NHỮNG SĨ QUAN TUẪN TIẾT NGÀY MẤT NƯỚC
Anh hùng tử, khí hùng bất tử.
Phần 2
Tình Hoài Hương.
*
1. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn (sinh 24-3-1938, xã Vĩnh Thanh Vân, Rạch giá, Kiên Giang. Không đầu hàng giặc, bị việt cộng xử tử ngày 14-8-1975).
Chức vụ cuối cùng: Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện.
Trước ngày 30-4-1975, Đại tá Cẩn và một nhóm sĩ quan, binh sĩ ở trong Tiểu khu Chương Thiện nhịn đói nhịn khát kiên cường chiến đấu quyết liệt.
Đến ngày 30-4-75, trong Tiểu khu không còn một viên đạn, thức ăn nước uống không còn chút gì. Ðại tá Cẩn và một tốp sĩ quan, binh sĩ vẫn quyết tử thủ bảo vệ đồn bót. Sau cùng khi ông nghe tin trễ Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng.
Đại Tá Cẩn cho thuộc cấp tan hàng, giờ nầy chỉ còn một tướng, một binh, một chốt. Họ đã bị cộng sản bắt tại hầm chỉ huy.
Ngày 14-8-1975 việt cộng làm pháp trường đem Đại tá Cẩn ra xử bắn trước đồng bào. Trước khi bị xử tử, Đại tá Cẩn chính khí nói rất to:
- “Tôi chỉ có một mình, trong tay tôi không có súng. Tôi không đầu hàng ai. Muốn bắn cứ bắn đi. “Ninh Thọ tử bất ninh thọ nhục” (thà chết không chịu nhục). Nhưng, trước khi bắn tôi, hãy cho tôi mặc bộ quân phục và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Các anh không cần bịt mắt tôi, để tôi nhìn thấy rõ quê hương và đồng bào lần cuối cùng. Việt Nam Cộng Hòa muôn năm. Đả đảo cộng sản!" (trích dẫn từ Wikipedia).
Lời đề nghị của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn dĩ nhiên chỉ được một phần chấp thuận “không bịt mắt”. Ông đã anh dũng đi thẳng vào họng súng, trước lúc vĩnh biệt thế gian ông hiên ngang mở to đôi mắt nhìn rõ Đời.
Tất nhiên người Công giáo thì không được phép tự tử (cho dù tuẫn tiết). Chuyện xử bắn một vị anh hùng suốt đời thanh liêm, tận tụy vì quê hương và dân tộc, thì dường như Đại Tá Cẩn đã "chết vì đạo, vì Tổ Quốc quê hương” là điều tiên quyết.
Xin góp lời cầu nguyện cho linh hồn Đại tá Cẩn được Chúa đón về thiên đàng.
-- * --
2. Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông (sanh 1937) Thạch Hãn, Quảng Trị.
Chức vụ cuối cùng: Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh (một trung đoàn thiện chiến của Sư đoàn 22 Bộ binh).
Đại tá Thông chỉ huy trận chiến khốc liệt kinh hoàng ở Dakto Tân Cảnh, một trận chiến đẫm máu, không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương, súng không còn một viên đạn, hậu phương thì rệu rã.
Ông từ chối không lên tàu Hải Quân bạn, để họ hải vận đi Nha Trang, vì còn một tiểu đoàn khác của ông đang giao tranh ác liệt với cộng quân ở hướng tây nam thành phố Quy Nhơn. Đại tá Thông và số ít binh sĩ đi về hướng rừng rậm.
Phóng viên Phạm Huấn nói về Đại Tá Nguyễn Hữu Thông:
- ... Sự hy sinh của một đại anh hùng Đại tá Nguyễn Hữu Thông vào sáng ngày 2/4/1975, là sự thiệt thòi lớn lao cho đất nước! Tôi có thể quả quyết rằng: trong 20 năm sau cùng của chiến tranh Việt Nam, không có một tướng lãnh nào khi chỉ huy một cấp trung đoàn hay lữ đoàn, đã tạo dựng được những chiến công to lớn như anh hùng Đại tá Nguyễn Hữu Thông tại Pleime, Đèo Nhông, và những ngọn đồi vô danh (cao điểm chiến lược 82 và 174) tại phía tây, tây nam Hoài Nhơn, Bình Định ...
Dương Công An (hiện ở Đức) là hạ sĩ quan Pháo binh thuộc Tiểu đoàn 223 Pháo binh. Ông An cho biết:
- Cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị tôi bị tan hàng trên bờ biển Qui Nhơn, tôi và nhiều binh sĩ khác đã đưa xác Đại tá Thông tới quân y viện Quân Y Viện Quy Nhơn. Ở đây chỉ còn duy nhất một bác sĩ, đó là bác sĩ Trung úy Nguyễn Công Trứ. (nay bác sĩ tại New York).
