Login to your account

Username *
Password *
Remember Me

dnchau

Sống Và Chết

Huy Phương

 

Ngày 30 Tháng Tư, mỗi năm đều đến và rồi qua, nhưng mỗi lần như thế, vết thương lại như bị xát muối làm cho người ta đau đớn, mặc dầu là chỉ đau đớn trong hồi tưởng, nhưng sự thật là hôm nay, chúng ta đang còn phải gánh chịu những hậu quả khốc liệt của nó.

Giới trẻ Little Saigon tưởng niệm và hội thảo về ‘Tháng Tư Đen’
Uyên Vũ/Người Việt




 

Tìm hiểu về nguồn cội, lịch sử và văn hóa Việt Nam



WESTMINSTER, California (NV) – Trưa Chủ Nhật, 21 Tháng Tư, tại Westminster Civic Center diễn ra buổi tưởng niệm và hội thảo khá quy mô của giới trẻ Mỹ gốc Việt, với chủ đích học hỏi và tìm hiểu về “căn cước” của chính họ tại đất nước này.

Khoảng 12 giờ trưa, hơn 200 thanh thiếu niên thuộc nhiều hội đoàn giới trẻ tề tựu về Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ trên đường All American Way long trọng làm lễ chào cờ Việt Nam Cộng Hòa, quốc kỳ Hoa Kỳ và phút mặc niệm cùng đặt vòng hoa tưởng niệm những người Việt Nam đã hy sinh trên hành trình tìm tự do.

Phi Vụ 6G Trên Chiếc A37
Đông Chiều Hổ Cáp 45 VMP


 

Chắc chắn trong số những người đọc có nhiều người nằm trong giới chuyên môn, những người không chuyên môn và nhiều người không liên hệ gì đến Không Quân kể cả ngành “bay”.

Người viết không nói đến những người đến từ các Trung Tâm Huấn Luyện khác hoặc những người được chuyển về từ các Binh Chủng...Ở đoạn đầu bài này người viết xin dành một ít thời gian để lược sơ qua cách đào tạo “chánh quy” phi công A37 tại đất Mỹ. Còn tất cả những phi công A37 phục vụ tại các Phi Đoàn Chiến Đấu trên toàn cõi miền Nam Việt Nam gồm nhiều diện khác nhau-- chuyện khá dài dòng sẽ phải đi vào chi tiết. Ngoài sự khác nhau đó, thời trước 75 giữa Nam Việt Nam và Mỹ có những chương trình đào tạo phi công khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn và nhu cầu. Ngay cả trên đất Mỹ lúc đang đào tạo ở giai đoạn cuối của một chương trình đã được “vạch sẵn” cũng vẫn được “uyển chuyển” để chuyển sang một chương trình khác.... ( mà ngay cả các khóa sinh đang thực tập trong khóa nào đó cũng không biết được! ).

Từ lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975: Vĩnh Biệt Chốn Kinh Kỳ!


Nguyễn Tiến Hưng




Việt Báo giới thiệu: Những ngày này 44 năm trước, VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ đẩy tới đường cùng. Số phận của Huế và cả nền Cộng Hòa tại miền Nam hầu như được quyết định trong hai phiên họp khẩn cấp tại Dinh Độc Lập ngày 25 và 26/3/1975. Để tưởng nhớ ngày phải rời bỏ Huế năm xưa, mời đọc lại bài viết của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, tác giả sách "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" và "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu." 


Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Trân Công Chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ. Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi tắt là Thuận Hóa. Chữ ‘Hóa’ dần dần đọc trại đi thành “Huế.”

Câu chuyện lãng mạn ấy đi đôi với cái phong cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất này. Lăng tẩm, Thành nội, Thành ngoại, đầm sen tỏa hương thơm ngát. Rồi những buổi chiều tím, những đêm trăng mờ, những con đò nho nhỏ. Nếu ta dừng lại ở vài bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên dòng Sông Hương thì sẽ thấy lòng mình lắng xuống, rồi như bị cuốn vào với tiếng chuông chùa, ngân vang vào không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông Hương?

