Print this page

ĐÀ LẠT Xưa & Nay… Ôi Niềm Đau - Tình Hoài Hương

Posted by August 18, 2020 2203

ĐÀ LẠT Xưa & Nay… Ôi Niềm Đau

Tình Hoài Hương

~~oo0oo~~

 

Thật khó diễn tả hết nỗi lòng ưu tư & cảm xúc lâng lâng luôn dày vò tâm trí tôi về nỗi bâng khuâng, xao xuyến... khi đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống khu vực Krong Pha: nơi phong cảnh hữu tình, ngút ngàn, bát ngát mênh mông thiệt thơ mộng cận đường đèo quanh co uốn khúc gập ghềnh, nhấp nhô điệp trùng núi non hùng vĩ, nơi cao tận lưng trời chót vót, mây trắng ùn ùn bay bay dưới gót chân mình. Đèo Ngoạn Mục thơ mộng của hạ giới xa xa... đã gieo vào lòng tôi bao tình khúc phong trần hoài cảm êm đềm thi vị và tuyệt diệu, chen lẫn niềm bâng khuâng suy tưởng mông lung. Tôi đang đứng trong vừng mây vờn sương muối quyện quanh gót chân “ở bồng lai cao nguyên”, y hệt như trong bức tranh hồ thủy mà mơ màng nghĩ về một cao nguyên năm cũ.

Nhìn lại ngọn đèo cao ngút ngàn lúc xe đò lừ đừ lò mò hổn hển thở khói phì phò đi qua với sự luyến tiếc vô vàn; vì có lẽ đây là những khoảng lắng phiêu bồng cuối cùng dịu êm nhứt: sau nầy có thể tôi chẳng bao giờ còn cơ may quay trở về chốn nầy, dù là niềm kiêu hãnh vinh quang trong dĩ vãng, dù chỉ thêm một lần im lắng xót xa luyến lưu trong hồi tưởng! Bởi vì sau 30-4 gia đình tôi lê lết ôm nhau chạy về lại thành phố núi, sau ngày mất Đà Lạt thì tôi bị “mất dạy” từ khi đổ̉i đời, không còn làm nghề “gõ đầu trẻ”. Bị thất nghiệp, buộc lòng tôi đưa gia đình đi xuống Thành Ông Năm, Hóc Môn, để rồi trở nên đói khát dài dài... 

Đà Lạt cuốn hút tôi ngàn đời nhung nhớ hoài vọng ước ao, nơi trái tim mình bỏ ngỏ dại khờ ấp ủ mộng ngày xanh vui tươi nhí nhảnh mà lại đa tình. Đà Lạt xưa khoan dung dịu dàng mở rộng vòng tay trìu mến, từng ôm trọn tôi vô vũng sương mù lả lướt, buông thả, dạt dào nỗi nhớ niềm yêu trong mỗi phím loan. Tôi nhớ da diết những cánh hoa muôn màu chen chân khoe sắc thắm trong nhiều ngôi nhà ấm áp xinh xinh, nhà nhà trên triền đồi, hoặc dưới ven dốc chập chùng ẩn hiện nép mình bên vườn cây ăn quả trĩu trái, cây bưởi hoa trắng muốt toả mùi thơm ngào ngạt, cây hồng mơn mởn trái trĩu cành, cây chanh mọng nước. Cây quả mượt-mà ngày ấy cho tôi cảm giác vui vui, lâng lâng êm đềm, thi vị ngọt ngào ấm áp tình quê quá chừng! 

