Login to your account

Username *
Password *
Remember Me

Nguyen Huu Thien

CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ (kỳ 24)



Hồi ký

NGUYỄN HỮU THIỆN

PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA



CHƯƠNG 3 – Cửa ngõ Tự Do và Tình Người

(tiếp theo kỳ 23)

Trong ba khó khăn lớn nhất của tôi khi nhận chức Zone trưởng Zone III, việc buộc mọi người tham gia công tác vệ sinh sáng Thứ Bảy sở dĩ đạt kết quả tốt đẹp phần lớn là nhờ “dựa hơi” cô Mely (Cao ủy trưởng), hai khó khăn còn lại tôi phải tự mình tìm cách giải quyết. Đó là nạn phá hoại các cơ sở của trung tâm sinh hoạt nằm trong lãnh thổ Zone III và tình trạng “vô chính phủ” tại các barrack.

Trước hết nói về nạn phá hoại các cơ sở ở trung tâm sinh hoạt, chủ yếu là các phòng học.

Vì hội trường, thư viện, phòng nghe băng Anh ngữ (Listening Center) sau khi sử dụng đều được khóa cửa, Youth Center và tòa soạn bán nguyệt san Tự Do thì có nhân viên ngủ đêm, Văn phòng Zone III thì lúc nào cũng đèn đuốc sáng trưng, trong khi các phòng học không có khóa cửa, chỉ được sử dụng vào ban ngày nên không có đèn điện, tối đến dễ trở thành mục tiêu phá hoại.

Youth Center -Trung tâm sinh hoạt thanh thiếu niên (hình Gaylord Barr)


Người ta tới tháo gỡ bàn ghế, gỡ vách ván đem về barrack sử dụng không nói làm gì, mà còn có những đám trẻ tới tụ tập phá phách, phóng uế trong phòng học, thậm chí có khi còn lấy phân trét lên bảng đen!

Để đối phó, ông Zone trưởng Zone III chỉ có một “vũ khí” duy nhất là cái đèn pin do Phòng Trât tự của Ban Đại diện cấp cho các zone trưởng! Thành thử khi bị bắt gặp, các “thủ phạm” vừa bỏ chạy vào màn đêm vừa chửi thề, chọc quê, thậm chí có khi còn buông lời hăm dọa mà không ai làm gì được!

Suy nghĩ nát óc, tôi nhận thấy chỉ có một giải pháp là xin Ban Đại diện chính thức cho thành lập một toán tuần tiễu của Zone III.

Trước đó, qua trao đổi với Zone trưởng Zone IV, tôi biết zone này có một toán trật tự để đi kiểm soát các barrack, hoạt động rất hữu hiệu.

Như đã viết ở một đoạn trước, vào thời gian tôi nhận chức vụ Zone trưởng Zone III thì Zone IV được ghi nhận là kỷ luật nhất, vệ sinh sạch sẽ nhất trong số bốn zone, còn Zone III bị xem là tệ hại nhất.

Zone trưởng Zone IV lúc đó là Hóa, một thanh niên trong Gia đình Phật tử Long Hoa, rất được mọi người mến phục vì tư cách cũng như tinh thần phục vụ.

Sau vài lần gặp nhau trong các buổi họp của Ban Đại diện Trại, tôi kết thân với Hóa và xuống tận Văn phòng Zone IV để tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm. Mặc dù Hóa khiêm nhượng cho biết nề nếp trong zone đã có từ đời nào, anh chỉ thừa hưởng thành quả từ những vị zone trưởng tiền nhiệm, tôi cũng nhận ra yếu tố chính giúp Hóa thành công trong việc duy trì an ninh trật tự, vệ sinh trong zone là việc anh cùng toán trật tự thường xuyên kiểm soát, đôn đốc, không vị nể một ai.

Tuy nhiên, vì toán trật tự này do Zone IV tự ý thành lập nên vẫn phải tuân theo lệnh giới nghiêm 11 giờ đêm, trong khi Zone III của tôi cần một toán tuần tiễu suốt đêm, vì thế phải được sự chấp thuận của Ban Đại diện Trại và Cảnh sát Nam Dương.

Trong buổi họp hàng tuần của Ban Đại diện và các zone trưởng, sau khi trình bày tệ nạn phá hoại các phòng học ngày càng gia tăng, tôi đề nghị cho phép Zone III thành lập một Ban Trật tự riêng để đi tuần, được quyền đi lại trong zone sau giờ giới nghiêm như các vị zone trưởng, và được quyền bắt giữ các thủ phạm.

Để tạo áp lực với Ban Đại diện, tôi nói nếu đề nghị của tôi không được chấp thuận, vì an toàn của bản thân tôi sẽ ngưng việc đi kiểm soát các cơ sở ở trung tâm sinh hoạt trước cũng như sau giờ giới nghiêm!

Đề nghị của tôi được ông Trưởng khối Giáo dục phổ thông ủng hộ hết mình (vì các giáo viên của ông thường xuyên sử dụng các phòng học), và cuối cùng đã được ông Trại trưởng chấp thuận.

Trại trưởng Galang 1 lúc đó là bác Trinh, một vị thẩm phán Tối cao Pháp viện thời Việt Nam Cộng Hòa, mới lên thay ông trại trưởng tiền nhiệm là một vị giáo sư (giáo chức biệt phái) đã đi định cư. Bác Trinh có dáng dấp nhỏ bé nhưng cá tính rất mạnh, phục vụ tận tụy, thẳng thắn, không vị nể một ai cho nên làm việc rất “ăn giơ” với cô Mely.

Bác Trinh (áo xanh) tại bến tàu Galang trong một lần tiễn người đi (hình Gaylord Barr)


Sau buổi họp, tôi vào văn phòng của bác Trinh để cùng với bác và ông Trưởng phòng Hành chánh soạn thảo quyết định thành lập Ban Trật tự của Zone III. Để tạo danh chính ngôn thuận và khỏi dẫm chân nhau, việc thành lập Ban Trật tự của Zone III được Ban Đại diện Trại thông báo bằng văn bản cho Đồn Cảnh Sát Nam Dương.

Theo quyết định thành lập, Ban Trật tự của Zone III gồm một trưởng ban và bốn thành viên. Quyết định này cũng ghi rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Trật tự của Zone III, và biện pháp đối với những người phá hoại các cơ sở ở trung tâm sinh hoạt vốn là tài sản của Cao ủy Tỵ nạn LHQ.

Cũng xin nhắc lại, theo thỏa thuận từ lúc ban đầu giữa ba phía - Cao ủy, Nhà cầm quyền Nam Dương và Ban Đại diện Trại - việc thi hành biện pháp kỷ luật đối với người ty nạn phạm pháp ở Galang là phần hành của cảnh sát Nam Dương. Cho nên tại đồn cảnh sát có một nhà giam người tỵ nạn gọi tắt là “P3V”.

Thực ra P3V, viết tắt từ mấy chữ Nam Dương “Panitia Pengelolaan Pengungsi Vietnam”, có nghĩa là “Ủy ban Quản lý Người tỵ nạn Việt Nam”, bao gồm tất cả mọi cơ sở của nhà cầm quyền Nam Dương tại trại tỵ nạn Galang, nhân sự gồm từ vị Chỉ huy trưởng Trại (Camp Commander) xuống tới viên cảnh sát quèn. Nhưng chẳng hiểu tại sao cảnh sát Nam Dương lại gọi nhà giam người tỵ nạn “P3V”, để rồi cả Văn phòng Cao ủy, Ban Đại diện Trại và đồng bào trong trại đều gọi theo.

Đám thanh thiếu niên tỵ nạn thuộc thành phần ba gai rất sợ bị đưa lên P3V vì ngoài việc ban ngày phải lao động (làm cỏ, đào mương, phá rừng chồi...) đêm về còn bị mấy tay cảnh sát có máu bạo hành lâu lâu nổi hứng thượng cẳng tay hạ cẳng chân; trong một số trường hợp còn bị cạo đầu – hình phạt mà người Nam Dương cho là nhục nhã nhất, thường chỉ dành cho tù hình sự trong các nhà tù Nam Dương.

[Vì hình phạt cạo đầu này mà có sự hiểu lầm tai hại của cảnh sát Nam Dương đối với những người tỵ nạn tự nguyện cạo đầu sau khi tới được bến bờ tự do vì có lời thề]

Vì thế trên thực tế, Văn phòng Cao ủy và Ban Đại diện Trại chủ trương cực chẳng đã mới phải nhờ tới cảnh sát Nam Dương thi hành biện pháp kỷ luật; riêng cha Dominici đã có lần phải lặn lội về thủ đô Jakarta để khiếu nại về việc cảnh sát Nam Dương ở Galang sử dụng bạo lực với người tỵ nạn.

Khi quyết định thành lập Ban Trật tự Zone III, bác Trinh cũng nhắc nhở tôi về chủ trương nói trên, và khuyên tôi tùy cơ ứng biến, nếu cần có biện pháp mạnh thì giao “thủ phạm” cho Phòng Trật tự của Ban Đại diện chứ đừng giao cho cảnh sát Nam Dương.

Tuy nhiên trên văn bản, nội dung quyết định vẫn ghi đầy đủ những gì đã quy định trong Nội quy Trại (người tỵ nạn phạm pháp sẽ chịu mọi biện pháp kỷ luật của cảnh sát Nam Dương) với mục đích răn đe.

Trở về Zone III, tôi cho thành lập Ban Trật tự, do Hiền, Zone phó Trật tự làm Trưởng toán.

Trước đó, Zone III - cũng như các zone khác - chỉ có một zone phó, tới khi thành lập Ban Trật tự, tôi mới lập thêm một chức zone phó nữa: anh bạn tù Sơn “lồ” làm Zone phó Hành chánh, Hiền làm Zone phó Trật tự.

(Sơn “lồ” nguyên là đội phó lao động của tôi trong trại cải tạo Đồng Ban, Tây Ninh, sau này trốn trại về Sài Gòn rồi vượt biên tới Galang, lọt vào Zone III)

Bốn thành viên Ban Trật tự là bốn barrack trưởng hăng say nhất tình nguyện, trong đó có Vinh “què”, Barrack trưởng 65, là barrack nằm gần khu phòng học nhất.

Bản quyết định thành lập Ban Trật tự Zone III được tôi cho photocopy để dán ở tất cả mọi barrack trong zone.

Kết quả, chỉ một, hai tuần sau khi Ban Trật tự Zone III bắt đầu các cuộc đi tuần ban đêm, nạn phá hoại các cơ sở ở trung tâm sinh hoạt và phóng uế trong các phòng học đã chấm dứt.

* * *


Việc thành lập Ban Trật tự Zone III còn góp một phần không nhỏ vào việc giải quyết tình trạng “vô chính phủ”, ai muốn làm gì thì làm ở các barrack.

Nguyên sau khi nhận chức Zone trưởng, tôi đã âm thầm xuống các barrack để tìm hiểu và nhận ra rằng trong không ít trường hợp nguyên nhân chính là barrack trưởng thiếu khả năng, uy tín, thậm chí phe đảng, đưa tới tình trạng chẳng ai nghe ai, chẳng ai ngán ai! Và nếu người nào cũng nghĩ rằng chỉ ở Galang vài tháng rồi đi định cư, hơi đâu lên tiếng phê bình, hoặc không ai chịu ra “tranh cử” chức barrack trưởng, tình trạng “vô chính phủ” ấy cứ tiếp diễn.

Muốn giải quyết thì điều kiện tiên quyết là phải được sự hưởng ứng của người trong barrack, phải có người tình nguyện nhận lãnh chức vụ barrack trưởng. Qua tham gia sinh hoạt trong Ban Đại diện Trại và các đoàn thể tại Galang 1, tôi nhận thấy phần lớn người tình nguyện phục vụ đồng bào trong trại đều thuộc một trong ba thành phần sau đây; cựu quân nhân, Đoàn Thanh niên Công giáo Galang, Gia đình Phật tử Long Hoa.

Trong cương vị zone trưởng, tôi đã tìm tới anh em cựu quân nhân trong các barrack để tìm hiểu tình hình và tham khảo ý kiến.

Trong số này có Hưng ở Barrack 69, một trong hai tay đại úy bạn tù thân thiết cùng nhà ở K1, Suối Máu trước đây. Hưng vượt biên với thằng con trai, tới Galang trước tôi gần một năm, đã được Phái đoàn Mỹ nhận, chờ sang Galang 2.

Hưng là người tinh tế và khó tính, vì thế những gì trái tai gai mắt trong Barrack 69 nói riêng, trong Zone III nói chung đều được hắn để tâm ghi nhận.

Ngoài đại úy Hưng, còn có thiếu úy Vinh “què”, Barrack trưởng Barrack 65 đã nhắc tới ở trên, cũng là một barrack trưởng thâm niên và rất có uy trong zone.

Với sự đóng góp ý kiến của Hưng, Vinh, và Thảo (Barrack trưởng Barrack 73 của tôi), tôi thiết lập một danh sách những barrack cần phải thay đổi barrack trưởng, rồi âm thầm tiến hành vận động, kêu gọi người tình nguyện.

Công việc của tôi đạt kết quả tốt đẹp phần lớn nhờ sự hưởng ứng của những người thuộc thành phần mới tới Galang được một vài tháng, đã được tôi đích thân “lên lớp” (nghĩa đen) khi vừa đặt chân tới trại.

Số là ngay sau khi đảm nhận chức vụ zone trưởng, tôi bắt đầu tổ chức những buổi hướng dẫn đồng bào mới tới được đưa về các barrack thuộc Zone III; địa điểm là một phòng học phía sau văn phòng zone.

Đây là một công việc hết sức cần thiết, hữu ích nhưng không hiểu tại sao các đời zone trưởng trước của Zone III không ai làm, cứ để mặc các barack trưởng tùy nghi hướng dẫn (còn ở các zone khác, có hay không tôi không được biết).

Cần thiết và hữu ích bởi vì đồng bào mới tới không biết một chút gì về cuộc sống trong trại, về các cơ quan trong trại, về những thủ tục họ sẽ phải trải qua để được đi định cư tại một đệ tam quốc gia...

Ngoài việc đem lại cho đồng bào những hiểu biết cần thiết, những buổi hướng dẫn nói trên còn tạo ra một sự cảm thông, tinh thần hợp tác của đồng bào với những người làm việc thiện nguyện trên văn phòng zone cũng như tại các barrack.

Kết quả, chỉ trong vòng hai tháng, đã có hơn 1/3 trong tổng số barrack của Zone III xin văn phòng zone cho tổ chức bầu lại barrack trưởng. Những người được bầu đa số là cựu quân nhân, các thanh niên trong Đoàn Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử mới tới Galang trong những đợt cuối năm 1981, đầu năm 1982, trong số này có một nữ barrack trưởng đầu tiên và duy nhất ở Galang 1 (tính cho tới ngày tôi đi định cư).

Đó là một bà mẹ trẻ đi vượt biên với hai con nhỏ, chồng đã đi trước và định cư tại Mỹ; về sau mới biết đó là một cô em họ xa của tôi. Hương, tên cô, không chỉ là nữ barrack trưởng đầu tiên mà còn là một barrack trưởng xuất sắc, về sau đã được ông Trại trưởng cấp giấy khen.

* * *


Với dàn barrack trưởng có tinh thần phục vụ cao, Zone III đã có những sự cải tiến tốt đẹp, chẳng hạn phân phối thực phẩm một cách công bằng hơn, phân chia cầu tiêu cho từng “liên gia” để họ liên đới trách nhiệm gìn giữ vệ sinh, v.v...

Ngoài ra còn có việc lập phòng may của Zone III. Nguyên trong một lần tới văn phòng Zone IV chơi, tôi để ý thấy trong một góc phòng có đặt hai máy may để đồng bào trong zone tới sử dụng.

