Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Nhớ Cao Nguyên

Collapse
X

Nhớ Cao Nguyên

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhớ Cao Nguyên

    Nhớ Cao Nguyên
    Vương Mộng Long - K20

    1. Một ngày trên núi cao…

    Hạ tuần tháng Giêng năm 1970, Ðại Ðội Trinh Sát Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân có nhiệm vụ hành quân thám sát vùng Tây của Ðèo Mang-Giang (Mang Yang), Pleiku, để yểm trợ tin tức tình báo chiến thuật cho Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân tiến vào Căn Cứ Ðịa 203 của Việt-Cộng.

    Ba toán Viễn-Thám đã được tôi thả xuống thung lũng Plei Bon.

    Tôi cùng hai cố vấn Mỹ và ba nhân viên truyền tin đóng quân trên đỉnh núi Ngô-Sơn. Chúng tôi được một trung đội trinh sát bảo vệ.

    Cuộc hành quân kéo dài một tuần lễ, hôm ấy đã được sáu ngày, chỉ một bữa nữa thôi, nhiệm vụ của chúng tôi sẽ chấm dứt.

    Thời gian này đã là mùa khô Cao Nguyên, nên bầu trời trong vắt. Trong gió, lan rừng ngát hương. Cỏ cây thay lá. Tiếng côn trùng rên rỉ lớn hơn. Tiếng chim muông cũng rộn rã hơn.

    Dưới nắng, tôi cũng chợt nhìn thấy những cánh hoa quen, mà tôi thường gọi là “hoa vấn vương”. Những cánh hoa mỏng như sương, đang vờn bay chập chờn trong không trung.

    Tôi hay góp nhặt những bông hoa này bỏ vào bao nylon; để lâu lâu, lại lựa vài chùm, kèm với những dòng thư viết vội từ chiến địa, gửi về Ban-Mê-Thuột cho người tôi thương.

    Cái tên “hoa vấn vương” là tôi đặt cho loài hoa ấy. Thực ra, hoa vấn vương, giản dị chỉ là những chùm bông gòn bay lênh đênh trong gió.

    Do tình cờ, có lần vào cuối mùa mưa, tôi nhìn thấy những quả bông gòn thấm nước, nổ tung. Những chùm bông trắng như tuyết vỡ, tan tác bay, rồi rơi rụng dần. Cứ thế, hoa theo gió phiêu du, cho tới khi chỉ còn là một chùm tơ trắng với cái cuống màu nâu nhỏ như đuôi kim, bay dật dờ, lãng đãng trong rừng.

    Tôi đã yêu loài hoa này, vì tôi thấy loài hoa này rất chung tình. Khi cánh hoa đã ghim vào áo trận của tôi rồi, thì hoa sẽ dính trên áo tôi cho đến hết một cuộc hành quân. Những sợi tơ trắng mềm mại của chùm hoa cứ dính cứng trên vải áo rằn ri, gỡ hoài, gỡ mãi không ra.

    Ngày này qua tháng khác, vào sinh, ra tử, chết chóc, gian lao, niềm vui của những người lính bạt mạng như tôi thật là giản dị: Chỉ mong lâu lâu được về hậu cứ Pleiku, có vài giờ quây quần bên nhau; ôm cây guitar nghêu ngao đôi khúc nhạc tình; rồi vào một quán quen, ngâm thơ, uống rượu. Qua một đêm vui là chúng tôi quên hết sự đời, hôm sau lại lên đường ra trận.

    Ở hoài trong rừng, suốt tháng, quanh năm, mùa nào chúng tôi cũng thấy lạnh, mùa nào cũng thấy nhớ nhà.

    Có lần đóng quân bên dòng Pơ-Kô, đang buồn, vừa mở radio lên, nghe Thái Thanh hát, lòng tôi càng buồn thêm:

    “Tôi xa đô thành một đêm trăng mông mênh
    Tuy ra đi rồi, mà vẫn nhớ vẫn thương.
    Hình bóng ấy, người em thơ đang từng giờ đợi chờ…”
    Hoàng Thi Thơ


    Ða phần quân nhân Cao-Nguyên Vùng 2 đến từ nơi khác.

    Nghe “Nhớ Thành Ðô” mỗi người tơ tưởng tới một thành phố yêu thương của riêng mình. Nhiều bạn tôi than:
    "Lâu không về qua SàiGòn, nhớ Gia Long, Trưng Vương quá!"

    Trước đây, đi hành quân, tôi thường nhớ Hội An và Pleiku. Hội An có mẹ tôi, Pleiku có hậu cứ đơn vị tôi.

    Trước đây, dù đã có hai lần ghé Ban Mê Thuột, nhưng tôi chẳng mảy may để ý gì tới thành phố này. Tôi đã từng nghe nhiều người than rằng xứ Thượng Ban Mê Thuột là nơi buồn quanh năm, chẳng thế mà mấy anh bạn cùng Khóa 20 Võ Bị của tôi đang phục vụ ở Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh cứ gọi thành phố ấy bằng cái tên “Buồn Muôn Thuở”.

    Nhưng từ sau lần đi họp Hội-Ðồng Kỷ-Luật tại Bộ Tư Lệnh Sư-Ðoàn 23 Bộ Binh hồi đầu tháng 5 năm 1969, tôi có dịp ghé nhà một người bạn, được gặp mặt em gái anh ta, thì Ban-Mê-Thuột đã trở thành một nơi, đi đâu tôi cũng nhớ, ở đâu tôi cũng muốn về.

    Từ đó tôi cũng ít khi về Hội An. Vì mẹ tôi cũng đã thương cô ấy, và thương cái gia đình “cũng là người Bắc Di Cư như nhà mình ấy mà!”

    Những lần mẹ tôi vào thăm vợ chồng Bác Võ, thân sinh của Loan, thế nào tôi cũng nài nỉ Trung Tá Sâm cho tôi rời đơn vị vài ngày để gặp mẹ tôi và gặp Loan.

    Bất cứ lần nghỉ dưỡng quân nào, dù chỉ hai, ba hôm, ông Thượng Sĩ Woodell, cố vấn của tôi, cũng phải tìm cho tôi một chỗ ngồi trên những chuyến bay con thoi đưa thư hàng ngày của Mỹ, nối liền Pleiku, Ban-Mê-Thuột, Quảng Ðức, Ðà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn.

    Cứ về Ban-Mê-Thuột thì tôi đương nhiên trở thành người lái xe đưa đón Loan và các em cô ấy từ nhà tới trường. Vì thế con đường rợp bóng phượng vĩ từ khu Cư-Xá Ðộc-Lập, qua Bưu-Ðiện, tới nhà thờ Vinh-Sơn, rồi rẽ sang trường Trung Học Tổng Hợp Ban-Mê-Thuột đã trở thành quen.

    Tôi cũng không còn thấy xa lạ với những cái tên Y Jut, Ama Trang Long, Ciné Lodo, Chùa Dược-Sư, Kem Chi-Cao, Lâm-Tuyền Cốc, …

    Tôi rất thích cái không khí ấm cúng của quán cà phê học trò Mây Hồng gần trường. Những lần lái xe tới sớm, tôi thường vào đây ngồi nhâm nhi ly cà phê đen chờ giờ tan học. Nói cho cùng, tôi thương nhớ Ban-Mê-Thuột cũng chỉ vì nơi đó có nàng.

    Ba toán Viễn-Thám đã được thu hồi bằng phương tiện bộ chiều hôm qua.

    Hôm nay tôi có trọn một ngày bình yên, không lo lắng.

    Tôi có thói quen viết miên man, mỗi khi ngồi buồn một mình. Có bài thơ ghi vội vàng trên chiến địa, rồi bỏ lại trên chiến địa. Có bài thơ ướt đẫm máu hồng từ những vết thương, bạn bè tôi tiếc rẻ, nên chép lại, gửi về Sài-Gòn cho người ta đăng báo.

    Trước ngày tôi gặp người nữ sinh Trung Học Ban-Mê-Thuột đó thì thơ tôi viết chẳng để tặng cho riêng ai. Nhưng từ khi tôi quen cô ấy, rồi yêu thương cô ấy, thì những bài tôi viết đều có ghi thêm câu “Gửi người tình nhỏ ở Ban-Mê-Thuột”.

    Sáng hôm đó, trên núi cao, sau một giờ bình yên, tôi đã có sẵn một bài thơ ngắn để gửi về cho người mình yêu dấu. Ít lâu sau, ông Hàng Vĩnh Xuân cũng đưa bài thơ này lên trang thơ của “Nguyệt San Biệt Ðộng Quân”. Ông Xuân và tôi vốn có chút giao tình; Ðại úy Hàng Vĩnh Xuân là Chủ Bút Nguyệt San Biệt Ðộng Quân Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.

    Trong sớm mai
    Buổi sáng thức dậy
    Thấy mình nằm trong rừng
    Núi rừng từ nghìn xưa đã buồn…

    Buổi sáng thức dậy
    Thấy lòng nhớ thành phố
    Thành phố bây giờ xa vô cùng…

    Buổi sáng thức dậy
    Lật tìm manh bản đồ
    Những dấu mực xanh, những đường gạch đỏ
    Mục tiêu nào gần, mục tiêu nào xa?

    Một ngày trong đời rồi cũng đi qua.
    Và một đời người rồi sẽ trôi qua…
    Sáng nay thức dậy
    Con chim nhỏ trên cành ngái ngủ

    Nhìn mái poncho đôi mắt thờ ơ
    Người lính vừa thay phiên gác
    Trở về lều xếp gọn chiếc ba lô
    Bếp lửa ngại ngùng, đợi chờ những viên trái phá

    Tôi ngồi một mình, đợi chờ giờ lên đường
    Nhớ nhung hoài, cũng thành thói quen!
    Em biết không?
    Giờ này tôi đang nghĩ về em…

    Và sáng nay thức dậy
    Chợt thấy mặt trời hồng
    Nhớ người Ban-Mê-Thuột vô cùng…

    Vương Mộng Long- 1970
    (Gửi người tình nhỏ ở Ban-Mê-Thuột)


    o O o

    Xế trưa, một chiếc trực thăng đáp xuống đài tiếp vận để trao cho tôi cái phóng đồ vùng hành quân mới. Hậu cứ cũng chuyển cho tôi một bì thư của Loan gửi từ Ban-Mê-Thuột. Phong thư hơi dày, trong đó chứa một lá thư viết bằng giấy học trò và ba cái bảng tên mới thêu.

    Tôi đã biết cô ấy là người vẽ rất đẹp. Nay mới thấy cái tài thêu thùa của cô ấy. Những đường chỉ ngụy trang vắt chéo nhau một cách tỉ mỉ và khéo léo, vừa chắc chắn, lại vừa mịn màng.

    Trên nền vải rằn ri, chữ “LONG” thoáng nhìn, thấy sắc nét như vẽ bằng bút lông trên tranh.

    Cầm trên tay ba cái bảng tên mới, tôi nhủ thầm:
    “Thêu kỹ thế này thì năm, sáu năm sau chưa chắc đã sút chỉ!”

    Trước đây ít năm, tôi đã có vài cái bảng tên do các cô nữ sinh Trung Học Pleiku thêu giùm. Tiếc rằng chỉ sau đôi lần đưa áo cho thợ giặt, thì những cái bảng tên ấy đã rách bươm.

    Thượng sĩ Goodell mời tôi một điếu xì gà vừa tiếp tế.

    Anh đưa cho tôi xem cái ảnh vợ con anh vừa từ Mỹ gửi qua. Trong ảnh, thằng bé trai cười toét miệng. Miệng nó sún mất hai cái răng cửa. Hóa ra nó đang thay răng!

    Nhìn cái ảnh, tôi không thể nhịn cười. Vì thằng Goodell con trông giống thằng Goodell bố như in. Thằng Goodell bố cũng vừa bị gãy hai cái răng cửa hôm tuần trước.

    Hôm đó, sau chầu rượu đón chào anh Thiếu úy Ðinh Quang Biện từ Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân vừa đáo nhậm đơn vị, nhận chức Ðại Ðội Trưởng, Ðại Ðội Trinh-Sát Liên Ðoàn 2 thì ông Trung sĩ Triêm lái xe đâm xuống ruộng. Thiếu úy Biện lọi giò, Thượng sĩ Goodell gãy hai cái răng. Goodell chưa kịp làm răng mới, chúng tôi đã có lệnh vào vùng.

    Thấy hình ảnh gia đình anh cố vấn Mỹ, tôi mơ ước thầm:
    “Biết tới bao giờ tôi và Loan mới có thằng Long con dễ thương như thằng con anh bạn?”

    Nhớ có lần tôi đưa Loan đi chợ. Thấy cửa hàng bán sách vở và đồ chơi trẻ con, tôi nói,
    - Anh muốn mua một quyển sách “Tập Ðánh Vần” để dành cho con chúng mình. Em nghĩ sao?

    Nghe tôi nói đùa, Loan đỏ mặt, cười mắc cỡ, không trả lời…

    Chiều nắng xế, hoa bay chập chờn trong núi, tôi ngồi dựa lưng vách đá, thả hồn về phương Nam. Có lẽ bây giờ ở Ban-Mê-Thuột đang là giờ tan học.

    Tôi hình dung ra cảnh người tôi yêu đang vén vạt áo dài xanh, rụt rè bước ngang qua sợi dây xích nối giữa hai cột trụ xi măng cổng trường để ra đường chờ xe. Ước gì lúc này tôi có mặt nơi đó nhỉ?

    Trưa nay tôi đã nhận cái phóng đồ hành quân mới. Ngày mai sẽ có tiếp tế trước khi chuyển vùng. Có lẽ còn lâu chúng tôi mới được về nghỉ dưỡng quân. Có lẽ còn lâu tôi mới được thấy lại Ban-Mê-Thuột.