Cái cảnh nửa đi nửa ở không phải chỉ ám ảnh người lữ khách khi phải lìa xa nơi Cố đô, nhưng nó còn làm cho các nhà quân sự trăn trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh Kỳ vào cuối tháng Ba năm ấy. Lúc thì cố thủ, lúc thì rút quân, rút xong lại muốn quay về giữ Huế, cứ dùng dằng mãi.

Trong một báo cáo tối mật của Tướng Fred Weyand gửi Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm chiến trường Miền Nam vào cuối tháng 3, 1975, ông nói tới hậu quả bi đát của việc cúp hết viện trợ làm tê liệt khả năng chiến đấu của VNCH. Về cuộc họp tại Dinh Độc Lập trước khi bỏ Huế (13/3), ông bình luận:

“Trong mười hai ngày tiếp theo sau bưổi họp này (từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao (critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sàigòn về việc nên giữ lại những phần nào ở QĐ I, nhất là về việc có nên hay không nên giữ Huế.”

Tiến thoái lưỡng nan

--“Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được Huế không?”

TT Thiệu hỏi Tướng Ngô Quang Trưởng qua điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng 3, 1975. Một cuộc họp tại Dinh Độc Lập dưới quyền chủ tọa của TT Thiệu lúc 9 giờ 30 sáng. Hiện diện: ngoài Phó TT Trần Văn Hương và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm:

Về phía quân sự: Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Trung tướng Đồng Văn Khuyên.

Về phía dân sự: Ngoại trưởng Vương Văn Bắc, Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.

Khi mọi người đã đến đông đủ, một bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ phòng họp. Những điểm mầu đỏ đánh dấu vị trí đồn trú của quân đội Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên tường đã mọc lên như nấm. Cuộc duyệt xét tình hình quân sự bắt đầu.

Sau khi tướng Khuyên trình bày về tình hình QK I và II, TT Thiệu nhấc máy điện thoại gọi tướng Trưởng hỏi xem có giữ được Huế hay không. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia:

-- Trung tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, thì giữ.”

-- TT Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?”

-- Trung tướng Trưởng“Ngày một ngày hai.”

-- TT Thiệu: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết 

định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”

Vì những biến cố về Huế còn đặt ra nhiều nghi vấn nên chúng tôi đã ghi lại thật rõ trong cuốn sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu về những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có liên hệ tới Quân đoàn I vào tháng 3/1975, cùng với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung tướng Trưởng. Thêm vào đó là tường thuật của Đại tướng Viên và những tài liệu của Hoa Kỳ (xem Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 3).

Cuộc họp tại Dinh Độc Lập ngày 19 tháng 3


Trong bối cảnh ấy thì sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng bay vào Sàigòn để trình bày kế hoạch rút lui lên tổng thống, lần này có sự hiện diện của cả Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Sự hiện diện của cụ Hương là việc bất thường, vì xưa nay khi bàn chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc đó, ông phải nhờ đến sự ủng hộ của Phó Tổng thống để thuyết phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế.

Theo Đại Tướng Viên thuật lại trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH (trang 162-163):

Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:

Kế hoạch thứ nhất: nếu quốc lộ 1 (QL 1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng;

Kế hoạch thứ hai: nếu QL 1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ.

Vì lúc ấy “không thể rút quân theo kế hoạch thứ nhất được vì đoạn đường Huế-Đà Nẵng, Chu lai-Đà Nẵng đã bị chốt, làn sóng tỵ nạn lại đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để chạy về Đà Nẵng, nên Tướng Trưởng kết luận: “ 'chúng ta chỉ có một chọn lựa, và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trễ.' Chọn lựa của tướng Trưởng là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống cự."

Trong cuộc họp ngày 19 tháng 3, TT Thiệu kể lại là ông đã miễn cưỡng chấp thuận kế hoạch thứ hai của ông Trưởng vì ông Trưởng nói không còn đường nào tháo lui khỏi Huế được nữa vì QL 1 đã bị chặn: “Tôi nói với tướng Trưởng là mặc dầu lịch sử có thể phán xét tôi như một thằng ngu (imbécile) nhưng vì lòng tôi đối với đất nước, tôi đồng ý.” Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra khỏi Dinh Độc Lập và nói:“Tôi đợi đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh.”