Tôi hỏi máy may ở đâu mà có thì Hóa, Zone trưởng Zone IV, cho biết do cơ quan từ thiện World Relief tặng cho mỗi zone hai máy vào đầu năm 1981. Tôi về hỏi Vinh “què” mới biết hai cái máy may của Zone III được đặt ở barrack của ông Zone trưởng, tức Tài, người tiền nhiệm của tôi. Tài viện lý do để trên văn phòng zone không có người trông coi.

Trên nguyên tắc, không cần biết hai máy may này được đặt ở đâu, đồng bào trong zone cũng có quyền tới sử dụng, nhưng trên thực tế không mấy người biết vì không được phổ biến rộng rãi. Rốt cuộc hầu như chỉ có người trong barrack của ông Zone trưởng sử dụng, trong đó có một hai bà thợ may, và hai cái máy may của Zone III đã trở thành cần câu cơm của họ.

Ngay sau khi được biết nguồn gốc hai máy may này, tôi quyết định đưa lên văn phòng zone. Nhưng cơ sở sử dụng làm văn phòng Zone III khá chật hẹp, chỉ là 1/3 ngôi nhà trong khu sinh hoạt, vừa đủ chỗ kê một bàn làm việc, một tủ hồ sơ, một cái bàn gỗ dài với hai băng ghế để họp barrack trưởng và tiếp đồng bào khi họ có việc phải lên văn phòng zone, và một cái kho vật dụng; thấy 2/3 còn lại của ngôi nhà được sử dụng làm phòng học nhưng lâu lâu mới có người tới, tôi xin Ban Đại diện Trại trao luôn cho Zone III để sử dụng làm phòng may và chỗ đặt bàn ping-pong (lâu nay bị bỏ xó trong kho).

Khi tôi đích thân đưa người xuống barrack của ông Zone trưởng cũ khiêng hai cái máy may lên văn phòng zone thì đã được đón tiếp bằng những cặp mắt không mấy thiện cảm của anh chàng barrack trưởng và đa số đồng bào trong barrack, nhưng biết làm sao hơn!

Từ đó, trụ sở văn phòng Zone III trở nên tấp nập hơn với đồng bào tới sử dụng máy may (phải book theo thứ tự) và chơi ping-pong. (Nhờ bàn ping-pong này mà tôi khám phá ra một tay vợt nữ siêu hạng, sẽ đề cập tới ở một phần sau).

* * *


Về trật tự trị an, việc Ban Trật tự cùng với zone trưởng khi được barrack trưởng mật báo, tới kiểm soát dân số tại các barrack sau giờ giới nghiêm gần như đã chấm dứt được tình trạng “ngủ lậu” - viết thẳng ra là nam nữ ở barrack này tới barrack khác để “qua đêm” với nhau.

Vì việc này, Ban Trật tự Zone III và cá nhân tôi đã bị một số người ghét cay ghét đắng, lén gọi là phát-xít, nhưng lại được đa số đồng bào trong zone hoan nghênh, bởi vì họ không còn phải khó chịu, bực mình trước những gì mà họ biết chắc đang diễn ra trong bóng tối đồng lõa.

Nhưng đáng nói hơn cả là sau này hầu như không còn xảy ra việc đang đêm cảnh sát Nam Dương vào các barrack trong Zone III để kiểm soát dân số nữa.

Trước kia, theo nguyên tắc đã được thỏa thuận từ đầu, với nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an, cảnh sát Nam Dương có quyền vào các barrack, ngày cũng như đêm, để thi hành nhiệm vụ, chẳng hạn điều tra về một vụ phạm pháp, hay bắt một thủ phạm đưa lên đồn cảnh sát, còn việc kiểm soát dân số trong các barrack là của Ban đại diện Trại, do các barrack trưởng chịu trách nhiệm.

Nhưng sau khi xảy ra vụ một thuyền nhân mất tích, cảnh sát Nam Dương đã dẫm chân Ban đại diện Trại, ban đêm bất thần vào các barrack để đếm đầu người theo danh sách của barrack trưởng.

Vụ mất tích này xảy ra trước khi tôi tới Galang cho nên chỉ biết nghe người ta kể lại: một cựu sĩ quan (trung úy hay thiếu úy) Không Quân còn trẻ, có vợ nhưng chưa có con, làm việc cho bán nguyệt san Tự Do của cha Dominici, một đêm nọ bỗng biệt tích.

Vì cơ sở của bán nguyệt san Tự Do có chỗ ngủ cho nên đôi khi người này làm việc khuya và ngủ lại ở trên đó, thành thử phải đợi qua ngày hôm sau, người vợ không thấy chồng về và trên tòa soạn cũng không thấy anh lên làm việc mới bắt đầu tìm kiếm, và tới cuối ngày vẫn không thấy mới báo cảnh sát Nam Dương.

Sau khi sự việc được trình lên Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại, cảnh sát Nam Dương đã huy động toàn bộ lực lượng đồng thời kêu gọi đồng bào trong trại tình nguyện cùng vào những khu rừng quanh trại để tìm kiếm.

Rừng ở Galang là rừng già nhưng thưa, không có các loài thú dữ, chỉ có chim chóc, thỏ, chồn, trăn...

Sau mấy ngày tìm kiếm không thấy dấu vết gì, và cũng vì không có “thư tuyệt mạng” để lại, không ai đoán được chuyện gì đã xảy ra cho người cựu sĩ quan này ngoài những tin đồn thiếu sức thuyết phục, chẳng hạn giữa vợ chồng có chuyện buồn nên anh vào rừng sâu tự tử, hoặc anh ta trốn sang Tanjung Pinang, thành phố lớn nhất trong vùng, nằm ở một hòn đảo cách Galang hơn 30 km, để sống kiếp giang hồ, v.v..., thậm chí còn có tin đồn anh là một điệp viên cộng sản giả dạng thuyền nhân tới Nam Dương để móc nối với “tàn quân” của Đảng Cộng Sản Nam Dương. (Chú thích)

Không tìm thấy dấu vết của người mất tích, nhà cầm quyền trại không biết ăn nói ra sao với Cao ủy Tỵ nạn, bởi vì theo thỏa thuận giữa đôi bên, phía Nam Dương có trách nhiệm bảo vệ an ninh và giữ thuyền nhân trong khu vực ấn định.

Hậu quả là sau vụ mất tích nói trên, nhà cầm quyền trại đã đưa ra những biện pháp kiểm soát gắt gao hơn, trong đó có việc ban đêm cảnh sát Nam Dương sẽ bất thần vào các barrack để đếm người.

Việc này không chỉ gây bực mình, căng thẳng vì thái độ hống hách, cung cách hành sự thô lỗ của cảnh sát Nam Dương mà còn dẫm chân Ban đại diện Trại.

Bị cảnh sát Nam Dương lấn lướt nhưng Ban đại diện Trại cũng không làm gì được bởi vì, như những ai từng ở Galang đã biết, cảnh sát họ muốn làm gì thì làm, sau đó Ban đại diện Trại có khiếu nại với Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại thì việc cũng đã rồi!

Lần này, sau khi khiếu nại, Ban đại diện Trại cũng chỉ đạt được một kết quả nho nhỏ: sau giờ giới nghiêm, nếu cảnh sát Nam Dương muốn vào các barrack để đếm người thì phải có sự hiện diện của zone trưởng.

Tuy nhiên trên thực tế, cảnh sát không bao giờ thông báo cho vị zone trưởng liên hệ mà cứ vào thẳng các barrack đếm người, barrack trưởng phải cho người cấp báo zone trưởng tới nơi... dự khán!

Nhưng sau khi Ban Trật tự Zone III được thành lập, hầu như trong zone không còn xảy ra việc này nữa, tất cả là nhờ sự giao hảo (tạm gọi như thế) giữa tôi và Đại úy Marjuno, Trưởng đồn cảnh sát Nam Dương.

Những ai từng ở Galang trong khoảng thời gian 1981-1982 nếu không biết mặt cũng phải nghe tên viên đại úy này.

Marjuno khoảng trên dưới 30 tuổi, tức là trẻ hơn tôi. Anh ta hơi lùn nhưng vạm vỡ, tuy cũng có màu da nâu như đa số người bản xứ nhưng mang những nét đẹp của dân Trung Đông, cộng thêm hàng râu mép khiến tôi liên tưởng tới nam diễn viên gốc Ai-cập Omar Sharif, người thủ vai chính trong cuốn phim Doctor Zhivago (1965).

Marjuno là một người rất nặng phần trình diễn, từ bộ quân phục với vô số phù hiệu tới khẩu súng lục Browning 9 ly lúc nào cũng kè kè bên hông, từ cái máy Motorola (walkie talkie) luôn luôn mở âm lượng (volume) tối đa tới cách ngồi gác một chân lên khung cửa chiếc xe Jeep...

Tính khí của viên đại úy cảnh sát này cũng bất thường, có lúc rất hung bạo có lúc lại vui vẻ hồn nhiên!

Về sự hung bạo của Marjuno, tôi chỉ nghe kể chứ không được chứng kiến, trong đó có vụ anh ta hành hung vị đại diện người tỵ nạn Căm-bốt ở Galang 2; còn về vui vẻ hồn nhiên, tôi thường thấy anh ta ngừng xe trò truyện, cười nói (bằng tiếng Anh pha tiếng Việt, tiếng Indo) với mấy người bán hàng quán bên lề đường, hoặc đùa dỡn với trẻ em trước các barrack; bên cạnh đó, tôi chưa từng nghe ai than phiền Marjuno có hành động, thái độ nham nhở với đàn bà con gái tỵ nạn như nhiều nhân viên cảnh sát dưới quyền anh ta...

Trong cương vị zone trưởng, tôi không cần và cũng không có cơ hội tiếp xúc với viên Trưởng đồn cảnh sát, tuy nhiên sau khi Ban Trật tự Zone III được thành lập và được Ban đại diện Trại thông báo bằng văn bản cho phía Nam Dương, tôi phải tới đồn cảnh sát tiếp xúc để đích thân thông báo cho họ việc Ban Trật tự Zone III sẽ bắt đầu đi tuần ban đêm trong lãnh thổ Zone III, bao gồm cả khu sinh hoạt.

Sở dĩ tôi phải cẩn thận như thế là vì không biết cảnh sát Nam Dương có đọc Thông báo của Ban Đại diện Trại gửi cho hay không, và nếu đọc, không hiểu họ có đồng ý cho Ban Trật tự Zone III đi tuần sau giờ giới nghiêm hay không?

Tới đồn cảnh sát, tôi trình thẻ zone trưởng cho nhân viên văn phòng và cho biết mục đích của mình. Lúc đó Đại úy Marjuno đang đứng gần đó liền mời tôi vào phòng làm việc của anh ta. Gần một tiếng đồng hồ sau, viên đại úy cảnh sát mới cho tôi ra về!

Trong gần một tiếng đồng hồ đó, tôi và Marjuno chỉ nói chuyện với nhau chưa đầy 10 phút về Thông báo thành lập Ban Trật tự Zone III, và viên đại úy đã đồng ý ngay trước việc chúng tôi sẽ nhận lãnh trách nhiệm kiểm soát khu sinh hoạt và các barrack thuộc Zone III, thời gian còn lại, chúng tôi nói chuyện về... súng đạn, phi cơ!

Nguyên Marjuno là một người say mê, thích sưu tầm, tìm hiểu về vũ khí, mà vào thời điểm tôi ở Galang (1981-1982) quân đội Nam Dương đang dần dần thay thế trang bị quân sự của khối cộng bằng trang bị quân sự của Hoa Kỳ và đồng minh.

Khi ấy, cảnh sát Nam Dương vẫn còn trực thuộc quân đội (tới năm 1999 mới tách riêng), cho nên khi biết tôi là một cựu sĩ quan trong QLVNCH, Marjuno đã chuyển ngay sang đề tài quân sự, và sau khi trao đổi vài câu, viên đại úy rất thán phục, coi tôi như một cuốn tự điển sống về vũ khí quân sự.

Thực ra tôi cũng chỉ là một người say mê, thích tìm hiểu về vũ khí quân sự như Marjuno nhưng vì những loại vũ khí mà quân đội Nam Dương đang đặt mua của Hoa Kỳ và đồng minh - chẳng hạn súng trường M16A1, đại liên M60, phản lực cơ F-5E, trực thăng UH-1 của Mỹ, xe tăng Scorpion của Anh, xe tăng Leopard của Đức - tôi có một sự hiểu biết khá chi tiết cho nên viên đại úy rất thích thú, nhất là về khẩu súng M16A1 mà tôi có bằng thiện xạ, và chiếc phản lực F-5E Tiger II được sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam VN.

* * *


Sau buổi gặp gỡ giữa tôi và Đại úy Marjuno, hầu như không bao giờ cảnh sát Nam Dương vào các barrack của Zone III để kiểm soát sau giờ giới nghiêm nữa; lần duy nhất họ vào là để truy lùng một phần tử phạm pháp mà họ nghi ngờ ẩn náu trong barrack này.

Lâu lâu Marjuno lại ghé văn phòng Zone III rủ tôi lên chiếc xe Jeep Wrangler của anh ta chạy vòng vòng trong trại, và tôi miễn cưỡng nhận lời.

Miễn cưỡng bởi vì người tỵ nạn hầu như không ai ưa cảnh sát Nam Dương, trừ một số rất nhỏ có quan hệ buôn bán, quan hệ trai gái với họ. Việc tôi xuất hiện bên cạnh Marjuno trên chiếc xe Jeep cảnh sát chắc chắn sẽ khiến đồng bào “ngứa mắt’ nhưng tôi không muốn làm mất lòng viên Đại úy Trưởng đồn Cảnh sát trong lúc tôi đang ra sức củng cố an ninh trật tự trong zone, đối phó với nạn phá hoại các phòng học, vì thế tôi miễn cưỡng trở thành một người “thân Indo” trước mắt mọi người.

Một đêm nọ khi đã quá giờ giới nghiêm, Marjuno còn cho ngừng xe Jeep trước Barrack 73, đập cửa gọi tôi cùng anh ta đi tuần tiễu. Tưởng có chuyện gì xảy ra trên trung tâm sinh hoạt, tôi mặc quần áo và lên xe ngay. Nào ngờ Marjuno cho xe chạy thẳng sang Galang 2, miệng huyên thuyên, thỉnh thoảng lại hứng chí phá lên cười như một thằng điên; sau khi đi một vòng Galang 2 mới trở về Galang 1...

Phó bản thẻ zone trưởng của tôi thay cho bản chính bị mưa ướt, được cấp ít lâu trước khi tôi
rời Galang, và anh Thể (Trại trưởng) đã vào Galang 2; ông Hoàng Công Duyên lên thay


Khoảng nửa năm sau khi tôi lên làm zone trưởng, Marjuno bị thất sủng, mà nguyên nhân chính là việc anh ta hành hung ông Trưởng ban đại diện người tỵ nạn Căm-bốt ở Galang 2.

Tôi không được biết rõ đầu đuôi, chi tiết sự việc, chỉ biết sau khi vị đại diện của mình bị Marjuno hành hung, người tỵ nạn Căm-bốt ở Galang 2 đã nổi loạn, chặn không cho bất cứ viên cảnh sát nào vào khu vực của họ, và yêu cầu Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn đứng ra giải quyết.

Sau đó, một buổi họp khẩn cấp đã diễn ra giữa Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn do cô Mely đại diện và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại Galang do Trung tá Siregar cầm đầu.