Những binh sĩ nầy đã báo cho Bác sĩ Trung úy Trứ biết:
- Ðại tá Thông từ chối không xuống tàu, vì rất nhiều binh sĩ dưới quyền Đại tá còn chiến đấu đang kẹt lại không di tản.
Đại tá Thông tự sát ngày 2-4-1975 tại Qui Nhơn, xác Đại tá Thông được bác sĩ Trung úy Trứ, nhân viên nhà thương, và binh sĩ còn lại lo việc tẩn liệm họ hoàn tất chu đáo.
Bác sĩ Trung úy Nguyễn Công Trứ bị đi tù "cải tạo" hơn 4 năm, vì ông làm việc nầy theo lương tâm, tinh thần trách nhiệm với tình đồng đội: lo chôn cất 47 anh hùng tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện Qui Nhơn.
-- * --
3. Trung tá Nguyễn Văn Long (1919)
Chức vụ cuối cùng: Chánh sở Tư pháp Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng. Chánh Sở Cảnh Sát Tư Pháp Quân Khu I.
Ông hết lòng làm việc vì dân trong chức trách của mình. Ông nổi tiếng là một trong số các cấp chỉ huy mẫu mực, cương trực liêm khiết, "pháp bất vị thân". Trung tá Long có biệt danh “Long Lý” -- có nghĩa là không thiên vị ai, cứ công lý minh bạch lẽ phải mà thi hành. Tính tình Trung tá Long trầm lặng, ít nói. Gia đình ông sống rất thanh bạch, nghèo và đông con.
Trung Tá Long được lệnh phải rời Đà Nẵng vào Sài Gòn. Khi nghe Dương Văn Minh ra lịnh tất cả quân đội: "ở đâu phải ở đó, buông súng, không được kháng cự", để Minh bàn giao chánh phủ cho "ban tiếp quản Miền Nam" của cộng sản bắc việt.
Trung tá Nguyễn Văn Long đã tuẫn tiết bằng súng vào sáng 30-4-75 trước trụ sở Quốc Hội, dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến.
-- * --
4. Trung tá Võ Văn Đường.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng ty Cảnh sát tỉnh Chương Thiện.
Tại pháp trường ở sân vận động Cần Thơ, ngày 14-8-1975. Việt cộng kết tội ông có nợ máu với nhân dân, ông bình thản và khẳng khái trả lời:
- Tôi không có nợ máu với đồng bào. Tôi bảo vệ đất nước, bảo vệ Miền Nam Việt Nam”.
-- * --
5. Thiếu tá Đặng Sĩ Vĩnh.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng ban Bình Địa, Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu (sau biệt phái qua Cảnh Sát Quốc Gia).
(Major Dang Si Vinh - He moved in our neighborhood sometime in early 1974. His family ... mà nguyên bản tiếng Anh về Thiếu tá Đặng Sĩ Vĩnh, được anh Không quân Hoàng Hùng dịch từ Major Dang Si Vinh như sau:
Khoảng đầu năm 1974, Thiếu tá Vĩnh, vợ và 7 người con dọn nhà về sinh sống ở một khu bình dân ngoại ô vùng Sài Gòn. Theo một người hàng xóm cho biết: sau một thời gian rất ngắn, gia đình của Th/Tá Vĩnh được sự thông cảm, quí mến của bà con lối xóm.
Con trai đầu lòng của họ chừng 30 tuổi: Trung úy Quân Y, sau khi tốt nghiệp trường Dược (Pharmacist Of medical School), và con gái út khoảng 15 tuổi.
Gia Đình Th/Tá Vĩnh là một gia đình hạnh phúc, nếu Sài Gòn không rơi vào tay cộng sản Bắc việt. Theo lời kể lại của hàng xóm, Thiếu tá Vĩnh, người nắm chức vụ chỉ huy trong Bộ Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn, thì chừng 2 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống Minh đã ra lệnh buông súng đầu hàng, bà con xung quanh kề cận nghe tiếng súng nổ phát ra từ trong nhà của họ.
Sau khi thấy không còn nguy hiểm, những người lối xóm bước vô trong nhà, họ đã chứng kiến Th/Tá Vĩnh, vợ, và 7 người con nằm kế bên nhau, trên một chiếc giường, tất cả đều đã chết. Kế bên là bàn ăn tươm tất, 9 cái ly uống nước trên bàn đều có dấu vết tích một chất bột màu hồng đọng lại dưới đáy mỗi cái ly.
