Một góc nhìn về Chiến tranh Việt Nam

Collapse
X

Một góc nhìn về Chiến tranh Việt Nam

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Phạm Văn Bản
    Người Thân
    • May 2010
    • 471

    Một góc nhìn về Chiến tranh Việt Nam

    Bài A View Of The Vietnam War của Vincent Pham Van Ban đã được trang mạng Hoa Kỳ "Vietnam War Veterans" tuyển chọn và đăng tải với nguyên văn Anh Ngữ. Bởi thế Bản xin dịch lại qua Việt Ngữ và đăng tải 2 ngôn ngữ như sau - Xin mời bạn đọc thưởng thức và chúc bạn một ngày thật vui:
    Một góc nhìn về Chiến tranh Việt Nam



    Tác giả: Vincent Pham

    Tính đến tháng 7 năm 2019, theo Cơ quan Tìm kiếm Tù binh Chiến tranh/Người mất tích trong Chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, gần 1.600 quân nhân Hoa Kỳ vẫn mất tích ở Đông Nam Á từ thời Chiến tranh Việt Nam. Trong số đó, hơn 1.200 trường hợp là từ Việt Nam, trong khi số còn lại được báo cáo ở Lào, Campuchia và Trung Quốc.

    Mặc dù sự tham gia của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam thường được coi là một thất bại vì cuối cùng Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) đã rơi vào tay Cộng sản, nhưng trên thực tế, ba kết quả tích cực liên quan đến chính sách quốc gia chiến lược đã xuất hiện từ nỗ lực này:

    1. Một rạn nứt phát triển giữa Liên Xô và Trung Quốc Cộng sản.
    2. Chiến trường Việt Nam thúc đẩy sự phát triển của các hệ thống vũ khí và kỹ thuật mới được thiết kế để chống lại các lực lượng phi truyền thống.
    3. Các lực lượng Hoa Kỳ đã ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan rộng khắp Đông Nam Á.

    Tôi đã làm việc với tư cách là Phiên dịch viên Trung sĩ cho Lữ đoàn Cảnh sát Quân sự 18 của Hoa Kỳ tại Long Bình trong hai năm. Đơn vị này phục vụ người dân Việt Nam bằng cách cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế, xây dựng trường học, đường sá và cầu cống, phân phát thực phẩm, thuốc men và quần áo cho những người nghèo. Tôi bắt đầu ngưỡng mộ những người lính Mỹ vì sự hỗ trợ tận tâm và tinh thần phục vụ nhiệt thành của họ.

    Nhiều người nói rằng Hoa Kỳ đã gửi nửa triệu quân đến Nam Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968 vì những lý do bất công, và trong quá trình đó đã xâm phạm chủ quyền của đất nước, nhưng quan điểm này là thiển cận. Trong khi Hoa Kỳ đã hy sinh gần sáu mươi nghìn binh lính trong cuộc xung đột, sự hiện diện của họ có thể đã ngăn chặn được cái chết của hàng trăm nghìn thường dân và quân nhân Việt Nam Cộng hòa.

    Việt Cộng đã nhận được sự hỗ trợ của Khối Cộng sản hùng mạnh, bao gồm Liên Xô và các nước vệ tinh Đông Âu, cũng như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Kể từ đầu thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã kiên trì bảo vệ nền dân chủ trên toàn thế giới, đầu tiên là một bên đóng góp chính cho nỗ lực của đồng minh nhằm giành chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh thế giới, và sau đó là một thành trì chống lại sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản trong Chiến tranh Lạnh. Cuối cùng, những nỗ lực này đã dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin và sự sụp đổ của Khối Cộng sản, giải phóng hàng triệu người khỏi hàng thập kỷ nô lệ của chủ nghĩa cộng sản.