Tôi không được biết nhiều về vị trung tá Chỉ huy trưởng Trại vì trước sau tôi chỉ được tiếp xúc trực tiếp một lần duy nhất khi ông tới thăm trung tâm sinh hoạt và ghé vào Văn phòng Zone III, qua đó tôi thấy ông là một người cao ráo, mang mắt kính, ra vẻ “gentleman” chứ không “lực điền” như Đại úy Marjuno.

Theo lời Trung úy H, một người bạn Không Quân cùng khóa cùng đơn vị với tôi trước năm 1975 nay làm việc trên Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại, ông Siregar là một người có trình độ, nói lưu loát cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp.

Về cá tính và cách làm việc của ông Siregar, tôi không có cơ hội tìm hiểu và cũng không biết quan hệ giữa ông và Văn phòng Cao ủy ra sao. Chỉ biết một điều chắc chắn là ông và cha Dominici không ưa nhau. Việc này cũng dễ hiểu bởi vì cha Dominici luôn luôn bênh vực người tỵ nạn và đã có lần về thủ đô Jakarta tố cáo, khiếu nại về sự lộng hành của cảnh sát Nam Dương ở Galang.

Trở lại với buổi họp giữa Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại, cuối cùng Trung tá Siregar đã nhờ cô Mely gửi lời xin lỗi cá nhân ông Trưởng ban đại diện và toàn thể người tỵ nạn Căm-bốt ở Galang 2.

Về phần Đại úy Marjuno, không ai biết anh ta có bị biện pháp kỷ luật nào hay không, chỉ biết từ đó hầu như không xuất hiện công khai ở những nơi có người tỵ nạn nữa, và bị thay thế ít lâu sau khi tôi rời Galang..

Riêng tôi trong cương vị Zone trưởng Zone III, có thể nói đã từ lời tới huề qua việc quen biết viên đại úy này. Trong khi mang tiếng không tốt “thân Indo” trước mắt một số người, tôi đã đạt kết quả tốt đẹp trong việc củng cố an ninh trật tự trong zone, chấm dứt nạn phá hoại các phòng học, và nhất là không còn xảy ra việc đang đêm cảnh sát Nam Dương xông vào các barrack lục soát nữa.

* Ngày Quân Lực VNCH 1982

Khi tình hình vệ sinh, an ninh trật tự trong zone đã trở nên tốt đẹp, tôi bắt tay vào việc khuyến khích và tạo điều kiện cho thanh thiếu niên chơi các môn thể thao như bóng tròn, bóng chuyền, bóng bàn...

Nói cho ngay, tôi cũng chẳng mấy yêu thích các bộ môn thể thao, ngày còn ở bậc trung học đệ nhất cấp tuy có tham gia đội bóng tròn của trường nhưng vì lười chạy cho nên tình nguyện... bắt gôn (thủ môn), chỉ tới khi vào trại cải tạo của cộng sản mới nhận ra những lợi ích của các môn thể thao, về tinh thần cũng như thể chất.

Mặc dù Zone III có lợi thế ở gần sân banh và sân bóng chuyền trước trung tâm sinh hoạt, cho tới thời gian đầu năm 1982, không mấy người trong zone chơi hai môn thể thao này, ngoài một nhóm trẻ vài em chiều chiều ôm banh ra sân dợt chơi.

Trong khi đó Zone IV đã có một đội bóng tròn khá mạnh, lâu lâu chia ra hai phe đá trông khá hấp dẫn. Vì thế, ưu tiên một của tôi là tổ chức một đội bóng tròn cho Zone III.

Trước hết, tôi yêu cầu các barrack trưởng thiết lập danh sách thanh thiếu niên muốn tham gia, càng đông càng tốt để chia phe đá với nhau.

May mắn cho tôi, trong số mấy chục em tham gia có Đặng Văn Toán, một cầu thủ trẻ có trình độ chuyên môn khá cao, tình nguyện đảm trách vai trò huấn luyện viên nên đã gây hào hứng và đạt kết quả tốt đẹp ngoài sự mong muốn.

Về bóng chuyền, không chỉ có Zone III mà các zone khác cũng hăng hái tham gia phong trào chơi bóng chuyền nhờ sự xuất hiện của một “tuyển thủ” không mấy xa lạ với tôi: cựu Thiếu tá Vũ Ngô Khánh Truật, trước kia cùng phục vụ tại phi trường Biên Hòa với tôi; tới Galang, anh giữ chức chi hội trưởng Chi hội (cựu quân nhân) Không Quân. Trước năm 1975, anh là một cầu thủ trong đội tuyển bóng chuyền của Sư Đoàn 3 Không Quân.

Cứ chiều chiều, anh Truật lại rủ một vài người ra sân bóng chuyền trước khu sinh hoạt đấu với nhau; chẳng bao lâu đã thu hút được đông đảo thanh niên trong trại. Ngoài ra, anh Truật còn kiêm cả vai trọng tài, rất ư là... đúng điệu (professional).

Mấy tháng sau, nhân sắp tới Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6, tôi bàn với anh Truật đề nghị Ban đại diện nhân dịp này tổ chức một giải thể thao toàn trại, vừa tạo không khí sôi nổi hào hứng vừa nêu cao chính nghĩa tỵ nạn.

Anh Truật hưởng ứng ngay và hứa sẽ đứng ra nhận lãnh nếu Ban đại diện Trại đồng ý tổ chức. Dĩ nhiên, Ban đại diện đồng ý.

Đồng ý một phần vì ông Trại trưởng (Trưởng ban đại diện Trại) lúc đó cũng là một cựu quân nhân: Đại úy Thể (xin lỗi, giờ này tôi không còn nhớ họ của anh).

Nguyên sau khi tôi lên làm Zone trưởng Zone III được mấy tháng, bác Trinh, Trại trưởng Galang 1, đi định cư, chúng tôi phải bầu một vị Trại trưởng mới.

“Chúng tôi” ở đây là những người được quyền bỏ phiếu, gồm các Trưởng phòng, Trưởng ban, Trưởng khối thuộc Ban đại diện, các zone trưởng và barrack trưởng, khoảng 150 người.

Theo thông lệ ở Galang, mỗi khi ông Trại trưởng đi định cư, ông Trại phó sẽ lên thay, nhưng lần này ông Trại phó dứt khoát từ chối vì ông đã được Úc nhận theo diện nhân đạo, có thể sẽ rời Galang chỉ trong vòng vài tuần lễ. (Ông Trại phó này không ai khác hơn là nhạc sĩ Văn Giảng, cùng Barrack 73 với tôi).

Vì thế Văn phòng Ban đại diện phải tổ chức một cuộc bầu cử tại Hội trường. Hai người tình nguyện ứng cử đều là cựu quân nhân: một vị Trung tá và Đại úy Thể.

Theo thủ tục, các ứng cử viên sẽ chọn một người (trong số những người được quyền bỏ phiếu) đứng ra giới thiệu, cổ động cho mình. Trong buổi bầu cử, ứng cử viên có 10 phút để nói về bản thân, và người giới thiệu được phát biểu trong vòng 15 phút. Vị Trung tá được ông Trưởng khối Giáo dục phổ thông giới thiệu, còn tôi giới thiệu Đại úy Thể.

Anh Thể là Trưởng đoàn Thanh niên Công giáo Galang nhưng vì không sinh hoạt trong Đoàn cho nên trước đó tôi không hề biết anh là Trưởng đoàn. Tôi tình nguyện lên phát biểu ủng hộ anh chỉ vì trước đây tôi ở cùng trại tù Suối Máu với anh, và tôi được biết anh đã tham gia cuộc nổi loạn đêm Giáng Sinh 1978, nằm trong Ban hành động của K3.

Khi lên giới thiệu, tôi phát biểu ngắn gọn chỉ khoảng 5 phút, đại khái tôi nói khi sống trong cảnh tuyệt vọng, khốn cùng, bị đày đọa về cả tinh thần lẫn thể xác, tương lai mờ mịt, người ta dễ để lộ ra con người thật của mình; trong cương vị một bạn tù cải tạo của anh Thể ở Suối Máu, từng tham dự cuộc nổi loạn đêm Giáng Sinh 1978, tôi có thể khẳng định anh đã giữ được tư cách, thể hiện được sự bất khuất của một sĩ quan QLVNCH.

Kết quả cuộc bỏ phiếu kín, Đại úy Thể đã thắng với khoảng 90% số phiếu!

* * *


Trở lại với giải thể thao kỷ niệm Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6 do anh Vũ Ngô Khánh Truật làm Trưởng ban Tổ chức, bản Thông Báo của Ban Đại diện Trại được đọc đi đọc lại trong mấy ngày liền đã gây tác động mạnh mẽ, zone nào cũng lo tập dợt, hoặc thành lập (nếu chưa có) các đội bóng tròn, bóng chuyền, tuyển người thi bóng bàn, và chạy đua.

Vào thời điểm này, đội bóng tròn Zone IV được xem là mạnh nhất, bóng chuyền thì tôi không rõ, nhưng riêng bóng bàn thì tôi đoán chắc Zone III sẽ đoạt giải, vì không ai có thể thắng nổi một nữ vô địch trẻ từ Việt Nam!

Nguyên sau khi Văn phòng Zone III được Ban đại diện Trại cho sử dụng nốt 2/3 căn nhà để làm phòng may, tôi cho khiêng cái bàn ping-pong lâu nay bị bỏ xó trong kho ra, xuất quỹ mua lưới, một cặp vợt và một lố bóng.

Đa số các tay vợt đầu tiên tới chơi là các em từ Barrack 68 dành cho thiếu niên không có thân nhân (unaccompanied minors), thường gọi là Barrack Nhà Trẻ, bởi vì bàn ping-pong ở dưới đó lúc nào cũng có người chơi.

Bỗng mấy ngày sau, nghe tiếng reo hò, vỗ tay hoan hô, tôi rời văn phòng tới xem thì thấy một cô gái đang thi thố tài nghệ. Mặc dù về bóng bàn tôi chỉ là một tay mơ, cầm vợt đưa qua đưa lại cho vui, nhưng cũng có thể nhận xét tài nghệ của cô gái không thua gì các tay vô địch trước năm 1975 mà tôi đã từng xem thi đấu.

Sau này mới biết T.H. (tên cô) là một trong những tay vợt nữ hàng đầu ở thành Hồ, từng đi thi đấu nhiều lần.

Nhưng dù sao, bóng bàn cũng chỉ là bộ môn ít được chú ý tới so với bóng tròn và bóng chuyền.

Thật tình mà nói, khi cùng anh Truật đứng ra vận động tổ chức giải thể thao kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 6, tôi chỉ có mục đích cổ vũ phong trào thể thao trong trại và nhắc nhớ một ngày lễ quan trọng của VNCH trước năm 1975 chứ không hề có tham vọng Zone III của mình sẽ nổi đình đám.

Chẳng hạn bóng tròn. Từ lâu, đội của Zone IV đã được xem là mạnh nhất, đội của Zone III mới được thành lập không thể so sánh. Nhưng chàng huấn luyện viên trẻ tuổi Đặng Văn Toán vẫn nuôi tham vọng.

Sau khi việc tổ chức giải thể thao kỷ niệm Ngày Quân Lực được Ban đại diện Trại loan báo, Toán cho tôi biết các cầu thủ của Zone III rất háo hức, tới mức hễ thấy sân trống là đòi ra tập dợt. Rồi Toán đề nghị văn phòng zone thỉnh thoảng xuất quỹ cho các em giải khát để khích lệ tinh thần.

Quỹ của zone – tức đóng góp 250 rupiahs mỗi tuần của các barrack trưởng – đâu có bao nhiêu, cho nên tôi hỏi ý kiến các barrack trưởng về việc kêu gọi đồng bào trong zone tự nguyện đóng góp, và được mọi người đồng tình ủng hộ.

Kết quả, chỉ trong mấy ngày đầu, “Quỹ ủng hộ giải thể thao Ngày Quân Lực” của Zone III đã thu được hàng chục ngàn rupiahs; tôi lại sử dụng “chiến tranh tâm lý”, nhờ Phòng Thông tin đọc danh sách và số tiền đóng góp của mỗi barrack trên loa phóng thanh mỗi ngày hai lần, đưa tới một sự cạnh tranh đầy “chính nghĩa” giữa các barrack!

* * *


Không hiểu vì sự khích lệ tinh thần ấy hay chỉ vì... hên, trong trận chung kết, đội bóng tròn Zone III đã hạ đội Zone IV để đoạt giải vô địch Ngày Quân Lực 1982.

Zone III còn đoạt cả giải bóng bàn (đương nhiên) và giải nhất + giải ba trong cuộc chạy đua 1500 mét, chỉ thiếu giải bóng chuyền mà thôi!


Đội bóng tròn Zone III. Tôi đứng mép trái, kế bên là Zone phó Hành chánh Sơn “lồ”, ngồi phía trước tôi là Hiền,
Zone phó Trật tự. Thủ quân Đặng Văn Toán đứng thứ tư từ bên mặt.
 Tấm hình này ngày ấy tôi tặng cho Toán,
hơn 30 năm sau đã được anh phổ biến trên 
fb Trại Tỵ Nạn Galang, kèm theo mặt sau có chữ ký của tôi




Cuộc chạy đua kết thúc giải thể thao Ngày Quân Lực 1982. Hai áo vàng (Zone III) đoạt giải nhất và ba;
đứng sau các em, từ trái: tôi, ông trại phó, ông trại trưởng (anh Thể), đại diện Phòng Xã Hội Nam Dương,
và trưởng ban tổ chức Vũ Ngô Khánh Truật


Sau giải thể thao Ngày Quân Lực 19/6/1982, Zone III nổi như cồn, tôi cũng được nổi tiếng theo. Bên cạnh sự hãnh diện, niềm vui mang tính cách cá nhân, cục bộ ấy không thể không nói tới ảnh hưởng tích cực của giải này đối với phong trào thể dục thể thao ở trại tỵ nạn Galang, mà trong số những người có công đầu không thể không nhắc tới anh Vũ Ngô Khánh Truật – người sẽ giữ chức Trại trưởng Galang 1 ít lâu sau khi tôi rời đảo.

Sau này, qua thư từ của các em trong đội bóng tròn Galang gửi sang Úc, tôi được biết tới cuối năm 1982, hai trại Galang 1 và Galang 2 đã thành lập đội bóng tròn toàn trại để thi đấu với nhau.


Hai đội bóng tròn Galang 1 + 2



(Còn tiếp)


CHÚ THÍCH

Đảng Cộng Sản Nam Dương

Nguyên nhân chính khiến hai chính phủ Nam Dương và Singapore lúc đầu (trước năm 1979) không nhận thuyền nhân Việt Nam là vì họ lo sợ cộng sản quốc tế, thông qua cộng sản Việt Nam, cho cán bộ đội lốt thuyền nhân sang Nam Dương và Singapore để móc nối với "tàn quân" của Đảng Cộng Sản Nam Dương và Đảng Cộng Sản Mã-lai & Singapore.

* * *


Nguyên vào thời gian cao điểm của cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản, cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, Đảng Cộng Sản Nam Dương được ghi nhận là đảng cộng sản lớn nhất tại một quốc gia không theo chế độ cộng sản. Vào năm 1955, theo Cơ quan tình báo Trung ương (CIA) của Hoa Kỳ, Đảng Cộng Sản Nam Dương có tới 2 triệu đảng viên.

Tuy nhiên trong mưu đồ nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á, trong khi Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Mã-lai tiến hành chiến tranh du kích chống chính quyền thì Cộng sản Nam Dương chủ trương lũng đoạn chính trường để tiến tới việc thành lập một chế độ cộng sản, hoặc thân cộng.

Ở đây, chúng tôi xin miễn bàn tới cuộc chiến tranh du kích tại miền Nam VN vì trên thực tế chỉ vài năm sau ngày phát động, nó đã biến thành cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản Bắc Việt.

