây cau và họ là một gốc về phương diện hành chánh, lịch sử, quản lý, chính trị. Họ cư xử như người “trong một nước,” dù là thứ nước của một đảng độc tài toàn trị.
Nếu có những thành phần chống đối trong cái “trong một nước” không tránh khỏi thì cùng lắm nó giới hạn vào một nhóm người, một cá nhân. Chẳng hạn, khi mới tiếp thu Hà Nội, có sự phân biệt người “Hà Nội Mới” và người “Hà Nội cũ” trong cách sống, cách ăn mặc. Một bên gọn ghẽ sạch sẽ, “văn minh thành thị” nề nếp trong cử chỉ lời ăn, tiếng nói. Ta gọi là Tỉnh. Bên kia ăn mặc lố bịch lôi thôi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói quê mùa. Ta gọi là Quê. Quê và tỉnh chỉ đại diện cho nếp sống văn hóa cá biệt, nhưng vẫn có thể sống chung.
Sau này ở miền Nam, cũng có sự khác biệt giữa Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam. Nhưng khác biệt rõ nét và sâu sắc hơn nhiều. Khác đến đối kháng, đến muốn hủy diệt nhau. Nó không còn là tỉnh với quê nữa. Mà là nếp sống văn minh và nếp sống lạc hậu. Kẻ thua trở thành nạn nhân đủ kiểu của kẻ thắng. Nhưng ở một mặt khác, đôi khi kẻ thua là kẻ mở mắt cho kẻ thắng,dẫn đường cho một lối sống mới khác hẳn thế giới u tối, kìm kẹp của Cỏ Cụ Hồ.
Nhưng chẳng bao lâu sau ở miền Bắc sau 1954 thì khái niệm mới cũ tan loãng do những áp lực dân số của định luật đa số. Khái niệm mới cũ không còn lý do tồn tại, vì cũ mới gì cũng chỉ còn là những con người cùng khổ cùng một lo toan cơm áo.
Vì thế, Cây Cộng Sản không có tâm trạng kẻ chiến thắng đối với kẻ thua cuộc. Không có so bì gìữa Cây Cộng sản và cây cau. Không có não trạng đế quốc. Cho nên cũng không có mấy cảnh cố vơ vét, chiếm đoạt cho bằng được.
Trái lại, tại miền Nam Cỏ Cụ Hồ và cây dừa miền Nam là những lực đối kháng muốn truy diệt. Từ đó nảy sinh ra hiện trạng cá nhân vơ vét theo cá nhân, chính quyền vơ vét theo chính quyền như thể chiếm miền Nam là “một chiến lợi phẩm” giữa hai nước thù địch. Hàng đoàn xe trở về Bắc vật tư, kho dự trữ, xe cộ, máy móc.
Người ta nói rằng Cỏ Cụ Hồ khi vào miền Nam tối mắt lại, lòng tham nổi dậy, gặp gì cũng vơ vét.
Chẳng hạn, hãng Cogido còn tồn kho 8000 tấn giấy in. Thế là chở ra Bắc. Tất cả các xe hơi mới của các hãng Citroen, Renault, Peugeot cũng được lệnh chở ra Bắc. Hãng Engineco có 165 xe đã được nối đuôi nhau ra Bắc. (xem thêm La mousson de la liberté - Viet Nam Du colonialisme au Stalinisme, Friang Brigitte, Plon, 1976)
Sĩ quan, cán bộ thì chuyên chở về Bắc, xe Honda, salon, tủ lạnh, tivi, quạt máy, vải vóc, đồ gia dụng, thuốc Tây. Từ chổi cùn dế rách khuân tất, dọn sạch.
Người nước ngoài nhận xét, đây là một hình thức tự thực dân hóa chính người mình hay đúng ra là một cuộc hôi của.
Nay xe Honda chạy đầy đường thành phố Hà Nội thay cho xe đạp và nhất là dẹp bỏ xe điện một toa. Một nét đẹp cổ của thủ đô Hà Nội. Xem ra có sự lấn lướt về giá trị giữa hai miền. Cái gì của miền Nam thuộc vật chất thì được coi là tốt, là đẹp, là tiện nghi, là văn minh tiến bộ.
Sự vơ vét chiếm chiếm đoạt mang tính chất nhà nước, như một định chế bất khoan nhượng, luật rừng. Cái luật rừng ấy củng cố thêm cho cái hào quang chiến thắng và làm mờ lương tri và lẽ phải. Dựa vào chiến thắng biến chuyện vơ vét thành chuyện chính đáng, tự nhiên.