    Hiệp định Geneva năm 1954 chia đất nước Việt Nam thành hai khu vực, một khu vực phía bắc do Việt Minh quản lý và một khu vực phía nam do Nhà nước Việt Nam quản lý. Các nhà lãnh đạo ở cả hai bên đều thiếu hiểu biết sâu sắc về chính trị quốc tế và dựa vào các ý tưởng bắt nguồn từ nền tảng nông nghiệp để xây dựng chính phủ của họ. Nền tảng văn hóa khiến các bên dễ bị ảnh hưởng bởi ván cờ chính trị quốc tế. Thỏa thuận này là một thảm họa đối với thế giới tự do vì nó tạo cơ hội cho Trung Quốc cộng sản và Bắc Việt Nam mở rộng ảnh hưởng cộng sản khắp Đông Nam Á. Đáp lại, Hoa Kỳ từ chối ký kết và thay vào đó xây dựng một chính sách được thiết kế để cứu miền Nam đất nước khỏi chủ nghĩa cộng sản.

    Hoa Kỳ ủng hộ việc thành lập Việt Nam Cộng hòa với Ngô Đình Diệm làm tổng thống, giúp đất nước giành được độc lập từ Pháp và thành lập một chính phủ thống nhất dân tộc. Năm 1956, Quốc hội Lập hiến được bầu, một hiến pháp mới được soạn thảo và Hoàng đế Bảo Đại bị phế truất hợp pháp. Việt Nam Cộng hòa trở thành một quốc gia tự do chống cộng sản mạnh mẽ. Chính phủ của Tổng thống Diệm được Hoa Kỳ và các chính phủ phương Tây khác ủng hộ, và đã thống nhất thành công các lợi ích khác nhau trong nước, bao gồm Cao Đài, Hòa Hảo và những lợi ích khác.

    Tổng thống Diệm muốn một Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ông cảm thấy Pháp đã thất bại trong cuộc chiến chống lại những người cộng sản và những người theo chủ nghĩa dân tộc. Lời hứa về độc lập cho Việt Nam đã bị phá vỡ. Để thực sự độc lập, ông cảm thấy chính phủ phải chống lại chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là từ Pháp, nhưng ông cũng phản đối sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam, ông nói rằng, "Nếu các ông đưa quân đến Việt Nam, tôi phải giải thích điều này với người dân của tôi. Những hình ảnh kinh hoàng về Quân đội viễn chinh Pháp đã ăn sâu vào tâm trí của người Việt Nam. Việc mời thêm quân đội nước ngoài đến Việt Nam sẽ là bất lợi cho chúng tôi."

    Chính phủ của Tổng thống Diệm đã ủng hộ Chương trình ấp chiến lược và kết quả ban đầu rất tốt. Ví dụ, tại địa phương của tôi, Tỉnh Kiên Giang, chính quyền tỉnh đã đưa 250 làng vào chương trình trong một năm, chỉ để lại 35 làng bị cô lập. Trên thực tế, kế hoạch này đe dọa sự tồn vong của chủ nghĩa cộng sản ở Nam Việt Nam. Tổng thống Diệm là một người yêu nước thực sự và là một nhà lãnh đạo có năng lực, nhưng đôi khi lại thiếu tầm nhìn để hiểu được Hoa Kỳ và Thời đại thông tin. Đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow cuối cùng đã quay lưng lại với Tổng thống Diệm và kêu gọi thay thế ông.

    Sau khi Tổng thống Diệm bị giết trong một cuộc đảo chính năm 1963, Việt Nam Cộng hòa thiếu một nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn có khả năng giành được sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế. Tình hình chính trị trong nước rơi vào tình trạng hỗn loạn. Các tướng lĩnh cãi vã nhau, tranh giành quyền lực trong cả lĩnh vực quân sự và dân sự khiến tinh thần chiến đấu của binh lính suy giảm. Cùng lúc đó, kẻ thù đang củng cố tình hình quân sự của chính mình khiến Hoa Kỳ và các đồng minh phải đưa quân vào Nam Việt Nam để ngăn chặn làn sóng cộng sản tràn vào.