Có lẽ đây là thuốc ngủ, mà trước đó ông Vĩnh đã cho mỗi người trong gia đình uống. Sau đó ông tự sát bằng súng lục Colt 45. Một tủ sắt đã mở sẵn, Th/Tá Vĩnh đã để lại vài ba trăm ngàn đồng tiền mặt, tương đương chừng $500 US dollars, cùng với một bức thư ngắn, do Th/Tá Vĩnh viết:
- “Bà Con mến, mong Bà Con niệm tình tha thứ cho gia đình chúng tôi, bởi vì chúng tôi không muốn sống dưới chế độ cộng sản này, chúng tôi đã chọn cái chết. Cái chết này có thể đem lại sự buồn phiền đến với bà con. Xin nhờ bà con báo tin này đến người chị (em) của tôi tên... ở ... và dùng số tiền này để quý bà con chôn cất cho gia đình chúng tôi. Xin đa tạ.
Đặng Sĩ Vĩnh”.
-- * --
6. Thiếu tá Không quân Nguyễn Gia Tập. (1943).
Chức vụ cuối cùng: Phi-đoàn Khu trục 514-518 Biên Hòa. Đặc trách Khu trục tại Bộ Tư Lệnh Không Quân.
Thiếu tá Nguyễn Gia Tập là vị anh hùng phi công Khu trục A1 Skyraider.
Ngày 30-4-1975 Thiếu tá Tập tự sát bằng súng lục trước sân cờ, trong căn cứ Bộ Tư lệnh Không quân.
Thân nhân của Th/tá Tập, đã đem thi thể ông về chôn cất tại Long Khánh.
-- * --
7. Hải Quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn (1943).
Chức vụ cuối cùng: Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 43 Ngăn Chận.
(địa điểm yết hầu rất quan trọng cần chận địch, từ vùng Mỏ Vẹt họ đi tiếp tế cho Vùng IV Chiến Thuật). Ông xuất thân khóa 14 Sĩ quan Hải Quân. Thiếu tá Tuấn từng phục vụ hầu hết các chiến hạm của Hạm Đội, Duyên Đoàn 27, Duyên Đoàn 23. Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Hầu hết các nơi làm việc ông điều hành điều hành công tác một cách chu toàn khéo léo xuất sắc.
Khi nghe lệnh từ Dương Văn Minh bắt buộc quân nhân buông vũ khí, giao Miền Nam Việt Nam vô tay giặc, thì Hải quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung tướng Lê Nguyên Khang) đứng trên chiếc soái đỉnh, ông dùng súng colt bắn vô đầu tự sát. Thiếu tá Anh Tuấn gục xuống ngay trên tấm bản đồ hành quân.Hải quân Thiếu tá Tuấn tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
8. Thiếu tá Trần Đình Tự.
Chức vụ cuối cùng: Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
- “Hãy ngừng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”
Trung tá Toàn chết sững buông ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi, ông đổ vật xuống ghế như cây chuối bị đốn ngang, sau cú sốc, Trung tá Lê Bảo Toàn gượng dậy điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy lần lượt gọi từng Tiểu đoàn Trưởng:
- Tiểu đoàn 30 Thiếu tá Nguyễn Ngọc Khoan.
- Tiểu đoàn 33 Thiếu tá Đinh Trọng Cường.
- Tiểu đoàn 38 Thiếu tá Trần Đình Tự.
Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Thiếu tá Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy, chào Trung tá Liên đoàn Trưởng, Thiếu tá Tự quay qua Đại úy Tiểu đoàn phó Xường:
- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu anh, và cũng là lệnh: anh nói cho các đại đội trưởng thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại đánh nữa, anh hiểu cho tôi không đầu hàng! Tôi không để lọt vô tay tụi nó.
Tiếp đó, tập trung bộ chỉ huy, trung đội Thám Báo, anh nói với họ đã có lệnh quy hàng. Các anh em tùy nghi muốn theo lệnh của đại úy Tiểu đoàn phó, thì theo. Còn ai muốn ở lại với tôi đến giờ chót, thì đứng riêng bên nầy.
Số người tách khỏi hàng khoảng 40 chiến sĩ. Thiếu tá Tự đưa tay chào Đại úy Xường và quân nhân dưới quyền, ông dẫn những người quyết tử tiến vô khu vực vườn khoai mì, tiếp tục ăn thua đủ với địch.
... Tên chỉ huy giặc cộng lớn tiếng lăng nhục quân lực Việt Nam Cộng Hòa, chúng chỉ mặt anh Tự thóa mạ thậm tệ, bắt anh Tự cởi áo (lon Thiếu tá may dính trên cổ áo). Anh Tự nhứt định không chịu.
Tên chỉ huy việt cộng mắt nổi gân máu tiến sát anh Tự, hắn giật mạnh, hàng nút từ cổ bung xuống bụng. Hắn rút con dao găm anh Tự đeo bên hông đâm mạnh vô bụng anh Tự, rồi rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột anh Tự lòi tuột ra ngoài.
Chưa hả thù hận, hắn còn ngoáy mạnh mũi dao vô trong bụng, anh Tự hét to nghe bi ai phẫn uất, thân hình anh Tự đổ sụp xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu. Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu ngó anh Tự rồi nói gọn:
- “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là thứ ác ôn cả đấy”!