Cuộc chiến tranh du kích tại Mã-lai, thường được tây phương gọi là The Malayan Emergency, do Chin Peng (Trần Bình) - lãnh tụ Đảng Cộng sản Mã-lai và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Mã-lai - lãnh đạo, bắt đầu vào năm 1948 đã kết thúc năm 1960 với sự thất bại thê thảm của phe cộng sản. Chin Peng phải sống lưu vong và chết tại Thái Lan năm 2013.

[Độc giả có thể vào trang Google để tìm hiểu thêm về nhân vật Chin Peng và người tiền nhiệm của ông ta là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mã-lai Lai Teck (tên Việt: Phạm Văn Đắc, Trương Phước Đạt), một nhân vật Việt gốc Hoa đầy huyền thoại, về sau phản đảng và bị thanh toán tại Bangkok năm 1947]

Còn Đảng Cộng Sản Nam Dương (ĐCSND), được thành lập vào năm 1914. Sau cuộc nổi loạn năm 1926 bị thất bại, ĐCSND bị chính quyền thuộc địa đặt ra ngoài vòng pháp luật, đa số các lãnh tụ chạy sang Liên Xô, lực lượng còn lại trong nước lui vào bóng tối; một số sau đó thâm nhập vào Đảng Quốc Gia Nam Dương (Indonesian National Party) do lãnh tụ kháng chiến Sukarno thành lập năm 1927.

Trong thời gian quần đảo Nam Dương và bán đảo Mã-lai bị quân Nhật chiếm đóng trong Đệ nhị Thế chiến (1942-1945), Sukarno hợp tác với quân Nhật. Sau khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh, trong lúc chờ quân Anh tới giải giới quân Nhật, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập, tự xưng tổng thống, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại chế độ thuộc địa của Hòa Lan vừa được tái lập với sự hỗ trợ của quân Anh.

Nắm được thời cơ, ĐCSND bắt đầu hoạt động trở lại, nhiều đơn vị kháng chiến nằm dưới quyền kiểm soát hoặc chịu sự chi phối của cộng sản.

Năm 1949, Hòa Lan trao trả độc lập cho Nam Dương, Sukarno chính thức trở thành Tổng thống Cộng Hòa Nam Dương.

Bước sang thập niên 1950, trước tình hình chính trị bất ổn của Nam Dương sau khi được Hòa Lan trao trả độc lập, TT Sukarno dành mọi sự dễ dàng cho ĐCSND phát triển để tạo thế kiềng ba chân cho chế độ của ông, gồm quân đội, Hồi giáo, và cộng sản.

Năm 1955 Nam Dương đăng cai tổ chức Hội nghị Á-Phi (Asian–African Conference) đầu tiên tại thành phố Bandung trên đảo Java, thường được gọi là Hội Nghị Bandung, với sự tham dự của 29 quốc gia mới giành được độc lập (trong đó cả CSBV lẫn VNCH), đưa tới sự ra đời của Phong Trào Không Liên Kết (Non-Aligned Movement).


Quang cảnh Hội Nghị Bandung năm 1955. Cờ Cộng sản Bắc Việt và cờ VNCH là hai lá cờ áp chót
Kỷ niệm 60 năm Hội Nghị Bandung (2015), vẫn có cờ vàng ba sọc đỏ cho dù chính thể VNCH không còn tồn tại


Thế nhưng qua năm 1956, chính TT Sukarno lại bắt đầu ngả về phía các nước theo chế độ cộng sản với chuyến công du Trung Cộng của ông.

Để rồi từ một quốc gia không liên kết, Nam Dương đã liên kết với các ba quốc gia cộng sản là Trung Cộng, Bắc Hàn, CSBV, và một quốc gia trung lập thân cộng là Căm-bốt, mà Sukarno gọi là “Trục Bắc Kinh - Bình Nhưỡng - Hà Nội - Nam Vang”.

TT Sukarno và Hồ Chí Minh (1957)


Tới năm 1964, sau khi ông Lyndon Johnson lên làm Tổng thống Hoa Kỳ, TT Sukarno chấm dứt nhận viện trợ của USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ) và bắt đầu một chiến dịch chống Mỹ, Anh kịch liệt. Các cơ sở kinh doanh của người Mỹ ở Nam Dương bị đám đông (do ĐCSND khích động) cướp phá trước sự làm lơ của các cơ quan công lực, sách vở, phim ảnh Mỹ bị cấm, đĩa nhạc của ban Beatles bị đốt...

Cũng từ đó, Trung Cộng trở thành nguồn viện trợ lớn nhất cho Nam Dương (trước kia là Liên Xô).

TT Sukarno và Mao Trạch Đông (1956)


Thời gian này (đầu năm 1965), ĐCSND đã có trên 3 triệu đảng viên, được xem là lớn nhất thế giới sau hai đảng cộng sản Trung Hoa và Liên Xô.


Các đảng viên ĐCSND trong một cuộc biểu tình tại Jakarta


Với sự hỗ trợ của TT Sukarno, ĐCSND đã cho người thâm nhập vào mọi cấp chính quyền và quân đội. Tới giữa năm 1965, quân đội Nam Dương đã chia ra hai phe khuynh hữu và khuynh tả một cách rõ rệt; đáng nói là trong phe khuynh tả có cả Tư lệnh Không Quân.

Trong khi phe khuynh hữu được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và Anh quốc, phe tả được sự hỗ trợ của Trung Cộng trong đó có việc thành lập các lực lượng nông dân và tổ chức quần chúng.

“Tắm máu cộng sản”!

Khi lực lượng và thanh thế lên tới đỉnh cao, cuối tháng 9/1965, phe cộng sản đã nổi loạn. Về sau, cuộc nổi loạn này được gọi là “Phong trào 30 tháng 9” (Thirtieth of September Movement) vì khởi sự tiến hành vào đêm 30/9/1965, do ĐCSND phối hợp với các tướng tá là đảng viên cộng sản, hoặc cảm tình viên của cộng sản trong quân đội Nam Dương.

Mục tiêu đầu tiên của phe nổi loạn là bắt giữ Đại tướng Nasution, Bộ trưởng Quốc phòng, các tướng lãnh thuộc Bộ Tổng tham mưu và tư lệnh các đại đơn vị (không theo phe cộng sản).

Tới khoảng 3 giờ sáng 1/10/1965, phe nổi loạn đã bắt giữ (và sau đó sát hại) sáu tướng lãnh cao cấp trong quân đội Nam Dương trong đó có Tư lệnh Lục Quân. Riêng Đại tướng Nasution, Bộ trưởng Quốc phòng, khi quân nổi loạn tràn vào tư dinh, ông đã kịp thời nhảy qua tường rào thoát thân, trong khi viên thiếu úy tùy viên của ông bị bắn chết vì trong bóng tối quân nổi loạn đã lầm tưởng viên thiếu úy này là vị Bộ trưởng Quốc phòng.

Cùng với các tướng lãnh nói trên, quân nổi loạn còn hạ sát một số thân nhân, tùy tùng của họ, trong đó có cô con gái năm tuổi của Đại tướng Nasution. Ngoài ra còn hai vị đại tá cũng bị giết.

Rạng sáng, phe nổi loạn chiếm đài phát thanh, Bộ Thông tin, quảng trường trung ương Merdeka Square, dinh tổng thống, và tuyên bố họ hành động để phá vỡ một cuộc đảo chánh của phe quân đội do CIA giật dây để lật đổ Tổng thống Sukarno, dự trù sẽ diễn ra vào Ngày Quân Lực Nam Dương, 5 tháng 10.

Cùng khoảng thời gian, phe nổi loạn đưa Tổng thống Sukarno tới căn cứ không quân Halim ở phía đông thủ đô, nơi họ đặt bộ chỉ huy, nói là để bảo vệ ông. Tổng Bí thư ĐCSND Aidit và Phó Thống chế Omar Dani, Tư lệnh Không Quân Nam Dương, cùng có mặt tại CCKQ này.

Tuy nhiên, vì thiếu sự hiểu biết về lãnh thổ thủ đô, thiếu sự điều nghiên, tiên liệu của những người cầm đầu, cuộc nổi loạn đã gặp khó khăn ngay trong ngày đầu tiên, tạo cơ hội cho “người hùng” Suharto ra tay.


Tướng Suharto trên bìa tạp chí TIME


Thiếu tướng Suharto là một sĩ quan có nhiều công trạng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Hòa-lan, và sau này đã dẹp tan các cuộc nổi loạn của phe Hồi giáo cực đoan. Tuy nhiên, ông không được Tổng thống Sukarno trọng dụng vì lập trường thân Mỹ.

Vào thời gian diễn ra cuộc nổi loạn của phe cộng sản, tướng Suharto đang giữ chức Tư lệnh Lực lượng Trừ bị Chiến lược (Army's Strategic Reserve).

Lúc 5 rưỡi sáng 1/10/1965, ông đang ngủ tại tư gia thì được thuộc cấp tới đánh thức và báo hung tin. Ông lập tức tới Bộ Tư lệnh của mình để tìm cách đối phó.

Bộ Tư lệnh Lực lượng Trừ bị Chiến lược của tướng Suharto nằm về hướng tây quảng trường trung ương (Merdeka Square), nơi dàn quân của phe nổi loạn, nhưng vì được ngăn cách bởi một nhà ga xe lửa, đã không bị họ chiếm đóng.

Sau khi liên lạc và được sự hậu thuẫn của vị Tư lệnh Hải Quân và vị Tư lệnh Cảnh sát (ngày ấy còn trực thuộc quân đội), tướng Suharto tự nhận lãnh trách nhiệm Tổng tư lệnh quân đội (vốn là của Tổng thống). Ông ra lệnh cho tất cả mọi đơn vị án binh bất động, mục đích để quân nhân của các đơn vị theo phe nổi loạn hoang mang, không chịu tuân lệnh các cấp chỉ huy.

Tới quá trưa 1/10/1965, tướng Suharto đã thuyết phục được lực lượng tham gia cuộc nổi loạn rời Merdeka Square, phân nửa tới Bộ tư lệnh Lực lượng Trừ bị Chiến lược đầu hàng, phân nửa rút về căn cứ không quân Halim, nơi phe nổi loạn đặt bản doanh.

Tới 7 giờ tối, quân của tướng Suharto đã tái chiếm dinh tổng thống và tất cả mọi cơ quan bị phe nổi loạn chiếm từ sáng sớm.

Đêm hôm đó, sau khi tướng Suharto ra tối hậu thư cho phe nổi loạn đang chiếm đóng căn cứ không quân Halim, Tổng thống Sukarno đã rời nơi này bay về thành phố Bogor ở phía nam thủ đô Jakarta, nơi có biệt điện của tổng thống; còn Phó Thống chế Omar Dani, Tư lệnh Không Quân, và Tổng Bí thư ĐCSND Aidit thì bỏ chạy - Dani về miền đông, Aidit về miền trung đảo Java, nơi có nhiều đơn vị quân đội và dân chúng theo cộng sản.

Khi lực lượng của tướng Suharto tới CCKQ Halim, hầu hết binh sĩ tham gia cuộc nổi loạn đã đào tẩu, và tới sáng ngày 2/10/1965, phe quân đội hoàn toàn làm chủ thủ đô Jakarta.

Ngày 4/10/1965, người ta tìm được thi hài sáu vị tướng và viên thiếu úy bị phe nổi loạn sát hại, quăng xác xuống một cái giếng ở gần CCKQ Halim. Ngày hôm sau, 5/10, Ngày Quân Lực Nam Dương, tang lễ bảy sĩ quan được cử hành trọng thể dưới sự chủ tọa của Đại tướng Nasution, Bộ trưởng Quốc phòng.

* * *


Cuộc phản công chớp nhoáng của Thiếu tướng Suharto tại thủ đô Jakarta và vùng phụ cận đã đưa tới sự tan rã mau chóng của lực lượng nổi loạn ở Trung Java, vốn được xem là “thành trì” của ĐCSND.

Trước đó, vào sáng 1/10/1965, khi phe nổi loạn ra tuyên cáo trên đài phát thanh quốc gia, Utomo Ramelan, một đảng viên cộng sản kiêm Thị trưởng Solo, thành phố lớn nhất Trung Java, ra tuyên ngôn ủng hộ “Phong trào 30 tháng 9”.

Cùng lúc, lực lượng nổi loạn đã hạ sát Đại tá Katamso, Tư lệnh một đại đơn vị ở Trung Java, cùng với vị Trung tá Tham mưu trưởng của ông.

Tuy nhiên, tới buổi tối cùng ngày, khi tin tức về cuộc phản công của tướng Suharto ở thủ đô Jakarta bay về, hầu hết lực lượng theo phe nổi loạn ở Trung Java đã quy thuận quân chính phủ, hoặc tự động tan hàng.

* * *


Sau khi quân đội làm chủ tình hình và quy trách ĐCSND tội chủ mưu cuộc nổi loạn, cùng với những chi tiết ghệ rợn về việc phe nổi loạn “tra tấn, hành quyết, bằm xác các tướng lãnh” trước khi quăng xuống giếng được loan truyền, các tổ chức thanh niên quốc gia (nationalist), Hồi giáo và quần chúng Nam Dương vốn sẵn có ác cảm với ĐCSND đã bắt đầu những cuộc “tắm máu” (mass killings) ở thủ đô Jakarta và những nơi được xem là “thành trì” của cộng sản, bắt đầu tại tỉnh Aceh - cái nôi của Hồi giáo ở đông phương - trên đảo Sumatra rồi lan sang Trung Java, và Đông Java.

Khi lực lượng nhảy dù thuộc Bộ tư lệnh lực lượng hành động khẩn cấp (Quick Reaction Forces Command) được đưa tới Semarang, thủ phủ của Trung Java, thì trụ sở của ĐCSND đã bị dân chúng đốt phá bình địa. Với sự hướng dẫn của dân chúng, các đơn vị nhảy dù săn lùng khắp các vùng quê để bắt giữ đảng viên cộng sản hoặc cảm tình viên, tiêu diệt các lực lượng võ trang gồm quân đội ly khai và đảng viên cộng sản.

Trong khi đó tại Đông Java, thành viên của Phong trào Thanh niên Ansor của Hồi giáo bắt đầu một cuộc tàn sát ghê rợn (thường là chặt dầu) nhắm vào các đảng viên cộng sản; cuộc tàn sát này sau đó đã lan sang đảo Bali (nằm cạnh đảo Java về hướng đông).

Trong số đảng viên cộng sản hoặc cảm tình viên bị săn lùng, bị giết có rất nhiều người gốc Hoa. Nguyên nhân: từ lâu, Trung Cộng đã là đồng minh thân thiết nhất của Nam Dương, có ảnh hưởng rất mạnh về chính trị, và hầu hết người Nam Dương gốc Hoa đều là đảng viên hoặc cảm tình viên của ĐCSND.

Năm 1960, người Nam Dương gốc Hoa còn thiết lập viện đại học Res Publica University, chủ yếu dành cho sinh viên gốc Hoa và con cháu đảng viên ĐCSND. Trong biến cố 30 tháng 9, 1965, đại học này đã bị đám đông chống Trung Cộng thiêu rụi.

Sau cùng cũng phải nhắc tới những Hoa kiều hoặc công dân Nam Dương gốc Hoa không phải đảng viên hoặc cảm tình viên của ĐCSND nhưng vẫn trở thành những nạn nhân oan uổng của đám đông thù ghét người Hoa; hàng quán, cơ sở thương mại, nhà cửa của họ bị cướp phá, bản thân bị hành hung, giết hại, đa số phải bỏ của chạy lấy người...