    Bên cạnh tôi, người bạn Mỹ cũng đang ngồi dựa lưng vào một gốc cây. Mắt Goodell mang kiếng đen. Tôi không biết anh ta đang ngủ gật hay đang nhớ nhung một cái trang trại nhỏ nơi miền quê Texas, bên kia đại dương.

    Trời chiều không có mây. Một cặp chim hồng hoàng vừa sóng đôi bay qua đỉnh núi. Bốn cánh chim khổng lồ nhịp nhàng quạt gió. Vài phút sau, hai bóng chim chập vào nhau thành một chấm đen cuối trời…


    Trung Úy Vương Mộng Long - 1968

    o O o

    Nghĩa, tình, và nhiệm vụ…

    Chúng tôi được tiếp tế mười ngày lương khô rồi chuyển vùng.

    Hơn nửa năm sau trận Dak Tô 1969 tôi mới quay lại Bắc Kontum.

    Trực thăng vừa bay qua cầu Diên Bình, trước mắt tôi đã thấp thoáng những mái tôn chói nắng từ Tân Cảnh.

    Bên trái tôi, xa xa là Phi trường Phượng Hoàng, rồi tới Ngok Ring Rua, và Ben Het.

    Cảnh cũ vẫn chưa thay đổi, nhưng người anh cả của chiến trường đã không còn nữa. Vào vùng, tôi chạnh lòng nhớ tới “Thẩm Quyền 5”.

    “Thẩm Quyền 5” là danh xưng truyền tin của Ðại Tá Nguyễn Bá Liên, Tư Lệnh Biệt Khu 24.

    Thẩm Quyền 5 đã không ngừng theo dõi bước chân đại đội tôi suốt một tuần lễ dài của trận đánh đẫm máu nhất năm 1969 của Vùng 2.

    Ngày đó bất cứ lúc nào tôi lên máy cũng nghe tiếng Thẩm Quyền 5:
    “Thái Sơn! Ðây là Thẩm Quyền 5! Cố gắng lên em! Em giỏi lắm! Cố gắng lên em!”

    Ngay khi chiến dịch kết thúc, dù đang bận rộn, Thẩm Quyền 5 cũng cố gắng bay về Quân Y Viện Pleiku thăm hỏi tôi một lần. Trận này tôi bị thương nặng, vỡ xương vai.

    Ðầu tháng 12 năm 1969 trực thăng của Thẩm Quyền 5 đã bị địch bắn cháy ngay khi vừa cất cánh rời Căn cứ Hỏa Lực số 6 Ngok Ring Rua. Tôi được tin đau lòng này trong khi đang tham dự chiến dịch giải vây cho Trại Lực Lượng Ðặc Biệt Bu Prang, Quảng Ðức.

    Nay tôi đem quân trở lại chiến trường xưa, thì người chỉ huy vừa can trường vừa đức độ của tôi đã không còn! Thêm vào đó, vùng hành quân này cũng đã mất tên, danh hiệu quân sự “Biệt Khu 24” chỉ còn trong dĩ vãng.

    Chúng tôi vỏn vẹn chỉ có trên dưới sáu chục mạng, chứa không đầy tám chiếc HU1D (thường được gọi là UH1D) nên việc đổ quân xuống sân của hậu cứ Trung Ðoàn 42 Bộ Binh cũng thật là dễ dàng.

    Tôi để lại trên đỉnh Ngok Long một anh y tá, một toán sáu trinh sát viên, ba anh truyền tin cùng với hai máy PRC 25 và cây angten 292, rồi bay về Tân Cảnh ở với Ðại đội 2 Trinh Sát của Thiếu úy Ðinh Quang Biện.

    Chúng tôi tá túc trong căn nhà tôn sát nách câu lạc bộ. Còn hai anh cố vấn Mỹ của tôi thì ngủ nhờ trong căn nhà vòm chứa ban Cố Vấn Hoa Kỳ của trung đoàn.

    Tôi vào Trung Tâm Hành Quân để họp bàn với ông Trung Tá trung đoàn trưởng. Ông trung đoàn trưởng là một sĩ quan đã luống tuổi, phong cách rất từ tốn và hiền hòa.

    Thấy tôi có vẻ băn khoăn trước bức tường sừng sững, ghép bằng những tấm bản đồ tỷ lệ 1/100,000 trước mặt, trên đó, nơi tôi dự trù sẽ đổ quân lại nằm trong vùng oanh kích tự do, ông vội nói,
    – Trung úy yên tâm! Quân đoàn đã thông báo rằng, ranh giới oanh kích tự do sẽ bị đẩy xa về hướng Ðông thêm 6 cây số nữa trong suốt thời gian Biệt Ðộng Quân hiện diện.

    Ông tỏ ra rất vui khi biết tôi xuất thân Khóa 20 Võ Bị. Ông cho tôi hay đại đội phòng vệ hậu cứ của ông hiện giờ cũng do Trung úy Tuân, bạn cùng khóa của tôi chỉ huy.

    Ông cho chúng tôi mượn một chiếc xe Dodge 4×4 để sử dụng cho việc chợ búa và tiếp tế nước dùng hàng ngày.

    Lần hành quân này tôi được chỉ thị rõ ràng là chỉ làm công tác trinh sát thuần túy. Do đó, tôi không dự trù bất cứ hành động nào nhằm sử dụng pháo yểm hay không yểm cho các cánh quân.

    Tiêu lệnh đề ra cho ba toán Viễn Thám bắt buộc phải tuân theo:
    “Nếu bị bại lộ thì tự vệ, rồi chạy!”

    Trước khi bay lên Tân Cảnh, tôi có ghé Phòng 2 Quân Ðoàn vài phút, tôi đã trực tiếp nghe Trung tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Khu 2 nhắc nhở:
    – Trung tướng (Lữ Lan) muốn cậu vào vùng là để tìm mục tiêu cho Ðại úy Ngọc! Tránh giao tranh, càng ít càng tốt!

    Ðại úy Ngọc là Trung Tâm Trưởng, Trung Tâm Mục Tiêu của Phòng 2 Quân Khu 2. Trung tâm này là nơi tổng kết tin tức địch toàn Vùng 2 Chiến Thuật rồi thiết lập các sơ đồ oanh kích B 52 để Tư lệnh Quân Khu chuyển giao cho Mỹ thi hành.

    Nhiệm vụ của tôi là theo dấu Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công của Mặt Trận B3 Cộng-Sản. Ðơn vị Việt-Cộng này lâu nay thường quấy rối, đánh mìn, phục kích đoạn Quốc lộ 14 gần Tân Cảnh và quận lỵ Dak Tô.

    Trung tá Tiếu cho tôi hay, trước đây, Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công hoạt động trong vùng Bắc Dak Mot tức là hướng chính Bắc của Phi Trường Phượng Hoàng. Nhưng gần đây, các đơn vị Dân Sự Chiến Ðấu của hai trại Dak Séang và Ben Het liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân liên ranh hướng Tây Quốc lộ 14, nên đơn vị này phải chạy về ẩn náu trong khu vực núi non hướng Ðông thị trấn Tân Cảnh.

    Theo tôi suy đoán thì khu vực rừng rậm quanh chân hai ngọn núi Ngok Wan và Ngok Sie là vùng đáng nghi ngờ nhứt để Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công Cộng-Sản trú ẩn.

    Hôm sau, ba toán Viễn Thám được thả; toán An Giang xuống làng Bon Du bốn cây số Ðông Bắc Quận lỵ Dak Tô; toán Bắc Bình xuống làng Dak Men cách Tân Cảnh năm cây số về hướng Ðông Bắc; còn toán Cam Ranh thì nhảy xuống ngọn đồi tranh chỉ cách đài tiếp vận Ngok Long chừng hai cây số về hướng Tây; toán này vừa giữ nhiệm vụ tiếp cứu hai toán đầu, vừa kiểm soát con đường xe be từ làng Dak Long 1 tới Quận lỵ Dak Tô.

    Hai ngày trôi qua bình yên.

    Ngày thứ ba toán An Giang của Thiếu úy Minh báo cáo rằng, trên bờ suối Dak Rơnu có nhiều dấu chân voi thồ vượt cạn theo hướng Ðông, Tây. Ước tính đoàn voi vận chuyển này cũng cỡ năm, bảy con voi thồ, cùng hàng chục người đi theo bảo vệ.

    Tôi ra lệnh cho toán này men theo con đường thồ leo lên đỉnh ngọn núi nằm giữa Dak Rơnu và Dak Sing, rồi kiếm một vị trí thuận lợi giăng mìn phục kích địch để kiếm tài liệu.

    Qua ngày thứ tư, Thiếu úy Nhờ trưởng toán Bắc Bình cũng báo, toán của anh vừa phát giác một khu doanh trại bằng tre nứa có nhiều hầm hào phòng thủ trong khu rừng già, bên cạnh một bãi ngô. Nơi này nằm trên con đường xe be cũ cách Dak Men khoảng một cây số về hướng Bắc. Lực lượng địch ở đây ước chừng một đại đội chính quy, người Bắc

    Tôi thấy con đường từ Dak Men vào tới khu trú quân của địch là độc đạo, bên trái là đồng cỏ tranh, bên phải là vách núi, nếu bị địch phát giác chặn nút hai đầu thì toán của ông Nhờ khó thoát.

    Tôi bèn ra lệnh cho Bắc Bình leo ngay lên đỉnh ngọn núi hướng chính Ðông con lộ. Sau đó toán sẽ men theo triền núi tiến về hướng Ngok Sie. Từ trên cao họ có thể nhìn thấy những ngọn khói bốc lên trong thung lũng dưới chân núi. Những cụm khói này cho ta biết khái quát vị trí nghi ngờ có địch.

    Xế chiều, khi bản tin trong ngày của tôi vừa được mã hóa chuyển đi thì ông hạ sĩ quan trực hành quân của bộ binh tìm gặp tôi và báo rằng Trung tá Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân cần gặp tôi gấp trên hệ thống máy PRC 74. Trên hệ thống truyền tin này chúng tôi có thể đàm thoại với nhau bằng bạch văn.

    Ðầu dây bên kia, Trung tá Trịnh Văn Bé, Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân nói,
    – Này Long! Có thằng đồ đệ của cậu từ Hội An vào. Nó ở nhà mình cả tuần lễ rồi. Nó đang chờ gặp Long! Có về được không thì cho nó hay? Nghe nói nó còn phải đi Vũng Tàu học truyền tin. Nếu phải chờ lâu, chắc nó bị lỡ ngày khai giảng.

    Nghe hỏi, tôi ngớ người ra,
    – Tôi không có thằng đồ đệ nào đang ở Hội An cả! Chắc là ai đó lầm người!
    – Nó xưng tên là Nguyễn Hồng Phong, lính của Long từ ngày Long mới ra trường, khi Tiểu Ðoàn 11 còn ở ngoài Ðà- Nẵng.

    Thế là tôi nhớ ra ngay,
    – Nếu nó xưng tên là Nguyễn Hồng Phong thì nó là thằng đồ đệ ruột của tôi ngày xưa đó! Bình Minh cho nó tá túc ít ngày, chờ tôi về!

    “Bình Minh” là danh hiệu truyền tin của Trung tá Trịnh Văn Bé. Ông Bé có căn nhà trong cư xá Trần Quý Cáp, vợ con ông còn ở Sài-Gòn, nên ông cho tôi và Thiếu úy Ðặng Hữu Duyên, sĩ quan tiếp liệu của liên đoàn ở nhờ một phòng.

    Trong nhà còn có hai người đàn em của tôi là Trung sĩ Nguyễn Lác và Hạ sĩ Nguyễn Tiến, tài xế. Có lẽ chú Phong đang tá túc trong nhà Trung tá Bé, nên ông Bé mới nói,
    “Nó ở nhà mình cả tuần lễ rồi.”

    Ngay lúc ấy, Trung sĩ Nguyễn Lác cũng xen vào,
    – Trình Thái Sơn, năm 1966 em là binh nhì, tân binh ở Ðại đội 1, anh Phong đã là hạ sĩ ở Ðại đội 3. Anh Phong là người nấu cơm cho Thái Sơn. Anh Phong bây giờ là trung sĩ đang ở Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, nhân chuyến đi học truyền tin, anh ấy ghé thăm Thái Sơn. Ảnh có đem theo mười con cua Cửa Ðại. Cua là do má của Thái Sơn gửi vào, nhưng chờ lâu quá, cua chết hết rồi! Ðể em đưa máy cho anh Phong nói chuyện với Thái Sơn nhé!

    Hình như chỉ chờ có thế, đầu dây bên kia đã có tiếng người nghẹn ngào,

    2. - Ông thầy! Ông thầy ơi! Em chờ ông thầy gần chục ngày nay. Cứ tưởng sau khi nhảy toán ở Mang Giang xong thì ông thầy sẽ về, nào ngờ, tới hôm nay em vẫn chưa được gặp mặt ông.

    Ðúng là chú Phong rồi! Vẫn cái giọng Bắc Kỳ khào khào, quê quê ngày xưa.

    Tháng Hai năm 1966, vì lý do kỷ luật, Trung sĩ hiện dịch Nguyễn Hồng Phong bị giáng cấp xuống hạ sĩ, từ Quân Lao Mang Cá về trình diện Ðại Ðội 3/11 Biệt Ðộng Quân. Hôm đó tôi cũng vừa tới đơn vị này sau khi tốt nghiệp Khóa 20 Ðà Lạt và Khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy.

    Từ ấy Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong thành người nấu cơm cho Thiếu úy Vương Mộng Long.