TT Thiệu thêm: khi về tới Đà Nẵng thì “Ông Trưởng gọi điện thoại để yêu cầu tôi hãy hoãn lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên đài phát thanh, vì có thể ta không giữ nổi Huế.” Tôi hỏi tại sao Tướng Trưởng lại thay đổi? TT Thiệu trả lời:”Lý do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm Quang) Thi, Tư lệnh phó QĐ I báo cáo là QĐBV đã bắt đầu pháo vào bộ chỉ huy rồi.

Việc Tướng Thi báo cáo bộ tư lệnh của ông đã bị pháo thì Đại tướng Viên cũng xác nhận trong cuốn hồi ký của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng việc Tướng Trưởng xin hoãn tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh thì chưa thấy ai nói tới. Cũng theo lời TT Thiệu, vì ông đã miễn cưỡng đồng ý với Tướng Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói thêm về việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng biết là cả Phó Tổng thống, cả Thủ tướng đều chống lại việc giữ cả hai nơi - Huế và Đà Nẵng- cùng một lúc.

Nhưng mặc dù TT Thiệu tỏ ý dè dặt, Tướng Trưởng vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa Huế, Chu Lai và Đà Nẵng, vì Quốc Lộ 1 đã bị chận rồi, không thể rút được nữa, vả lại ông cho rằng Tổng thống tuy dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó.

Vào thời điểm này thì đài BBC luôn loan báo đầy đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và tiên đoán là quân đội Bắc Việt sẽ tới vùng phụ cận Sàigòn trong vòng vài ba tuần lễ vì Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đã mở rộng. Đài VOA thì tường thuật về vụ nhóm Dân chủ ở Hạ viện đã bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho Miền Nam (ngày 12 tháng 3) với số phiếu 189-49; rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với số phiếu 34-6. Binh sĩ nghe liên tục như vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền Trung, đơn xin tiếp liệu về thực phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đình binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp bay về Sàigòn, nhưng chính phủ trung ương đã hầu như cạn kiệt.

Năm ngày trăn trở về Huế

Ngày 23 tháng 3, 1975, theo Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn trong hồi ký Đất Nước Tôi: “Tướng Trưởng họp bộ tham mưu tại Đà Nẵng, ra chỉ thị cho Tướng Thi tử thủ Huế nhưng đồng thời phải có kế hoạch để sẵn sàng di tản về Đà Nẵng nếu tình thế đòi hỏi. Đến đây ai cũng nhận thấy tình hình cố đô Huế rất nguy kịch, nếu không nói là tuyệt vọng.” Sau đó, sáng ngày 24 tháng 3, Tướng Thi và Bộ Tư lệnh tiền phương đáp tầu Hải quân đi Đà Nẵng…”

Ngày 25 tháng 3, theo ĐT Viên: “tất cả các đơn vị của quân đoàn I tụ lại tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể cả Hội An) và Bắc thành phố Huế… Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong cảnh tuyệt vọng như vầy… Trong tình thế thất vọng đó, quân đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ Dinh Độc lập: tổng thống Thiệu ra lệnh tướng Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của quân đoàn để phòng thủ Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC được đóng vai trừ bị. Đêm đó tướng Trưởng ra lệnh cho Sư đoàn 1BB và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng…”

"Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các đơn vị cơ hữu của sư đoàn rút ra Cửa Tư Hiền…" (sđd., 171).

Lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975

Như viện dẫn ở đầu bài, trong buổi họp ngày 25/3, sau khi TT Thiệu hỏi Tướng Trưởng “nếu ông quyết định giữ Huế thì được bao lâu,” ông Trưởng trả lời là chỉ giữ được “ngày một ngày hai,” ông Thiệu lập lại cho mọi người nghe, rồi ra lệnh: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”

Tới đây ông Thiệu không nhắc lại thêm các câu trả lời sau đó của ông Trưởng nữa. Ông đặt ống nói xuống, và nói: “Ông Trưởng rất depressed” (chán nản). Sau khi tham khảo với Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện cho Tướng Trưởng, đưa ra ba lệnh (và tôi ghi rất rõ ràng xuống cuốn sổ tay còn giữ được):

“Thứ nhất, bỏ Huế;

“Thứ hai, phải làm cho lẹ; và

“Thứ ba, tử thủ Đà Nẵng.”