Trên đường phố quê hương Đà Lạt thân yêu nầy, ngày xưa tôi vẫn đi lại tung tăng, hồn nhiên, vui vẻ nhởn nhơ như cánh bướm buổi sáng mai gặp nắng tươi. Tôi ươm nhiều mộng đẹp như thời son trẻ mới chớm lớn, lòng dạt dào nung nấu sự hoài mong tưởng nhớ: xin cho tôi được một lần tìm về cội nguồn, nơi đó mẹ dấu yêu đã à ơi ru con lớn khôn trong chiếc nôi đời đơn sơ hồng hoang mà trữ tình dịu êm thân thiết trìu mến dường bao! Tôi nhớ lắm thầy Cao Cự Phúc phổ bản nhạc: "Ngày nào dừng chân phiêu lãng. Khách tới đây khi hoa đào vương lối đi Màu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người. Bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi... Ngày nào đường xuân phơi phới, khách ngất ngây thấy hoa nở trên má ai. Rồi yêu hoa trên má, mà ghi câu luyến nhớ thành bài thơ … Nhưng rồi mùa hoa tàn. Người hoa sao vắng mãi. Bao chiều lòng mong chờ. Đường hoa sao hững hờ. Để lòng lữ khách tê tái. Cất bước đi nhớ hoa đào trên má ai. Màu hoa in trên má Làm khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi"! 

Khi đã thực sự đứng ở thành phố quê hương Đà Lạt ngàn đời dấu yêu nầy, thì tôi không thể nào ngờ! Đà Lạt trong không gian bảng lảng dáng Thu bàng bạc trên thành phố buốt giá bây giờ (sau 75 – 85) quá lạnh lẽo. Buồn thiu. Ôi! bao năm qua, nay lần đầu tiên tôi nôn nao trông ngóng xôn xao trở về quê cũ, thì... những âm thanh đơn điệu, buồn tênh dội lại lòng mình niềm tiếc thương như thác lũ. Gợi lên biết bao điều đau xót, tôi ưu phiền, chán ngán, bơ vơ, bàng hoàng khôn xiết nơi biển cả đã hoá thành nương dâu. Nước mắt bỗng dưng chảy hoài khi tôi trở thành một người xa lạ, lạc lõng, cô độc với chính mình. Bước chân lao xao rộn rã tìm về lối cũ đường xưa, mà một thị dân chôn nhau cắt rốn như tôi, từng đi đi về về trong thành phố thơ mộng ấy, giờ đây cảm thấy quê tôi lạ hoắc, lạnh lùng. Tôi lạc bước trên con đường cũ, lòng trống rỗng buồn bã vô cùng và cô độc kinh khủng. Thành phố dấu yêu xưa sao bây giờ trở thành xa lạ với tôi đến thế? Hoài phí đi những mơ tưởng đâu đâu không sát thực tế chút nào:

Ngày nhạt thếch, bóng chiều vàng vọt tắt
Mới đầu Thu, chiếc lá đã vàng khô.
Hàng bằng lăng, góc phố buồn hiu hắt
Đêm bơ vơ... Mưa lất phất mặt hồ. (1)

Quang cảnh thành phố Đà Lạt bây giờ như thành phố chết ngoài nghĩa điạ! Không giống những bộ mặt thân quen xiết đỗi mà ngày xưa tôi thân mật vẫn đi về. Đà Lạt không còn sống động, không nên thơ, chả quyến rũ... vì không có những anh SVSQ Võ Bị oai phong. Những anh Chiến Tranh Chính Trị kiêu hùng. Không thấy sinh viên Viện Đại-học lịch lãm văn nhã! Không có những nam sinh choai choai, dé dé vui vẻ hân hoan vô tư lự huýt gió lúc đến trường Trung Học. Còn đâu nữ sinh hồn nhiên xinh lịch tung tăng với những tà áo dài tha thướt lượn bay, cặp ôm ngang ngực thong thả đi trên con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo uốn lên uốn xuống ở đồi thông im mát. 

Đà Lạt thuở ấy có những công tư chức ngày xưa cao sang chuyên mặc áo da, áo len đan bằng tay đắt tiền, hoặc mặc bộ veston đen tối tân, sơ mi trắng nõn lủng lẳng cà vạt màu, chiếc quần tây thẳng nếp li và đôi giày thời trang... Đâu rồi những anh lính Nhảy Dù mũ đỏ, những anh Hải-quân với bộ quần áo trắng cao sang. Những anh Biệt Động-quân mũ nâu, Thiết giáp, Thủy-quân Lục chiến, Pháo-binh, Bộ-binh oai dũng... trong những lần nghỉ phép, họ đã ghé tạt về thăm Đà Lạt? Những anh phi công bay bướm lả lướt phong trần ung dung lượn trên bầu trời Lâm Viên bãng lãng dáng chiều thênh thang. Họ đi đâu mất hết rồi trên thành phố huyền thoại ngày nào!? 