    Từ tình hình hỗn loạn sau cuộc đảo chính, Nguyễn Văn Thiệu cuối cùng đã nổi lên lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam với tư cách là Tổng thống mới. Trước những thách thức vô cùng khó khăn, chính quyền và nhân dân đã anh dũng chiến đấu chống lại làn sóng lực lượng cộng sản đang trỗi dậy. Tuy nhiên, khi sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với nỗ lực chiến tranh suy yếu, Hoa Kỳ cuối cùng đã rút quân đội của mình, để lại Việt Nam Cộng hòa tiếp tục chiến đấu một mình, và họ đã làm được điều đó cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

    Điều quan trọng cần lưu ý là tầm quan trọng của Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968. Vào đúng ngày lễ truyền thống của niềm vui và đoàn tụ với gia đình, lực lượng cộng sản đã vô liêm sỉ lợi dụng sự mất tập trung để phát động một trận chiến dữ dội trên khắp miền Nam. Ban đầu, Việt Cộng đã đạt được những thành quả đáng kể, nhưng Quân đội Việt Nam Cộng hòa (ARVN) cuối cùng đã kiên cường và sau đó phát động một cuộc phản công đã xóa sổ mọi thành quả mà lực lượng cộng sản đạt được, giành được sự ngưỡng mộ của thế giới. Những người lính ARVN đã hành động tốt và thể hiện sự tôn trọng của họ đối với nhân quyền. Ngược lại, những người lính Việt Cộng đã hành động tàn bạo và cố gắng truyền bá thái độ thù hận và đấu tranh giai cấp. Sau khi bị các đồng minh bỏ rơi, ARVN đã chiến đấu để bảo vệ lý tưởng tự do và dân chủ cho người dân Việt Nam cho đến những giây phút cuối cùng.

    Khi thời kỳ chiếm đóng của thực dân châu Âu suy yếu sau Thế chiến II, Hồ Chí Minh cảm thấy rằng những người theo chủ nghĩa dân tộc như Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đã không đạt được ước mơ về một nước Việt Nam độc lập vì họ đã không nhờ Trung Quốc và Liên Xô giúp đỡ. Không ai nên phủ nhận hoàn toàn những thành tựu của Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống Pháp, nhưng mặc dù ông đã phát động một cuộc chiến tranh tư tưởng cuối cùng dẫn đến sự thống nhất và độc lập của Việt Nam nhiều thập kỷ sau đó, quyết định đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam của ông là một quyết định bi thảm. Hàng ngàn người đã phải chịu đau khổ một cách bất công trong những năm sau đó, và gần bốn triệu người đã chết một cách bất công trong 21 năm anh em ruột thịt. Sau khi cộng sản tiếp quản vào năm 1975, gần ba triệu người đã chạy trốn khỏi đất nước với tư cách là người tị nạn, và hàng ngàn người đã chết đuối ở Biển Đông.

    Hồ Chí Minh và Việt Cộng đã lợi dụng mong muốn của người dân về một đất nước độc lập. Họ thao túng lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của họ, và sử dụng nó để truyền bá chủ nghĩa cộng sản dưới chiêu bài đấu tranh để ngăn chặn ảnh hưởng của nước ngoài giành lại quyền kiểm soát chủ quyền quốc gia. Việt Cộng sẵn sàng sử dụng thủ đoạn gian trá và bạo lực khủng bố để đạt được mục tiêu của mình, sống theo phương châm "mục đích biện minh cho phương tiện". Các thế lực cộng sản trên khắp thế giới đã cung cấp cho Việt Cộng nhiều nguồn lực cho cuộc đấu tranh lật đổ của họ, bao gồm hỗ trợ chính trị, tâm lý, kinh tế và quân sự dưới hình thức vũ khí và nhân sự.

    Việt Cộng đã lợi dụng địa hình khó khăn ở Việt Nam để tổ chức các hoạt động khủng bố. Sự bất mãn đã được gieo rắc trong các thể chế của Nam Việt Nam để làm suy yếu lòng tin vào các lý tưởng dân chủ, thịnh vượng và một xã hội tự do. Thời gian cũng đứng về phía họ, vì cuối cùng họ nhận ra rằng Hoa Kỳ và các đồng minh của họ sẽ mệt mỏi vì thương vong và thiệt hại tài chính mà chiến tranh gây ra. Sau khi kiểm soát Nam Việt Nam, chế độ cộng sản đã sử dụng cảnh sát và quân đội để đàn áp bạo lực bất kỳ phe đối lập nào đối với chính phủ của họ, theo gương của Mátxcơva và Bắc Kinh theo các khái niệm về cuộc cách mạng vô sản toàn cầu của Quốc tế thứ ba.

    Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973 được lập ra để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhưng hiệp định này đã đặt Việt Nam Cộng hòa vào tình thế nguy hiểm. Không có ranh giới rõ ràng nào được thiết lập và các điều khoản của hiệp định thường xuyên bị phá vỡ. Lệnh ngừng bắn đã bị phá vỡ gần như ngay lập tức. Việt Cộng đã đánh dấu sự hiện diện của họ tại các làng mạc trên khắp Việt Nam Cộng hòa. Ủy ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế, được giao nhiệm vụ giám sát lệnh ngừng bắn, đã bất lực trong việc ngăn chặn sự lừa dối của những người lính Việt Cộng. Nhìn chung, Quân đội Hoa Kỳ, ARVN và các đồng minh của họ đã hoạt động theo các tiêu chuẩn của chiến tranh thông thường, sử dụng vũ khí kết hợp của bộ binh, thiết giáp, máy bay và pháo binh hỗ trợ. Tuy nhiên, Việt Cộng đã sử dụng chiến thuật du kích để vô hiệu hóa lợi thế của đối thủ về vũ khí và trang thiết bị hiện đại.

    Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc nội chiến giữa những người cùng một quốc gia, và do đó đặc biệt tàn khốc và người dân Việt Nam phải chịu đựng rất nhiều đau khổ. Các ngôi làng và đôi khi là các gia đình đã chiến đấu và giết hại lẫn nhau khi họ liên kết với một bên hoặc bên kia.

    Khi tôi còn nhỏ, ông tôi đã dạy tôi rằng mỗi thời đại đều có nhu cầu riêng về các ý tưởng và thể chế có thể đáp ứng được những thách thức của thời đại. Đã có thời, Việt Nam là một quốc gia chậm chạp, lạc hậu và nông nghiệp. Rất ít người vào thời điểm đó hiểu được Cách mạng Công nghiệp như các nước phương Tây. Pháp đã lợi dụng tình hình này bằng cách xâm lược đất nước, và Pháp đã khai thác tài nguyên của đất nước trong hàng trăm năm. Người dân Việt Nam đã đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân và hy vọng một ngày nào đó họ có thể giành lại độc lập và chủ quyền, nhưng những nỗ lực đó đã thất bại do họ thiếu kiến thức khoa học và kỹ thuật.

    Anh đã dẫn đầu quá trình chuyển đổi của chúng ta từ một xã hội dựa trên nông nghiệp sang một xã hội dựa trên công nghiệp. Sau đó, Hoa Kỳ đã đi đầu trong quá trình chuyển đổi nhanh chóng từ nền kinh tế công nghiệp truyền thống sang nền kinh tế dựa trên công nghệ thông tin. Ngày nay chúng ta có một tầm nhìn mới, kiến thức mới và một nền văn minh mới trong Thời đại thông tin và Lý thuyết Thiên-Rồng (Kết nối Tâm trí, Cơ thể, Tinh thần và Tâm linh).

    Cảm ơn Hoa Kỳ!

    Vincent Pham


    ****
    A View of the Vietnam War


    By Vincent Pham

    As of July of 2019, according to the United States Defense POW/MIA Accounting Agency, nearly 1,600 U.S. military personnel remain unaccounted for in Southeast Asia from the Vietnam War era. Among them, more than 1,200 cases are from Vietnam, while the rest are reported in Laos, Cambodia and China.

    Although the United States' involvement during the Vietnam War is often viewed as a failure because of the Republic of Vietnam's (South Vietnam) eventual fall to the Communists, in fact three positive outcomes related to strategic national policy emerged from this effort:

    1. A rift developed between the Soviet Union and Communist China.
    2. The battlefield of Vietnam spurred the development of new weapon systems and techniques designed to combat unconventional forces.
    3. U.S. forces prevented communism from spreading throughout Southeast Asia.