Như một thứ cướp ngày.
Năm 1975, khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản thì có hơn 30.000 công xưởng kỹ nghệ rơi vào tay chính quyền mới. Có hằng trăm cơ sở kỹ nghệ có từ 1000 đến 3000 công nhân viên nay do nhà nước quản lý.
Một phần các cơ sở kỹ nghệ tập trung trong khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, thành lập năm 1963, rộng hơn 300 hectares, cách Sài Gòn 25 kilômét. Nơi đây có nhiều hãng: Như Chế biến thực phẩm. Chế biến Hóa chất. Sản xuất vật liệu xây dựng. Sản xuất Giấy và các sản phẩm giấy. Các hãng Thủy tinh. Hãng Bao Bì. HãngThép, hãng Cáp điện. Hãng Sơn gỗ.
Tiêu Biểu có các hãng Coronel, Vimytex, Vinatexco, Sicovina. Các hãng dược phẩm như Roussel, Vina-Spécia, Hoechst, hãng sữa Nestlé. Về kỹ nghệ, có các hãng xăng dầu Nhà Bè, các hãng dệt (năng xuất 240 triệu mét/năm)các hãng bia, nước ngọt,(250 triệu lít/năm) hãng sữa, các hãng thực phẩm như Bột Ngọt, làm mì gói, dầu ăn. Các hãng như Pin Con Ó, hãng bông gòn Bạch Tuyết. Các nhà máy xi măng, nhà máy giấy.
Rồi đến các cảng biển như bến cảng Sài Gòn bốc dỡ 7 tiệu tấn/năm. Các hãng tàu biển, các kho hàng. Thu tất. Chở tất cả về Bắc cái gì chở được.
Rồi còn các phi trường
Xin được đưa một vài chi tiết mà Cỏ Cụ Hồ gọi là “chiến lợi phẩm” tại phi trường Tân Sơn Nhất. Trong bài: Những ngày đầu tiếp quản Tân Sơn Nhất, ông Trần Vĩnh Khâm cho hay: Ngoài các cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhà xưởng. Họ tịch thu được 2 DC6, 7 DC3, 5 DC 4 một B.727, một 707. Cộng thêm 76 máy bay quân sự gồm các loại C.130, Ch.47. C.7A, v.v… (Trích Trần Vĩnh Khâm, người trách nhiệm tiếp quản sân bay Tân Sơn Nhất, thuộc cục cảng Hàng Không Việt Nam)
Tôi thật ngạc nhiên không hiểu các vị tổng giám đốc Hàng không VN lại có thể để lại một cách phí phạm những phi cơ phản lực như B.727 như vậy cũng như vô số máy bay vận tải quân sự. Với chừng đó máy bay, ít lắm cũng cứu được vài ngàn người ra khỏi Việt Nam.
Chưa kể các căn cứ quân sự và quân trang, quân dụng với hàng ngàn xe tăng đủ loại của Việt Nam và của Mỹ để lại
Về Ngân Hàng Quốc Gia và 16 tấn vàng
Chiếm được Sài Gòn là nghĩ ngay tới tài sản ở ngân hàng. Nay thì đã rõ TT Nguyễn Văn Thiệu đã không dính dáng gì đến 16 tấn vàng mà dư luận đã đổ oan cho ông. Khi người cộng sản chiếm được Sài Gòn thì cái “chiến lợi phẩm” đầu tiên mà họ nghĩ tới là Ngân hàng Quốc Gia ở 17 bến Chương Dương. Theo lời tường thuật của ông ông Huỳnh Bửu Sơn, kiểm soát viên, người giữ chìa khóa hầm chứa vàng và Ông Lê Minh Kiêm, người giữ mã số hầm bạc của ngân hàng quốc gia như sau. Tháng 6/1975, có lệnh kiểm kê. Ông Huỳnh Bửu Sơn lãnh trách nhiệm kiểm kê số vàng và tiền. Vàng có 1234 thoi, nặng 12 hoặc 14kg/một thoi. Và hơn một ngàn tỉ đồng tiền Việt Nam. Cả hai bên đã làm một kiểm kê thì số lượng vàng để lại trong ngân hàng ăn khớp với giấy tờ. Công việc hoàn tất, ông Huỳnh Bửu Sơn trao lại cho đại diện chính quyền mới là ông Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản ngân hàng.