Không gian Đà Thành phai dáng Thu bàng bạc bây giờ lạnh tanh và ủ rũ. Họ hàng thân quyến, những bạn thời học sinh sinh viên, bạn cùng dạy học giờ đây họ lưu lạc phương nao xa hun hút, tôi đã mất tầm nhìn, có thể chúng ta biền biệt kẻ góc biển người chân trời xa thẳm, xa mất đất rồi chăng?! Thiệt quá hay từ bản nhạc: “Lối cũ ta về dường như nhỏ lại. Trời xanh xanh mãi một màu ấu thơ. Lối cũ ta về, vườn xưa có còn hoàng hôn buông xuống thoảng hương ngọc lan. Dù gió có trút lá úa xuống vườn chiều. Bước chân ai đem lang thang về cô liêu. Chốn xa xôi kia mang bao kỷ niệm cũ. Em đã quên hay là vẫn mang theo. Dù cho bên anh nay em không còn nữa. Biết chăng trong con tim anh luôn hằng nhớ. Người yêu ơi nay em đã bỏ anh đi. Sao em nỡ bỏ anh đi mãi…" 

Ngày nay đa số đàn ông Đà Thành thay đổi bộ cánh khác để đổ xô ra đường kiếm sống, chụp giựt bằng “lao động là vinh quang” một nghề mới toanh thoạt nghe thiệt “kêu, và lạ” : “làm người thồ”, nghề đi vá xe đạp, gánh thuê, vác mướn: Áo quần họ mặc hầu hết tơi tả, cũ mèm, ố vàng, nhàu nát: mỗi người bạn trai đồng môn của tôi đều có một cây đòn gánh, hai chùm dây dừa cột chặt ở hai đầu gánh. Hành khách chưa kịp xuống xe đò chật như nêm, là lập tức những người đàn ông gánh thuê bu đông đen nơi thành cửa xe, họ kêu mời khách lạ. Mặc cả kỳ kèo giá tiền thuê vác xong, hành khách đi bộ về nhà, người gánh thuê kẽo kẹt quang gánh nặng gồnh mình gánh trên vai gầy, họ im lặng chịu đựng cúi đầu rảo bước. Tôi kéo chiếc nón lá sụp xuống tận mũi, cúi gầm đầu không dám liếc nhìn Lập, không dám chào hỏi bạn, chẳng phải là mình cao sang gì, nhưng tôi không muốn khơi dậy trong lòng anh nỗi đau tột cùng trong cảnh bần hàn quá đỗi xót xa. Điều gì khiến một Lập thuở xưa đi xe hơi ở nhà lầu, nay quần xăn áo rách, anh phải lăn ra đường gò lưng khuân vác bao su su quá trọng lượng trên tấm lưng nho nhã ấy, vậy mà anh vẫn bị mấy bà khách hàng xô đẫy la hét: "xích ra, ông làm gì chậm như rùa vậy?". Thấy cảnh đau lòng như mình, tôi chỉ muốn khóc. 

Toàn người đi bộ là đi bộ. Cả thành phố lác đác chỉ có một vài chiếc xe đò cọc cạch, xe chạy giới hạn từ Thị-xã Đà Lạt đi các nơi. Ở Đà Lạt nhiều đèo núi, nên ít người mua sắm xe đạp, chỉ có lèo tèo mấy “tay cua-rơ” có chiếc xe đạp thường dùng tập dượt, hầu tranh tài trong các chương trình thi đua thể thao toàn quốc trước kia. Thuở ấy ai có xe đạp thì chỉ có nước “làm tôi mọi” cho vật, người ta cỡi lên xe đạp thì ít, mà vác nó trên lưng leo dốc cao thì nhiều. Thế nên hồi trước đa số công tư chức ai có tiền chỉ mua xe hơi, nhưng xe honda được thông dụng nhứt. Bây giờ xe đạp lại hữu dụng giúp mọi người kiếm sống khá ra trò, người ta không cỡi trên xe đạp, mà dùng nó làm xe thồ. Ngược lại xe honda cho nó "an dưỡng" xó góc, vì các cây xăng không có một giọt. 