- Tám quân nhân còn lại bị dẫn ra phía sau trường, chúng bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đìa gần đó, rồi dẫn nhau đi. Cái chết đền nợ nước của Thiếu tá Trần Đình Tự là do lời thuật lại của Đại úy Xường, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
Người thuật lại những giờ phút sau cùng về cố Thiếu tá Trần Đình Tự là anh lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cũng bị giết chiều ngày 30 04 75.
May mắn, chỉ có Đức (Trọc) bị thương giả chết, chờ việt cộng đi xa rồi, anh ráng bò vô nhà dân, anh được dân che giấu băng bó, rồi họ thuê xe lam chở anh Đức về Sài Gòn.
Đức ráng sống, tìm cách vượt biên qua Mỹ, sau nầy Đức kể lại cái chết đau buồn của Thiếu tá Tự và đồng đội cho mọi người nghe. (trích từ Cánh Thép, do baotri, và trích Wikipedia).
Anh Xường xuất thân khóa 22A Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Anh Xường ở tù "cải tạo" trại 8 Yên Báy. Năm 1979, anh Xường đã hy sinh trong trại tù "cải tạo" Nghệ Tĩnh, anh bị việt cộng bóp cổ chết trong ngục thất.
-- * --
9. Trung tá Phạm Đức Lợi.
Chức vụ cuối cùng: Phụ tá Trưởng khối Không Ảnh, Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông là nhà văn, nhà thơ, soạn kịch, bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội.
Ông tuẫn tiết ngày 1-5-1975.
-- * --
10. Trung tá Nguyễn Đình Chi.
Chức vụ cuối cùng: Phụ tá Chánh sở 3 An ninh Quân đội, tại Cục An Ninh quân đội.
Ông tự sát tại Cục An ninh ngày 30-4-1975.
-- * --
11. Trung tá Nguyễn Văn Hoàn.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng đoàn 67, đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu.
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
12. Trung tá Phạm Thế Phiệt.
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
13. Trung tá Nguyễn Xuân Trân.
Chức vụ cuối cùng: Ban Tình báo Phòng 2, Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông tuẫn tiết ngày 1-5-1975.
-- * --
14. Trung tá Vũ Đình Duy.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng đoàn 66 đơn vị 101, Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
15. Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương.
Chức vụ cuối cùng: Giám đốc Quân huấn, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, Nha Trang.
Ông tuẫn tiết đầu tháng Tư năm 1975, cùng phu nhân, 2 con và người cháu, tại phòng Văn hóa Vụ ở Nha Trang.
-- * --
16. Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc.
Chức vụ cuối cùng: Tiểu đoàn Trưởng Địa phương quân, Tiểu khu Hậu Nghĩa.
Tuẫn tiết ngày 29-4-1975.
-- * --
17. Thiếu tá Lương Bông.
Chức vụ cuối cùng: Phó ty An ninh Quân đội tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ).
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
18. Thiếu Tá Trần Thế Anh.
Chức vụ cuối cùng: Đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu.
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
19. Thiếu Tá Đỗ Văn Phát.
Chức vụ cuối cùng: Quận trưởng kiêm Chi khu Trưởng Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên.
Tuẫn tiết ngày 1-5-1975.
-- * --
20. Thiếu tá Mã Thành Nghĩa.
Chức vụ cuối cùng: Tiểu đoàn Trưởng 411, Địa phương quân, Tiểu khu Bạc Liêu.
Tuẫn tiết cùng vợ, ngày 30-4-1975.
-- * --
21. Thiếu Tá Đỗ Minh Hoàng.
Chức vụ cuối cùng: Chỉ huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia quận Bình Phước, tỉnh Long An.
Tuẫn tiết tại Cầu Quay thuộc Mỹ Tho, ngày 30-4-1975.
-- * --
22. Thiếu tá Trịnh Tấn Tiếp.
Chức vụ cuối cùng: Quận trưởng Kiến Thiện, tỉnh Chương Thiện.
Ông là một Quận trưởng can trường, thương dân lo nước. Ông đã bị việt cộng thảm sát tại sân vận động Cần Thơ ngày 14-8-1975.
-- * --
23. Thiếu tá Lê Phó.
Chức vụ cuối cùng: Chỉ huy Trưởng Cảnh sát Quốc gia, tỉnh An Giang
Ông bị việt cộng bắt và đem hành hình ngày 3-5-1975.
* * *
Tình Hoài Hương.
Còn tiếp ...
Mời xem phần 3, "NHỮNG SĨ QUAN TUẪN TIẾT: CẤPÚY, BINH SĨ ... và DÂN SỰ".
Hình mượn trên internet, xin miễn thứ bản quyền.