TT Thiệu thở dài: “Mình trông cậy vào ba ‘enclaves’ (cứ điểm), mà bây giờ chỉ còn một ở Đà Nẵng.” Nghe vậy, ông Bắc và tôi bàng hoàng nhìn nhau. Như vậy là đã có lệnh chính thức bỏ Huế.

Trong cuốn ‘Decent Interval,’ tác giả Frank Snepp viết về lòng thương của Tướng Trưởng đối với binh sĩ và hậu quả như sau:

“Đang khi Tướng Trưởng trình bày với TT Thiệu về kế hoạch của ông thì số quân đội mà ông cần để thi hành này lại đang tan rã (disintegrating). Và đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to blame). Mấy ngày trước đó ông đã cho phép quân nhân của SĐ I được phép lo cho an toàn của gia đình họ. Ông đã làm như vậy là vì lòng thương của một tư lệnh đối với binh sĩ, nhưng khi Quốc Lộ I đã bị chận rồi thì chỉ thị này đã dẫn tới hỗn loạn, vì sĩ quan cũng như quân nhân đã bỏ đồn từng loạt để lo cho thân nhân tìm lối thoát.”

Nơi đây, tôi mở ngoặc để nhắc lại về tình trạng kinh tế khó khăn của thân nhân người binh sĩ trước khi sụp đổ. Từ mùa Hè 1974, sau khi giá xăng dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách không còn đủ khả năng tăng lương cho quân đội để đáp ứng với lạm phát vì viện trợ đã bị cắt gần hết. Chính phủ chỉ định cho mỗi Bộ nhận một sư đoàn để tìm cách giúp đỡ. Sư đoàn 1 được giao cho Bộ Kế Hoạch.Trong một chuyến đi Huế thăm sư đoàn này, chúng tôi được Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm đưa đi thăm hỏi gia đình binh sĩ. Ông tâm sự rằng để cho thân nhân sống trong các lều, bạt ngay sát trại như thế này thì thật là nguy hiểm khi bị pháo kích và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân, nhưng phải chấp nhận vì với số lương quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung với gia đình. Thật vậy, với 20,000 đồng một tháng (mãi lực bằng khoảng $28 đô la), người quân nhân chỉ có thể mua gạo, nước mắm cho gia đình, còn lại rất it cho những nhu cầu khác như thuốc men, may mặc, giáo dục con cái, giải trí.

*

Ngày 26 tháng 3, 1975 một buổi họp tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ sáng. Có mặt tại buổi họp: Tổng thống Thiệu, Ngoại trưởng Bắc và chúng tôi. Cuộc họp này là để bàn về việc tìm cách để cấp tốc khai thác hai bức thư của Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn viết cho hai Chủ tịch Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25 tháng 3). Giữa cuộc họp thì TT Thiệu lại nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng Trưởng về Huế:

-- TT Thiệu: “Anh Trưởng hả? Tình hình Huế thế nào?’

-- Tướng Trưởng: (theo như lời ông Thiệu nhắc lại trong phòng họp):

“Đang bị đánh vài trận.”

Cùng ngày bỏ Huế, TT Thiệu chỉ thị cho tôi trình ông bản thảo chót về bức thư cầu cứu Tổng thống Ford. Mở đầu có câu: “Thưa Tổng Thống, lúc lá thư này tới tay Ngài, thành phố Huế có lẽ đã bị bỏ ngỏ, và rất có thể chính Sàigòn cũng bị đe dọa.” Ông Thiệu gạch ngay câu mở đầu đi vì Huế đã bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu thư chúng tôi đề "Saigon, March…, 1975" để trống con số về ngày gửi, vì chưa biết ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông lấy bút chì xanh viết xuống số "25" thật to, tức là "Saigon, March 25, 1975." Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo tôi đưa bản văn cho Chánh Văn Phòng tổng thống là Đại tá Cầm để cho đánh máy và chuyển cho Đại sứ Graham Martin ngay.