Khu phố Hoà Bình ngày xưa nhộn nhịp, đông vui, sang trọng là thế! Nay tiệm nào cũng cửa đóng then cài im lìm. Hàng hoá đồ đạc thu dọn đâu sạch bách. Trơ lại những nhúm người ngồi trên vĩa hè, mặt mày lơ láo, họ rù rì to nhỏ, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, mắt mất thần. Họ tụm năm tụm ba ở góc nầy góc kia, dáo dác len lén bày bán những món đồ cũ, đơn sơ và khiêm nhường thấy tội. Đàn bà con gái... theo thơ Lệ Khánh: "Gái Đà Lạt trời sinh đều đẹp cả”, nay một số qúy bà mặc quần áo lôi thôi lốc thốc, nghèo nàn, họ xuống đường tần tảo bán bưng thúng mẹc bên lề. Họ ngồi bệt trên những bậc tam cấp bán bòn những củ cà rốt, khoai lang, rau rợ bầm dập. Vài ba bà la lối om tỏi, chỉ vì những con cá ươn sình vương vãi ra trên vệt nức bên vệ đường. 

Ngẩn ngơ ngồi xuống mé đường lựa những trái su hào trong mẹt. Tôi nghe bạn hàng xầm xì với nhau:

Bà con toàn thể xã ta
Ðồng tâm phấn khởi trồng cà dái dê
Dái dê to mập dài ghê
Năm sau ta cứ dái dê ta trồng (*)

- Mèn ơi! Con tao bệnh, không có tiền mua thuốc uống. Ở đó mà mua phân, mua giống trồng cà dái dê. Rồi nuôi heo, nuôi gà, tăng gia sản xuất cái nỗi gì! Nhà nước bắt mẹ con tao bưng máy đan của mình, dô trong hợp tác xã đan áo len xong, gởi đi Liên Xô ráo trọi. Cái gì của mình là của “liên bang Xô Viết” mà mầy. Nếu mầy không có máy đan, thì tới đó dùng hai que tre, que gỗ mà đan. Rồi mầy coi, cái tập thể ni lọt dô túi bọn đó mất tiêu. Bọn mình chẳng còn con khỉ khô gì ráo trọi á. Chỉ còn trợn trắng con mắt, cúi đầu và hai bàn tay cầm que đan đan, đâm đâm, thọt thọt... Nghe.

- Thỉnh thoảng trên hợp tác xã đan móc may mặc có phân phối chút thịt heo bụng, ba chỉ, hoặc cẵng chân, đầu cánh gà mà?

- Xời. Đi gánh phân heo để tưới rau ăn, thì có. Bởi vậy nên người ta thèm thịt, nhỏ từng cục nước miếng, thì phải đi ăn trộm, ăn cắp biết nhiêu mà kể xiết, mất cắp ở trong mấy cửa hàng bách hoá như rươi. Của chung mà mầy. Ở nhà dân cũng bị cắp, trộm.

- Mầy hổng thấy sao ke! Con chó nhà tao năm nào ú nù, ú nần, tướng mập mạp đi hổng nỗi. Nay nó ốm tong ốm teo, lông lá rụng xơ xác, đầy ghẻ chóc, rụng hết răng, cũng bị bọn trộm rinh dìa làm thịt mất toi rồi. Mất chó giữ nhà, riết rồi cả xóm không còn chó sủa, nên ai có chút của cải, cũng bay mất toi theo thằng ăn trộm hết. Đảng có mù, đảng cũng thấy chớ.