Nay được hỏi số vàng đó đi đâu thì ông Ba Châu, nguyên Tổng Giám Đốc ngân hàng trả lời cho biết như sau:
Khi tiếp quản, liệu tiền vàng có bị thất thoát không? Ông trả lời nước đôi. Theo tôi thì không thể. Ngân hàng của chính quyền cũ quản lý rất chặt, ta cũng chặt.
Số vàng đó sau này đi về đâu? Nó trở thành tài sản quốc gia, được quản lý theo luật pháp của chính quyền cách mạng, sau đó là của nhà nước Việt Nam thống nhất? (TríchTrở lại câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30/4/1975 VnMedia.Vn, ngày 17/10/2006)
Câu hỏi còn lại bây giờ vẫn là: Số vàng đó sau này đi về đâu? Và nếu tiêu thì tiêu vào việc gì?
Lần này thì không ai có thể có câu trả lời được. Bởi vì rất chặt và cũng chặt đã hẳn khác nhau.
Tất cả rơi vào tay Cỏ cụ Hồ.
Nhưng 16 tấn vàng có nhằm nhò gì. Theo một ông Tây, ông Michel Tauriac, tác giả nhiều cuốn sách viết về Việt Nam. Tauriac kết án nặng nề chế độ cộng sản Hà Nội là 50 năm tội ác và dối gạt. Ông viết báo chí ở Việt Nam chỉ là công cụ được trả tiền để tuyên truyền “phúc âm” của chế độ: “Ils ne sont payés que pour diffuser l’évangile du régime.” (Trích Viet Nam. Le dossier noir du communism de 1945 à nos jours, 2001, trang 187). Không biết ông tính toán làm sao mà cho rằng việc diện người Hoa đi bán chính thức đã đem về cho chính quyền Hà Nội 25 tấn vàng.
Nhưng theo tôi nếu nhà nước chiếm 25 tấn vàng thì chủ tầu người Hoa cũng ẵm thêm 25 tấn nữa. Vị chi là 50 tấn vàng. Michel Tauriac gọi những người di tản là những con bò sữa cho chế độ cộng sản Hà Nội vắt sữa.
Nếu thế thì phải chăng ngoài loại Cỏ Cụ Hồ còn có loại sữa miền Nam bị Cỏ Cụ Hồ vắt sau khi chiếm miền Nam?
Mặc dầu ăn ngập đầu, ngập cổ, mặc dầu tham lam vô độ, họ vẫn có thể không biết ngượng đưa ra tuyên cáo trấn an lừa phỉnh dân chúng miền Nam như sau: “Không có bất cứ tổ chức nào, không có bất cứ đơn vị quân đội nào có quyền trục xuất những người ở trong các biệt thự đó cũng như tịch thu tài sản của họ.”
Nói thì ngon lắm. Năm 1981, tôi bảo lãnh được gia đình qua. Căn nhà của tôi ở số 224B Nguyễn Huỳnh Đức, nhà nước không cho bán, cũng không cho nhường lại cho em gái tôi. Họ đã chiếm nhà và chỉ cho một mảnh giấy vỏn vẹn ghi rõ từng chữ sau đây: Nhà này do nhà nước quản lý. Vậy bây giờ có trả lại không? Quản lý là lấy luôn? Một bất công xảy ra cho một người là một đe dọa cho cả mọi người? Không phải chỉ một gia đình tôi là nạn nhân mà hằng vài trăm ngàn gia đình người miền Nam. Hằng trăm ngàn cây dừa miền Nam đã bị đốn chặt nhường chỗ cho những Cây Cộng Sản, những Cỏ Cụ Hồ.
Tự nhiên mà lấy, công khai mà lấy. Lấy vô tư. Cái tự nhiên vô tư trở thành một vô thức tập thể, cướp của người không hối hận mà còn hãnh diện. Nó có khác gì tâm trạng những vua quan thời xưa xâm chiếm đất nước Chiêm Thành không? Nó còn tồi tệ hơn chế độ thực dân Pháp một bực.
Cỏ Cụ Hồ là loại cỏ ăn được đủ thú, một mối đe dọa cho những cây dừa miền Nam. Sau này, nếu có chống đối, có vùng lên thì chỉ trông cậy vào những cây dừa đã mất nhà, nhất là mất đất đứng dậy vùng lên. Họ sẽ nhân danh cây cỏ, nhất là cây dừa miền Nam đòi lại công lý.