Gửi thư đi rồi, TT Thiệu chờ đợi từng giây phút về phản ứng của Tổng thống Ford.

Nhưng nhận được thư SOS, TT Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên nhậm chức tổng thống thay TT Nixon vào mùa hè 1974 ông đã viết cho TT Thiệu ngay ngày làm việc đầu tiên tại Tòa Bạch Ốc: “Những cam kết mà nước Mỹ đã hứa hẹn với VNCH trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi” (thư ngày 10 tháng 8, 1974, xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196). TT Ford chỉ làm một nghĩa cử để biểu diễn. Trong cuốn hồi ký A Time to Heal (1979) ông viết lại:

"Chiều ngày 25 tháng 3 (ngày 26 giờ Sàigòn), tôi họp với các ông Kissinger, Scowcroft, Martin và tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân. Mọi người đều biết là tình hình Miền Nam rất trầm trọng, nhưng chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi yêu cầu ông Weyand bay sang Sàigòn sớm nhất có thể, ở đó một tuần rồi mang về một báo cáo đầy đủ."

Nói rằng "Chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào" thì đúng là nói dối. Ông đã nhận được thư SOS của TT Thiệu và của lưỡng viện VNCH, lại đươc nghe Đại Sứ Graham Martin từ Sài gòn về báo cáo. Sau này ĐS Martin còn nói lại với chúng tôi là sau khi ông họp nhiều lần với TT Thiệu, cũng như đã có đầy đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám đốc CIA ở Sàigòn) cung cấp, ông đã báo cáo rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như vậy là trong hồi ký, trước sự đã rồi, TT Ford chỉ biện luận cho hành vi phản bội của mình.

Hồn khí linh thiêng nơi cố đô

Vừa rút khỏi Huế buổi sáng thì bưổi chiều lại một tin sét đánh, hy vọng cuối cùng của VNCH để có chút tiền sống cầm hơi đã bị tan biến. Vào cuối năm 1974, một tia sáng loé lên. Có ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu cố đến Miền Nam. Vua Saud al Faisal cho biết ông có rất nhiều thiện cảm với nhân dân Miền Nam và đã bí mật đồng ý cho Miền Nam vay một số tiền để mua tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 474).

Thật là một cơ hội quý báu. Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến cứu. Vua Faisal bằng lòng cho vay dài hạn $300 triệu (để bù đắp cho số tiền vừa bị QH Mỹ vét nạo hết). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá khan hiếm những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn.

Nhưng đúng là "hoạ vô đơn chí." Những cái rủi ro nó hay theo nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi sửa soạn để cùng với Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm phán, mong sớm có giải ngân, thì đùng một cái, vua Faisal bị chính cháu ruột mình sát hại một cách thảm thương ngay trong hoàng cung.

Chính phủ Miền Nam bàng hoàng. Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia buồn cùng Hoàng gia, nói tới nghĩa cử cao đẹp của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài về nơi cực lạc. Vì tình cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng Hòa yêu cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện công cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đã vạch ra.

Thế nhưng, trong lúc tang gia bối rối, tình hình quốc nội xáo trộn, Hoàng gia Saudi đâu còn thời giờ hay tinh thần mà để ý đến chuyện của nước khác.

Đứng về khía cạnh tâm linh, tôi tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông vua xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng đã đến lúc vận nước suy tàn?

Nguyễn Tiến Hưng

Source:https://vietbao.com/a292265/tu-lenh-...-chon-kinh-ky-

Ý kiến cho bài đọc xin nhấn vào đây => (Từ lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975: Vĩnh Biệt Chốn Kinh Kỳ!)

Xin trân trọng giới thiệu đến độc giả bài viết của anh Lê Xuân Mỹ. Một bài viết mà khi đọc tôi đã nhạt nhoà nước mắt. Không màu mè bóng bẩy, chỉ là hồi ức về một giai đoạn cùng khổ mà tất cả người miền nam VN chúng ta đều trải qua khi mất nước, nhưng người đọc không thể không bùi ngùi, xúc động dù đã nhiều năm trôi qua.