- Coi chừng nghe mầy. Nói tào lao, tai vách mạch rừng á.

- Bởi dậy... mới có chiện cán bộ lùng bắt người và chó. Người trộm cắp thì cho dô tù. Chó thì cho dô nồi bự. Trời quơi! Nước non chi lạ, dưới dân mất chó, mất heo gà. Trên nhiễu sinh ra đủ thứ "chiện" cướp cạn tham nhũng, hổng biết sao ta? Suỵt!

- Đừng chọc quê, tao không phải là đứa “cần câu nhân dân”. Mầy đừng lo.

- Ha ha! không có tội mà trở thành có tội, do có loại công an nhân dân làm cần câu, đó nghe.

- Trời! Nói cái gì tầm bậy tầm bạ dị hợm vậy. Mầy! Dân cũng nghèo rớt mồng tơi như công an công yết. Chắc có lẽ ai làm “công an nhân dân” thì có đặc biệt nhiều tiền hơn hỉ?!

- Mẹ ui! Nếu nhiều tiền thì công an nhân dân đâu mặc quần áo có mấy miếng ti vi to tổ chảng hỉ!

- "Kiểu tân thời" á mầy. 

Nghe thêm mệt, tôi phải đứng lên đi khỏi cho rồi. Nhóm chân len lén nhìn qua khu vườn cũ, hồi ấy tôi đã trồng nhiều hàng hoa hồng rực rỡ màu sắc thành hàng lối thẳng tưng, sau vườn toàn những vòm cây ăn quả thắm đẵm sương đêm mọng hạt nước lung linh trên ngọn lá rung rinh. Ngôi nhà thân yêu nầy do tự sức cần lao của ba mẹ làm lụng vất vã, và chính anh chị, cùng tôi khi chưa lập gia đình đã bán phổi dạy học, dành dụm mà có ngôi biệt thự Mimosa tươm tất. Qua hàng rào gạch thưa, cổng sắt đóng kín cửa có tấm bảng đề “coi chừng chó dữ” vẫn còn nguyên, nhưng cũ mèm hoen rĩ sét. Đang ngơ ngáo len lén nhìn quanh, thì tôi giật nẩy người khi con chó Bìm Bìm tru hú từng tiếng, rít từng cơn trong cổ. Nó đã già nhưng mừng như điên cong đuôi chạy lui chạy tới ngoắt lia lịa. Nó chạy mấy vòng trong sân, bỗng chốc chồm hẳn hai chân trước lên ngực tôi, nó quay quắt mừng rỡ, cuống quít khi gặp lại chủ cũ. Nó thò mỏ qua khe rào gạch, cố tìm cách liếm liếm bàn tay tôi. Ngày di tản, tôi không thể đem con chó bé tí theo, nên tôi đã cho bác Tân hàng xóm nuôi, (nhà ba má tôi chung một hàng rào xây bằng gạch song thưa, tuy nhiên hai khu đất và nhà mỗi gia đình cách xa nhau ba chục mét). 

Tôi lòn tay qua song cửa cổng sắt xoa đầu nó hoài. Lúc đó, nó mới chịu đứng yên giây lát, nó rên ư ử đuôi vẫn ngoắt lia lịa. Bác Tân nghe tiếng chó sủa vang, đã đi ra sân. Bác càng mừng rỡ chạy tới mở cửa cổng, bác đon đả rối rít chào hỏi tôi. Con Bìm Bìm lanh lẹ chui qua khe hở giữa hai người, tôi vô nhà bác, nó vẫn chạy lăng quăng sau đó cuộn tròn dưới thềm gạch, mỏ gác lên chân tôi. Mắt nó liếc qua liếc lại, hai tai vểnh lên nghe ngóng. Con chó mà thật có tình nghĩa! Ngoài những đau đớn, hụt hẫng, ngậm ngùi đáng hổ thẹn, nay tôi không còn gì! Thật chẳng còn gì để cho con vật, dù chỉ là một lát bánh mì tẻo teo! 