    Ðầu đời lính, tôi có ba anh đồ đệ: Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong, nấu cơm, Binh nhất Mai Ðăng Vinh truyền tin và Binh nhất Lý Thí mang đồ ngủ.

    Mười hai ngày sau, Lý Thí và Mai Ðăng Vinh chết trong trận Tháp Bằng An, Quảng-Nam, còn lại một mình Nguyễn Hồng Phong. Chú Phong trở thành thuộc cấp thân thiết nhất của tôi.

    Tới khi Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân bị lôi cuốn vào vụ Phật Giáo Miền Trung thì chú Nguyễn Hồng Phong đã theo sát bên tôi suốt thời kỳ binh biến này cho tới khi tôi và Phong chạy vào chùa, cạo đầu, xuống tóc, thành hai tỳ kheo Thích Như Tùng và Thích Như Sơn của Long Tuyền Tự, Hội-An.

    Sau đó tôi bị tù, bị giáng cấp xuống trung sĩ còn Phong thì phiêu dạt phương trời nào, tôi không biết.

    Thế rồi, tháng 7 năm 1967 hết hạn phạt giam, tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ chờ lấy sự vụ lệnh để lên Pleiku, thì bất ngờ thầy trò tôi gặp lại nhau.

    Trưa hôm đó tôi đang la cà trong câu lạc bộ thì thình lình bị một người nhào vào ôm chặt,
    -Thầy ơi! Thầy ơi!

    Người ôm tôi là một tân binh, đầu trọc lóc! Mặt anh ta, thật dễ nhận, với đôi mắt xếch, và một vết sẹo dài trên má trái. Tôi giật mình,
    – Phong! Phong đó ư?

    Anh tân binh vừa khóc thút thít, vừa kể lể,
    -Vâng! Em đây! Thầy ơi! Em nghe Bác (mẹ tôi) nói, sau khi ra khỏi Quân Lao Mang Cá, thầy đã bị đưa lên Pleiku, em liền mua một tờ khai sinh với cái tên mới rồi tình nguyện làm tân binh Biệt Ðộng Quân. Mãn khóa này em sẽ xin lên Pleiku gặp thầy! Tên em bây giờ là Lê Văn Ơn! Thầy cứ gọi em là Ơn! Ðừng gọi là Phong nữa!

    Nghe vậy, tôi đoán chắc Phong đã ghé Hội An, và được nghe mẹ tôi kể cho biết chuyện tháng Mười năm 1966 tôi đã bị đưa lên Vùng 2 sau khi ra khỏi Quân Lao Mang Cá. Chắc chú ấy không hay những chuyện xảy ra sau này. Vì tôi giấu, nên chính mẹ tôi còn không hay chuyện tôi lận đận lao đao cả năm dài vì vụ Ðà- Nẵng 1966.

    Chúng tôi không nói chuyện với nhau được lâu, vì thời gian ở câu lạc bộ của tân binh rất giới hạn, và hình như một tuần lễ, họ mới có dịp tới đó một lần.

    Sau hôm ấy, cho tới khi lên đường về Pleiku, tôi không còn gặp lại Phong.

    Ở Pleiku, mỗi khi có tân binh bổ sung, tôi đều nhờ ông Trung úy Trọng, sau là Trung úy Giáp, Sĩ quan Trưởng Ban 1 Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân tìm xem có ai là Lê Văn Ơn không, nhưng tuyệt nhiên chẳng có tân binh nào mang tên này.

    Giữa năm 1968, tôi đọc được, trong thư mẹ tôi gửi vào, có câu:

    “Thằng Phong đang làm Trung Sĩ ở ngoài Huế.”

    Bà mẹ tôi biết chuyện này cũng vì nhân dịp vào Hội An thăm nhà tôi, Phong đã kể:

    “Năm 1967, sở dĩ có chuyện Phong đổi họ, đổi tên, tình nguyện làm binh nhì Biệt Ðộng Quân cũng chỉ vì chú ấy hy vọng sau khi ra trường, sẽ được đưa lên Pleiku, ở gần ông thầy của chú. Nhưng tới khi mãn khóa tân binh Dục Mỹ, thấy tên Lê Văn Ơn nằm trong danh sách bổ sung quân số cho Liên Ðoàn 1 Biệt Ðộng Quân ngoài Ðà Nẵng thì chú ấy lại đào ngũ lần nữa!”.

    Phong tiếp tục cuộc sống bất hợp pháp nơi quê vợ Quảng Trị cho tới sau biến cố Tết Mậu Thân.

    Sau Mậu Thân, chính phủ ban lệnh ân xá và miễn tố cho tất cả quân nhân đang tại đào. Cho phép họ phục hồi cấp bậc cũ và trở về phục vụ trong quân ngũ.

    Thế là chỉ nửa năm sau khi trình diện và cầm súng trở lại, Hạ sĩ tiểu đội trưởng Nguyễn Hồng Phong đã lên tới trung sĩ, được giao cho chức vụ trung đội phó bộ binh.

    Ðã mấy lần tôi về thăm Hội-An nhưng không có thì giờ ra Huế. Thầy trò tôi từ ngày nói chuyện được vài câu năm 1967, ở Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ, tới 1970 vẫn chưa nhìn lại mặt nhau.


    Cư xá Trần Quý Cáp, Pleiku 1970. Từ trái: B2 Hoàng, Tài xế Thuộc, Tài xế Tiến, B2 Hà

    Tôi thấy mắt mình nhòa đi, khi nghe đầu dây bên kia, người đàn em của tôi đang khóc,
    – Thầy ơi! Thầy ráng giữ gìn sức khoẻ! Nếu trời không cho chúng mình gặp lại nhau kiếp này, kiếp sau em lại xin tình nguyện làm đồ đệ của thầy lần nữa!

    Tôi vội hứa,
    – Mai nếu không có gì thật quan trọng xảy ra, anh sẽ về gặp chú.
    – Vâng! Em sẽ chờ ông thầy! Hai ngày nữa khóa truyền tin khai giảng. Nếu trình diện trễ, họ không nhận và đuổi về. Nói thế chứ, việc em cần là gặp mặt ông thầy, dù có trễ và bị đuổi về đơn vị em cũng chẳng ngán!

    Sau khi trò truyện với Phong vài phút nữa, tôi gác máy rồi sang khu Cố Vấn Hoa Kỳ của Trung Ðoàn 42 gặp Goodell. Tôi nhờ anh ta ngày mai xin cho tôi một trực thăng để đi quan sát vùng hành quân, sau đó lấy cớ có việc cần phải về hậu cứ Pleiku, tôi có dịp nói đôi câu với Phong trước khi chú ấy đi Vũng Tàu.

    Hình như số trời không cho thầy trò tôi được gặp nhau lần nữa, nên mới mờ sáng hôm sau, qua đài tiếp vận, toán Cam Ranh của Trung sĩ Lê Sanh Ma báo cáo chạm địch.

    Một con chó săn (?) của du kích Thượng đã đánh hơi, phát giác ra trong ruộng ngô bên đường xe be có người. Toán này phải chạy bán sống bán chết. Hiện giờ chưa rõ vị trí chính xác của toán này đang ở đâu.

    Vậy là thay vì xin trực thăng để về Pleiku, tôi lại dùng trực thăng để thả tôi và hai anh Mỹ cùng một toán viễn thám khác xuống đài tiếp vận.

    Ðỉnh Ngok Long cao 1075 mét nên từ đây tầm quan sát của tôi thật là mút mắt. Cách Ngok Long chừng hai cây số về hướng Tây Bắc là con đường xe be nhìn giống như một con trăn lớn, nằm ngoằn ngoèo theo hướng Ðông Nam,Tây Bắc vắt ngang một ngọn đồi tranh.

    Trưa hôm đó tôi bắt liên lạc được toán Cam Ranh. Toán đang cố gắng tìm cách đánh lạc hướng địch.

    Xế chiều, toán Cam Ranh mới bơi qua con suối Dak Sing. Toán không thể thoát chạy nhanh như mọi lần trước đây, chỉ vì có một người bị thương vì…chó cắn!

    Tôi dẫn theo anh y tá và bốn viễn thám viên xuống núi đón ông Ma. Sáu người của tôi tới cái yên ngựa cách Ngok Long chừng một cây số thì nghe tiếng súng AK nổ rộ từ bờ Bắc của suối Dak Sing.

    Thung lũng Dak Sing toàn là đầm lầy và đồng cỏ tranh rất trống trải. Có lẽ địch đã nhìn thấy quân ta bên bờ Nam, nên nổ súng bắn theo.

    Chẳng đặng đừng, tôi phải gọi Trung Ðoàn 42 xin pháo binh Hoa-Kỳ từ Dak Mot bắn phủ vùng một đoạn đường từ Dak Long 1 tới bờ suối, hy vọng chặn được đoàn quân địch đang truy kích quân ta.

    Ở Dak Mot có một pháo đội 16 khẩu 105 ly của Mỹ. Muốn yêu cầu bao nhiêu tràng họ cũng thỏa mãn ngay.

    Hai tiếng đồng hồ sau, toán Cam Ranh mới về tới cái yên ngựa. Quần áo người nào cũng đỏ lòm vì bùn lầy. Bùn vùng này thật là đặc biệt, màu bùn đỏ như máu tươi, đi tới đâu, bùn từ quần áo giày vớ lại bám trên ngọn tranh, không có cách gì xóa dấu vết được.

    Anh y tá vội dùng rượu cồn để rửa vết chó cắn trên đùi anh thương binh. Tôi cũng ngồi bên, giúp anh một tay. Người bị chó cắn là Binh nhì Lê Hóa. Vết thương trên đùi chưa được băng bó, lại bị ngâm nước bùn nhiều giờ, nay đã sưng tấy lên.

    Bất ngờ, “Xoẹt!…”

    từ dưới dốc,một vật gì đó hình thù như một cái gối ôm đen thui phóng lên ngay bên hông tôi!

    “Rẹt! Rẹt! Rẹt!…”

    Hạ sĩ Chạy đã nhanh tay “đẩy” một băng M16. Cái gối ôm màu đen văng sang bên lối mòn, thì ra đó là một con chó săn! Ðầu con chó bị đạn bắn vỡ toác. Máu chó văng tung toé.

    Tôi hét lên,
    “Tụi thằng Chạy ở lại cản đường! Tụi thằng Ma kéo thằng Hóa lên đài tiếp vận! Nhanh lên!”

    Chúng tôi vác anh viễn thám bị chó cắn leo lên chưa được nửa đường tới đỉnh Ngok Long thì dưới chân núi toán của Hạ sĩ Chạy bắt đầu đánh nhau.

    Nghe tiếng súng địch, tôi thấy không phải là tiếng súng hỗn tạp của du kích Thượng Cộng, mà rõ ràng là tiếng AK và RPD của quân chính quy. Súng của du kích thường là loại bắn từng phát một, không có súng bắn liên thanh từng tràng.

    Lực lượng địch đang truy sát chúng tôi chắc chắn là trực thuộc một đơn vị chính quy Cộng-Sản.

    Tới đài tiếp vận, tôi cho anh em bố trí một vòng cung hướng về con đường mòn đầu dốc.

    Mặt trời lặn từ từ…

    Dưới chân núi vọng lên năm sáu tiếng “Ùm! Ùm! Ùm!…” liên tiếp rồi im. Chắc quân ta đã cản địch bằng lựu đạn M26 trước khi rút.

    Không lâu sau, toán bốn người của Hạ sĩ Chạy về tới chỗ quân bạn.

    Toán của Hạ sĩ Chạy vừa lên tới đỉnh núi thì dưới chân dốc có tiếng mìn nổ và tiếng chó kêu “Ăng ẳng!”

    Chắc chắn vài con chó săn và vài tên địch đã bị bẫy gài của chú Chạy đốn gãy cẳng rồi.

    Nhớ lại, hồi sáng, vừa nghe toán của chú Ma báo cáo là bị chó cắn, tôi đã hơi nghi. Vì xưa nay tôi đã hành quân qua nhiều buôn làng của người Thượng, hiếm khi thấy chó sủa người, chứ đừng nói tới chuyện chó tấn công người. Chó của dân Thượng chỉ sủa và cắn thú rừng, tuyệt nhiên chúng không cắn người!

    Tối đó chú Ma kể lại tường tận diễn tiến sự việc, tôi mới rõ nguyên nhân vì sao mà toán của chú bị địch đuổi phải chạy vắt giò lên cổ.

    Số là, sau khi đặt chân xuống bìa làng Dak Long 1 đã bỏ hoang, Trung sĩ Ma cho quân tụt xuống suối ém quân suốt bốn ngày. Tới khi nghe các toán khác phát giác dấu vết địch, Ma mới cho quân leo lên đỉnh ngọn đồi tranh hướng Bắc để dễ liên lạc và dễ bắt tay với hai toán kia.

    Tới đỉnh đồi, họ đụng phải một bãi ngô đang có cờ, anh em tưởng đây là nương rẫy của dân Thượng từ ngoài Dak Tô vào canh tác.

    Gần nửa tháng ở trong rừng, từ Mang Giang qua Dak Tô không có cọng rau nào trong bụng, ai cũng thấy xót ruột. Sáu chàng viễn thám lủi vào ruộng ngô, mỗi người cạp vài bắp ngô non cho mát ruột.

    Nào ngờ,

    “Gâu! Gâu! Gâu!…”

    bốn, năm con chó xông vào tấn công. Năm viễn thám viên vọt nhanh xuống suối. Riêng Binh nhì Lê Hóa vì luống cuống bởi chiếc ba lô chứa cái máy PRC 25 nên chậm chân.

    Hai con chó săn bự xự nhào vào hai chân của Hóa. Hai hàm răng chó vừa nhọn, vừa sắc cắn tới tấp rồi nhay qua nhay lại.