Đó cũng là một trong những lý do tại sao chúng ta không thể quên, không thể tha thứ, càng không thể hoà hợp hoà giải.. hay có thể nào chấp nhận luận điệu: hãy quên quá khứ để hướng về tương lai?....

Cái nón sắt của người lính VNCH
Trịnh Khánh Tuân & Huỳnh Công Minh

 

“Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này. Anh là ai? Anh là ai? Anh là ai?”

Cái nón sắt đề cập trong bài hát này chính là cái nón sắt được trang bị cho người lính VNCH trong nhu cầu bảo vệ sinh mạng ngoài mặt trận. Trong suốt chiều dài cuộc chiến 20 năm trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam, cái nón sắt là một vật không thể nào thiếu trên người chiến sĩ VNCH, đó là cái nón sắt M1.

Kỷ Niệm Tướng Phạm Ngọc Sang 


Cựu Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền 



Bốn mươi năm sau...

Từ năm 1957, ngày chúng tôi chở Tổng thổng Ngô Đình Diệm cùng phái đoàn đi kinh lý Cam Ranh, cộng thêm hai mươi năm sau ngày 30/4/1975 khi miền Nam tan đàn rã nghé, chúng tôi gặp lại ông cựu Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang sau mười bảy năm tù cải tạo nay được đoàn tụ với vợ con ở Westminster miền Nam Cali, mới hiểu rõ lý do vì sao ông tỏ ra tư lự trong buổi thuyết trình, khi nhận lệnh bay chở Tổng thống trên chiếc L19 đi viếng thị xã Cam Ranh.

Trước ngày Tổng thống ra Nha Trang, chúng tôi họp với Thiếu tá Oánh, ông nói: "Không có ai đủ tài năng, trách nhiệm và kinh nghiệm lái cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngoài Thiếu tá Phạm Ngọc Sang." Chúng tôi cũng có gặp lại cựu Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan và cả Nguyễn Phúc Tửng (Le Chinui) và Ôn Văn Tài trong buổi cơm thân mật họp mặt ở nhà Vann Ba (Lèo) ở Martinez, CA.

Trong một chuyến họp mặt Bô Lão Nam Cali chúng tôi, Tuyền và Tài ghé thăm Chuẩn tướng Sang tại cư xá mới hiểu rõ tâm sự của ông ngày đưa Tổng thống và phái đoàn viếng thăm Cam Ranh. Ông có hai câu chuyện muốn hỏi cùng Tài và tôi:

"Thứ nhứt," Ông vừa nói vừa cầm cái chụp dưỡng khí vào mồm để thở trông như thể ông sắp lên phản lực cất cánh bay lên không gian. Có lẽ ngày xưa ông hút thuốc quá nhiều nên ngày nay hai lá phổi không còn sức giãn hồi nên phải dùng Oxy để thở. Sau khi hít một hơi oxy, ông tỉnh táo hơn, tuy nở một nụ cười nhưng mặt vẫn còn hơi cay cú và hỏi: "Ngày thuyết trình ai đã chỉ định tôi bay L19 cho Tổng thống vậy?"

Ôn Văn Tài nhìn qua tôi như thầm bảo mầy trả lời đi Tuyền, vì trong buổi họp để giao trách nhiệm cho các huấn luyện viên bay chở VIP chỉ có Thiếu tá Oánh, Trung úy Thịnh và tôi. Tôi trình bày cùng Chuẩn tuớng như sau: "Câu chuyện phân minh chia ai bay với ai hôm đó Thiếu tá Oánh có hỏi ý kiến Quyền Tư lệnh KQ Trung tá Nguyễn Văn Hổ và Thiếu tá Huỳnh Hữu Hiền, Tham mưu trưởng cùng cả Khối hành quân và có ý kiến chung là không ai có đủ khả năng bay bổng ngoài Ông ra. Cho nên ông được ưu tiên bay cho Tổng thống mà thôi."