Có gì đâu, còn gì đâu nữa! Từ trên đỉnh bình yên an vui ngày hai buổi đi dạy học, nay tôi đã hụp xuống vực thẳm giữa cơn xoáy đục ngầu, buồn tủi và đen bạc. Hy vọng vỡ tan trong mối thất vọng chua cay, tổn thất dập dồn do thương tổn tình đời để lại. Tôi lặng lẽ ưu phiền ngồi điếng lặng hằng giờ trong góc tối cô đơn, suy nghĩ hết cách mong tìm kế sinh nhai. Tôi giống con chó hoang trốn vào hang hốc, mệt mỏi liếm vết thương mình. Kể từ ngày “đổi đời”, sự sống của gia đình tôi kể như "vong gia thất thổ, nổi trôi theo dòng đời chảy xiết". Cuộc cách mạng 75 đã đẩy bật chúng tôi ra khỏi thành phố Đà Lạt. Xa những núi đồi thân yêu, vắng những thác nước suối nguồn mộng mơ. Tôi không còn thấy những hàng hoa anh đào thắm sắc ôm bóng dưới mặt hồ loáng bạc như tráng men:

Cũng từ dạo ấy, tôi làm người thua thiệt
Dĩ vãng buồn là chiếc võng đong đưa
Chiều tan hoang dấu binh lửa tàn chưa?
Đời hiện nét những lọc lừa căm hận.
Nay còn gì đâu để tôi dấn thân vào thế trận?
Một mối hận thù, một mối thương đau. (2)


Nhứt là chẳng thể lặng yên vui vẻ nhìn những cụm mây hồng thắm bồng bềnh bay bay. Mỗi độ hoàng hôn mây óng vàng mịn mượt e ấp rủ nhau về quỳ gối bên ao hồ soi bóng. Chao! Gia đình tôi lâm vào ngỏ cụt không lối thoát, mà số phận tàn nhẫn nghiệt ngã vẫn bám riết lấy. Dù bằng sự can đảm phi thường mẹ trẻ con thơ dắt díu nhau chạy về Sài Gòn, cố gắng "tái thiết cuộc đời” sống lây lất thấp hèn đến độ thê thảm trong trại gia binh bỏ hoang. Danh dự vẫn còn, tôi sống thanh liêm và dùng hai bàn tay không cầm ngòi viết, mà dùng làm “cây chĩa ngũ đoản thập toàn”, để tự bới móc tìm cái ăn ngoài xó xỉnh ruộng đồng! Tôi nâng mình lên cao hơn mặt đất xí xi, hầu hòa đồng cùng những người cùng khổ không manh áo cơ hàn khác. Chúng tôi rất nghèo, đói rách tả tơi thấy thảm thiết lắm. Chính những tháng ngày âm thầm đi trong vũng tối, từ những con đường đất đen đen lên nông trường Lê Minh Xuân không đèn soi, không trăng tỏ, tôi mới có đủ thời gian suy tư, kiểm nghiệm những thăng trầm chồng chất muôn vàn đắng cay đời mình dâng cao ngút. Chồng bị đi tù “cải tạo”. Do:

Uổng đời trai súng gãy giữa sa trường.
Họ chưa đến mà tan hàng bỏ chạy.
Đừng trách anh, bởi cuộc đời oan trái.
Trước lệnh hèn tàn nhẫn với ba quân.
Tổ quốc cần, “lãnh đạo” chỉ lo thân.
Bên vợ đẹp con ngoan và tiền bạc.
Thì đừng trách… khi quân đoàn tan nát. (3)