    Ðau quá, Hóa nhắm mắt quơ đại một băng hai chục viên M 16 rồi phóng xuống đồi.

    Thì ra đỉnh ngọn đồi đó là vị trí một đơn vị tiền tiêu của địch.

    Từ đỉnh đồi này chúng có thể kiểm soát hai trục lộ tiến sát từ Dak Tô và từ Tân Cảnh.

    Chắc chắn đây là một đơn vị Trinh Sát hay Ðặc Công; các đơn vị cấp tiểu đoàn Ðặc Công hay Trinh Sát Việt-Cộng mới có chó săn để dò đường và dẫn đường.

    Cũng may là mùa này gió theo hướng Ðông Tây, mấy ngày qua, toán Cam Ranh nằm cuối gió nên không bị chó đánh hơi, phát giác.

    Tới khi nghe tiếng súng của viễn thám viên Lê Hóa nổ “Ðùng! Ðùng!” bọn Việt Cộng mới biết có địch xâm nhập. Tới khi chúng tập họp đủ quân số để truy kích thì kẻ địch của chúng đã chạy xa rồi.

    Tôi thở ra nhẹ nhõm khi thấy quân ta không bị tổn thất gì đáng kể.

    Hiện thời chúng tôi chỉ có hơn hai chục tay súng, kể cả anh Hóa thương binh và hai anh cố vấn Mỹ. Ðỉnh núi Ngok Long lại quá rộng và bằng phẳng, không có chỗ nào có thể cho chúng tôi dựa lưng để chống đỡ nếu địch mở ra những đợt tấn công liên tiếp.

    Ðạn mang trên lưng chúng tôi cũng không nhiều, nếu phải đánh nhau suốt đêm thì chúng tôi sẽ nguy ngay.

    Tôi nghĩ, nếu địch tiếp tục truy kích chúng tôi thì chắc chắn chúng sẽ theo con đường mà tôi đã dùng để đổ dốc sáng nay. Tôi bèn trải quân theo hình cánh cung đóng chốt đôi ngay đầu con đường mòn.

    Ngoài hai quả Claymore sẵn sàng, chúng tôi còn chuẩn bị gần chục trái lựu đạn M26 để nghênh đón địch ngay đầu dốc.

    Ðêm xuống, bóng tối dâng lên, tinh thần chúng tôi càng lúc càng thêm căng thẳng.

    Sợ địch sẽ lợi dụng bóng tối để leo lên tập kích, tôi nhờ Goodell xin không quân yểm trợ gần. Chỉ nửa giờ sau, hai trực thăng võ trang Cobra đã đảo một vòng trên đầu tôi. Tôi điều chỉnh Cobra đánh sát chân Ngok Long, rồi từ đó kéo dài vùng oanh kích xa dần về hướng Tây Bắc.

    Khi Cobra rời vùng, tôi đã có sẵn một máy bay Hỏa Long AC 47 lên thay thế.

    Chúng tôi được Hỏa Long bao vùng cho tới gần sáng.

    Ðêm đó Binh nhì Hóa bị vết chó cắn làm độc, lên cơn sốt mê man.

    Mặt trời chưa lên, mọi người đã ba lô, súng đạn gọn gàng.

    Tôi cho người thay nhau cõng chú Hóa và theo chân nhau tụt xuống núi lánh nạn.

    Tôi quyết định không đổ thêm quân vào vùng. Trừ bị của tôi chỉ còn một trung đội nằm ở Tân Cảnh. Nếu sử dụng nốt trung đội này, sẽ không còn ai tiếp cứu nữa. Sau đó lại phải đánh nhau với một lực lượng địch bốn năm lần mạnh hơn mình trong rừng rậm thì chết là cái chắc!

    Rút lui khỏi đây càng nhanh càng tốt mới là thượng sách.

    Tới trưa, bên một vách núi chênh vênh, chúng tôi an toàn leo lên trực thăng về Tân Cảnh.

    Ngày sau nữa tôi triệt xuất hai toán còn lại không trở ngại.

    Về tới Tân Cảnh, tôi tập họp các toán lại, để đúc kết tình hình.

    Dịp này toán Bắc Bình báo cáo rằng trong những ngày vừa di chuyển vừa theo dõi địch, họ phát giác ra năm sáu vị trí khói bốc lên rải rác trong thung lũng Dak Sing, cặp theo con đường xe be chạy dài từ Dak Men vào tới chân núi Ngok Sie.

    Ngày nào cũng thế, các lùm khói chỉ xuất hiện vào lúc mờ sáng khi sương mù chưa tan; tới khi nắng lên thì cảnh vật trở lại yên tĩnh, không có gì đáng nghi.

    Thiếu úy Nhờ cho rằng những cuộn khói ban mai đã bốc lên từ các bếp nấu cơm hàng ngày của Việt-Cộng.

    Từ những dữ kiện trên, tôi suy ra, đơn vị Việt-Cộng nằm dài theo thung lũng Dak Sing dưới kia chính là Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công của Mặt Trận B3 Cộng-Sản.

    Chúng tôi có một ngày nghỉ ngơi rồi lên trực thăng rời Tân Cảnh.

    Trung Tá Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn không tiếc lời khen ngợi chúng tôi đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao phó.

    Trung tướng Lữ Lan, Tư lệnh Quân Khu 2 cũng đã vui vẻ ra tận bãi đáp trực thăng của Thành Pleime để bắt tay và nói lời khích lệ tinh thần chúng tôi.

    Tôi về tới Cư Xá Trần Quý Cáp, Pleiku thì chú Phong đã đi rồi.

    Trung Tá Bé kể lại,
    – Thằng học trò của Long đúng là một tên “gàn” hết cỡ! Có mười con cua của bà má Long gửi vào, anh bảo nó luộc lên rồi cất đi chờ Long, nó không nghe. Mỗi ngày vài con cua chết; qua năm ngày thì chẳng còn con nào. Cả ngày nó cứ đi ra, đi vô, không yên. Ðêm nào anh cũng nghe tiếng nó khóc. Tội nghiệp quá!

    Không lâu sau, mẹ tôi bất ngờ vào Pleiku báo cho tôi một tin thật là buồn,
    – Vợ thằng Phong mới bế đứa con gái nhỏ vào Hội An báo cho mẹ biết rằng thằng Phong chết rồi! Vợ nó nói, thằng Phong được đi học truyền tin ở Vũng Tàu, nhưng cứ mải đi chơi, trình diện trễ, bị trả về nhiệm sở cũ. Ít lâu sau thì tử trận! Mẹ đã cho vợ nó một số tiền, và dặn, bất cứ lúc nào nó cần giúp đỡ thì cứ vào Hội An gặp mẹ.

    Vừa kể chuyện này, mẹ tôi vừa lau nước mắt. Chú Phong mồ côi mẹ. Từ đầu năm 1966, khi nhà tôi còn cư ngụ tại Khu Hồ Sen chùa Âm Bổn, Hội-An, chú Phong tới thăm mẹ tôi lần đầu, chú ấy đã coi mẹ tôi như là mẹ chú ấy. Mỗi khi ghé nhà tôi, chú thường gọi mẹ tôi,

    “Mẹ ơi! Mẹ ơi!…”

    Chú Phong mất, mẹ tôi cũng đau lòng như vừa mất một người con mang nặng, đẻ đau.

    Tin này đã khiến lòng tôi áy náy không yên một thời gian khá dài.

    Nếu ngày đó mẹ tôi không gửi mười con cua Cửa Ðại vào Pleiku cho tôi, chắc chú Phong đã đi thẳng một lèo từ Hội-An vào Vũng Tàu rồi.

    Nếu ngày đó chú Phong tới Pleiku, tôi vắng nhà, chú không chịu chờ, chắc chắn chú ấy đã không bị trình diện trễ.

    Nghĩ xa hơn, nếu năm 1967 anh tân binh có tên Lê Văn Ơn được bổ sung cho Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân ở Pleiku, thì biết đâu anh ta vẫn còn sống!

    Cuối cùng tôi đành tự an ủi:

    “Con người sống chết có số. Cái số của chú ấy đã như vậy rồi, thì có cưỡng cũng chẳng được!”

    Ðầu tháng Bảy năm 2013, một người đàn ông, giọng trọ trẹ, từ Phong Ðiền, Quảng Trị, Việt-Nam gọi điện thoại cho tôi ở Seattle,
    – Trung úy ơi! Cái bật lửa Zippo có khắc giòng chữ “TA LÀ VUA” của Trung úy có còn đó không? Nếu còn, ông cho em mượn để mồi một điếu Lucky!

    Vừa nghe câu này, tôi biết ngay rằng người ở đầu dây bên kia phải là người đã từng cùng tôi chia ngọt sẻ bùi trong suốt thời gian dài ở Ðại đội 1/11 Biệt Ðộng Quân từ 1967 tới 1969. Họ biết ngày đó tôi có cái Zippo khắc giòng chữ “TA LÀ VUA” vừa khinh mạn, vừa ngổ ngáo, cũng như họ biết trong túi tôi lúc nào cũng có một bao thuốc lá hiệu Lucky không đầu lọc.

    Sau này, dù tôi đã đeo lon đại úy, thiếu tá lâu rồi, những thuộc cấp cũ của tôi và cả vợ con họ, mỗi khi gặp lại, đều kêu tôi là “Trung úy” .

    Tôi không giấu nổi nỗi vui mừng nên la lớn,
    – Ai đó?
    – Lụa đây Trung úy! Trung úy có nhớ tên em không?

    – Okay! Nhớ rồi! Trung sĩ nhất Ðoàn Văn Lụa ở Ðại đội 1! Lụa đang ở đâu vậy? Có khoẻ không? Gia đình bình yên chứ?
    -Dạ, em đang ở quê Quảng Trị, em mới tìm được số điện thoại của Thái Sơn, em gọi Thái Sơn, trước là để thăm Thái Sơn và gia đình, sau là báo cho Thái Sơn biết rằng vợ thằng Nguyễn Hồng Phong đã mất cách nay mấy tháng rồi!

    Trung sĩ nhất Ðoàn Văn Lụa là một tiểu đội trưởng ở Ðại đội 1/ 11 giải ngũ sau khi bị thương ở Ðà-Lạt trong trận Tết Mậu Thân.

    Tình huynh đệ chi binh vẫn còn đó, bốn mươi lăm năm qua đi, mà ông trung sĩ nhất tiểu đội trưởng vẫn chưa quên ông trung úy đại đội truởng của mình.

    Tôi thắc mắc,
    – Ủa! Lụa quen nhà thằng Phong à? Ðứa con gái của thằng Phong bây giờ đâu?
    – Trình Thái Sơn, vợ thằng Phong là em ruột của Lụa. Sau khi thằng Phong chết, cô ấy đem con về quê Quảng Trị ở nhà em. Cách nay vài tháng cô ấy qua đời vì bệnh. Còn đứa con cô ấy thì bỏ xứ, đi làm xa, lâu lắm rồi không có tin tức gì.

    Vì từ năm 1974 mẹ tôi đã di chuyển vào Sài-Gòn định cư, nên gia đình tôi không còn biết thêm tin tức gì của vợ con chú Phong.

    Mẹ tôi cứ áy náy rằng vợ chú Phong còn quá trẻ, năm chú Phong tử trận vợ chú mới trên hai mươi tuổi mà đã thành góa phụ, thật là tội nghiệp.

    Tôi không hỏi thêm, nhưng qua cung cách nói chuyện của chú Lụa, tôi tin rằng người em gái của chú ấy một đời chỉ có một mối tình.

    *****

    Lá đỏ trong rừng lạ
    Ðầu tháng Năm năm 1970 có một anh lính của Tiểu Ðoàn 23 vừa chết trận. Quê quán anh ở xã Châu Sơn, Ban Mê Thuột, thân nhân của anh đã áo tang, khăn trắng túc trực ở Quân Y Viện Pleiku. Trung Tá Sâm muốn nhờ tôi bay theo trực thăng, đưa quan tài của người lính đó về thẳng Châu Sơn, đáp giữa sân nhà thờ.

    Tôi vừa xuất viện sau khi mổ lấy một mảnh cối 82 ly bên sườn, còn rảnh rang, nên cũng muốn nhân dịp này ghé nhà thăm Loan vài hôm nên nhận lời làm công tác này ngay.

    Thói quen, cứ lên trực thăng thì thế nào tôi cũng đem theo một cái PRC 25 có tần số của đài tiếp vận Hàm Rồng. Nếu đi đâu bằng máy bay cánh thẳng thì tôi không mang máy.

    Chiếc trực thăng có nhiệm vụ bay con thoi cho Quân Khu 2 ngày hôm đó đã trình diện rất đúng giờ. Họ tới từ Camp Holloway, Pleiku. Phi hành đoàn gồm bốn quân nhân Mỹ trắng. Ông Đại úy Trưởng phi Cơ hơi lớn tuổi, ăn nói có vẻ cộc lốc, thô lỗ nhưng dứt khoát. Ba người còn lại, gồm một Trung úy phi công phụ và hai cơ phi xạ thủ thì còn trẻ măng.

    Chiếc HU1-D phải dựng ghế lên thành tàu mới đủ chỗ cho tôi và bốn thân nhân tử sĩ ngồi bệt hai bên chiếc quan tài.

    Mặc dù quan tài đã được hàn thiếc xung quanh, nhưng mùi tử thi vẫn khiến hành khách không chịu nổi. Hai cánh cửa trực thăng đã được mở rộng tối đa mà tôi vẫn còn cảm thấy khó thở.

    3. Phi cơ bốc lên lấy cao độ rồi lao nhanh trong không trung. Lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ trên chiếc quan tài cứ bật lên, bật xuống, từng cơn phần phật, như muốn thoát ly ra khỏi lòng con tàu để bay ra ngoài.