Anh hùng tử, khí hùng bất tử.
Phần 2
Tình Hoài Hương.
*
1. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn (sinh 24-3-1938, xã Vĩnh Thanh Vân, Rạch giá, Kiên Giang. Không đầu hàng giặc, bị việt cộng xử tử ngày 14-8-1975).
Chức vụ cuối cùng: Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện.
Trước ngày 30-4-1975, Đại tá Cẩn và một nhóm sĩ quan, binh sĩ ở trong Tiểu khu Chương Thiện nhịn đói nhịn khát kiên cường chiến đấu quyết liệt.
Đến ngày 30-4-75, trong Tiểu khu không còn một viên đạn, thức ăn nước uống không còn chút gì. Ðại tá Cẩn và một tốp sĩ quan, binh sĩ vẫn quyết tử thủ bảo vệ đồn bót. Sau cùng khi ông nghe tin trễ Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng.
Đại Tá Cẩn cho thuộc cấp tan hàng, giờ nầy chỉ còn một tướng, một binh, một chốt. Họ đã bị cộng sản bắt tại hầm chỉ huy.
Ngày 14-8-1975 việt cộng làm pháp trường đem Đại tá Cẩn ra xử bắn trước đồng bào. Trước khi bị xử tử, Đại tá Cẩn chính khí nói rất to:
- “Tôi chỉ có một mình, trong tay tôi không có súng. Tôi không đầu hàng ai. Muốn bắn cứ bắn đi. “Ninh Thọ tử bất ninh thọ nhục” (thà chết không chịu nhục). Nhưng, trước khi bắn tôi, hãy cho tôi mặc bộ quân phục và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Các anh không cần bịt mắt tôi, để tôi nhìn thấy rõ quê hương và đồng bào lần cuối cùng. Việt Nam Cộng Hòa muôn năm. Đả đảo cộng sản!" (trích dẫn từ Wikipedia).
Lời đề nghị của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn dĩ nhiên chỉ được một phần chấp thuận “không bịt mắt”. Ông đã anh dũng đi thẳng vào họng súng, trước lúc vĩnh biệt thế gian ông hiên ngang mở to đôi mắt nhìn rõ Đời.
Tất nhiên người Công giáo thì không được phép tự tử (cho dù tuẫn tiết). Chuyện xử bắn một vị anh hùng suốt đời thanh liêm, tận tụy vì quê hương và dân tộc, thì dường như Đại Tá Cẩn đã "chết vì đạo, vì Tổ Quốc quê hương” là điều tiên quyết.
Xin góp lời cầu nguyện cho linh hồn Đại tá Cẩn được Chúa đón về thiên đàng.
-- * --
2. Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông (sanh 1937) Thạch Hãn, Quảng Trị.
Chức vụ cuối cùng: Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh (một trung đoàn thiện chiến của Sư đoàn 22 Bộ binh).
Đại tá Thông chỉ huy trận chiến khốc liệt kinh hoàng ở Dakto Tân Cảnh, một trận chiến đẫm máu, không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương, súng không còn một viên đạn, hậu phương thì rệu rã.
Ông từ chối không lên tàu Hải Quân bạn, để họ hải vận đi Nha Trang, vì còn một tiểu đoàn khác của ông đang giao tranh ác liệt với cộng quân ở hướng tây nam thành phố Quy Nhơn. Đại tá Thông và số ít binh sĩ đi về hướng rừng rậm.
Phóng viên Phạm Huấn nói về Đại Tá Nguyễn Hữu Thông:
- ... Sự hy sinh của một đại anh hùng Đại tá Nguyễn Hữu Thông vào sáng ngày 2/4/1975, là sự thiệt thòi lớn lao cho đất nước! Tôi có thể quả quyết rằng: trong 20 năm sau cùng của chiến tranh Việt Nam, không có một tướng lãnh nào khi chỉ huy một cấp trung đoàn hay lữ đoàn, đã tạo dựng được những chiến công to lớn như anh hùng Đại tá Nguyễn Hữu Thông tại Pleime, Đèo Nhông, và những ngọn đồi vô danh (cao điểm chiến lược 82 và 174) tại phía tây, tây nam Hoài Nhơn, Bình Định ...
Dương Công An (hiện ở Đức) là hạ sĩ quan Pháo binh thuộc Tiểu đoàn 223 Pháo binh. Ông An cho biết:
- Cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị tôi bị tan hàng trên bờ biển Qui Nhơn, tôi và nhiều binh sĩ khác đã đưa xác Đại tá Thông tới quân y viện Quân Y Viện Quy Nhơn. Ở đây chỉ còn duy nhất một bác sĩ, đó là bác sĩ Trung úy Nguyễn Công Trứ. (nay bác sĩ tại New York).