* * *


Các cuộc tấn công, truy lùng, xử tử phe cộng sản kéo dài nửa năm, tới tháng 3 năm 1966 mới hạ màn. Trong số những người bị giết có Tổng bí thư ĐCSND Aidit, bị quân đội bắt sống ngày 25/11/1965 và sau đó bị hành hình.

Theo các tài liệu đáng tin nhất, tổng số người bị giết là vào khoảng từ 500,000 tới 1.2 triệu, trong khi có những nguồn tin nói rằng từ 2 tới 3 triệu!

Bỏ qua những lời bình luận khen chê, bênh vực, lên án để chỉ xét tới hậu quả của cuộc “tắm máu” cộng sản tại Nam Dương năm 1965/66, các quan sát viên thời cuộc quốc tế tin rằng nó đã khiến cán cân nghiêng hẳn về phía Hoa Kỳ và đồng minh trong cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và xã hội chủ nghĩa, vì ĐCSND với 3 triệu đảng viên (được xem là lớn nhất thế giới sau hai đảng cộng sản Trung Hoa và Liên Xô) đã bị chính thức đặt ra ngoài vòng pháp luật!

Đồng thời quyền lực của Tổng thống Sukarno bị giảm bớt để chuyển dần sang phe quân đội và Hồi giáo.

Cuối cùng, vào ngày 12/3/1967, Quốc hội lâm thời đã truất phế “tổng thống trọn đời” Sukarno và đề cử Suharto, lúc này đã mang cấp bậc Trung tướng, làm Tổng thống. Sukarno bị quản thúc tại gia cho tới cuối đời (1970).

* * *


Nhưng dù bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, ĐCSND vẫn tìm cách hoạt động trong bóng tối.

Trước hết, Sudisman, nhân vật đứng hàng thứ tư trong Bộ Chính trị, sau khi Tổng Bí thư đảng Aidit bị bắt đã lên thay thế và cố gắng duy trì tổ chức bí mật của đảng dưới hình thức các tổ tam-tam, nhưng không mấy hiệu quả.

Tháng 12/1966, Sudisman bị bắt, bị tòa án kết án tử hình và bị hành quyết vào tháng 10/1968.

Còn tại các địa phương, hoạt động đáng kể nhất là ở Blitar, miền đông Java, nơi đa số nông dân theo cộng sản. Rewang, một ủy viên Bộ Chính trị cùng với viên Đảng ủy Đông Java tới vùng nông thôn nghèo khổ này bí mật lập căn cứ địa.

Được một viên cựu Trung tá trong quân đội Nam Dương đảm trách huấn luyện, tháng 3/1968 lực lượng du kích ở Blitar đã nổi loạn, tấn công trụ sở của Đảng Hồi Giáo Nam Dương ở Đông Java, sát hại khoảng 60 người gồm các lãnh tụ Hồi giáo và thường dân.

Ba tháng sau, lực lượng quân đội được đưa tới bao vây và nghiền nát căn cứ địa Blitar. Rewang thoát thân, trở thành người duy nhất trong Bộ Chính trị 10 người của ĐCSND sống sót.

Từ đó, ĐCSND xem như đã bị tận diệt, một số làng mạc ở Đông Java từng chứa chấp đảng viên, cảm tình viên của cộng sản bị đưa vào sổ bìa đen, đặt dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của quân đội cho tới những năm đầu thế kỷ 21.

Reader Response: (CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ - kỳ 24)

CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ (kỳ 23)




Hồi ký

NGUYỄN HỮU THIỆN

PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA



(tiếp theo kỳ 22)

CHƯƠNG 3 – Cửa ngõ Tự Do và Tình Người

Sau khi tả nơi chốn, xin viết về cuộc sống của người tỵ nạn ở trại Galang – cuộc sống mà với riêng tôi, rất đáng nhớ; thời gian tuy quá ngắn so với một đời người nhưng là những tháng ngày đầy kỷ niệm.

Từ bến tàu Galang, trước khi vào trại có cái cổng gỗ với hàng chữ:

Welcome Vietnamese Refugee To Galang Island
THE GATE OF FREEDOOM AND HUMANITY


Với một cựu sĩ quan bị đi học tập cải tạo gần 6 năm, được thả về sống dưới sự kiểm soát, kìm kẹp của chế độ cộng sản, chữ Tự Do (Freedom) trên cổng mang một ý nghĩa trọn vẹn và cao quý.

Cũng thế, phải là người bị chế độ mới gạt sang bên lề, phải liều chết rời bỏ quê hương với hai bàn tay trắng thì mới thấy được, mới cảm kích trước Tình Người (Humanity) mà thế giới nói chung dành cho những con người khốn khổ.

Thành thử trong khi không ít người – những người mà tôi cho là thành phần “tỵ nạn kinh tế” – cảm thấy tù túng, bực bội khi phải sống trong trại tỵ nạn, không hài lòng trước tiện nghi thiếu thốn, lương thực cấp phát không hạp khẩu vị, thì tôi lại cảm thấy thoải mái, yêu đời, vui vẻ chấp nhận chờ đợi ngày được đi định cư ở một đệ tam quốc gia.

Ngay từ khi mới tới Galang, nếu quên đi hình ảnh mấy anh cảnh sát Nam Dương lâu lâu phóng xe gắn máy phân khối lớn điếc tai trên con đường chính của trại, tôi có cảm tưởng mình đang sống ở một thị trấn nho nhỏ trên vùng cao nguyên đất đỏ của Việt Nam trước kia.

Bởi vì nhìn quanh chỉ thấy người Việt, đi đâu cũng nghe toàn tiếng Việt, cũng có chợ búa, nhà thờ (Công giáo và Tin lành), chùa chiền, các quán giải khát, quán bán thức ăn, sạp bán thuốc lá, bánh trái, quà vặt, tiệm hớt tóc..., không thiếu một thứ gì!



Quán Thiên Hương, rất đông khách vì nằm ở “ngã ba quốc tế”: trước mặt là con đường chính của Galang, đi lên bệnh viện, chợ, các cơ quan thiện nguyện quốc tế. Quẹo mặt là đường vào đồn cảnh sát Nam Dương và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại. Đối diện quán Thiên Hương (tức vị trí người chụp hình) là trung tâm sinh hoạt của trại (ảnh Gaylord Barr)


Trừ những buổi phải lên văn phòng Cao ủy để được phỏng vấn, chụp hình làm thẻ căn cước tỵ nạn (ID), nộp đơn xin đi định cư..., người tỵ nạn chỉ biết ăn rồi chơi; trẻ em muốn học chữ, người lớn muốn học nghề hay Anh văn, đều có sẵn các lớp học.


Zone II với dãy sạp bán thuốc lá, bánh trái, các loại quà vặt, thức ăn vặt. Hậu cảnh là Zone III
với trung tâm sinh hoạt. Cận ảnh, hai em nhỏ đi học về (ảnh Gaylord Barr)


Thể thao thì có đá banh, bóng chuyền, bóng bàn; giải trí thì tối tối có tivi mầu mở xem đài Singapore, lâu lâu lại có văn nghệ trong hội trường hoặc ngoài trời; muốn tắm biển thì đợi tới Chủ Nhật ra bãi biển dành riêng cho dân tỵ nạn, ở phía sau Zone IV, cách trại chưa đầy 1 km.

Bãi biển Galang (ảnh Gaylord Barr)


Lương thực do Cao ủy Tỵ nạn cung cấp (vào thời điểm 1980-1982) cũng được xem là chất lượng nhất trong số những trại tỵ nạn ở Đông Nam Á: gạo, thực phẩm đóng hộp (pa-tê, cá, hot dog...), mì gói, đậu xanh, trà khô; chỉ có một món bị nhiều người chê là rong biển đóng hộp của Nam Dương (rất có thể vì ngày ấy chưa có mấy người Việt biết thưởng thức món sushi của Nhật).

Ngoài ra, những ai có tiền có thể ra chợ Galang mua thịt thà tôm cá, rau trái tươi.

Có thể xem “chợ Galang” như một shopping center nho nhỏ không thiếu một thứ gì. Ngoài thịt cá, rau cỏ, bánh trái, tạp hóa, còn có sạp bán quần áo, giày dép, vải vóc, vàng bạc trang sức, bia rượu (bán lén, dĩ nhiên).


Một phía của chợ Galang (ảnh Gaylord Barr)
Một sạp bách hóa ở chợ; có cả bộ English 900 (ảnh Gaylord Barr)


Đa số người buôn bán ở chợ Galang là dân tỵ nạn Việt Nam, chỉ trừ một, hai tiệm quần áo giày dép là dân Nam Dương. Người Nam Dương đa số theo Hồi giáo (Nam Dương là quốc gia có tín đồ Hồi giáo đông nhất thế giới), không ăn thịt heo, cấm uống rượu nhưng, ít nhất cũng là ở Galang, họ không chỉ cho bán thịt heo tự do mà còn bỏ mối cho người bán, còn rượu thì cho bán lén (với sự đỡ đầu của cảnh sát Nam Dương).

Về nguồn nước thì mỗi zone có các giếng nước để tắm giặt, còn nước để uống và sử dụng trong việc nấu nướng thì do nhà thầu Nam Dương cung cấp (và nước mưa).

Một trong những điều khoản ký kết giữa Cao ủy Tỵ nạn và phía Nam Dương là nguồn nước uống phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh... tây phương, nghĩa là không cần phải nấu sôi uống vẫn an toàn. Sở dĩ Cao ủy Tỵ nạn đòi hỏi điều kiện khắt khe này là vì trong một tập thể cả chục ngàn người, cơ sở y tế và thuốc men giới hạn, nếu để xảy ra dịch tả (cholera) thì hậu quả không biết đâu mà lường!

Nước sạch đựng trong các bồn (xi-tẹc) được nhà thầu Nam Dương kéo tới từng khu, được các barrack trưởng phân phối theo đầu người, vì thế gia đình nào đông con có thể tiết kiệm, dành dụm cho các bà các cô tắm ở barrack, khỏi phải ra giếng.

Bên cạnh đó, vì nước do nhà thầu cung cấp bao giờ cũng dư cho nên các barrack trưởng có quyền du di, cấp thêm cho những người già yếu, những nhân viên thiện nguyện, hoặc một cô gái nào đó trong barrack mà anh chàng có ý định “ghép form” (kết duyên để cùng đi định cư)... Có thể nói đây là “đặc quyền đặc lợi” duy nhất của một vị barrack trưởng...

Tóm lại, so với những gì được cấp phát và tiện nghi sinh hoạt ở “hoang đảo” Kuku, Galang phải được xem là một... khu nghỉ mát 5 sao!

* * *


Tới đây viết về việc xin định cư ở đệ tam quốc gia của gia đình tôi.

Ngay sau khi được Phòng Định cư của Cao ủy Tỵ nạn LHQ phỏng vấn và cấp số hồ sơ (căn cước tỵ nạn), tôi làm đơn xin đi định cư tại Mỹ, nơi tôi có một người cậu ruột, một người dì ruột, và trên một chục anh chị em họ (first cousins) sống từ năm 1975.

Cậu ruột của tôi nguyên là một Trung tá ngành Chiến Tranh Chính Trị, còn người dượng cũng là một Trung tá phục vụ tại Nha Tổng Thanh Tra QLVNCH, chủ nhân “khu ao cá” ở Ấp Tây III, Phú Nhuận, mà tôi đã nhắc tới trước đây.

Nhưng cho dù không có cậu ruột, dì ruột ở Mỹ, tôi cũng thuộc thành phần được ưu tiên đi Mỹ: cựu sĩ quan QLVNCH sau năm 1975 từng bị bắt đi học tập cải tạo.

Vào thời điểm tôi ở Galang (1981, 1982) vì số người nộp đơn xin đi định cư tại Mỹ quá đông, phái đoàn Mỹ luôn luôn có một số nhân viên thường trực tại đây để phỏng vấn nhận người, trong khi hai phái đoàn Úc và Canada mỗi năm chỉ đến Galang một, hai lần, mỗi lần ở lại dăm ba ngày.

Vì phần lớn đồng bào trong trại không biết tiếng Anh nên việc điền đơn xin đi Mỹ, Úc, Canada thường do những người có khả năng Anh ngữ tình nguyện điền giúp, trong số đó có tôi.

Trong thời gian làm công việc này, tôi quen biết anh Q, thông dịch viên chính của phái đoàn Mỹ, và được anh cho biết chưa bao giờ người Mỹ họ khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên, tôi vẫn tin sớm muộn mình cũng sẽ được phái đoàn Mỹ nhận vì dư điều kiện!

Nhưng những gì xảy ra sau đó đã khiến tôi thất vọng!

Khoảng ba, bốn tuần lễ sau khi nộp đơn tại Phòng Định cư Cao ủy, gia đình tôi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Tôi không nhớ tên người phỏng vấn nhưng chắc chắn không phải ông Bill, người mà tôi nghe nói có vợ Việt gốc Huế và biết nói tiếng Việt giọng Huế!

Sau một số câu hỏi về thân thế, hoạt động trước và sau 1975, có lẽ để đối chiếu với xấp hồ sơ trước mặt, nhân viên phỏng vấn lịch sự cám ơn chúng tôi đã chọn Mỹ làm miền đất hứa, NHƯNG vì gia đình của chị vợ tôi đã nộp đơn xin định cư tại Úc để đoàn tụ với năm người con, chúng tôi cũng phải nộp xin định cư tại Úc vì vợ tôi và chị vợ tôi là thân nhân trực hệ, trong khi giữa tôi và người cậu người dì ở Mỹ chỉ là họ hàng!

Sợ tôi hiểu lầm phái đoàn Mỹ làm khó dễ chúng tôi, ông ta nhấn mạnh đây là quy định hiện hành của Phòng Định cư Cao ủy Tỵ nạn, áp dụng cho tất cả mọi trường hợp chứ không chỉ với những người xin đi định cư tại Mỹ!

Sau khi nghe tôi trình bày nguyện vọng và nguyên nhân xin định cư tại Mỹ, trong đó có việc tôi đã sống gần dì dượng suốt buổi thiếu thời thì sự gần gũi, thân thiết phải hơn nhiều so với giữa vợ tôi và người chị, cả năm chỉ gặp nhau đôi ba lần, ông nói ông hiểu và cảm thông với những gì tôi trình bày nhưng không thể tạo ra một tiền lệ mà chỉ dành cho tôi một... biệt lệ!

Đó là đơn xin đi Mỹ của tôi không bị từ chối (rejected) mà luôn luôn mở (open) để nếu vì một nguyên nhân nào đó gia đình tôi không được phái đoàn Úc nhận, thì đơn xin đi Mỹ của tôi sẽ được chấp thuận ngay, không phải trải qua giai đoạn “được quan tâm cứu xét” (under consideration).

Vì thế, tôi không còn lựa chọn nào khác hơn là làm đơn xin định cư tại Úc.

* * *


Lúc này là đầu tháng 12/1981, thời gian mà người tây phương chuẩn bị bước vào mùa holiday chính trong năm (lễ Giáng Sinh và tết dương lịch). Như vậy, phải đợi bước sang năm 1982 thì mới hy vọng phái đoàn Úc sang Galang để phỏng vấn những người nộp đơn xin đi Úc.

Nhưng bỗng tới giữa tháng 12, một phái đoàn hùng hậu của Úc tới Galang. Nói là hùng hậu bởi vì, theo những nhân viên thiện nguyện người Việt trên Phòng Định cư Cao ủy, số nhân viên tháp tùng bà trưởng phái đoàn đông gấp hai gấp ba lần mọi khi.

Cũng xin có đôi dòng đan thanh về bà trưởng phái đoàn Úc mà tôi nhớ mang máng tên là Helen. Đó là một phụ nữ da trắng trung niên, nhan sắc dưới trung bình, tóc ngắn uốn quăn tít, nét mặt khó chịu, ăn nói cộc lốc, miệng lúc nào cũng phì phèo điếu thuốc Winfield đỏ.