    Chúng tôi đáp xuống Châu Sơn không khó khăn. Dưới sân nhà thờ đã có nhiều người đứng chờ, trong đó có trung đội chung sự của Tiểu Khu Daklac.

    Tôi bàn giao chiếc quan tài của người đồng đội cho những người phụ trách công tác tiễn đưa tiếp theo, rồi lên tàu tiếp tục cuộc hành trình.

    Rời Châu Sơn, chúng tôi nhắm hướng Ðức Lập. Có một công văn khẩn phải trao cho đơn vị Công Binh đang xây dựng căn cứ Bu Prang.

    Sau việc này máy bay mới trở về Ban Mê Thuột, đi Nha Trang, ra Qui Nhơn, cuối cùng sẽ quay lại Pleiku.

    Tôi sẽ chấm dứt chuyến quá giang này khi phi cơ xuống Ban Mê Thuột đổ xăng.

    Chúng tôi chỉ ghé phi trường của Trại Ðức Lập một phút, trao tay cho ông Ðại úy Tỵ cái bì thư rồi đi ngay.


    Trực thăng vừa rời Ðức Lập thì trời chuyển cơn giông, trần mây quá thấp, lại đen kịt đầy chớp giật ngay trên đầu.

    Ông phi công vội vàng cho con tàu vọt lên cao tránh sét đánh. Gần tới cao độ bảy nghìn bộ tôi mới thấy trời quang đãng.

    Phi cơ tiếp tục lên cao hơn, càng lên cao, nhiệt độ càng giảm. Dù hai anh cơ phi xạ thủ đã đóng kín hai cửa hông của máy bay rồi mà hai hàm răng của tôi còn đánh vào nhau “Cộp! Cộp!…”

    Bay được khoảng nửa giờ thì trực thăng giảm độ cao.

    Tôi ước tính nếu đi đúng đường thì dưới kia phải là thành phố Ban Mê Thuột. Nhưng ông phi công cứ bay vòng vòng hoài mà không tìm ra cái lỗ hổng nào để chui xuống. Dưới bụng con tàu là một biển mây trắng xóa.

    Không ai biết độ dày của cái nệm mây dưới kia là bao nhiêu. Nếu mạo hiểm chui xuống, không may mà cánh quạt chặt phải cây cối hay cột đèn thì chết ngay.

    Tôi thấy ông phi công chợt kéo cần cho con tàu đổi hướng sau một hồi đàm thoại với đài kiểm soát không lưu ở dưới đất.

    Tôi đoán mò, chắc ông ta được lệnh bay tới một phi trường khác để hạ cánh chăng?

    Thế là, chiếc trực thăng cứ “Bạch! Bạch! Bạch!…” vút đi, dưới bụng con tàu vẫn là mây trắng xóa.

    Tôi bắt đầu chột bụng khi nhìn thấy, qua vai người lái, cái kim đồng hồ xăng đang tiến gần chữ “E” (E=Empty = Trống rỗng = Hết nhiên liệu).

    Bên cạnh đồng hồ xăng là cái quả cầu đo thăng bằng của phi cơ. Phi cơ vẫn trong tình trạng bình phi, nghĩa là bay bình thường, nhưng không hiểu vì sao mà quả cầu của phi cơ lại liên tục lộn mèo, chao đảo, không yên. Cái kim la bàn dạ quang trên đồng hồ chỉ hướng của phi cơ cũng quay lung tung, chẳng biết máy bay đang đi theo hướng nào!

    Tôi mở cái địa bàn ra, để trên đùi gióng hướng thì toát mồ hôi, trực thăng đang vùn vụt bay theo hướng Tây Bắc! Chẳng lẽ ông phi công này bay đi Tiêu Atar? Tiêu Atar ở giữa rừng, làm gì có xăng!

    Tôi nhỏm người vỗ vai ông Mỹ,
    - Where’re you going? Were you lost? (Anh đi đâu vậy? Anh lạc đường rồi à?)

    Ông Đại úy quay mặt, trợn mắt,
    - Sit down! Shut your mouth! (Ngồi xuống! Câm miệng lại!)

    Nghe ông phi công nẹt, tôi cũng chột dạ, nín thinh; tôi chỉ là hành khách, ông ta mới là người cầm vận mạng cái trực thăng này.

    Anh cơ phi xạ thủ rời vị trí, leo lên chỗ tôi ngồi, ghé tai tôi nói nhỏ,
    - Don’t make a mess! Let him going with instrument! (Ðừng quấy rối! Ðể cho ông ta bay theo phi cụ!)

    Dứt lời, anh ta thân thiện vỗ vai tôi một cái rồi trở về vị trí cũ của anh.

    Hình như ông Đại úy này rất có uy, từ khi lên máy bay tới giờ, tôi thấy thuộc hạ của ông cứ răm rắp thi hành khẩu lệnh của ông mà chẳng dám có ý kiến gì.

    Tôi là sĩ quan Bộ Binh, xía vào chuyện bay bổng, bị ông ta nẹt cũng là đáng đời.

    Nhưng tôi vẫn cứ phập phồng lo. Nếu tiếp tục thế này thì chỉ vài chục phút nữa là trực thăng hết bay nổi, bình xăng trống rỗng thì làm sao mà bay?

    Trong khi đó thì ông Trưởng phi Cơ tiếp tục công việc một cách rất tự tin. Ông ngồi với tư thế của một kỵ mã, tay phải nắm cần lái như nắm dây cương, lưng ông hơi chồm về đằng trước như đang ở trên yên ngựa. Tay trái ông liên tục vặn vặn, nhấn nhấn, hết nút này tới nút kia.

    Qua khe hở của cánh cửa phi cơ khép chưa kín, tiếng nổ của ống phản lực trên nóc con tàu cứ đều đều, “Bùng! Bùng! Bùng! …

    Thế rồi, khoảng chừng mười phút sau tôi thấy ông Đại úy đột ngột giơ hai tay lên cao, vỗ mạnh mấy cái vào chiếc nón bay trên đầu mình, miệng lớn tiếng chửi thề,
    “ F!…you! F! …you!…” (Mẹ kiếp! Mẹ kiếp!…)

    Chắc ông ta đổ quạu sau khi thấy hệ thống phi cụ (flying instrument) của con tàu đã rối loạn, không thể điều chỉnh hay sửa chữa được nữa.

    Rồi, bất thình lình, tôi cảm thấy như rớt cả tim, gan, phèo, phổi, vì con tàu đột ngột lao xuống, xuyên thẳng vào cái nệm mây trắng dày đặc dưới bụng.

    Qua lớp mây dày là trần mây thấp. Tiếp đó, bên hông con tàu đã có những cụm mây màu xám đục bay ngang.

    Rồi máy bay bồng bềnh trên biển sương trắng loãng; dưới bụng con tàu là một dải rừng bằng phẳng màu nâu trùng điệp.

    Phi cơ từ từ giảm tốc độ, khi trước mắt tôi hiện ra, không xa lắm, một khoảng đất trống, giống như một mặt hồ cạn nước mùa khô.

    Viên phi công ghìm cần lái; con tàu sà xuống; một cú đáp thật lành nghề!

    Máy bay vừa chạm đất, cánh quạt còn vèo vèo cuốn gió, bốn ông Mỹ đã vọt lẹ.

    Trên tàu còn lại mình tôi. Tôi sợ rằng nếu mình nhảy ra, lỡ con tàu nghiêng đổ làm cho cánh quạt chặt lung tung, có khi bị đứt đầu, đứt cổ.

    Tôi cứ hai tay giữ chặt chân cái ghế ngồi, dựa lưng vào vách máy bay, mặc cho thân mình lắc lư theo con tàu.

    Một lúc sau thì ông phi công chính cũng quay trở lại. Ông leo lên đưa tay vặn vặn, bấm bấm, mấy cái nút, vài giây sau thì động cơ ngừng quay.

    Chui ra khỏi trực thăng, tôi leo lên một ụ đất quan sát địa hình mà chẳng biết mình đang ở tọa độ nào.

    Hiện thời chúng tôi đang ở giữa một cánh đồng, cỏ cao ngập đầu người, xung quanh là rừng cây trống chân. Rừng thì bạt ngàn nhưng chỉ có một loại cây dầu rái lá đỏ. Loại cây này chỉ cao tối đa là hơn mười mét, thường mọc trên vùng đất pha đá tổ ong, thân và cành sần sùi, lá lốm đốm xanh, vàng, nâu, đỏ. Nhựa của loại cây này dùng pha sơn, hoặc quết lên phên làm vách nhà, hay trét cho ghe thuyền không bị nước tràn vào.

    Theo tôi biết thì rừng loại này chỉ có ở khu vực Cheo Reo và vùng hướng Ðông tỉnh Lomphat của Cao Miên. Vùng Cheo Reo toàn đồi núi, nơi đây thì bằng phẳng hơn.

    Trước khi hạ cánh, chúng tôi đã bay rất lâu theo hướng Tây Bắc, như vậy chắc chắn giờ phút này tôi đang đứng trên đất Cao Miên!

    Tôi xách chiếc PRC25 ra giữa bãi tranh, mở máy gọi đài tiếp vận Hàm Rồng. Không nghe tiếng trả lời.

    Tôi chợt nghĩ tới toán tuần tra biên giới của Phòng 2 Quân Ðoàn. Nếu gọi được họ, chắc họ sẽ có cách cứu mình.

    Khổ một nỗi, chiếc PRC25 của tôi chỉ có ăngten lá lúa, chúng tôi lại đang ở vùng đất thấp, không thể liên lạc được những đài ở xa.

    Trong lúc tôi loay hoay với cái máy PRC25 thì ông Đại úy cũng bận rộn với chiếc máy phát tín hiệu cầu cứu Beacon của ông. Hình như ông không gọi được đài nào, mặt ông ướt đẫm mồ hôi.

    Chợt trong trí tôi loé lên một ý mới.Tôi tiến tới bên ông Đại úy Mỹ, đề nghị với ông ta rằng, ông ta thử cố gắng bay lên cao, giữ lơ lửng trên không một vài phút phát tín hiệu cho đài Peacok hoặc cho chiếc máy bay OV10 đang bay tuần tra biên giới để cầu cứu xem sao.

    Chẳng biết kế sách của tôi có đúng sách vở hay không, mà vừa nghe xong, mắt ông ta sáng lên ngay. Ông ra dấu cho ba người còn lại tản ra xa, ôm súng canh gác rồi kéo tay tôi leo lên tàu. Ông vặn nút cho máy chạy. Cái cánh quạt chuyển động từ từ chầm chậm, rồi nhanh dần, nhanh dần…

    Con tàu bốc lên cao. Lên tới độ cao khoảng hai trăm thước thì hết lên nổi.

    Trong khi ông phi công Mỹ nói lia lịa, tôi cũng lớn tiếng phát thanh bổng, hy vọng có ai đó ở đài Hàm Rồng nghe được tiếng kêu cứu của mình,
    – Cấp cứu! Trực thăng của tôi rơi trong vùng biên giới Miên! Yêu cầu tuần tra biên giới bay theo biên giới Miên và Pleiku tìm chúng tôi!

    Tôi mới gào lên được một câu thì trực thăng hoàn toàn hết xăng. Con tàu rơi tự do.
    “Ầm!”

    Bụng trực thăng chạm đất gây nên một tiếng động điếc tai. Bụi bay mù cả một vùng rộng lớn.

    Tôi cứ lì lợm ôm chặt hai chân cái ghế ngồi. Cho tới lúc con tàu chao qua một bên, cánh quạt quật “Choảng! Choảng! Choảng!…” vài nhát toé lửa trên mặt đá tổ ong, rồi nằm im, tôi mới buông tay ra. Con tàu không phát hỏa, hết xăng rồi, làm sao mà cháy được?

    Vào lúc tôi vừa chui ra khỏi tàu thì vọng lại từ xa, hướng Tây có tiếng súng bắn “Bóc! Bóc! Bóc!…”

    Hướng Tây thì làm gì có quân bạn? Chắc là Việt-Cộng rồi!

    Bốn ông Mỹ này kể ra cũng là những tay có bản lãnh, vừa nghe tiếng súng, họ liền chạy ào lên chiếm lĩnh một mô đất cao, vào đội hình, hai phi công thủ súng ngắn, P38, hai cơ phi xạ thủ ôm súng dài, M16, dựa lưng vào nhau, chia hai hướng, sẵn sàng chiến đấu. Tôi cũng vội vàng chạy theo chân họ.

    Tôi không mang theo súng ngắn, lại cũng chẳng có súng dài, chỉ có con dao găm giắt bên ống quần. Nếu phải đánh nhau thì không tử trận, cũng thành tù binh!

    Nhìn quanh, thấy chỉ có cỏ tranh và cây khọt, không có hang động nào có thể chui vào để trốn lánh, không có gốc cổ thụ nào để ẩn núp, năm người ngồi chụm vào nhau giữa đồng trống thì không khác gì đang ngồi làm năm cái bia cố định cho những tên địch núp trong rừng nhắm bắn.

    Sau vài giây do dự, tôi cắm đầu chạy về phía chiếc trực thăng, hy vọng trong lòng tàu có vật gì dùng làm vũ khí được không.

    Chiếc trực thăng giờ này trông sống động lạ kỳ! Cái đuôi máy bay bị gãy một khúc dài chừng một thước. Phía sau hai càng thì cắm xuống đất, phía trước hổng lên cao, nhìn như một con cá voi đang vượt cạn. Dưới bụng con cá voi là một vùng bầy hầy nhớt nhát dầu mỡ đen thui. Chiếc trực thăng đã đứt hết kinh mạch rồi, máu huyết của nó là dầu mỡ tuôn ra tung toé, ngập lụt một khu rộng lớn dưới bụng và xung quanh nó.