Các con lây lất lang thang tả tơi áo quần ngắn củn sờn rách, co ro trên vĩa hè phố Sài Gòn. Những đứa con của tôi và tuổi thơ vô tội tự bươn bả moi móc mọi thứ để kiếm sống, con đói khát ngủ chập chờn bên hóc tối (để cho bầy con kẻ khác mặc nhiên tới chiếm ngự ngôi nhà đồ sộ của mình, họ thô thiển vui đùa dưới hàng hiên ở nhà của chúng tôi đây). Tôi không còn đủ sức để mà hận, không nghe thấy gì, chẳng còn chút sinh khí ngoài nỗi điếng lặng lo sợ cồn cào đói khát, đau ốm đang dày vò ruột gan tôi và các con. Nỗi lo sợ bà nội các cháu, mẹ con bị bệnh đau, ghẻ chóc, truyền nhiễm dâng đầy ắp, mà không có tiền thuốc men- Hơn là tôi sợ hãi bất cứ thứ mất mác vật chất gì. Lòng tôi chao đảo vì chiến tranh tương tàn, vì những mất mác vô cớ, mà các con thơ mẹ già vợ yếu bỗng dưng vô tình cúi đầu gánh chịu, như tai ách mạch đời ở đâu trút ào ào xuống đầu mình. Trách nhiệm từ ai? Tại sao? Bởi vì đâu? Vì những “dày vò” của ông bà cố tổ mẹ cha chú bác? của những người có trọng trách giữ nước, giữ quê? hay là do trầm thống điêu linh tổ quốc suy tàn chẳng còn, nên con cháu họ đã ra nông nỗi, làm bàng hoàng sụp đổ cả một chính phủ VNCH trong tích tắc thời gian khi thành phố cũ -nay còn đâu:

Trở về Đà Lạt… buồn ơi
Sương mù chẳng toả ra hơi, ngậm ngùi!
Một bóng trên đồi lủi thủi. {Da diết...
Đà Lạt xưa duyên dáng lặng lờ (mà) tha thiết
Bao rung cảm nhớ miết… lẫn đợi chờ
Huyền thoại đấy -hạnh phúc đến như mơ-}
Giờ bỏ ngỏ lang bạt tìm kiếm
Đà Lạt chừ mọc nhiều tửu điếm
Tôi về quê ngơ ngác kiếm mãi con đường
Đâu? dũng khí quân trường cùng đi lên đi xuống
Đầm ấm thi vị gieo vào đời nhiều ước muốn
Trả tôi bước chân luống cuống niềm thương
Mưa dầm gội sạch phong sương
[“Lâm Viên hào nhoáng” chẳng còn tình ta
“Tham sinh úy tử”] chỉ là… (4)


Tôi cúi đầu uất nghẹn! Đà Lạt diễm kiều quyến rũ một thuở nên thơ tràn lan thi vị ấy, nay không còn là thành phố duyên dáng, hữu tình nữa rồi. Tuy tai tôi vẫn nghe tiếng thông reo vi vu thì thầm cùng gió, sương rung rinh nhè nhẹ thở hơi mát, phả vào không gian bảng lảng dáng Thu bàng bạc trên thành phố lạnh lẽo! Tôi đi giữa hai hàng cây anh đào trơ trụi, vài chiếc lá úa lững lờ chao lượn dưới làn sương mỏng là là bay, cuốn theo những hạt mưa bóng mây ẩm lạnh trong không gian ngút ngàn buốt tê. Dường như tôi cảm thấy ngu ngơ, lơ láo nhìn ngó, băn khoăn, thổn thức đớn đau dày vò và cảm thấy thất vọng kỳ lạ. Không tài nào nhấc bước chân lên khỏi mặt đường lồi lõm, tôi cứ đứng lì ở một góc phố như trời trồng, mà mất hồn mất vía. Tôi cảm thấy mình bị lún dần, lún dần vô cõi lạ. Dường như có ai ở dưới vũng bùn sình đang giơ tay kéo lôi, giật tôi hụp xuống cùng:

Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên! (5)