Đến ngay những người trước đây vốn là dân miền Nam chính hiệu, nhưng sau này theo Măt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau 1975, họ cũng tự coi mình là kẻ chiến thắng, hành xử như kẻ chiến thắng. Cũng mỗi ông từ bưng biền trở về, ông nào cũng được cấp một căn nhà, nhiều khi đồ dùng trong nhà còn nguyên vẹn.
Ngoài các cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng. Họ an nhiên tin chắc họ xứng đáng được ở những căn nhà đó. Như ông cách mạng Lữ Phương chẳng hạn. Đứng về mặt thuần túy Cách Mạng, các ông như Lữ Phương vốn là người tự hào theo cách mạng vì lý tưởng Mác Xít, tự hào vì con đường giải phóng dân tộc, tự hào vì đủ thứ. Ông có nghĩ rằng căn nhà ông đang ở nay công bằng của lẽ phải nên trả lại người chủ cũ, nếu người ta đòi hoặc dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ hay trăm ngàn người lính ngoài mặt trận? Tất cả những thành phần đó, họ có xứng đáng ở căn nhà đó hơn ông không? Và đã có một ai trong số hàng triệu những người đó được ở trong những căn nhà tương tự?
Nếu có những Cỏ Cụ Hồ sau này từ bỏ lớp Cỏ Cụ Hồ thì đó là những cựu cán binh, cựu bộ đội, cựu kháng chiến Nam bộ- Những người đã hy sinh cả đời mình cuối cùng bị loại bỏ- Đó là những thành phần sẽ đứng lên đòi công lý sau lớp nông dân miền Nam mất đất ở trên.
Phần ông Lữ Phương, tôi giả dụ rằng ông Lữ Phương đang chiếm ngụ căn nhà lại chính là căn nhà của tôi. Có thể là bất hạnh cho ông Lữ Phương và may mắn cho tôi vì tôi đã gặp được một con người đã hy sinh đi theo lý tưởng cách mạng, đã dám hy sinh cả mạng sống mình, ông có thể nghĩ lại trao trả một căn nhà hợp pháp lại cho chủ cũ là tôi không?
Cả đời tôi đi làm. Không tham nhũng, không hối lộ. Không phạm pháp. Tất cả còn lại là chữ KHÔNG.
Tôi là Cây Dừa miền Nam chính hiệu.
Tôi đã bị Cỏ Cụ Hồ lấn áp, cướp cạn. Tôi để dành để dụm cả đời mới có nhà, có xe, có cửa. Ra đi có giấy tờ. Nhưng chịu cảnh trấn lột trắng tay. Hai cha con ra đi đã nộp 18 lạng vàng cho Cỏ Cụ Hồ. Không còn một xu dính túi, chỉ còn nhét dấu được đôi chút nữ trang làm của hồi môn cho con dâu sau này.
Có đất nước nào như đất nước chúng ta không?
Tôi trắng tay, ai là kẻ có trách nhiệm? Có một nước văn minh nào trên thế giới hành xử như quý ông không?
Tôi hỏi để mà hỏi thôi. Sau tôi, hàng ngàn, hàng vạn hàng trăm ngàn người, người dân quê, giới lao động đã bị nhà nước thu vét tài sản đến không còn đồng xu dính túi.
Nhưng tôi cũng nghĩ tới những nạn nhân chiến thắng, cũng bị bỏ rơi như tôi. Đó là các thương binh, bộ đội, các đàn bà góa miền Bắc vì có chồng đi làm vật hy sinh, có “những làng không chồng” trong số họ. Tất cả đều dành hy sinh cho Cỏ Cụ Hồ. Họ được gì? Cách mạng ở chỗ nào, thưa các ông?
Cho nên, người cộng sản đánh đuổi chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ để cuối cùng khoác cho mình một chủ nghĩa tự thực dân (autocolonisation) chính người dân của mình, coi tất cả những gì thuộc miền Nam đều là một thứ “chiến lợi phẩm.” Ngay cả “chiến lợi phẩm” là con người.
Phải chăng, chiến lợi phẩm là chính con người? Phải chăng đó là điều tệ hại nhất mà ta có thể tưởng tượng ra được.