    Tôi hét lên vui mừng khi nhìn thấy hai khẩu M 60 còn nguyên không hư hại,
    – Có súng rồi! Tôi có súng rồi!

    Leo lên tàu, một tay kéo cơ bẩm khẩu M 60, tay kia giơ lên vẫy bốn anh lính Mỹ, tôi la lớn,
    - Come here! Come here! Hurry up! Hurry up! (Lại đây! Lại đây! Mau lên! Mau lên!)

    Bốn ông lính Mỹ tỉnh ngộ ngay, liền chạy ào lên tàu. Ngay tức khắc, đạn lên nòng, hai khẩu đại liên trong tình trạng sẵn sàng.

    Chúng tôi chờ đợi khá lâu mới nghe trên trời có tiếng động cơ “O!…O!… ! O!…” của máy bay Trinh sát.Trong máy PRC25 của tôi có người gọi:
    - Ðây là Alpha! Có ai nghe không?

    Tôi cầm máy lên,
    – Tôi là người kêu cứu, Alpha có nghe được tôi không?

    Người trên tàu ra lệnh,
    – Giới chức đưa máy cho ông “mũi lõ” ngay đi! (Ông mũi lõ: có ý nói là người Mỹ)

    Tôi biết, hàng ngày quân đoàn đều biệt phái một sĩ quan Việt-Nam theo phi hành đoàn Mỹ bay trên trinh sát cơ OV10 nhiều giờ để theo dõi hoạt động địch trên biên giới Lào, Miên và Việt Nam.

    Trong một lần ghé Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II, tôi có gặp một Trung úy tên là Anh. Ông Anh là dân Không Ảnh và Không Thám của Phòng 2. Không biết người xưng danh là Alpha trong chiếc OV10 trên kia có phải là ông Trung úy Anh không?

    Tôi chuyền cái ống nghe cho ông Đại úy Mỹ. Lập tức ông và người sĩ quan Hoa-Kỳ đang lái chiếc OV10 trên kia hối hả lớn tiếng trao đổi với nhau những câu, tôi nghe mà không hiểu gì cả, có thể là họ dùng mật khẩu để xác nhận xem người đang nói chuyện có phải là bạn không?

    Rồi ông Đại úy rút khẩu súng phóng hỏa châu trong túi áo bay dệt bằng lưới của ông ra. Khẩu súng bắn hỏa châu có hình thù một điếu xì gà, nhỏ và gọn như đồ chơi trẻ con. Ông phóng một viên hỏa châu lên trời.

    Sau khi nổ một tiếng “Bóc!” trái hỏa châu toả sáng như ngọn pháo bông trong khoảng thời gian chừng nửa phút.

    Anh Trung úy phi công phụ cũng bắn tiếp một hỏa châu nữa ngay sau khi viên hỏa châu đầu vừa tắt.

    Tôi là “tay tổ” Viễn Thám, nào có lạ gì những dụng cụ thoát hiểm này. Trừ cái máy Beacon ra, tôi cũng được trang bị đầy đủ, nào là, một địa bàn, một gương chiếu, một súng hoả châu, một tấm banner sơn màu da cam óng ánh để chỉ điểm cho phi cơ, cùng với băng cầm máu, thuốc lọc nước, thuốc chống muỗi…vân vân.

    Có điều, tôi chỉ mang những thứ này khi đi hành quân hay khi đi nhảy toán.

    Lần này tôi quá giang trực thăng là để về thăm “bồ”, nên tôi không hề nghĩ tới chuyện vác theo mấy thứ đồ nghề lỉnh kỉnh này.

    Trong khi hai ông phi công bận bịu liên lạc với quân bạn thì tôi và hai anh xạ thủ vẫn không dời mắt quan sát khu rừng hướng Tây.

    Bất chợt, tôi giật nẩy mình khi thấy trong rừng tranh cao cỡ đầu người thấp thoáng có hai cái nón cối di động từ từ về hướng chúng tôi.

    Tôi định giơ tay chỉ cho anh cơ phi xạ thủ biết vị trí hai tên địch đang đi tới, thì khẩu M60 đã nổ, “Ðùng!… Ðùng!…Ðùng!…”

    Chớp mắt, mấy trăm viên đạn đại liên đã cày nát một khoảng đất rộng. Cỏ te tua rạp xuống, lộ rõ hai cái xác bộ đội chính quy Bắc Việt đẫm máu, nằm sõng soài trên nền đá tổ ong, bên cạnh là hai khẩu AK.

    Lúc này trời đã quang đãng trở lại. Chiếc OV10 tiếp tục bay vòng vòng trên cao.

    Chừng nửa giờ sau, tôi nghe vọng lại, từ hướng Ðông, những tiếng “Bạch! Bạch! Bạch!…” của trực thăng. Có lẽ cũng vài ba chiếc đang trên đường bay tới.

    Khi thấy trên trời có hai chiếc Cobra vừa lộ diện, tôi và anh phi công phụ vội tụt xuống đất nắm tay nhau, nhảy cẫng lên reo mừng.

    Ông phi công chính cũng ra khỏi tàu, đứng bên tôi. Ông ta rút chốt và ném một quả lựu đạn khói tím ngay trước mặt.

    Khói chưa lên tới đọt cây, Cobra đã bay vòng vòng trên bãi tranh.

    Trên trời, hai anh phi công Mỹ đưa tay vẫy chào. Chúng tôi cũng quơ tay vẫy lại.

    Khi vạt rừng lá đỏ hướng Tây bắt đầu hứng một trận mưa đạn đại liên và 40 ly của hai chiếc Cobra, thì một HU1-D ào xuống.

    Chiếc máy bay cứu cấp không đáp trên đất mà chỉ lơ lửng chờ.

    Gió của cánh quạt máy bay làm cho cỏ tranh rạp sát đất, lá đỏ thì bay tung lên như bươm bướm trong khói tím.

    Chiếc tàu ở ngay trên đầu tôi, cao cỡ một đầu, một với.

    Tôi nhún chân, lấy đà nhảy lên. Hai tay tôi níu được cái càng trực thăng.

    Trên máy bay, anh xạ thủ làm như không nhìn thấy tôi, mắt anh ta cứ chăm chú nhìn về hướng bìa rừng, hai tay anh ta ghìm chắc khẩu đại liên M60 trong tư thế sẵn sàng siết cò.

    Tôi chưa kịp đu mình đưa tay chụp cái chân ghế của xạ thủ đại liên thì đã bị rớt xuống trở lại.

    Tôi vừa rớt xuống đất, thì ông Đại úy và anh cơ phi đã nhanh nhẹn kê vai, xốc nách, nâng tôi lên cao, đẩy tôi vào lòng tàu. Rồi chỉ chớp mắt sau, họ đã leo lên ngồi bên cạnh tôi. Bên cái cửa đối diện, hai anh Mỹ kia cũng đã có mặt lúc nào tôi không hay.

    Sau này, nhớ lại tình trạng nguy khốn ngày ấy, tôi vẫn còn sởn tóc gáy! Vì vào giây phút mười chết, một sống đó thì mạnh ai, nấy chạy, nếu hai anh bạn Ðồng Minh chỉ lo mạng sống của chính họ, nhắm mắt phóng lên tàu, bỏ mặc tôi dưới đất, thì cũng chẳng ai kết tội họ cả.

    Chúng tôi đã an toàn ngồi trên tàu, nhưng cái máy PRC 25 của tôi và súng ống của phi hành đoàn đều bị bỏ lại.

    Chiếc máy bay cứu cấp cất cánh gần như thẳng đứng. Hai khẩu đại liên M 60 bắt đầu “Cành! Cành! Cành!…” nhả đạn.

    Lúc này thì từ rừng lá đỏ dưới chân tôi, đủ loại súng của Việt-Cộng bắt đầu đua nhau bắn lên trời.

    Nhiều tiếng súng “Choang choác! “ xen lẫn nhau của RPK, AK.

    Có vài viên B40, B41 đã nổ “Ùng! Oàng!…” trên bãi cỏ tranh, chỗ chiếc trực thăng nằm bất động.

    Ngay khi đó từ hướng Ðông đã hiện ra hai chiếc phản lực cơ F5 của Hoa Kỳ. Anh Trung úy phi công phụ nói rằng hai chiếc F5 này sẽ làm nhiệm vụ phá hủy cái trực thăng xấu số.

    Trên đường về Pleiku, ông Đại úy Trưởng phi Cơ đã nắm chặt tay tôi rồi nghẹn ngào:
    "I’m so sorry!" (Tôi rất ân hận!)

    Tôi cũng dang hai tay, ôm ông ta,
    – You’re a real brave warrior! (Ông thực sự là một chiến binh can đảm!)

    Anh cơ phi xạ thủ cũng cho tôi biết, ông Đại úy vốn là dân “Kỵ Binh Bay” kỳ cựu. Ông ta từng một thời bay trực thăng “Cán gáo” OH-6, gan dạ có một không hai của Ðại đội Trực Thăng Thám Sát trực thuộc Sư Ðoàn 4 Hoa Kỳ.

    Ðầu năm 1969 tôi đã có dịp làm việc cả tháng trời với đại đội trực thăng thám sát này ở căn cứ Oasis, Thanh An, Pleiku.

    Ðơn vị này được tổ chức từng hợp đoàn gồm một trực thăng “Cán gáo” loại OH-6 hai chỗ ngồi, hai trực thăng võ trang Cobra, một trực thăng HU1-D để tìm cứu và một trực thăng chỉ huy C&C.

    Họ hành động nhịp nhàng và ăn khớp với nhau như những bộ phận của một cỗ máy.

    Chiếc OH6 cứ bay là là sát “da đầu” mục tiêu, gió từ cánh quạt trực thăng thổi tung từng tàn lá, mái tranh, lùm tre. Khi phát giác địch thì phi công phụ nhanh tay thả một quả lựu đạn khói trên mục tiêu, phi công chính lập tức kéo cần cho máy bay vút chạy ra xa, tránh đường cho Cobra chúc đầu xuống bắn phá.

    Hai Cobra đánh phá vừa xong thì một hợp đoàn khác cũng có hai Cobra hộ tống, cõng một đại đội Biệt Ðộng Quân vào vùng để khai thác mục tiêu.

    Qua một thời gian tiếp xúc, tôi biết rằng, đơn vị này quy tụ những tay phi công lỳ lợm nhứt của Lục Quân Hoa-Kỳ.

    Những ông phi công này nốc Whiskey như uống nước lạnh. Nhứt là những tay lái “Cán gáo” thực sự là dân “gan cùng mình” và lỳ đòn, bạt mạng. Mỗi lần họ leo lên OH6, ví như một lần Kinh Kha ôm kiếm qua sông.

    Như vậy, chắc chắn năm ngoái, tôi và ông đại úy này đã có lần cùng nhau tham chiến đâu đó trong vùng Plei De Chi, Lệ Thanh, Ðức Cơ, Ia Drang và Chu Prong.

    Chúng tôi chia tay nhau ở sân bay Holloway. Bốn ông Mỹ lên xe cứu thương để đi khám sức khoẻ, còn tôi thì lên xe đưa đón nhân viên của Camp Holloway để về Biển Hồ.

    Chuyến đi này của tôi đã không tới được Ban Mê Thuột mà còn bị “vượt biên” bất đắc dĩ, suýt chết.

    *****

    Tình yêu thời chiến
    Tôi và Thiếu úy Duyên tá túc trong nhà Trung Tá Bé, nhưng lại ăn cơm tháng tại nhà tài xế Thuộc.

    Nhà Hạ sĩ Thuộc nằm bên kia đường, đối diện với cư xá Trần Quý Cáp. Trong nhà Thuộc, ngoài vợ chồng Thuộc và hai đứa con nhỏ ra, còn một người em họ của Thuộc là cô Ba. Cô Ba mặt mày hiền hậu, dễ thương. Cô Ba và vợ Thuộc đi làm sở Mỹ.

    Trung sĩ Lê Sanh Ma Trưởng toán Viễn Thám dưới quyền tôi lại là người cùng xứ Bình Ðịnh của gia đình chú Thuộc.

    Thuộc và Ma thân nhau như anh em. Những ngày không hành quân, không trực gác, Ma đều về ở chơi trong nhà Thuộc.

    Dự trù giữa năm 1970 thì Trung sĩ Ma và cô Ba sẽ về quê Qui Nhơn làm đám cưới.

    Tháng Tư năm 1970 Trưởng toán Viễn Thám Lê Sanh Ma vướng mìn khi nhảy xuống Căn cứ Hỏa lực Tango.

    Sau ba tháng nằm Quân Y Viện, Lê Sanh Ma thành một phế binh, hai chân bị cưa quá đầu gối. Anh phải đi trên đôi nạng và hai chân giả.

    Xuất viện trở về, anh Ma bỗng đổi tánh, hung dữ lạ kỳ, suốt ngày càm ràm, oán trời, trách đất.

    Anh thường la mắng cô Ba rất nặng lời, dù cô chẳng làm điều gì phật ý anh.

    4. Ðáp lại, tôi thấy cô Ba lúc nào cũng tươi cười, vui vẻ với chú Ma.

    Ði làm về cô lại xuống bếp nấu ăn, chăm sóc cho chú ấy. Cô giặt giũ áo quần, thay chiếu trải giường cho chú hàng ngày.

    Tháng Chín năm 1970 chú Ma giải ngũ, về quê. Sau đó tôi cũng không thấy cô Ba trong nhà chú Thuộc.