    I worked as a Staff Sergeant Interpreter for the U.S. 18th Military Police Brigade in Long Binh for two years. This unit served the Vietnamese people by providing medical care, building schools, roads and bridges, and distributing food, medicine, and clothing to the needy. I came to admire American soldiers for their conscientious assistance and zealous service.

    Many people say that the U.S. sent half a million troops to South Vietnam from 1965-1968 for unjust reasons, and in the process infringed upon the sovereignty of the country, but this view was shortsighted. While the U.S. sacrificed nearly sixty thousand dead soldiers during the conflict, their presence likely prevented the deaths of many more hundreds of thousands of civilian and Republic of Vietnam military personnel.

    The Viet Cong had the support of the powerful Communist Block, consisting of the Soviet Union and its eastern European satellites, as well as the People's Republic of China. Since the early 20th century, the United States has steadfastly defended democracy around the world, first as a key contributor to the allied effort to win two world wars, and then as a bulwark against the spread of communism during the Cold War. Eventually, these efforts led to the fall of the Berlin Wall and the collapse of the Communist Block, which freed many millions of people from decades of enslavement to communism.

    The Geneva Accords of 1954 divided the country of Vietnam into two zones, a northern one governed by the Viet Minh, and a southern one governed by the State of Vietnam. Leaders on both sides lacked a sophisticated understanding of international politics and relied on ideas derived from agricultural backgrounds to build their governments. The cultural background made the sides susceptible to the chess game of international politics. The agreement was a disaster for the free world because it gave communist China and North Vietnam an opportunity to spread communist influence throughout Southeast Asia. In response, the U.S. refused to sign, and instead developed a policy designed to save the southern part of the country from communism.

    The U.S. supported the creation of the Republic of Vietnam with Ngo Dinh Diem as president, helping the country gain its independence from France and establishing a national unity government. In 1956 the National Constitutional Assembly was elected, a new constitution was drafted, and Emperor Bao Dai was deposed legally. The Republic of Vietnam became a strongly anti-communist free country. President Diem's government was supported by the U.S. and other western governments, and successfully unified disparate interests in the country, including Cao Dai, Hoa Hao and others.

    President Diem wanted a completely independent Vietnam. He felt France had failed in its fight against the communists and the nationalists. The promise of independence for Vietnam was broken. In order to be truly independent, he felt the government had to stand against colonialism, especially from France, but he also opposed U.S. military intervention in Vietnam, saying, “If you bring troops to Vietnam, I must explain this to my people. Horrific images of the French Expeditionary Army are deeply imbedded in the minds of the Vietnamese. The invitation of more foreign troops to Vietnam will be a disadvantage for us.”

    President Diem's government supported the Strategic Hamlet Program, and preliminary results were very good. In my local area, Kien Giang Province, for example, the provincial government incorporated 250 villages into the program during a single year, leaving only 35 isolated. Effectively, the plan threatened the survival of communism in South Vietnam. President Diem was a true patriot and capable leader, but lacked the vision at times to understand the United States and the Information Age. U.S. Ambassador Elbridge Durbrow eventually turned against President Diem and called for his replacement.

    After President Diem was killed during a coup in 1963, the Republic of Vietnam lacked a charismatic leader capable of earning the respect of the international community. The political situation in the country fell into disorder. Generals squabbled with each other, vying for power in both the military and civilian spheres leading to deterioration in the fighting spirit of the soldiers. At the same time, the enemy was strengthening its own military situation which prompted the United States and its allies to send troops into South Vietnam to stem the communist influx.

    From the turmoil that followed in the wake of the coup, Nguyen Van Thieu eventually emerged to lead the government of South Vietnam as its new President. Against extremely difficult challenges, the government and its people heroically fought against the rising tide of communist forces. As American support for the war effort waned, though, the United States eventually withdrew its armed forces, leaving the Republic of Vietnam to continue the fight alone, which it managed to do until April 30, 1975.