Những binh sĩ nầy đã báo cho Bác sĩ Trung úy Trứ biết:
- Ðại tá Thông từ chối không xuống tàu, vì rất nhiều binh sĩ dưới quyền Đại tá còn chiến đấu đang kẹt lại không di tản.
Đại tá Thông tự sát ngày 2-4-1975 tại Qui Nhơn, xác Đại tá Thông được bác sĩ Trung úy Trứ, nhân viên nhà thương, và binh sĩ còn lại lo việc tẩn liệm họ hoàn tất chu đáo.
Bác sĩ Trung úy Nguyễn Công Trứ bị đi tù "cải tạo" hơn 4 năm, vì ông làm việc nầy theo lương tâm, tinh thần trách nhiệm với tình đồng đội: lo chôn cất 47 anh hùng tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện Qui Nhơn.
-- * --
3. Trung tá Nguyễn Văn Long (1919)
Chức vụ cuối cùng: Chánh sở Tư pháp Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng. Chánh Sở Cảnh Sát Tư Pháp Quân Khu I.
Ông hết lòng làm việc vì dân trong chức trách của mình. Ông nổi tiếng là một trong số các cấp chỉ huy mẫu mực, cương trực liêm khiết, "pháp bất vị thân". Trung tá Long có biệt danh “Long Lý” -- có nghĩa là không thiên vị ai, cứ công lý minh bạch lẽ phải mà thi hành. Tính tình Trung tá Long trầm lặng, ít nói. Gia đình ông sống rất thanh bạch, nghèo và đông con.
Trung Tá Long được lệnh phải rời Đà Nẵng vào Sài Gòn. Khi nghe Dương Văn Minh ra lịnh tất cả quân đội: "ở đâu phải ở đó, buông súng, không được kháng cự", để Minh bàn giao chánh phủ cho "ban tiếp quản Miền Nam" của cộng sản bắc việt.
Trung tá Nguyễn Văn Long đã tuẫn tiết bằng súng vào sáng 30-4-75 trước trụ sở Quốc Hội, dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến.
-- * --
4. Trung tá Võ Văn Đường.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng ty Cảnh sát tỉnh Chương Thiện.
Tại pháp trường ở sân vận động Cần Thơ, ngày 14-8-1975. Việt cộng kết tội ông có nợ máu với nhân dân, ông bình thản và khẳng khái trả lời:
- Tôi không có nợ máu với đồng bào. Tôi bảo vệ đất nước, bảo vệ Miền Nam Việt Nam”.
-- * --
5. Thiếu tá Đặng Sĩ Vĩnh.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng ban Bình Địa, Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu (sau biệt phái qua Cảnh Sát Quốc Gia).
(Major Dang Si Vinh - He moved in our neighborhood sometime in early 1974. His family ... mà nguyên bản tiếng Anh về Thiếu tá Đặng Sĩ Vĩnh, được anh Không quân Hoàng Hùng dịch từ Major Dang Si Vinh như sau:
Khoảng đầu năm 1974, Thiếu tá Vĩnh, vợ và 7 người con dọn nhà về sinh sống ở một khu bình dân ngoại ô vùng Sài Gòn. Theo một người hàng xóm cho biết: sau một thời gian rất ngắn, gia đình của Th/Tá Vĩnh được sự thông cảm, quí mến của bà con lối xóm.
Con trai đầu lòng của họ chừng 30 tuổi: Trung úy Quân Y, sau khi tốt nghiệp trường Dược (Pharmacist Of medical School), và con gái út khoảng 15 tuổi.
Gia Đình Th/Tá Vĩnh là một gia đình hạnh phúc, nếu Sài Gòn không rơi vào tay cộng sản Bắc việt. Theo lời kể lại của hàng xóm, Thiếu tá Vĩnh, người nắm chức vụ chỉ huy trong Bộ Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn, thì chừng 2 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống Minh đã ra lệnh buông súng đầu hàng, bà con xung quanh kề cận nghe tiếng súng nổ phát ra từ trong nhà của họ.
Sau khi thấy không còn nguy hiểm, những người lối xóm bước vô trong nhà, họ đã chứng kiến Th/Tá Vĩnh, vợ, và 7 người con nằm kế bên nhau, trên một chiếc giường, tất cả đều đã chết. Kế bên là bàn ăn tươm tất, 9 cái ly uống nước trên bàn đều có dấu vết tích một chất bột màu hồng đọng lại dưới đáy mỗi cái ly.