[Winfield là nhãn hiệu thuốc lá “quốc hồn quốc túy” của Úc, do chi nhánh Australia của hãng British American Tobacco sản xuất từ năm 1972, rất được dân Úc ưa chuộng, và được xuất cảng tới nhiều quốc gia ở Á châu, Âu châu, và cả Canada, Nam Phi.
Đặc điểm của Winfield là có hương vị tương tự Winston, Marlboro của Mỹ nhưng đậm đà hơn, nhưng sau khi hút xong lại để lại “mùi hôi thuốc lá” nồng nặc nơi người hút mà không một nhãn hiệu nào của tây phương có thể sánh bằng. Winfield có ba màu bao: màu đỏ nặng nhất, rồi tới xanh blue và gold]

Nam diễn viên Úc Paul Hogan (loạt phim Crocodile Dundee) quảng cáo thuốc lá Winfield đỏ (ảnh Internet)


Cùng với ngoại hình dưới trung bình và thói quen phì phèo Winfield đỏ, bà Helen còn bị nhiều người làm đơn xin đi định cư ở Úc có ác cảm vì bà nổi tiếng “đá” đẹp! Con trai dưới 18 tuổi không có cha, mẹ đi theo bị đá đã đành mà trường hợp cậu ta đi chung với anh, chị hay một người thân nào đó, người này cũng bị đá luôn, vì bà sợ con trai vị thành niên không có cha mẹ dạy dỗ sẽ trở thành những “trouble maker” trong xã hội Úc!

Nhưng những gì xảy ra vào trung tuần tháng 12/1981 cho thấy bà trưởng phái đoàn Úc đã thay đổi 180 độ. Mặc dù lúc nào cũng vẫn phì phèo điếu thuốc, bà Helen đã trở nên vui vẻ với mọi người, và quan trọng hơn cả là phỏng vấn rất nhanh và hầu như không “đá” một người nào cả!

Với nhịp độ phỏng vấn nhanh chưa từng thấy, gần tới lễ Giáng Sinh, phái đoàn Úc đã giải quyết gần hết các lá đơn xin đi định cư ở Úc. Như vậy, việc phái đoàn Úc kỳ này tới Galang đông gấp mấy lần mọi khi có lẽ là để giải quyết cho xong mọi việc trước khi trở về Úc mừng lễ Giáng Sinh và đón năm mới dương lịch.

Nhưng ngay sau đó, tôi, và không ít người làm việc thiện nguyện trên Phòng Định cư Cao ủy, biết mình đã đoán sai, vì phái đoàn Úc không về nước mà ở lại Galang với mục đích “tranh thủ” thời gian để phỏng vấn nhận thêm càng nhiều người đi định cư tại Úc càng tốt!

Tại sao bỗng dưng chính phủ Úc lại quá tốt với người Việt tỵ nạn cộng sản như thế?

Sau này có dịp tìm hiểu, tôi được biết không phải “bỗng dưng” mà trên thực tế ngay từ năm 1980 chính phủ Úc đã gia tăng tối đa con số tỵ nạn Đông Dương dự trù được nhận định cư tại Úc, nhưng vì “con rùa hành chánh” cũng như tiêu chuẩn nhận người cứng nhắc, cho tới gần cuối năm 1981, phái đoàn Úc mới nhận được hơn phân nửa con số mà chính phủ Malcolm Fraser đã đưa ra cho tài khóa 1980/1981.

Không ít người, Úc cũng như Việt, cho rằng Thủ tướng Malcolm Fraser của đảng Tự Do muốn chuộc lỗi trước việc vào tháng 4/1975, chính phủ Lao Động (thân cộng) của Thủ tướng Gough Whitlam đã tàn nhẫn bỏ rơi các nhân viên người Việt làm việc cho Úc, và sau đó cấm cửa người tỵ nạn Việt Nam. (1)


Thủ tướng Úc Malcolm Fraser (ảnh Internet)


Tôi không biết dư luận trên có đúng hay không, chỉ biết một điều chắc chắn sau hội nghị quốc tế về người tỵ nạn Đông Dương vào tháng 7 năm 1979 tại Geneva, đáp lại lời kêu gọi của Cao ủy Tỵ nạn LHQ, nước Úc đã lập tức gia tăng gấp đôi số người tị nạn được nhận mỗi năm.

Một cách cụ thể, con số ấy trong tài khóa 1980/1981 vào khoảng 24.000 người.

Cũng nên biết, mặc dù trên các văn bản chính thức, “Chính sách nước Úc da trắng” (White Australia Policy) đã bị bãi bỏ vào năm 1973, trên thực tế nó vẫn tiếp tục chi phối chính sách di dân của nước Úc. May mắn cho người tỵ nạn Đông Dương mà đại đa số là người Việt, Thủ tướng Malcolm Fraser của đảng Tự Do, người cầm quyền từ cuối năm 1975 tới đầu năm 1983, là một chính khách có tấm lòng vàng và không có óc kỳ thị.

Kể cả sau khi đã từ giã chính trường, ông vẫn tiếp tục ủng hộ, vận động dân chúng Úc mở rộng vòng tay đón nhận người tỵ nạn Đông Dương.

* * *


Trở lại với việc phái đoàn Úc không về nước nghỉ lễ Giáng Sinh mà ở lại trại tỵ nạn Galang để phỏng vấn người tỵ nạn xin định cư tại Úc.

Vài ngày trước lễ Giáng Sinh, khi giải quyết gần xong các lá đơn được nộp cho Phòng Định cư của Cao ủy trước đây, phái đoàn Úc đã ra một Thông báo được Phòng Thông tin đọc đi đọc lại trên loa phóng thanh, nội dung như sau (có thể tôi không nhớ chính xác từng chữ):

Thông báo của phái đoàn Úc

Phái đoàn Úc xin thông báo tới toàn thể đồng bào trong trại:

- Đồng bào nào đã nộp đơn xin định tại Úc mà chưa được gọi phỏng vấn, xin lên ngay Phòng Định cư để được phỏng vấn.

- Đồng bào nào muốn định tại Úc nhưng chưa kịp nộp đơn, xin lên Phòng Định cư nộp đơn để được phỏng vấn.

- Đồng bào nào đã nộp đơn xin định tại một quốc gia khác nhưng chưa được phỏng vấn, nay nếu muốn định cư tại Úc, xin lên Phòng Định cư nộp đơn để được phỏng vấn.

- Đồng bào nào trước đây đã nộp đơn xin định tại Úc, đã được phỏng vấn và bị từ chối, nay nếu vẫn muốn định cư tại Úc, xin lên Phòng Định cư gặp phái đoàn để được tái phỏng vấn.

Theo các nhân viên nguyện trên Phòng Định cư, xưa nay chưa từng có một thông báo nào có nội dung mời gọi một cách “thiết tha” đến mức ấy.

Kết quả, ngày nào cũng có hàng trăm người muốn đi Úc tụ tập phía trước Phòng Định cư. Trong số đó có không ít người trước đây không hề có ý định đi định cư tại Úc, nay đã đổi ý và nộp đơn.

Thành phần này xin định cư tại Úc chỉ vì mong sớm được rời trại tỵ nạn chứ không mấy người biết trước cuộc sống ở Úc nó như thế nào, tương lai của họ sẽ ra sao?!

Trong số này có một gia đình mà tôi quen biết sau khi tới Galang, gồm ba ông anh trai và hai cô em gái đã trưởng thành thuộc thành phần có học, trong đó có L, một sĩ quan Không Quân cùng trạc tuổi với tôi nhưng còn độc thân mà sau này chúng tôi có dịp gặp lại nhau tại Úc.

Cả năm anh em được phái đoàn Úc nhận ngay và sau đó đã tạo kỷ lục (ít ra cũng là ở Galang) chỉ ở trại tỵ nạn 29 ngày đã được đưa sang Singapore chờ chuyến bay đi Úc!

Không chỉ tạo kỷ lục mà còn phá bỏ nguyên tắc: họ chưa được PMI (Hội Hồng Thập Tự Nam Dương) khám sức khỏe mà đã đi định cư! Sau này, L cho tôi biết trong thời gian chờ chuyến bay ở Singapore, năm anh em cùng một số người khác đã được tòa Đại sứ Úc sắp xếp khám sức khỏe tại đảo quốc này.

Những người còn lại trong số được phái đoàn Úc nhận vào những ngày cuối năm 1981 cũng chỉ phải chờ ở Galang hơn một tháng, tối đa ba tháng, rồi được đưa sang Singapore chờ chuyến bay đi Úc.

* * *


Sau này tôi được biết mặc dù phái đoàn Úc đã ở lại Galang suốt mùa holiday (Giáng Sinh 1981 & tết dương lịch) để phỏng vấn, tổng số người tỵ nạn ở các trại ở Đông Nam Á được nhận định cư tại Úc cũng chỉ lên tới 21.000, chưa đủ 24.000 như đã được chấp thuận cho tài khóa 1980/1981.

Rút kinh nghiệm, bước qua năm 1982, bà Helen và các nhân viên trong phái đoàn Úc sau khi về nước làm việc với Bộ Di Trú và nghỉ xả hơi một tuần lễ, đã vội vã quay trở lại Galang.

Lần này, không cần phải ra một thông báo “mời gọi thiết tha” cũng đã có mấy trăm người nộp đơn sẵn, chờ phái đoàn sang Galang phỏng vấn nhận người.

Đáng nói hơn nữa, trong số người mới nộp đơn, thành phần có trình độ chiếm một tỷ lệ khá cao. Đó là những người có học vị, chuyên gia (bác sĩ, kỹ sư...), sĩ quan quân đội, công chức cao cấp, trung cấp...

Theo sự hiểu biết của tôi, trong những năm trước đó đa số người tỵ nạn xin định cư tại Úc theo diện nhân đạo thường là gia đình đông con, hoặc quê mùa, ít học... chỉ cần đi định cư, quốc gia nào cũng được, còn đại đa số chuyên gia, công chức, sĩ quan... ai cũng muốn đi Mỹ!

Lấy anh em cựu quân nhân Không Quân chúng tôi làm thí dụ điển hình, cho tới lúc tôi tới Galang (tháng 11/1981), số sĩ quan, kể cả một số sinh viên sĩ quan Không Quân ở Galang đã đi định cư tại Úc theo diện nhân đạo chỉ đủ đếm trên 10 đầu ngón tay! Nhưng qua đầu năm 1982, chỉ trong vòng 2, 3 tháng đã có mấy chục người nộp đơn xin đi Úc, trong đó có những vị thiếu tá, trung tá từng du học bên Mỹ.

Còn nếu tính cả các quân binh chủng khác, trong số hàng ngàn người xin định cư tại Úc có cả cấp Đại tá.

Về phía dân sự, có nhiều người là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư...

Dĩ nhiên, tất cả đều được phái đoàn Úc hoan hỉ nhận cho đi định cư
tại “lucky country” - mà cho tới lúc đó chúng tôi cứ đinh ninh là một vùng đất hoang vu bất tận, giang sơn của loài đại thử (kangaroo)!

Từ tháng 3 tới tháng 5/1982, trong số bạn bè, người quen biết của tôi những ai đã nộp đơn xin định cư tại Úc vào đầu năm 1982, đều lần lượt rời Galang sang Singapore đợi chuyến bay đi Úc.

Trong khi đó gia đình tôi và gia đình bà chị vợ vì xin đi Úc theo diện đoàn tụ phải chờ các con của bà ở Úc làm đơn bảo lãnh!

Bình thường, đơn bảo lãnh thân nhân ở Galang đi định cư tại Úc nộp cho Bộ Di Trú chỉ mất vài tuần lễ là hoàn tất, nhưng riêng trường hợp của chúng tôi vì đứa con trai lớn ở Úc bà mẹ ở đảo khai khác nhau một chi tiết nhỏ nên đơn bị bác!

Nguyên khi mới tới Galang khai lý lịch để làm hồ sơ Cao ủy, bà chị vợ khai có một người con gái nuôi (thực ra chỉ là cháu họ) với mục đích sau này có thể bảo lãnh sang Úc, trong khi đứa con trai ở Úc chỉ khai anh chị em ruột!

Những ai từng ở các trại tỵ nạn hẳn phải biết Cao ủy và các phái đoàn nhận người rất ghét việc khai gian dối, tiền hậu bất nhất, vì thế theo lời khuyên của nhân viên người Việt trên Phòng Định cư Cao ủy, bà chị vợ nói con trai ở Úc làm lại đơn bảo lãnh với chi tiết giống những gì bà đã khai ở đảo, để bà khỏi phải điều chỉnh hồ sơ Cao ủy.

Và trong thời gian chờ con trai làm lại đơn bảo lãnh, đơn xin đi Úc của gia đình bà chị vợ tạm thời bị gác sang một bên, tức là “under consideration” (đang được quan tâm). Vợ tôi “ăn theo” bà chị, gia đình tôi cũng bị gác đơn, nằm chờ.

* * *

Chính vì phải nằm chờ, tôi mới nhận lời giữ chức Zone trưởng Zone III, một chức vụ mà lúc đó bị xem là đa đoan, nhức đầu nhất trong số những công việc thiện nguyện ở trại tỵ nạn Galang.

Như một thông lệ, mỗi khi có một đợt tỵ nạn mới tới trại, các barrack trưởng khi thiết lập danh sách để nộp lên văn phòng zone, thường ghi cả cấp bậc của các cựu quân nhân, cảnh sát quốc gia, chức vụ của các công chức thời VNCH để trong tương lai có thể mời ra đảm trách các chức vụ tại văn phòng zone hoặc giới thiệu với Ban đại diện trại.

Khi được biết tôi mang cấp bậc trung úy, Tài, Zone trưởng Zone III, một thiếu úy Địa phương quân trẻ măng, đã xuống tận Barrack 73 mời tôi giữ chức zone phó khi ấy đang bỏ trống.

Trước đó mấy ngày, Thảo, barrack trưởng Barrack 73, đã nói chuyện với tôi về việc này và khuyên tôi nên nhận lời, bởi vì theo lời Thảo, Tài còn quá trẻ, tính ba phải, hay nể nang cho nên không đủ uy tín và khả năng điều hành công việc tại Zone III, vốn được xem là zone quan trọng nhất.

Như tôi đã viết trước đây, Zone III nằm ở vị trí trung tâm, có các barrack ở cả hai bên mặt đường, “lãnh thổ” lại bao gồm cả trung tâm sinh hoạt của trại, gồm Hội trường, Youth Center, thư viện, phòng nghe băng tiếng Anh (Listening Center), các phòng học, tòa soạn bán nguyệt san Tự Do, sân khấu lộ thiên, chỗ đặt TV màu, sân bóng chuyền, sân đá banh..., lại gần Đồn cảnh sát Nam Dương và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại (Camp Commander Office) cho nên dù muốn hay không cũng dễ lọt vào mắt các xếp lớn của cả Cao ủy, Nhà cầm quyền Nam Dương lẫn Ban đại diện trại!

Tôi rất quý mến Thảo vì anh rất đàng hoàng, đạo đức, hăng hái tham gia đoàn Thanh niên Công giáo Galang; thấy anh tuy còn trẻ mà biết nghĩ tới việc chung như thế, tôi thấy mình cũng phải thể hiện chút thiện chí của một cựu sĩ quan QLVNCH, nên nhận lời giữ chức Zone phó Zone III.

Tuy nhiên, tất cả những gì tôi muốn đóng góp cũng chỉ là giúp Tài có thêm chút “uy”, cũng như đóng góp ý kiến xây dựng trong các buổi họp hàng tuần với các barrack trưởng, đa số là thanh niên trai trẻ.