Lê Hiếu Đằng, Phó chủ tịch MTTQ TP HCM
Nguồn: vietnamnet
Họ biến những kẻ thua cuộc trở thành những kẻ thù. Nhưng họ vẫn môi mép. Họ là những người như ông Lê Hiếu Đằng (1) đã không biết ngượng khi trả lời trên Tin Sáng coi cây dừa miền Nam như: “Những cái hôn thắm thiết, những bàn tay xiết chặt tưởng chừng như không muốn rời ra. Đây là một cuộc Bắc Nam xum họp một nhà cảm động và đông đủ nhất.”Nguồn: vietnamnet
Viết được đến như thế thì thôi và khoảng cách giữa con người với con người còn cách xa nhau lắm.
Cho nên, tài sản thì họ chiếm đoạt. Nhà cửa họ chiếm đoạt. Tiền bạc họ chiếm đoạt. Nghĩa là tất cả những gì thuộc giá trị vật chất như đất đai, kho tàng, thì đều thuộc về họ.
Tất cả đều rất thơm, rất tốt. Tranh nhau mà lấy.
Sau 1975, phần lớn các khu biệt thự đường Bà Huyện Thanh Quan, Công Lý, Pasteur, Nguyễn Du cũ nay là nhà của quan chức lớn nhỏ. Những khu buôn bán như Nguyễn Huệ, Gia Long, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, chợ An Đông, Chợ Lớn Mới thì nay vợ con quan chức miền Bắc vào chiếm ngụ buôn bán.
Chưa thấy một ai trong số họ chê bai hoặc từ chối tài sản Mỹ Ngụy để lai. Chưa ai có can đảm, muối mặt dám nhận rằng đó là tài sản do bóc lột, ăn cướp của dân nghèo. Chưa một người nghèo khổ nào, chưa một người bộ đội nào được phân chia nhà cửa, đất đai của chế độ Sài Gòn.
Tất cả những người đã hy sinh cho chế độ cộng sản thì đều được chia một phần bánh vẽ. Bánh vẽ không làm bằng tay mà bánh vẽ bằng mồm.
Nhưng tất cả những gì còn lại liên quan đến con người miền Nam từ văn học, xã hội, lịch sử thì đều là “tàn dư,” đều xấu.
Họ đã đồng hóa chiến thắng quân sự đi đôi với đạo đức, đi đôi với các tiêu chuẩn giá trị tốt xấu.
Họ đã giản lược xã hội con người dựa trên Nhị nguyên tính: chính và tà. Kẻ chiến thắng đồng nghĩa với chính nghĩa. Kẻ thua được đồng loại với Tà. Đó là một thế gìới truyện giản lược của Kim Dung: Đại diện cho chính phái và tà phái.
Hay nói theo ngôn ngữ chính trị thời nay phân chia thế gìới lưỡng cực: Thế giới Cực của điều xấu (Axes du Mal) và một thế giới cực của điều tốt (Axes du Bien).
Bổn phận của chúng ta ngày nay là đánh tụt giá tất cả những quan điểm cực đoan về điều xấu, điều thiện. Trong đó có quan điểm cực đoan giáo điều của Cây cộng sản.
Cây dừa miền Nam vẫn là biểu tượng giá trị tinh thần, văn hoá, tình cảm của miền Nam.
Tôi rất mừng là cho đến lúc viết bài này cây dừa miền Nam vẫn còn đứng vững, vẫn trụ. Nhưng một mặt khác, tôi cảm thấy ngượng, vì bài viết của tôi so với thực tế bây giờ thì chỉ là truyện muối bỏ biển.
Ngày nay, Cỏ Cụ Hồ tham lam trấn lột cả nước, gấp 10 lần so với năm 1975. Trấn lột một cách ngang nhiên, không còn pháp luật.
Nhưng cũng vì thế nay không chỉ có những người tỵ nạn ở Hải ngoại chống lại người cộng sản. Mà cả nước chống. Mọi người chống cái đảng “ăn cướp” ấy. Người ta tự đặt câu hỏi liệu cái đảng ấy còn đứng vững được bao lâu?
Như nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả Truyện kể năm 2000 hiện nay đang ở Cali thăm bạn bè Người Việt Hải Ngọai đã dặn dò Vũ Thư Hiên như sau: “Chúng mình phải viết về những gì chúng mình thấy. Trách nhiệm đấy.
Theo gương các người đã từng sống trong chế độ cộng sản đã viết như những người chứng tố cáo chế độ ấy như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Chí Thiện, nhạc sĩ Tô Hải.
Tôi đã viết và sẽ còn viết, mặc dầu tiếng nói nhỏ nhoi và không trọng lượng bằng những người trên.
Nguyễn Văn Lục