Có lẽ đây là thuốc ngủ, mà trước đó ông Vĩnh đã cho mỗi người trong gia đình uống. Sau đó ông tự sát bằng súng lục Colt 45. Một tủ sắt đã mở sẵn, Th/Tá Vĩnh đã để lại vài ba trăm ngàn đồng tiền mặt, tương đương chừng $500 US dollars, cùng với một bức thư ngắn, do Th/Tá Vĩnh viết:
- “Bà Con mến, mong Bà Con niệm tình tha thứ cho gia đình chúng tôi, bởi vì chúng tôi không muốn sống dưới chế độ cộng sản này, chúng tôi đã chọn cái chết. Cái chết này có thể đem lại sự buồn phiền đến với bà con. Xin nhờ bà con báo tin này đến người chị (em) của tôi tên... ở ... và dùng số tiền này để quý bà con chôn cất cho gia đình chúng tôi. Xin đa tạ.
Đặng Sĩ Vĩnh”.
-- * --
6. Thiếu tá Không quân Nguyễn Gia Tập. (1943).
Chức vụ cuối cùng: Phi-đoàn Khu trục 514-518 Biên Hòa. Đặc trách Khu trục tại Bộ Tư Lệnh Không Quân.
Thiếu tá Nguyễn Gia Tập là vị anh hùng phi công Khu trục A1 Skyraider.
Ngày 30-4-1975 Thiếu tá Tập tự sát bằng súng lục trước sân cờ, trong căn cứ Bộ Tư lệnh Không quân.
Thân nhân của Th/tá Tập, đã đem thi thể ông về chôn cất tại Long Khánh.
-- * --
7. Hải Quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn (1943).
Chức vụ cuối cùng: Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 43 Ngăn Chận.
(địa điểm yết hầu rất quan trọng cần chận địch, từ vùng Mỏ Vẹt họ đi tiếp tế cho Vùng IV Chiến Thuật). Ông xuất thân khóa 14 Sĩ quan Hải Quân. Thiếu tá Tuấn từng phục vụ hầu hết các chiến hạm của Hạm Đội, Duyên Đoàn 27, Duyên Đoàn 23. Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Hầu hết các nơi làm việc ông điều hành điều hành công tác một cách chu toàn khéo léo xuất sắc.
Khi nghe lệnh từ Dương Văn Minh bắt buộc quân nhân buông vũ khí, giao Miền Nam Việt Nam vô tay giặc, thì Hải quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung tướng Lê Nguyên Khang) đứng trên chiếc soái đỉnh, ông dùng súng colt bắn vô đầu tự sát. Thiếu tá Anh Tuấn gục xuống ngay trên tấm bản đồ hành quân.Hải quân Thiếu tá Tuấn tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
8. Thiếu tá Trần Đình Tự.
Chức vụ cuối cùng: Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
- “Hãy ngừng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”
Trung tá Toàn chết sững buông ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi, ông đổ vật xuống ghế như cây chuối bị đốn ngang, sau cú sốc, Trung tá Lê Bảo Toàn gượng dậy điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy lần lượt gọi từng Tiểu đoàn Trưởng:
- Tiểu đoàn 30 Thiếu tá Nguyễn Ngọc Khoan.
- Tiểu đoàn 33 Thiếu tá Đinh Trọng Cường.
- Tiểu đoàn 38 Thiếu tá Trần Đình Tự.
Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Thiếu tá Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy, chào Trung tá Liên đoàn Trưởng, Thiếu tá Tự quay qua Đại úy Tiểu đoàn phó Xường:
- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu anh, và cũng là lệnh: anh nói cho các đại đội trưởng thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại đánh nữa, anh hiểu cho tôi không đầu hàng! Tôi không để lọt vô tay tụi nó.
Tiếp đó, tập trung bộ chỉ huy, trung đội Thám Báo, anh nói với họ đã có lệnh quy hàng. Các anh em tùy nghi muốn theo lệnh của đại úy Tiểu đoàn phó, thì theo. Còn ai muốn ở lại với tôi đến giờ chót, thì đứng riêng bên nầy.
Số người tách khỏi hàng khoảng 40 chiến sĩ. Thiếu tá Tự đưa tay chào Đại úy Xường và quân nhân dưới quyền, ông dẫn những người quyết tử tiến vô khu vực vườn khoai mì, tiếp tục ăn thua đủ với địch.
... Tên chỉ huy giặc cộng lớn tiếng lăng nhục quân lực Việt Nam Cộng Hòa, chúng chỉ mặt anh Tự thóa mạ thậm tệ, bắt anh Tự cởi áo (lon Thiếu tá may dính trên cổ áo). Anh Tự nhứt định không chịu.
Tên chỉ huy việt cộng mắt nổi gân máu tiến sát anh Tự, hắn giật mạnh, hàng nút từ cổ bung xuống bụng. Hắn rút con dao găm anh Tự đeo bên hông đâm mạnh vô bụng anh Tự, rồi rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột anh Tự lòi tuột ra ngoài.
Chưa hả thù hận, hắn còn ngoáy mạnh mũi dao vô trong bụng, anh Tự hét to nghe bi ai phẫn uất, thân hình anh Tự đổ sụp xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu. Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu ngó anh Tự rồi nói gọn:
- “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là thứ ác ôn cả đấy”!