    Hai năm sau, tôi gặp lại cô Ba. Cô trở về nhà Thuộc để thăm bà con. Cô đem theo đứa con trai đầu lòng vừa tròn một tuổi.

    Cô kể chuyện rằng:
    "Ngày đó, sau khi bị thương cụt hai giò, anh Ma tuyệt vọng vô cùng, muốn tự tử. Anh sợ cô Ba dính líu vào một người tàn tật như anh thì sẽ chuốc khổ một đời. Vì thế anh đã đóng kịch thành một người tính tình hung dữ để xua đuổi cô Ba. Nào ngờ, anh càng chạy trốn, cô càng đeo theo. Thấy anh về quê, cô Ba cũng bỏ công ăn việc làm, về quê theo anh. Cô nói với anh rằng, bây giờ cô không còn lo mất anh nữa. Anh gãy chân rồi, không còn phải đi nhảy toán, phải đi đánh nhau. Anh sẽ không bị chết trận, sẽ sống đời với cô. Cô hết lo! Cuối cùng cha mẹ đôi bên đã tác thành cho họ. Họ đang làm chủ một quán cơm có tên là “Quán Biên Thùy” nơi bến xe Qui Nhơn. Họ đã có với nhau một cháu trai thật là kháu khỉnh".

    Thời chiến tranh, tôi biết có rất nhiều chuyện tình dang dở, đầy nước mắt đã xảy ra.

    Nhưng trong thâm tâm, lúc nào tôi cũng mong được chứng kiến những mối tình “có hậu” như mối tình của cô Ba và một thuộc cấp của tôi, Trung sĩ phế binh Lê Sanh Ma.

    Kể ra thì chuyện tình này không thơ mộng gì, nhưng với tôi đó là một cái gương tuyệt vời biểu hiện cho lòng chung thủy.

    Nhìn hạnh phúc gia đình của những thuộc cấp dưới quyền mình, lòng tôi cũng thấy vui.

    Khí hậu tháng Năm thật là ấm áp. Vết mổ nơi sườn trái của tôi cũng vừa lành. Ðại đội 2 Trinh sát Biệt Ðộng Quân có một tuần học bổ túc kỹ thuật xâm nhập ở Camp Enarie của Sư Ðoàn 4 Hoa Kỳ nên tôi thật là rảnh rang.

    Tôi cảm như đang hồi sung sức nhất. Thấy tôi ngày nào cũng vác cái xuồng làm bằng cái vỏ xốp trắng dùng để bọc bom Napalm ra Biển Hồ bơi chèo hàng giờ, anh bạn Goodell bèn vào Camp Holloway xin cho tôi một cái phao cấp cứu của phi hành đoàn C130. Chiếc phao cao su màu da cam này tuyệt đẹp. Khi no hơi thì nó dài cỡ hai mét, rộng một mét. Có lẽ cái phao này dư sức vận tải hai người có trọng lượng như tôi thời bấy giờ.

    Sau chiến dịch Dak Séang, trên đặc lệnh truyền tin của liên đoàn thì vô tình tôi được gọi với danh hiệu là “Loan Vương”

    Tôi thấy hai chữ “Loan Vương” nửa đầu là chữ “Loan”, tên người tôi yêu, nửa sau là chữ “Vương” họ của tôi, nên tôi dùng luôn cái danh hiệu này để đặt tên cho cái phao cấp cứu của mình.

    Tôi dùng bút sơn màu tím, viết lên thành cái phao hai chữ “Loan Vương” thật to.

    Nghe tôi giải thích ý nghĩa tên cái phao, anh bạn Goodell cứ gật gù phục lăn. Anh chàng nói, người Việt Nam thật là thâm thúy, khác hẳn giống nòi da trắng của anh.

    Tháng 7 năm 1970, tôi lên Đại úy. Tháng 9 năm 1970 tôi được đề cử theo học khóa “Tình Báo Tác Chiến” tại Bộ Tư Lệnh Viễn Ðông của Quân Ðội Hoàng-Gia Anh ở Singapore.

    Trở về Việt-Nam được vài ngày thì tôi nhận được tờ giấy cho phép kết hôn của Bộ Tổng Tham Mưu, cùng lúc với cái sự vụ lệnh thuyên chuyển vào trại Lê-Minh thay thế Ðại úy Khánh, giữ chức Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 80 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng đang trên lịch trình cải tuyển.

    Tôi đem theo Trung sĩ Châu Minh Ðạt vào Lệ Minh. Anh này nguyên là tài xế kiêm nhiệm vụ hộ vệ của tôi sau khi hai chú Phạm Công Cường và Nguyễn Phượng Hoàng được tôi gửi gắm về đảm trách công tác bán tác chiến ở Bộ chỉ huy liên đoàn.

    Thầy trò tôi ở Lệ Minh được một tuần thì Loan báo cho tôi một tin sét đánh:

    "Ba không chịu cho em lấy anh nữa! Ba nói gả con gái cho mấy thằng lính tác chiến, thì lúc nào cũng lo, chỉ sợ con mình sẽ thành góa phụ!".

    Thế là tôi leo lên trực thăng bay ngay về Pleiku, năn nỉ Ðại Tá Nguyễn Văn Can, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân /Quân Khu 2, cho tôi được tá túc đâu đó ở văn phòng để tôi cưới vợ.

    Ðại Tá Can cũng thông cảm tình cảnh nguy kịch của tôi, nên cho tôi lên Kontum tạm thời giữ chức Trưởng Ban 2 của Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Biệt Ðộng Quân Kontum đang thành lập.

    Tôi rời Lệ Minh thì anh chàng Khánh bị ông Can bắt quay trở lại nhiệm sở cũ.

    Ðại úy Khánh thấy chú Ðạt là một người can đảm và trung thành nên đề nghị giữ Ðạt ở lại với anh ta một thời gian, khi nào tôi có công việc nhất định thì anh ta sẽ trả lại.

    Nhưng qua một tuần lễ thì anh Khánh đích thân chở chú Ðạt lên Kontum tìm gặp tôi rồi nói, anh ta “kết” chú Ðạt lắm, xin tôi cho anh ta giữ Ðạt ở với anh ta luôn, không trả lại cho tôi nữa. Chú Ðạt cũng thích anh Khánh, vì anh này và Ðạt cùng sở thích, nhậu như hũ chìm. Tôi thấy hai thầy trò họ có vẻ thương mến nhau nên cũng đồng ý.

    Nào ngờ, sau đó không lâu, trong một trận pháo kích của Việt-Cộng nhắm vào Lệ Minh, có một viên DKZ 57 ly chui vào hầm chỉ huy, Ðại úy Khánh và Trung sĩ Ðạt bị tử thương. Anh Khánh đã vĩnh viễn ra đi khỏi cõi đời này, mang theo một trong những đứa em mà tôi thương mến nhứt.

    Ngay khi nhận sự vụ lệnh đi Kontum, tôi liền chạy về Biển Hồ báo tin cho Trung Tá Sâm biết. Trung Tá Sâm bèn điện thoại lên Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh kể chuyện tôi được về làm việc ở văn phòng cho Trung Tá Võ, thân sinh của Loan. Ông Sâm còn hứa sẽ đem hai chiếc trực thăng chở toàn bộ ban cố vấn Mỹ của liên đoàn về Ban Mê Thuột dự đám cưới con gái của Trung Tá Võ.

    Hôm sau, tôi lên Kontum, vào doanh trại cũ của B12 Lực Lượng Ðặc Biệt để trình diện người chỉ huy mới của tôi là Thiếu Tá Bùi Văn Baul.

    Tên “Baul” của ông Thiếu Tá này quả là có một không hai trong danh sách gần một triệu quân của Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Chắc chắn trăm phần trăm là không tìm ra người thứ hai trùng tên với ông.

    Gần hai chục nhân mạng của bộ chỉ huy này, kể cả quan lẫn lính, chỉ có mình tôi đội nón nâu, những người còn lại thì mang nón xanh Lực Lượng Ðặc Biệt. Trong số này có vài người đang chờ sự vụ lệnh về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu để đáo nhậm đơn vị mới.

    Bộ chỉ huy của ông Baul thời gian này cũng chưa có con dấu, chưa có Khu Bưu Chính (KBC) để gửi và nhận công văn hay thư từ.

    Thời gian này, bốn trại Dân Sự Chiến Ðấu ở biên giới Lào, Miên và Kontum là Dak Pek, Dak Seang, Ben Het và Pơlei Kleng còn do Mỹ chỉ huy. Tin tức báo cáo hành quân hàng ngày của các trại này đều gửi thẳng về Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân Pleiku.

    Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Biệt Ðộng Quân Kontum chỉ nhận các điện văn có tính cách thông báo.

    Mỗi ngày chúng tôi có một buổi họp Tham Mưu kéo dài chừng nửa giờ, chỉ là để đọc lại bản tin của các trại gửi cho Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân ở Pleiku.

    Sau đó là họp bàn chuyện số đề.

    Ông Thiếu Tá Baul và nhiều vị làm việc dưới quyền ông mê số đề lắm. Họ hăng say bàn đề suốt ngày, không chán. Chiếc xe Jeep của ông Thiếu Tá phải túc trực trước cửa văn phòng để anh tài xế có thể chạy đi ghi đề bất cứ lúc nào trước giờ đài phát thanh Sài-Gòn truyền đi bài hát vượt thời gian của nghệ sĩ Trần Văn Trạch với câu mở đầu là:

    “Kiến thiết Quốc Gia
    Giúp đồng bào ta
    Xây đắp muôn người
    Được nên cửa nhà” (TVT)


    Riêng tôi và một người nữa là Ðại úy Nguyễn Thái Bình, Trưởng Ban 4 là không bao giờ có mặt trong các buổi họp mặt bàn số đề.

    Anh Bình là dân gốc Lực Lượng Ðặc Biệt nên được ông Baul châm chước, còn tôi là cái Nón Nâu lẻ loi ở đây, nên bị ông ta ghét cay, ghét đắng.

    Ông Baul không ưa thích tôi, nếu tôi có vắng mặt vài ngày, ông ta cũng chẳng thèm hỏi tới.

    Tôi nhờ Ðại úy Nguyễn Ðình Hùng, sĩ quan phụ tá cùa Thiếu tá Baul ký cho tôi cái giấy phép đặc biệt 5 ngày thăm gia đình ở Ban Mê Thuột rồi chuồn êm.

    Tờ giấy phép không có con dấu, tôi phải ghé Pleiku xin Phòng 1 của Bộ Chỉ Huy chứng thực. Người mang giấy phép hay sự vụ lệnh có con dấu đỏ mới được Mỹ cho lên máy bay.

    Về tới Ban Mê Thuột, tôi yên chí lớn vào thẳng văn phòng ông Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh khoe,
    – Ba ơi! Con được về văn phòng rồi! Ba cho phép tụi con làm đám cưới nhé Ba!

    Biết rằng mình đã bị đưa vào thế bí, ông Trung Tá đành cười,
    – Thì Ba có ngăn cản không cho hai con lấy nhau đâu?

    Nói câu này xong, ông cụ móc túi dúi cho tôi tờ giấy bạc năm trăm có in hình con cọp,
    – Con cầm lấy mà dẫn mấy đứa em đi ăn kem!

    Cầm tờ giấy bạc của ông, tôi chợt nghĩ:
    "Sao Ba hào phóng quá vậy? Trong nhà, ai mà không biết Ba nghèo rớt mùng tơi. Lãnh lương ra, được bao nhiêu, Ba đưa cho Me gần hết. Chắc là Ba vừa đánh chắn thắng nên mới có tiền cho mình". (Đánh chắn là trò chơi đánh bài của người Miền Bắc trước năm 1975)

    Hôm đó, trong khi chờ Loan tan học, tôi vào quán Mây Hồng.

    Quán Mây Hồng buổi chiều vắng khách, khách nhà binh chỉ có mình tôi.

    Lác đác vài vị khách học trò con trai, ngồi hút thuốc lá bên tách cà phê đen.

    Một chàng học trò, có lẽ là lớp cuối Trung Học, sà xuống bàn tôi, cười làm quen,
    – Chào Ðại úy! Ðại úy mới hành quân về?
    – Vâng! Tôi về từ Kontum.

    – Ðại úy là dân Võ Bị hay Trừ Bị.
    – Tôi là Võ Bị khóa 20.

    – Theo ý Ðại úy nếu đi lính thì nên chọn binh chủng nào?

    Tôi cười,
    – Tôi đi lính Biệt Ðộng Quân từ ngày ra trường, đâu có biết gì về các binh chủng khác mà có ý kiến.

    Rồi hình như đã tới giờ đổi lớp, các chàng thư sinh vội vàng dời gót.

    Nhìn thấy họ, tôi hồi tưởng lại những ngày vừa đậu Tú Tài 2, tôi cũng nhiều lần vào quán ngồi hàng giờ suy nghĩ vẩn vơ.

    Cứ y như ngày xưa, tôi cũng từng đặt những câu hỏi vớ vẩn như thế với các ông Thiếu úy, Trung úy trẻ mà tôi bất ngờ gặp gỡ trong các quán cà phê ở Hội-An.

    Ngồi một mình, tôi mới nghiệm ra, không có người yêu bên cạnh, thì quán này cũng mất đi cái không khí ấm cúng thường nhật của nó!

    Thời chiến tranh, hạnh phúc của chúng tôi là niềm vui đếm từng ngày. Hôm nay còn ngồi bên, cầm tay nhau, ngày mai không biết có còn nhìn thấy nhau nữa không?

    Mấy chục năm sau, nhớ lại, lòng tôi không khỏi bồi hồi. Bài thơ dưới đây được tôi viết và đăng trên “Người Việt Tây Bắc” ở Seattle tháng 1 năm 1996:

    Truyện ngày xưa

    Áo trắng tung bay, sân trường lộng gió
    Chiều Xuân, tan học, đón em về,
    Trong nắng vàng, bướm bay đầy phố,
    Chuyện chiến trường, anh kể, em nghe...