Nhưng tới đầu tháng 2/1982, khi chàng thiếu úy zone trưởng có tên trong sách vào Galang 2, thì cũng là lúc tôi bị phái đoàn Úc gác hồ sơ, chờ cháu vợ bên Úc làm lại đơn bảo lãnh từ đầu.

Vì thế trong buổi họp bầu tân zone trưởng, sau khi được toàn thể barrack trưởng tín nhiệm qua cuộc bỏ phiếu kín, tôi đã nhận lời làm zone trưởng, và quyết định nhập cuộc!

Tôi sử dụng chữ “nhập cuộc” nghe có vẻ đao to búa lớn tuy nhiên trên thực tế khá chính xác. Bởi vì vào thời gian này, Zone III bị xem là zone có nhiều “vấn đề” nhất, chẳng hạn tình trạng “vô chính phủ” và mất vệ sinh ở các barrack, hoặc tệ nạn phá hoại các cơ sở nằm trong trung tâm sinh hoạt của trại mà trên nguyên tắc thuộc lãnh thổ Zone III.

Bản tính tôi vốn ham vui nhưng lười biếng, không thích nhận lãnh trách nhiệm, nhưng sau khi tới Galang, thấy đa số công việc “ăn cơm nhà vác ngà voi” đều do các cựu quân nhân, cựu công chức VNCH tình nguyện đảm trách, nay được (bị) bầu làm zone trưởng, tôi cũng muốn noi gương: trót mang danh một cựu sĩ quan QLVNCH, một khi đã làm thì phải làm tới nơi tới chốn. Đơn giản thế thôi!

* * *


Nói về người vượt biên một cách chung chung, có một thực tế ai cũng phải nhìn nhận nhưng không mấy người dám nói ra, đó là trong số người vượt biên có đủ mọi thành phần, thượng vàng hạ cám. Ở đây tôi không phân biệt giai cấp, trình độ học thức mà chỉ muốn nói tới ý thức của mỗi cá nhân.

Năm, sáu chục người sống chung trong một barrack với hai hàng sạp gỗ chạy dài liên tục, nằm sát nhau, sử dụng chung một khu nấu nướng, ăn uống, nhà cầu..., chỉ cần một vài người thiếu ý thức là có rắc rối, có vấn đề.

Lấy thí dụ (1) việc tuân theo quy định của nhà cầm quyền Nam Dương 11 giờ đêm ai nấy phải trở về barrack của mình, đóng cửa barrack, tắt điện để ngủ, và (2) yêu cầu của Ban đại diện trại mỗi sáng Thứ Bảy mọi người phải quét nhà, dọn dẹp chỗ ăn chỗ ngủ, làm vệ sinh chung quanh barrack của mình.

Nếu sau 11 giờ đêm vẫn còn một số thanh niên tụ tập bên ngoài barrack, cười nói um xùm, hoặc sáng Thứ Bảy bỏ đi chơi trưa, chiều mới về, barrack trưởng cũng chỉ có thể lưu ý, nhắc nhở, và nếu họ bỏ ngoài tai thì coi như... huề tiền, có báo cáo lên văn phòng zone cũng chẳng có biện pháp chế tài nào!

Chưa kể có khi còn gặp những thành phần ngang ngược, ra mặt chống đối, chẳng hạn ở một barrack trong Zone III của tôi có một anh chồng trẻ tên L, ỷ vợ mình quen biết cảnh sát Nam Dương (tôi không muốn đề cập tới sự “quen biết” ấy), chẳng những đã không bao giờ quét dọn chỗ ăn chỗ ngủ, không hề tham gia công tác vệ sinh chung quanh barrack mà mỗi khi bị barrack trưởng nhắc nhở còn nằm trên võng chửi thề, đại khái:

- ĐM, ngày còn ở Việt Nam bị công an ăn hiếp đành phải chịu, chứ tới trại tỵ nạn rồi đ... ngán thằng nào cả!

Hoặc một ông thợ bạc nọ ở cùng barrack với chàng thiếu úy cựu zone trưởng Zone III. Người này có sạp mua bán vàng bạc trang sức ở chợ Galang, khách hàng đa số là cảnh sát Nam Dương nên ông ta chẳng ngán ai cả.

Ông ta quan hệ với một phụ nữ không cùng barrack, ăn ở như vợ chồng. Để vô hiệu hóa lệnh cấm người lạ ở trong barrack sau 11 giờ đêm, ông ta mướn người dựng một cái ca-bin mái tôn vách gỗ ngay bên ngoài cửa sổ barrack để làm tổ ấm, có giường ngủ, bàn ăn, bếp núc, và cả lối ra vào từ phía bên ngoài barrack.

Ông ta lập luận: cái ca-bin này chỉ là phần “nới rộng” chỗ nằm của ông ta, thì ngủ ở đây cũng coi như có mặt tại barrack; còn người phụ nữ kia chỉ tới ngủ với ông ta ở cái ca-bin chứ đâu có vào bên trong barrack, việc cô ta vắng mặt tại barrack là chuyện của cá nhân cô ta!

Cả đến đứa con nít cũng biết ông thợ bạc ngụy biện, nhưng cậu nhỏ barrack trưởng và chàng thiếu úy zone trưởng không ai dám nói gì cả. Tệ hại hơn nữa là ông ta và cô nhân tình, có vẻ là “dân chơi” thứ thiệt, không e dè, kiêng nể một ai, đêm khuya cứ “đóng phim người lớn” - không phải phim câm mà phim âm thanh nổi - khiến những người nằm gần cửa sổ không tài nào ngủ được!

Chưa kể người ngoài nhìn vào ai cũng phải thắc mắc trước cái ca-bin khang trang ấy, tự hỏi không hiểu là “tư dinh” của ông kẹ nào đây?!

Cũng nên biết, các barrack là tài sản của Cao ủy Tỵ nạn, không ai được quyền sửa đổi, thêm bớt kiến trúc đã có sẵn (chỉ có một sự du di là lấy ván hay tấm ny-lông vây thành cái buồng tắm nho nhỏ sát barrack cho các bà các cô). Còn nấu nướng, ăn uống mỗi barrack đã có một dãy nhà mái tôn nho nhỏ nằm song song, sử dụng làm nhà bếp, nhà ăn chung cho mọi người.

* * *


Nếu quy định của nhà cầm quyền Nam Dương 11 giờ đêm ai nấy phải trở về barrack của mình, barrack trưởng đóng cửa, tắt điện... được đa số người tỵ nạn tuân theo thì yêu cầu của Ban đại diện trại mỗi sáng Thứ Bảy mọi người phải quét nhà, dọn dẹp chỗ ăn chỗ ngủ, làm vệ sinh, làm cỏ chung quanh barrack của mình, đã bị không ít người bỏ ngoài tai mà không có biện pháp nào để đối phó.

Qua các buổi họp với Ban đại diện trại, nghe khen chê của mọi người và báo cáo của các Zone trưởng, tôi được biết Zone IV từ lâu đã được ghi nhận là kỷ luật nhất, vệ sinh sạch sẽ nhất, còn Zone III của tôi luôn luôn đội sổ.

Đã vậy Zone III còn nằm ở vị trí trung tâm, cho nên luôn luôn đập vào mắt mọi người, trong đó có cô Amelia Bonifacio, tân Cao ủy trưởng.

[Trên giấy tờ, người đứng đầu Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn tại Galang được gọi Đại diện Cao ủy LHQ (UNHCR Representative), nhưng khi nói chuyện mọi người thường gọi là Cao ủy trưởng]

Trong kỳ trước, khi nhắc tới Amelia Bonifacio, tôi viết cô là nhân vật số 2 tại Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn Galang, vì lúc đó nhân vật số 1 là ông Fabrice, một người Pháp, nhưng tới cuối năm 1981 ông mãn nhiệm và cô Amelia Bonifacio lên thay.

Amelia Bonifacio được mọi người gọi bằng tên thân mật “Mely”, người Việt tỵ nạn thêm chữ “cô” cho lịch sự thành “cô Mê-ly”.


Cô Amelia Bonifacio (ảnh Gaylord Barr)


Xét về ngoại hình, cô Mely không có gì nổi bật. Gốc Phi-luật tân 100%, không lai Tây-ban-nha nên da của cô không được trắng cho lắm, cô có chiều cao hơn người nhưng các vòng đo thì khá khiêm nhượng... Tóm lại, cô Mely không có gì “mê ly” như cái tên đã được Việt hóa!

Nhưng trong công việc, nhất là công việc của một tổ chức thiện nguyện quốc tế như Cao ủy Tỵ nạn, cô Mely là một nhà lãnh đạo lý tưởng: tận tâm nhưng thẳng thắn, hòa đồng nhưng không vị nể một ai.

Vừa lên thay ông Fabrice, cô Mely đã bắt tay ngay vào việc cải tổ, thay đổi lề lối điều hành Văn phòng Cao ủy, đồng thời quan tâm tới mọi lĩnh vực trong cuộc sống của người tỵ nạn.

Thay đổi đầu tiên của cô Mely tôi kể ra đây chỉ là một việc nho nhỏ nhưng cũng đủ cho thấy cô luôn đòi hỏi mọi việc phải minh bạch, mà kết quả là tất cả mọi nhân viên thiện nguyện được cô cho hưởng “trợ cấp” mỗi tuần 1.500 rupiah (tương đương 3 đô-la Mỹ).

Nguyên ở Galang 1 có ba thành phần nhân viên thiện nguyện: nhân viên làm việc cho Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn, nhân viên phục vụ trong Ban đại diện trại, và nhân viên phục vụ trong các tổ chức thiện nguyện độc lập như Save the Children, World Relief...

Vào thời gian tôi mới giữ chức zone phó, khi ông Fabrice còn làm Cao ủy trưởng, trong ba thành phần nói trên chỉ có những người phục vụ trong các tổ chức thiện nguyện độc lập mới có chút thù lao, còn làm việc cho Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn và Ban đại diện trại thì không có gì cả. Cao ủy chỉ có quỹ “tiếp tân” để mua cà-phê, trà, bánh ngọt... cho Phòng Định cư, gồm nhân viên Cao ủy, các phái đoàn phỏng vấn, và các nhân viên thiện nguyện người Việt; đồng thời trợ cấp cho Ban đại diện trại để sử dụng vào những buổi họp Ban đại diện, họp zone hàng tuần (mua bánh kẹo, hạt dưa, thuốc hút...)

Tôi không được biết số tiền tiếp tân Ban đại diện trại được Cao ủy trợ cấp là bao nhiêu mỗi tuần, và sau đó Ban đại diện chia cho mỗi zone bao nhiêu tôi cũng không biết, chỉ biết một điều là sau khi lên làm Cao ủy trưởng, cô Mely đã cúp hết tiền tiếp tân cho Ban đại diện trại, và thay vào đó “trợ cấp” đồng đều cho tất cả mọi nhân viên thiện nguyện của Văn phòng Cao ủy và Ban đại diện trại - từ ông trại trưởng xuống tới các barrack trưởng - mỗi người một tuần 1.500 rupiah.

Từ đó, các buổi họp hàng tuần hoặc bất thường của Ban đại diện trại chỉ có... nước trà!

Riêng các buổi họp ở văn phòng zone thì vẫn có trà, ít bánh kẹo, thuốc lá “chùa”. Đó là nhờ sự đóng góp tự nguyện của nhân viên văn phòng zone và các barrack trưởng, chẳng hạn tại Zone III, mỗi người chỉ lãnh 1.250 rupiah, 250 rupiah còn lại bỏ vào quỹ tiếp tân.

Tuy gọi là quỹ tiếp tân nhưng còn được sử dụng vào nhiều mục linh tinh khác, chẳng hạn chụp hình lưu niệm, mua banh, lưới cho bóng tròn, bóng chuyền, bóng bàn, tu bổ bảo trì các máy may của zone...

Số tiền này được giao cho cô Thư ký văn phòng zone quản trị, và báo cáo chi thu trong mỗi buổi họp.

* * *


Về quan tâm của cô Mely tới cuộc sống của người tỵ nạn tại Galang, ưu tiên 1 là vệ sinh trong trại.

Chỉ vài ngày sau khi lên thay ông Fabrice, cô đã bất ngờ đích thân xuống các barrack thăm nơi ăn chốn ở (kể cả cầu tiêu) của người tỵ nạn, và đã phải lắc đầu: quá sức bê bối, dơ dáy, mất vệ sinh, nhất là Zone III của tôi với những mương rãnh hôi thối bên hông các barrack.

Trong buổi họp tiếp theo đó của Ban đại diện trại và các zone trưởng, cô Mely tới tham dự và đưa ra những nhận xét (đúng ra là chê trách) của mình trước tình trạng vệ sinh tồi tệ trong trại.

Sau khi nghe Ban đại diện trại trình bày những khó khăn trong việc yêu cầu đồng bào tham gia công tác vệ sinh chung, cô Mely lạnh lùng hỏi:

- Thế Phòng Trật tự của quý vị để làm gì?

Phía Ban đại diện trại chưa kịp lên tiếng, cô Mely đã nói tiếp một hơi, tôi chỉ nhớ đại khái nội dung như sau:

Công việc của Văn phòng Cao ủy là giúp mọi người tỵ nạn được đi định cư tại đệ tam quốc gia. Khi đặt chân tới Galang, mọi người đều bình đẳng, nhưng sau đó qua sưu tra lý lịch, qua hạnh kiểm trong thời gian sống tại trại, mỗi người có thể sẽ có mức độ ưu tiên khác nhau. Kể cả những người đã được một phái đoàn nhận, Cao ủy vẫn đủ thẩm quyền đình hoãn việc đi định cư của họ. Trước đây Phòng Định cư Cao ủy đã được sự hợp tác của Phòng Trật tự trong việc thanh lọc những thành phần có lý lịch mù mờ, khả nghi, hoặc các thành phần bất hảo, thì nay cô cũng yêu cầu phải có biện pháp với những thành phần phá hoại cơ sở vật chất của Cao ủy, từ chối tham gia công tác vệ sinh chung, nhẹ thì cảnh cáo, nặng phải báo cáo lên Văn phòng Cao ủy.

Cũng xin có đôi dòng về Phòng Trật tự của Ban Đại diện trại ở Galang.

Không hiểu các trại tỵ nạn ở Thái Lan, Mã Lai, Phi-luật-tân thì sao còn ở Galang, Phòng Trật tự đúng ra phải gọi là Phòng An ninh & Trật tự, bởi vì song song với công tác trật tự trị an, còn có nhiệm vụ điều tra lý lịch những thành phần khai gian dối, hoặc bị nghi ngờ là người của cộng sản trà trộn vào hàng ngũ tỵ nạn, theo dõi những người có thành tích chống Mỹ, chống VNCH trước năm 1975, ghi vào sổ bìa đen những thành phần bất hảo trong trại... Kể cả những vụ tố cáo nhau liên quan tới chuyện vượt biên như lường gạt tiền bạc, canh me bằng vũ lực, v.v... cũng được đưa lên Phòng Trật tự giải quyết.

Trong việc điều tra lý lịch những thành phần bị nghi ngờ là người của cộng sản hoặc thiên tả, có thành tích chống Mỹ, chống VNCH trước năm 1975, Phòng Trật tự Galang đã phối hợp chặt chẽ với ông George của Phòng Định cư Cao ủy. Độc giả có lẽ chưa quên ông George này chính là người đã “hù dọa” tôi ở Kuku vì cái số ghe tự đặt không giống ai.