Chuẩn tướng Sang bèn cười vui ra mặt và cho chúng tôi biết: "Tài Tuyền biết không, chúng nó muốn chơi Moi (*) đó, vì lúc đó ở phi đoàn chuyên chở VIP Moi chỉ chuyên trị C47 Dakota và chiếc phi cơ riêng Avro Commander của Tổng thống Ngô Đình Diệm mà thôi. Moi đâu có bay L19 nhiều đâu. Lúc đó, Moi tin tưởng các anh em ngoài nầy bay quá nhiều L19 rồi, không ngờ trong buổi thuyết trình Moi dự để xem ai lái cho Tổng Thống để Moi dặn dò vài câu. Không ngờ có tên Moi đầu tiên bay cho Tổng thống. Lúc đó trong lòng Moi muốn từ chối, nhưng vì thể diện, còn mặt mũi nào mà dám nói không bay cho Tổng thống!"

Ông nói tiếp: "Các Toi (*) biết không, Moi chưa đáp sân bay Hàng Không Mẫu Hạm Cam Ranh (**) lần nào, vì có lần chở Thiếu tướng Lê Văn Tỵ ra thăm Cam Ranh bằng Marcel D’Assualt 315, ông thấy sân bay Cam Ranh chỉ có chừng ba trăm thước mà bị ngập dưới nước hết một trăm trước rồi ông bảo trở về ngay. Thành ra hôm đó Moi mới nhờ Tuyền Tài đáp trước để Moi liệu sức mà đáp. Moi theo dõi rất kỹ khi thấy hai anh em đáp xong cũng an toàn, Moi nhào xuống đáp ngay và cũng nhờ Tuyền đã bảo Moi thả sáu mươi độ cánh cản nên đáp êm rơ làm vui lòng Tổng thống mà riêng với Moi thì... thót dế!"

Tôi vội trả lời, "Thấy Chuẩn tướng đáp quá đẹp và an toàn chúng tôi hoan hô hết cỡ. Lúc đó Trung úy Nguyễn Ngọc Loan đáp sau ông. Khi chúng tôi ngồi chung xe Jeep đi ăn cơm trưa, Loan mới có lời khen ngợi; "Dish Cụ", tao chỉ nghe Sang nó bay giỏi, hôm nay tao mới thấy nó bay L19 đâu chỉ có vài giờ mà đáp sân Hàng Không Mẫu Hạm Cam Ranh quá đẹp, nó giỏi thật! Ông bay sau nó mà lòng hồi hộp nên tim đánh thùng thùng hơn mấy thằng Maroc ban nhạc Tây đi diễn binh ngày 14 Juillet và dưới "tu..keo" (nói lái) hết chỉ còn tí tẹo. Nó mà rủi ro có bề gì Tổng thống đi đoong, cái thằng Oánh phải đứng mũi chịu sào mà chúng mình cũng bị vạ lây. Nếu còn thương tình mấy thằng nhóc phi công đầu xanh... cả triệu tội nầy, thì cũng cho cả lũ đi làm lao công chiến trường suốt đời, khiêng vác đạn dược cho xong. Còn nếu bằng không thì alê húp đi vào Chí Hoà ăn cơm tù cho mãn đời phi công các con ơi! "

Sau khi nói rồi Loan cười khè khè... rất có duyên. Sau những lời trình bày chân thành của tôi, thấy gương mặt ông vui tươi trở lại.

"Còn việc thứ hai, Moi muốn lấy lại lời nói lúc Tuyền Tài đem T6 G màu vàng về huấn luyện lại cho các anh em trong phi đoàn ELA có Moi bay nữa chớ! Sợ hôm nào chúng nó muốn Tổng thống bay thử trên T6 G thì Moi cũng phải dang lưng ra chiụ trận có phải không các Toi. Đó là lời nói mà Moi vẫn còn nhớ tới hôm nay. Có lần Moi hỏi: Các Toi có hút thuốc không? Dạ Thưa không. Các Toi không gan lỳ gì hết.. Hãy nhìn Moi hút thuốc đây nè, có chết thằng Tây đen Tây trắng nào đâu? Ông đưa hai ngón tay vàng khè đang cập một điếu thuốc còn phân nửa. Chỉ một cây diêm quẹt, từ sáng bước lên xe Jeep đi làm cho tới chiều về tới nhà mới dập tắt điếu thuốc trên môi. Thành ra hôm nay Moi mới ra thân thể nầy. Xin các Toi đừng hút thuốt như Moi ngày xưa. "

"Thưa Chuẩn tướng chúng tôi xin vâng lời." Chúng tôi xin kiếu từ ra về để ông còn nghỉ ngơi. Ông đưa chúng tôi ra cửa cư xá. Chúng tôi đứng chào Chuẩn tướng theo lễ nghi quân cách. Ông đúng là một ông Tướng KQ anh hùng chiến trường chiến đấu tới viên đạn cuối cùng, bị giặc cộng bắt bỏ tù 17 năm.