Thi sĩ ơi, ông thiệt có tình và nhân đạo! Đôi mắt tôi có hai ngấn nước lặng lờ hơi sương, mờ nhoà, mờ hẳn... giọt sương lăn tăn li ti hòa quyện cùng giọt nước mắt xót xa đã chảy xuống hai gò má. Thành phố của tôi ngày xưa ôi là xinh lịch vui tươi, truyền cảm, quyến rũ, luyến lưu thơ mộng là thế. Giờ đây sao quá ngao ngán buồn!? Trước mắt tôi, hiện tại với khoảng trống băng giá, cùng gánh nặng gia đình quầng siết lấy đôi vai gầy đang còng xuống những cố gắng vĩ đại, tôi chới với quơ bàn tay gầy cố vươn lên, thấp thỏm giành lại cho mình một tí, dù một tí thôi những gì đã mất. Tôi ngồi bên lề phố Hoà Bình ngửa mặt lên trời mà khóc, mà cười, cười khẩy, vì không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn nứt đau xót khôn tả xiết, xếp lớp lăn tăn bềnh bồng lâng lâng giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mê theo sóng đời cơ cực. Gia đình tôi đã lầm than khốn cùng tụt xuống dưới tận đáy xã hội phù phiếm mất rồi. Đà Lạt xa xưa tự thuở hồng hoang xinh lịch thơ mộng êm mơ là thế, rồi... có một “thời gian vật vã” nên quê tôi đã nghèo nàn, ê chề cũng kinh khiếp đến thế. Háo hức đi thăm Đà Lạt làm chi, để rồi:
Chưa đi chưa biết Lâm Đồng,
Nếu đi sẽ thấy đau lòng tổ tiên.
Giang sơn một giải Cao Nguyên,
Để Tàu khai thác nát nghiền quê hương. (6)

***

Nhưng rồi… thảng thốt thay khi Đà Lạt của tôi hôm nay (2017) đã biến mất các rừng thông xanh thẳm, những con suối uốn lượn quanh co dọc triền núi, thác nguồn ngày xưa hoang dã tự nhiên thơ mộng êm đềm, thì nay “sinh chứng dị hình xây dựng” những kiểu cách “gán ghép bắt râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Những cao ốc chen chúc, chi chít cùng những nhà bần nông lụp xụp (vì các "dịch vụ, nhu cầu sinh kế khẩn thiết" cần "triệt để khai thác" cho ngành du lịch phồn thịnh!!!); nên đâu đâu cũng "tự chế" ra phòng trọ, "mô teo, hô teo..." nườm nượp mọc lên "lâu đài" trên đồi trọc không còn tiếng thông reo vi vu triền miên (vì chẳng còn cây cối nào có thể sống), người ta "tự phát, tự chế" không theo quy trình kiến thiết đô thị, thì Đà Lạt bây giờ vụng về thô thiển và nóng ơi là nóng! Đà Lạt lộn xộn trơ trẽn như bộ mặt của con mèo bông vá chằn vá đụp. Thế thì:

Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
… Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan.

Ôi Đà Lạt của tôi… chẳng còn sinh khí hồn nhiên của mạch rừng hoang dại, dường như Đà Lạt nghẹt thở do những nét chấm phá từ bao ngôi nhà giống “nấm rơm nấm chó nấm mèo” trên bức tranh thiên nhiên đã tự nó đã loang lổ, thì quê tôi chìm mất nét hấp dẫn trữ tình, thi vị đầy thiết tha rung cảm, trìu mến và trữ tình trong tim mình! Thế nên tôi đành bùi ngùi và nghẹn ngào ngoảnh mặt quay bước không thể trở về lối cũ đường xưa…

Đừng khoe tôi, hỡi người bạn tài hoa,
Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.
Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh. (*)

* * *
Tình Hoài Hương

(1) Thanh Cảnh
(2) Nguyên Thạch
(3) Phạm Hồng Thước
(4) Tình Hoài Hương
(5) Bùi Giáng
(6) Bùi Phạm Thành
(*) Sưu tầm (xin lỗi, do HH quên tên tác giả bài thơ rất hay)
*
Bút trần nào tả được lưu luyến!
Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
Tình Hoài Hương
 
Ý kiến cho bài đọc xin nhấn vào đây => (ĐÀ LẠT Xưa & Nay… Ôi Niềm Đau)
Rate this item
(0 votes)

Posted by Tinh Hoai Huong

Related items