    Có tiếng lá thì thầm trong gió,
    Vạn vật vươn mình sau giấc ngủ Đông
    Lối cỏ thẹn thùng thương gót nhỏ
    Cánh chim nào gọi bạn giữa thinh không…

    Gió Xuân ấp ủ nghìn thương nhớ
    Mây trắng, lưng trời, bay lang thang
    Lá đỏ phủ đầy đường đất đỏ
    Áo trận, song đôi áo trắng, dưới hoa vàng…

    Năm ngày phép đi qua thật nhanh
    Đường về nhà em ngắn lại vô tình
    Vừa cầm tay nhau một phút,
    Vừa hôn môi nhau một lần,

    Đèn nhà ai cuối phố đã lên...

    Chiến tranh héo mòn tuổi Xuân
    Vun xới tình yêu bên cạnh Tử Thần

    Một đời yêu nhau đắm đuối
    Một đời yêu nhau ngắn ngủi
    Nụ hôn chưa nguội trên môi…
    Một người đã mất một người,

    Chiến tranh cướp đi ngày xanh
    Chiến tranh mang đi người tình
    Mỗi lần phải tiễn đưa nhau
    Tưởng chừng như đã mất nhau…

    Nhớ lại một thời
    Ngày ấy chiến tranh
    Ấp ủ trong trái tim mình
    Mỗi người có một chuyện tình…

    (Vương Mộng Long - 1995)


    Cuối năm 1970, vào một ngày không có lớp, Loan cùng vài cô bạn lên chùa Dược Sư, Ban Mê Thuột xin một quẻ xăm.

    Ðược lá xăm, Loan đã âm thầm cất giấu nó, không cho ai xem trong một thời gian khá dài. Chỉ vì, trừ bốn câu sau cùng ra thì hầu như trọn quẻ xăm chỉ chứa những điều không hay. Mãi tới ngày tôi được tha ra khỏi trại tù cải tạo, năm 1988, tôi mới được đọc những câu thơ trên quẻ xăm này.

    Trên lá xăm, có những giòng, nếu đọc được chắc mẹ tôi, Bác Võ trai, Bác Võ gái sẽ không chấp thuận cho chúng tôi lấy nhau.

    Theo quẻ xăm, thì người gieo quẻ cầu gì cũng thất bại: Thưa kiện thì thua, có bệnh thì khó qua khỏi, cầu tài chỉ uổng công, đi thi thì bị rớt, lấy chồng thì duyên phận bẽ bàng.

    Dưới đây là 8 câu trích từ quẻ Số 6, “Quẻ Giá Sắc” mà Loan đã xin được từ chùa Dược Sư, Ban Mê Thuột:

    Ra đi xứ lạ nhiều lầm lạc
    Tính việc chi rồi cũng bất thành
    Thưa kiện rốt sau e chẳng lợi
    Bịnh nhơn trở chứng khó bình an

    Cầu tài vô ích, sanh hao tốn,
    Ứng thí rồng mây hội lỡ làng
    Gả cưới kết hôn duyên chẳng hiệp,
    Nói năng chưa được toại lòng toan.


    Loan là người lúc nào cũng lạc quan và hy vọng, vì thế nàng chỉ nhìn vào bốn câu thơ sau cùng:

    Phật bảo an phận thủ thường,
    Nhẫn tâm theo dõi con đường trượng phu.
    Chơn thành, phước đức cần tu,
    Như người gieo cấy, tới mùa gặt thâu…


    Vài ngày trước đám cưới, có một người con gái đã khấn thầm rằng:

    "Yêu anh, em chỉ cầu xin Trời Phật phù hộ cho chúng mình lấy được nhau, thành vợ, thành chồng, dù chỉ được sống cùng nhau trọn vẹn một ngày thôi!".

    Người con gái ấy là một nữ sinh mười bảy tuổi rưỡi ở Ban Mê Thuột. Người yêu của cô ấy là một Ðại úy Biệt Ðộng Quân đồn trú ở Kontum.

    Hai ngày sau lễ Giáng Sinh năm 1970 đám cưới của tôi và Loan diễn ra.

    Thiếu úy Ðinh Quang Biện, anh ruột của Loan bận hành quân trong rừng Tiều Teo không về được.


    Thiếu Tá Vương Mộng Long và vợ - Đà Lạt 1974

    Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân đang chạm địch trong vùng Bắc Kontum, nên hai chiếc trực thăng dự trù để chở ông Liên đoàn Trưởng và ban Cố vấn Mỹ bay về Ban Mê Thuột dự đám cưới của tôi đã bị trưng dụng để chuyển quân.

    Ông Trung Tá Sâm và ông Trung Tá Cố vấn Trưởng của Liên đoàn chỉ còn cách gọi điện thoại về nhà nhạc gia của tôi để chúc mừng.

    Khách dự đám cưới của hai đứa tôi thì một nửa là nữ sinh Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột, nửa kia là quân nhân trực thuộc Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh.

    Không có ai là lính Biệt Ðộng Quân có mặt ngày hôm ấy.

    Ðám cưới vừa xong, đầu năm 1971 tôi được lệnh dời bỏ văn phòng, ra tác chiến.

    Tôi từ giã cái bộ chỉ huy chưa có con dấu, chưa có Khu Bưu Chính (KBC) của ông Thiếu tá Bùi Văn Baul để nhận chức Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 4 Mike Force do Mỹ vừa chuyển giao.

    Thời gian này Thiếu Tướng Ngô Dzu đã thay thế Trung Tướng Lữ Lan đảm nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn II và Vùng 2 Chiến Thuật.

    Tướng Ngô Dzu ra lệnh sát nhập Tiểu đoàn 4 Mike Force vào Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Bùi Văn Sâm, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân.

    Hai mươi bốn giờ sau khi nhận bàn giao, tôi được lệnh đem quân đi Cheo Reo tăng phái cho Tiểu Khu Phú Bổn.

    Tiểu đoàn tôi là đơn vị mới thành lập chưa có trại gia binh, nên tôi cho vợ con binh sĩ đi theo hành quân luôn. Bốn chiếc xe GMC được gắn mui vải dùng để chở đàn bà và con nít.

    Tôi mới cưới vợ, nếu để vợ ở Pleiku thì biết gửi cho ai? Tôi cũng đành phải đem vợ đi Phú Bổn chuyến này.

    Trung Tá Sâm thấy 4 chiếc xe Jeep của tiểu đoàn tôi đều là xe mui trần, nên thương tình, cho tôi mượn chiếc Jeep chỉ huy của ông để vợ tôi làm phương tiện di chuyển.

    Chiếc Jeep của vợ tôi là chiếc xe “tráng lệ” nhất trong đoàn quân xa.

    Xe này gắn cánh gà bít bùng, có hai cần angten cao nghều nghệu cùng một dàn loa của máy Truyền Tin, một VRC47 và một PRC25. Xe còn được ba anh lính trang bị súng M16 hộ tống.

    Ông Trung Tá Nghiêm, Tỉnh Trưởng Phú Bổn thấy bầu đoàn thê tử chúng tôi, đầu tóc, mặt mũi, áo quần, lem luốc, đầy bụi đỏ, ào xuống sân Tòa hành chánh Tỉnh, thì ra lệnh cho ông Quận Trưởng quận Thuần Mẫn đem toàn bộ nhân viên của ông ta về làm việc trong Tòa Tỉnh, nhường lại doanh trại Quận đường cho chúng tôi tá túc.

    Văn phòng của ông Quận trưởng trở thành căn nhà tạm trú của vợ chồng ông Tiểu đoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân.

    Văn phòng của ông Phó Quận trở thành chỗ tạm trú cho ban cố vấn Mỹ của tiểu đoàn. Sĩ quan cố vấn của tôi là anh Trung úy Hick, sau đó là anh Ðại úy Jim. Hạ sĩ quan cố vấn vẫn là anh bạn Goodell, người đã làm việc với tôi hơn một năm dài trước đây.

    Goodell nghe tin tôi trở lại Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân để làm Tiểu đoàn Trưởng thì đăng ký thêm một nhiệm kỳ thứ 2 phục vụ tại Việt-Nam.

    Cho tới ngày Tiểu đoàn 4 Mike Force giải tán thì Goodell mới giã từ tôi để về Hoa Kỳ, không trở lại nữa.

    Chúng tôi mới hoàn tất hai cuộc hành quân cấp tiểu đoàn nhằm tảo thanh vùng giáp ranh hai quận Thuần Mẫn (Phú Bổn) và quận Buôn Hô (Daklac) thì có lệnh gom quân.

    Sáng 28 tháng Chạp Âm Lịch tôi nhận lệnh để lại một đại đội tăng phái cho Chi Khu Phú Túc, thành phần còn lại thì kéo nhau về Pleiku.

    Dĩ nhiên bà vợ ông Tiểu đoàn Trưởng và một số đàn bà con nít gia đình binh sĩ cũng về theo.

    Sáng Mùng Hai Tết năm Tân Hợi, ông Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh từ Ban Mê Thuột gọi điện thoại cho ông Trung Tá Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân ở Pleiku, không phải để chúc Tết, mà là để mắng vốn,
    – Vậy là thầy trò ông đã gạt tôi! Ông cam đoan với tôi rằng thằng Long sẽ về làm việc ở văn phòng, nên tôi mới chịu gả con gái cho nó. Ai ngờ, vừa cưới vợ xong nó lại ra tác chiến. Nó còn đem cả con gái tôi ra trận! Tôi bực mình ông lắm rồi đó, ông có biết không?

    Ông Trung Tá Biệt Ðộng Quân cười hì hì,
    – Thì ngày xưa, tôi với ông đều là dân tác chiến. Tụi mình đã nhiều lần chở vợ theo hành quân. Chẳng lẽ ông quên chuyện này rồi sao?

    Nghe ông Sâm trả lời, ông bố vợ tôi chán quá, đành chép miệng, thở dài, cúp máy.

    *****

    Nhớ Cao Nguyên...

    Ngày xưa, cứ lái xe hoặc ngồi trên trực thăng, qua hết con dốc của ngọn đèo ranh giới hai tỉnh Pleiku, Daklac, nhìn thấy phi trường Buôn Blech thì tim tôi lại rộn ràng. Tôi chắc chắn rằng không bao lâu sau tôi sẽ gặp mặt người mình yêu dấu.

    Mỗi lần trò chuyện cùng ai mà có nhắc tới tên Pleiku, Kontum hay Ban Mê Thuột thì những kỷ niệm êm đềm ngày nào ở Cao Nguyên lại hiện về trong trí nhớ của tôi.

    Tôi lại hình dung ra rõ ràng trước mắt mình là cả một khung trời bao la, cảnh vật vừa hùng vĩ, oai nghiêm, lại vừa chen lẫn chút thê lương.

    Một dải đất trải dài từ Bắc xuống Nam 300 cây số dọc Trường Sơn đã trở thành không thể nào quên.

    Thời chiến tranh, nơi ấy mang tên “Cao Nguyên Trung Phần” của nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Vùng này chỉ có núi và rừng trùng điệp nối tiếp nhau.

    Ở Cao Nguyên đâu đâu cũng có lính; họ đến từ mọi miền đất nước; họ sống chết bên nhau và thương yêu nhau như huynh đệ.

    Nơi đây năm nào cũng xảy ra những trận đánh long trời lở đất. Tôi đã trải qua mười năm chinh chiến ở xứ này.

    Ðây cũng là nơi mà Thượng Ðế đã ban cho tôi một người tình trọn đời chung thủy.

    Vương Mộng Long - K20
    Seattle, July 2019

  • #2
    Anh KiWi Te Tua ơi,
    Tác giả "Nhớ Cao Nguyên" là Vương Mộng Long.
    Không phải Vũ Mộng Long.
    Duyên Anh Vũ Mộng Long chết đã lâu rồi!
    Last edited by Yaly 82; 10-18-2019, 08:08 PM.

    Comment


    • #3
      Cám ơn anh Yaly 82 đã thấy và nêu ra sự sai lầm này. Tôi biết bài do Thiếu Tá Vương Mộng Long Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 82BĐQ viết mà tại mấy hôm nay đọc bài của 2 ông ducquany va Nguyen Huu Thien làm tui "vertigo". Cheers!

      Phải sửa lại tên ngay để ông Nguyen Huu Thien cười tui nhà quê, không biết gì hết ráo....
      Last edited by KiwiTeTua; 10-18-2019, 09:39 PM.

      Comment


      • #4
        Nhớ cao nguyên

        "Nhớ Cao Nguyên" của tác giả Vương Mộng Long
        đã điều chỉnh xong.
        Thanks!
        Last edited by Yaly 82; 10-29-2019, 09:00 PM.

        Comment


        • #5
          Quả thật tui đã thấy sai sót này ngay sau khi KiwiTeTua post bài, nhưng cứ giữ trong bụng, để "Nhất Tiên" bị độc giả sửa lưng cho bõ ghét!

          Comment


          • #6
            Nguyên văn bởi Nguyen Huu Thien View Post
            Quả thật tui đã thấy sai sót này ngay sau khi KiwiTeTua post bài, nhưng cứ giữ trong bụng, để "Nhất Tiên" bị độc giả sửa lưng cho bõ ghét!
            Bạn dza`ng

            Comment


            • #7
              tui nghe anh Tám Tình Tang diễn đọc trên Youtube các bài viết của Thiếu tá Vương Mộng Long viết rất hay .

              Comment



              Hội Quán Phi Dũng ©
              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




              website hit counter

              Working...
              X