Đâu chừng mấy tháng sau Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang rơi vào Coma, Phu nhân và các con của ông đã nuôi chồng và cha trên ba năm trường, thật là một người vợ tuyệt vời và đàn con can đảm và hiếu thảo. Chúng tôi xin hoan hô Bà Phạm Ngọc Sang cùng các con cháu.

Khi hay tin chẳng lành, phái đoàn chúng tôi từ Bắc kéo xuống Nam Cali thăm Ông lần cuối. Khi gặp Bà Sang có nói với tôi, như thể Ông còn nuối điều gì mà chúng tôi không được biết. Khi đó có Đại tá Phạm Hữa Phương (lúc còn sanh tiền) và Trung tá Nguyễn Văn Hai (Đen) có bảo tôi vào thăm: "Anh Năm nên thông báo Chuẩn tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 6 biết là có cả Căn Cứ 60 Chiến thuật KQ Phù Cát về trình diện Chuẩn tướng đây."

Tôi nắm tay Ông làm y lời các anh em cố vấn: "Nếu Chuẩn tướng còn nuối với anh em Phù Cát xin Chuẩn tướng bấm tay tôi cho biết là trả lời hiểu." Tay ông nhè nhẹ bấm tay tôi trả lời và miệng mấp máy mỉm cười. Lúc đó chúng tôi, một đám đứng bên ông không cầm được nước mắt khi nhìn ông mỉm cười. Chừng một giờ sau mặt ông tươi rói và dần dần đi nhẹ nhàng vào cõi hư vô...

Chúng tôi viết những lời nầy với dòng lệ ứa trào quanh mi để tưởng nhớ đến người Anh Cả Sư Đoàn 6 KQ, một Tướng chiến trường anh dũng, xứng đáng cùng Trung Tướng Vĩnh Nghi đánh một trận cuối cùng với hai sư đoàn việt cộng ở Phan Rang.

Gởi lời thăm Chị Sang và các cháu an vui. Chúng tôi nguyện cầu hương linh Chuẩn tướng sớm về cùng Đức Phật A Di Đà.

Nguyễn Hồng Tuyền
Ghi chú: (*) Moi, Toi là tiếng Pháp. Tôi, Anh hoặc Tao, Mày
(**) Hàng Không Mẫu Hạm, chỉ sân bay quá ngắn.

Source:http://daubinhlua.blogspot.com/2018/...cuu-ai-ta.html

 

Ý kiến cho bài đọc xin nhấn vào đây => (Kỷ Niệm Tướng Phạm Ngọc Sang)

Tôi bước xuống phi trường Cù Hanh, Pleiku vào một buổi trưa đầu năm 1968. Trời nắng nhẹ, cùng vài cơn gió thoảng qua làm lay động các bụi cỏ lau bên rìa phi đạo và tạo thành âm thanh lao xao liên tục khiến tôi có cảm giác dễ chịu. Tôi được chỉ định về Trung Đoàn 3 Thiết Giáp, mà bộ chỉ huy đóng tại đây, để phục vụ. Những tháng ngày kế tiếp, tôi quay cuồng cùng đơn vị. Từ mờ sáng tới khi trời chập choạng tối, tôi chỉ thấy con đường 14, với rừng và núi. Thời gian sau tôi thường cùng đơn vị di chuyển theo đường 19 từ Qui Nhơn lên. Sau khi vượt qua đèo Măng Jang cao ngất, trước mắt tôi là không gian bao la. Tôi mới cảm thấy được thiên nhiên hùng vĩ của vùng cao nguyên này, đối nghịch với kích thước nhỏ nhoi của con người.