Cho nên cũng không có gì khó hiểu khi một số khoa bảng, trí thức xuất thân sinh viên “trâu đánh” (Sinh viên Tranh đấu ở miền Trung giữa thập niên 1960) sau khi vượt biên tới Galang đã bị phái đoàn Mỹ “đá”, phải nằm chờ ở Galang một thời gian dài rồi mới được Úc, Canada, hay một nước Âu châu nhận cho định cư.


* * *


Sau buổi họp giữa Ban Đại diện và cô Mely, tôi về Zone III phổ biến chỉ thị của Cao ủy trưởng cho các barrack trưởng, yêu cầu họ nếu cảnh cáo không có kết quả, phải thiết lập danh sách những người trốn tránh công tác vệ sinh sáng Thứ Bảy, hoặc có mặt ở barrack nhưng không chịu tham gia.

Tôi nhấn mạnh danh sách này sẽ được nộp lên Văn phòng Cao ủy, và không quên nhắc lại lời cô Mely: kể cả những người đã được một phái đoàn nhận, Cao ủy vẫn có quyền đình hoãn ngày đi định cư của họ!

Tôi cũng thông báo tôi sẽ đích thân tới đôn đốc kiểm soát tại các barrack có tiếng bê bối nhất, mất vệ sinh nhất. Sợ chưa đủ sức... hù dọa, tôi còn mời ông Phó phòng Trật tự cùng đi với tôi để phô trương thanh thế!

Đó là anh Th, cũng là một cựu quân nhân, thân hình vạm vỡ, da ngăm đen, nét mặt rắn rỏi, ăn to nói lớn, năng nổ, không biết kiêng dè, nể sợ một ai (là một thành viên trong Ban đại diện giáo dân Galang, anh từng “đụng độ” với cha Dominici)!

Kết quả, tuy không thể gọi là mỹ mãn, tôi đã thành công ngay trong buổi làm vệ sinh sáng Thứ Bảy đầu tiên (sau khi có chỉ thị của cô Mely): trong ngoài các barrack được quét dọn sạch sẽ, hầu hết các nhà tắm vá víu nham nhở đã bị dẹp bỏ, cỏ dại không còn phủ kín lối đi, và quan trọng nhất là mương rãnh bên hông các barrack đã được khai thông.


Những nhà tắm (kiêm nhà kho, nơi ăn uống, ngủ trưa...) bất hợp lệ bên hông các barrack. (ảnh Gaylord Barr)

Làm cỏ chung quanh barrack (ảnh Gaylord Barr)


Tới sáng Thứ Bảy kế tiếp, ông thợ bạc mà tôi nhắc tới đã chấp nhận tháo gỡ một phần cái ca-bin của mình, thu hẹp lại trông cho đỡ ngứa mắt; và cũng từ đó mỗi sáng Thứ Bảy, ông ta “mướn” một cậu nhỏ nhận làm cháu để thay ông ta tham gia công tác vệ sinh tại barrack.

(Còn tiếp)


CHÚ THÍCH:

(1) Malcolm Fraser (1930 – 2015), thuộc đảng Tự Do, là vị Thủ tướng thứ 22 của Úc-đại-lợi, cầm quyền từ tháng 11/1975 tới tháng 3/1983. Ông được các sử gia ghi nhận là người đã đưa hòn đảo Úc-đại-lợi từ “miệt dưới” xa xôi gia nhập “câu lạc bộ cường quốc”; ông cũng là người chấm dứt Chính sách nước Úc da trắng” (White Australia Policy) qua việc nhận di dân Á châu trong đó có trên 120.000 người Việt tỵ nạn cộng sản, và việc đề xướng chính sách Đa văn hóa (Multiculturalism).

Tuy nhiên với nhiều người, trong đó có bản thân tôi, thành tích “ngoạn mục” nhất của ông Malcolm Fraser phải là những việc ông làm khi còn giữ chức Lãnh tụ Đối lập: lật đổ chính phủ Lao Động mà không thông qua một cuộc tổng tuyển cử nào cả!

Thành tích này của ông Malcolm Fraser đã chấm dứt sự nghiệp của Gough Whitlam (1916 – 2014), tay Thủ tướng Lao Động khét tiếng thân cộng trong lịch sử nước Úc.


Gough Whitlam (ảnh Internet)


Nguyên từ cuối Đệ nhị Thế chiến, nước Úc có hai chính đảng lớn là Tự Do (Liberal Party) và Lao động (Labor Party); đảng Tự Do thường liên kết với đảng Quốc Gia (National Party), gọi là Liên Minh (Coalition).

Tự Do được xem là một đảng bảo thủ, chống cộng còn Lao động là một đảng cấp tiến – chữ “cấp tiến” mang ý nghĩa thời đại mới: chống tư bản (đặc biệt là Hoa Kỳ), thiên tả (đôi khi tới mức thân cộng), phản chiến, ủng hộ vô thần, phá thai, kéo phe đồng tính luyến ái...

Điều may mắn cho người Việt quốc gia là trong thời gian xảy ra cuộc chiến tranh quốc – cộng tại Việt Nam thì tại Úc, đảng Tự Do liên tục nắm quyền trong gần một phần tư thế kỷ (1949-1972). Cho nên ngay từ năm 1957, sau khi đón tiếp Tổng thống Ngô Đình Diệm tại thủ đô Canberra, Úc đã trở thành đồng minh quan trọng thứ nhì của VNCH, chỉ sau Hoa Kỳ.

Năm 1962, Úc gửi các cố vấn quân sự (huấn luyện chống du kích) tới Việt Nam, và tới năm 1965 gửi các lực lượng tác chiến của Lục Quân và Không Quân tới tham chiến, tới năm 1972 mới rút quân về. Trong thời gian 10 năm nói trên, đã có trên 60,000 binh sĩ Úc luôn phiên phục vụ tại Việt Nam, trong đó có 521 người hy sinh và trên 3000 mang thương tích.

Nhưng tới cuối năm 1972, sau khi đảng Lao Động lên nắm quyền, nước Úc quay một góc 180 độ!

Trăm tội cũng chỉ vì tân Thủ tướng Gough Whitlam là một người thân cộng. Trước đó, vào tháng 7 năm 1971, khi đang làm Lãnh tụ Đối lập, ôngta đã trở thành vị lãnh tụ đối lập đầu tiên trong lịch sử chính trường Úc thăm viếng Trung Cộng. Để rồi tới năm 1973, trở thành vị Thủ tướng Úc đầu tiên và nhà lãnh đạo tây phương thứ hai (sau TT Mỹ Richard Nixon) công du Trung Cộng.

Mặc dù đều được gọi là “state visit” nhưng trong khi chuyến công du của TT Richard Nixon năm 1972 chỉ mang tính cách “trình diễn” (một phần vì sự chống đối của nhiều người trong nội các, nhất là ngoại trưởng Hoa Kỳ William Rogers) thì chuyến công du của Gough Whitlamnăm 1973 đã bị thế giới tự do xem là một sự phản bội trắng trợn!


Thủ tướng Úc Gough Whitlam công du Trung Cộng năm 1973 (ảnh Internet)


Cũng trong năm 1973, Úc trở thành quốc gia tây phương đầu tiên thiết lập bang giao cấp đại sứ với hai chế độ cộng sản Hà Nội và Bắc Kinh.

Tháng Tư năm 1975, trước viễn ảnh miền Nam VN bị lọt vào tay quân cộng sản Bắc Việt, Không Lực Hoàng Gia Úc-đại-lợi đã đưa các vận tải cơ C-130 sang Sài Gòn để di tản nhân viên ngoại giao Úc và những người Việt từng làm việc với người Úc.

Khi biết được việc này, Gough Whitlam đã ra lệnh cho Không Quân Úc không được cho một người Việt nào bước lên phi cơ, và sau khi Sài Gòn thất thủ, đã ra lệnh cấm cửa người tỵ nạn Việt Nam. Nguyên nhân, theo một bài bình luận trên tờ The Australian - một nhật báo khuynh hữu hiếm hoi ở Úc - Gough Whitlam cho rằng “người tỵ nạn là những người chống cộng, rồi đây sẽ chống Lao Động” (Whitlam saw the refugees as anti-communist and likely anti-Labor).

Hậu quả, cũng theo tờ The Australian, cùng với 30 cựu nhân viên của tòa Đại sứ Úc đã có khoảng 130 người Việt khác có tên trong danh di tản đã bị bỏ lại mặc cho số phận (Loyal staff who had served Australia for years were left to their fate).

Trước đó ít lâu, cảnh “bỏ rơi” này cũng đã xảy ra tại thủ đô Nam Vang của xứ chùa tháp, và theo tờ The Australian, phần lớn người Căm-bốt bị Úc bỏ rơi sau đó đã bị Khmer Đỏ hành quyết!

Nhưng ở đời, đôi khi cái rủi của người này lại là cái may cho kẻ khác, mà trong trường hợp này “kẻ khác” ấy chính là các em cô nhi trong chiến dịch nhân đạo Babylift (Operation Babylift) do Không Lực Hoa Kỳ và Không Lực Hoàng Gia Úc thực hiện: những chỗ trống trên phi cơ C-130 ấy đã giúp thêm hơn 100 em được đưa ra khỏi Việt Nam trong những giờ phút hấp hối của Sài Gòn, nâng tổng số cô nhi được đưa sang Úc lên 281 em, trong đó em nhỏ tuổi nhất mới lọt lòng mẹ được 10 ngày.


Các nhân viên phi hành Úc và trẻ mồ côi Việt Nam tại phi trường Tân Sơn Nhất (ảnh Australian War Memorial)


Gough Whitlam không chỉ bỏ rơi những nhân viên người Việt từng làm việc với Úc mà còn đòi trục xuất tất cả mọi nhân viên ngoại giao của VNCH cùng với hàng trăm sinh viên đang du học tại Úc về nước, viện lý do Việt Nam nay đã hòa bình, thống nhất; tuy nhiên trước sự phản kháng, vận động dư luận Úc của những nhân viên, sinh viên người Việt nói trên, Gough Whitlam đã không thực hiện được ý đồ của mình (lấy điểm CSVN).

* * *


Nhưng sự nghiệp muộn màng của Gough Whitlam đã chấm dứt hơi sớm. Cuộc khủng hoảng dầu lửa Trung Đông năm 1973 (giá dầu thô tăng hơn 300%) đã khiến các quốc gia tây phương bị khốn đốn, riêng tại Úc, công với sự bất tài và chính sách mị dân của chính phủ Lao Động (chẳng hạn mở thêm vô số trường học... nhưng chỉ lèo tèo mấy mống học sinh), toàn bộ nền kinh tế bị suy sụp đưa tới khủng hoảng tài chánh chưa từng có trong lịch sử nước Úc.

Vì thế, vào ngày 11/11/1975, Tổng Toàn quyền Úc là Sir John Kerr đã phải truất chức Thủ tướng của Gough Whitlam, một việc chưa từng xảy ra từ ngày Úc-đại-lợi được độc lập (1901). Quyền xử lý thường vụ chức vụ thủ tướng được trao cho Lãnh tụ Đối lập Malcolm Fraser, cho tới khi tổ chức cuộc tổng tuyển cử trong thời hạn ngắn nhất.

Hơn một tháng sau, trong cuộc tổng tuyển cử diễn ra vào ngày 13/12/1975, trên 95% cử tri Úc đã đi bầu với kết quả đảng Tự Do thắng lớn chưa từng thấy, và nếu cộng với số ghế của đảng Quốc Gia, chưa bao giờ Liên Minh cầm quyền đạt tỷ lệ cao như thế trong lịch sử quốc hội liên bang.

Tới cuộc cuộc tổng tuyển cử năm 1977, Liên Minh lại thắng. Gough Whitlam bị đảng Lao Động cho về vườn, chấm dứt sự nghiệp của một lãnh tụ thân cộng mù quáng nhất trong lịch sử Úc-đại-lợi.


Người Việt tại Úc trong tang lễ cố Thủ tướng Malcolm Fraser, nhà lãnh đạo được họ xem như một “người cha”
 




Hồi ký

NGUYỄN HỮU THIỆN

PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA


(tiếp theo kỳ 21)

 

CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ (kỳ 21)



Hồi ký

NGUYỄN HỮU THIỆN

PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA



(tiếp theo kỳ 20)

CHƯƠNG 2 – “Hoa tiêu” bất đắc dĩ

Ngôi nhà rất rộng, dư sức cho hàng trăm người nằm, ngồi thoải mái nếu như cái sàn gỗ còn nguyên vẹn. Nhưng sau bao năm tháng bị bỏ hoang phế, sàn gỗ nhiều chỗ đã bị mục nát, thủng lỗ cho nên ông “đại diện tỵ nạn” đã phải năn nỉ những người tới trước thu hẹp “giang sơn” để có chỗ cho chúng tôi.

(nguồn: FB Sơn H Cao)

Người có công với đất nước chúng không thờ lại đi nhận giặc làm cha. Đúng là bọn mất dạy.

CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ (kỳ 20)
 
Hồi ký
NGUYỄN HỮU THIỆN

PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA



(tiếp theo kỳ 19)

CHƯƠNG 2 – “Hoa tiêu” bất đắc dĩ

Cái cầu tàu này sử dụng cho các tàu chuyên chở máy móc, vật liệu, tiếp tế cho giàn khoan, từ mặt biển đi lên khá cao, vì thế có một cái thang sắt đi xuống gần mặt nước để sử dụng khi cần thiết.

CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ (kỳ 19)

Hồi ký
NGUYỄN HỮU THIỆN

PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA



(tiếp theo kỳ 18)

CHƯƠNG 2 – “Hoa tiêu” bất đắc dĩ


Sau khi hai chiếc ghe công an biên phòng đã khuất dạng, để cho chắc ăn, ghe chúng tôi tiếp tục đi về hướng Phan Thiết khoảng nửa tiếng đồng hồ nữa rồi mới lấy hướng đông-đông-nam (120 độ) để đi ra hải phận quốc tế.

Binh Nhất đánh cắp trực thăng đáp xuống tòa Bạch Ốc

Thiên Ân

---oo0oo---

 

(nguồn: Đặc san LÝ TƯỞNG Úc Châu số kỷ niệm Ngày Không Lực 2023)

Lời nói đầu:

Đầu năm 1972, khi Hoa Kỳ đang ồ ạt rút quân về nước theo chương trình “Việt Nam hóa” chiến tranh, vẫn có một thanh niên Mỹ 18 tuổi tình nguyện gia nhập Lục Quân Hoa Kỳ với ước vọng trở thành phi công trực thăng sang chiến đấu tại Việt Nam.

CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ (kỳ 18)



Hồi ký
NGUYỄN HỮU THIỆN

PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA


(tiếp theo kỳ 17)

CHƯƠNG 2 – “Hoa tiêu” bất đắc dĩ


Theo dự trù, chuyến vượt biên của người cậu họ (tức em họ của mẹ tôi) sẽ diễn ra vào khoảng đầu năm 1982. Dĩ nhiên là đi lậu!

Như vậy tôi phải chờ ít nhất sáu tháng, và tôi phải làm đơn xin về Hố Nai cư trú, vì chỉ còn hơn một tháng nữa là hết thời hạn 6 tháng cư trú tại Sài Gòn đã ghi trong Giấy ra trại.

Ăn cơm mới nói chuyện cũ
Từ SƯ ĐOÀN TRƯỞNG tới TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN
 
Nguyễn Hữu Thiện
 
---oo0oo---
 
 

(nguồn: LÝ TƯỞNG Úc Châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực 2023)


TIỀN PHI:

Từ ngày các Sư Đoàn Không Quân của quân chủng Không Quân VNCH được thành lập bắt đầu vào năm 1970, đã có có hai cách gọi ông sếp lớn của một sư đoàn không quân: “Sư Đoàn Trưởng” và “Tư Lệnh Sư Đoàn”.

Who´s online

We have 50 guests and no members online