    It's important to note the significance of the Tet Offensive of 1968. On what is traditionally a holiday of joy and reunion with family, the communist forces shamelessly took advantage of the distraction to launch a fierce battle throughout the south. Initially, the Viet Cong made significant gains, but the Army of the Republic of Vietnam (ARVN) eventually stood firm and then launched a counterattack that managed to erase all the gains made by the communist forces, earning the admiration of the world. ARVN soldiers behaved well and demonstrated their respect for human rights. In contrast, Viet Cong soldiers behaved brutally and tried to spread attitudes of hatred and class struggle. After being abandoned by their allies, the ARVN fought to defend the ideals of freedom and democracy for the Vietnamese people right up to the final moments.

    As the era of European colonial occupation waned after World War II, Ho Chi Minh felt that nationalists like Phan Boi Chau and Phan Chu Trinh failed to achieve the dream of an independent Vietnam because they didn't turn to China and Soviet Union for help. Nobody should completely deny Ho Chi Minh's achievements in the war against France, but while he did launch an ideological war that eventually led to Vietnam's unification and independence decades later, his decision to bring communism to Vietnam was a tragic one. Many thousands of people suffered unjustly in the years that followed, and nearly four million people died unfairly in the 21 years of fratricide. After the communist takeover in 1975, nearly three million people fled the country as refugees, and thousands drowned in the East Sea as a result.

    Ho Chi Minh and the Viet Cong exploited the people's desire for an independent country. They manipulated their patriotism and fighting spirit, and used it to spread communism under the guise of a struggle to prevent foreign influence from regaining control over national sovereignty. The Viet Cong willingly used trickery and terrorist violence to achieve their goals, living by the motto, "the end justifies the means.” Communist powers around the world provided the Viet Cong with many resources for their subversive struggle, including political, psychological, economic, and military assistance in the form of weapons and personnel.

    The Viet Cong took advantage of the difficult terrain in Vietnam, using it to stage terrorist activities. Discontent was sowed in the institutions of South Vietnam to undermine trust in the ideals of democracy, prosperity and a free society. Time was also on their side, as they recognized eventually the United States and their allies would grow tired of the casualties and the financial toll the war was taking. Upon taking control of South Vietnam, the communist regime used the police and the military to violently oppress any opposition to their government, which followed the example set by Moscow and Beijing according to the notions of the global proletarian revolution of the Third International.

    The Paris Peace Accords of 1973 were established to end the war and restore peace in Vietnam, but this agreement placed the Republic of Vietnam in danger. No clear boundaries were established and its provisions were frequently broken. The cease fire broke down almost immediately. Viet Cong marked their presence in villages throughout the Republic of Vietnam. The International Commission of Control and Supervision, which was tasked with monitoring the armistice, was powerless to stop the deception of the Viet Cong soldiers. In general, the U.S. Army, the ARVN, and their allies operated according to the standards of conventional warfare, using the combined arms of infantry, armor, aircraft, and artillery support. The Viet Cong however, used guerrilla tactics to nullify the advantage their opponents had in terms of modern weapons and equipment.

    The war in Vietnam was a civil war between people of the same state, and as such was particularly brutal and the Vietnamese people suffered terribly. Villages and sometimes families fought and killed each other as they aligned with one side or the other.

    When I was a child, my grandfather taught me that each era has its own need for ideas and institutions that can meet the challenges of the time. At one time, Vietnam was a slow, backwards, and agricultural country. Few people at the time understood the Industrial Revolution as western countries did. France took advantage of this situation by invading the country, and France ended up exploiting its resources for hundreds of years. The Vietnamese people struggled against colonialism and hoped they could someday regain their independence and sovereignty, but those efforts failed due to their lack of scientific and technical knowledge.

    England led our transition from an agriculturally-based society to an industrially-based one. The United States has subsequently been at the forefront of the rapid transition from traditional industrial economy to one that is based on information technology. Today we have a new vision, new knowledge and a new civilization in the Information Age and the Tien-Rong Theory (Mind, Body, Spirit and Spiritual connection).

    Thanks to the United States of America!


    Vincent Pham
    Last edited by Phạm Văn Bản; 10-22-2024, 08:20 PM.
  • Phạm Văn Bản
    Người Thân
    • May 2010
    • 471

    #2

    Comment

    • Phạm Văn Bản
      Người Thân
      • May 2010
      • 471

      #3

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...