- Tám quân nhân còn lại bị dẫn ra phía sau trường, chúng bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đìa gần đó, rồi dẫn nhau đi. Cái chết đền nợ nước của Thiếu tá Trần Đình Tự là do lời thuật lại của Đại úy Xường, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
Người thuật lại những giờ phút sau cùng về cố Thiếu tá Trần Đình Tự là anh lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cũng bị giết chiều ngày 30 04 75.
May mắn, chỉ có Đức (Trọc) bị thương giả chết, chờ việt cộng đi xa rồi, anh ráng bò vô nhà dân, anh được dân che giấu băng bó, rồi họ thuê xe lam chở anh Đức về Sài Gòn.
Đức ráng sống, tìm cách vượt biên qua Mỹ, sau nầy Đức kể lại cái chết đau buồn của Thiếu tá Tự và đồng đội cho mọi người nghe. (trích từ Cánh Thép, do baotri, và trích Wikipedia).
Anh Xường xuất thân khóa 22A Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Anh Xường ở tù "cải tạo" trại 8 Yên Báy. Năm 1979, anh Xường đã hy sinh trong trại tù "cải tạo" Nghệ Tĩnh, anh bị việt cộng bóp cổ chết trong ngục thất.
-- * --
9. Trung tá Phạm Đức Lợi.
Chức vụ cuối cùng: Phụ tá Trưởng khối Không Ảnh, Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông là nhà văn, nhà thơ, soạn kịch, bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội.
Ông tuẫn tiết ngày 1-5-1975.
-- * --
10. Trung tá Nguyễn Đình Chi.
Chức vụ cuối cùng: Phụ tá Chánh sở 3 An ninh Quân đội, tại Cục An Ninh quân đội.
Ông tự sát tại Cục An ninh ngày 30-4-1975.
-- * --
11. Trung tá Nguyễn Văn Hoàn.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng đoàn 67, đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu.
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
12. Trung tá Phạm Thế Phiệt.
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
13. Trung tá Nguyễn Xuân Trân.
Chức vụ cuối cùng: Ban Tình báo Phòng 2, Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông tuẫn tiết ngày 1-5-1975.
-- * --
14. Trung tá Vũ Đình Duy.
Chức vụ cuối cùng: Trưởng đoàn 66 đơn vị 101, Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
15. Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương.
Chức vụ cuối cùng: Giám đốc Quân huấn, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, Nha Trang.
Ông tuẫn tiết đầu tháng Tư năm 1975, cùng phu nhân, 2 con và người cháu, tại phòng Văn hóa Vụ ở Nha Trang.
-- * --
16. Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc.
Chức vụ cuối cùng: Tiểu đoàn Trưởng Địa phương quân, Tiểu khu Hậu Nghĩa.
Tuẫn tiết ngày 29-4-1975.
-- * --
17. Thiếu tá Lương Bông.
Chức vụ cuối cùng: Phó ty An ninh Quân đội tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ).
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
18. Thiếu Tá Trần Thế Anh.
Chức vụ cuối cùng: Đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu.
Tuẫn tiết ngày 30-4-1975.
-- * --
19. Thiếu Tá Đỗ Văn Phát.
Chức vụ cuối cùng: Quận trưởng kiêm Chi khu Trưởng Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên.
Tuẫn tiết ngày 1-5-1975.
-- * --
20. Thiếu tá Mã Thành Nghĩa.
Chức vụ cuối cùng: Tiểu đoàn Trưởng 411, Địa phương quân, Tiểu khu Bạc Liêu.
Tuẫn tiết cùng vợ, ngày 30-4-1975.
-- * --
21. Thiếu Tá Đỗ Minh Hoàng.
Chức vụ cuối cùng: Chỉ huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia quận Bình Phước, tỉnh Long An.
Tuẫn tiết tại Cầu Quay thuộc Mỹ Tho, ngày 30-4-1975.
-- * --
22. Thiếu tá Trịnh Tấn Tiếp.
Chức vụ cuối cùng: Quận trưởng Kiến Thiện, tỉnh Chương Thiện.
Ông là một Quận trưởng can trường, thương dân lo nước. Ông đã bị việt cộng thảm sát tại sân vận động Cần Thơ ngày 14-8-1975.
-- * --
23. Thiếu tá Lê Phó.
Chức vụ cuối cùng: Chỉ huy Trưởng Cảnh sát Quốc gia, tỉnh An Giang
Ông bị việt cộng bắt và đem hành hình ngày 3-5-1975.
* * *
Tình Hoài Hương.
Còn tiếp ...
Mời xem phần 3, "NHỮNG SĨ QUAN TUẪN TIẾT: CẤPÚY, BINH SĨ ... và DÂN SỰ".
Hình mượn trên internet, xin miễn thứ bản quyền.