Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Audio : Ngàn Giọt Lệ Rơi - Đặng Mỹ Dung

Collapse
X

Audio : Ngàn Giọt Lệ Rơi - Đặng Mỹ Dung

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Audio : Ngàn Giọt Lệ Rơi - Đặng Mỹ Dung

    Ngàn Giọt Lệ Rơi ( A Thousand Tears Falling )

    Tác Giả: YUNG KRALL ĐẶNG MỸ DUNG
    Người Ðọc: Hiền Dũng

    (Nguồn : http://www.hotmit.com)

    " Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với nước ta
    và tôi vui mừng thấy rằng cuối cùng người đọc đã được biết đến câu chuyện của người phụ nữ xuất sắc này "

    GRIFFIN BOYETTE BELL
    ( Cựu Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ)



    Tác giả NGÀN GIỌT LỆ RƠI ( A Thousand Tears Falling )
    YUNG KRALL ĐẶNG MỸ DUNG





    VÀI DÒNG VỀ TÁC GIẢ.-

    Bà Đặng Mỹ Dung, tên tiếng Mỹ là Yung Krall, một cựu điệp viên CIA, cựu đặc vụ FBI gốc Việt, là một người con gái được sinh ra trong một gia đình mang hai luồng tư tưởng và ý thức hệ khác nhau. Cha bà, ông Đặng Quang Minh, là một cán bộ Cộng sản và sau này trở thành đại diện của Mặt trận Giải phóng Miền Nam ở Moscow, còn Má bà lại là một người chống Cộng sản.
    Câu chuyện đau lòng về chính gia đình mình đã được bà kể lại trong cuốn sách, mới được xuất bản bằng tiếng Việt trong thời gian gần đây, mang tựa đề ‘Ngàn Giọt Lệ Rơi’ (A Thousand Tears Falling).

    CUỘC PHỎNG VẤN CỦA ĐÀI VOA & TÁC GIẢ.-

    VOA: Thưa bà Mỹ Dung, bà có thể kể lại về hoàn cảnh Ba, Má bà gặp nhau được không ạ?
    Mỹ Dung: Anh với em của Má tôi ngày xưa là những người chống Pháp. Họ đã giới thiệu cho Má một người mà họ gọi là đồng chí Việt Minh với nhau. Về tới nhà thì bạn của mấy cậu rất thích Má tôi, sau đó thì người bạn đó, là ba tôi sau này, hỏi cưới má tôi.
    VOA: Bà có kể rằng cha bà đã rời bỏ ngôi nhà thân yêu để tham gia cuộc chiến tranh và ông đã theo phía Cộng sản khi ông tham gia Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Vậy khi đó bà bao nhiêu tuổi?
    Mỹ Dung: Năm 1954, lúc chia đôi đất nước, rồi ngoài Hà Nội đi vô trong nam thì trong lúc đó Ba tôi đã đi theo Cộng sản rồi. Khi Ba tôi đi tập kết là lúc tôi 9 tuổi.
    VOA: Khi mà một người tin vào một ý thức hệ nào đó thì người đó chắc hẳn phải có lý do, hay động cơ riêng của họ để làm như vậy. Vậy cha bà có bao giờ kể hay nói cho bà hay các con cái của mình về lý tưởng, hay là về lý do mà ông theo phía Cộng sản không, thưa bà?
    Mỹ Dung: Dạ thưa không. Lúc đó cái danh từ cộng sản ít khi nào được nhắc tới trong gia đình tôi, tại vì từ năm 17 tuổi đến năm ngoài 40 tuổi thì Ba tôi đi theo Việt Minh để chống Pháp. Đến năm 1954, khi Việt Minh thắng Pháp, từ đó trong gia đình mới rõ là Ba tôi đi theo Cộng sản vì Ba tôi báo cho gia đình biết là Ba tôi sẽ đi ra ngoài bắc tập kết để tổ chức hòa bình vĩnh cửu hơn. Đó là theo lời những người đi tập kết, vì trong gia đình tôi nhiều người đi tập kết lắm.


    Ông Đặng Quang Minh, thân sinh của tác giả








    VOA: Còn Má của bà lại là một người chống Cộng sản phải không ạ? Bà có được biết tại sao Má mình lại phản đối lý tưởng của Cha mình hay không?
    Mỹ Dung: Khi mà Ba tôi đi theo Việt Minh thì ba tôi đưa tất cả vợ con đi theo vô trong bưng biền để hoạt động, có cả ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ cũng vô gặp Ba tôi. Qua cái đời sống của những người ở trong bưng, thì Má tôi nhận thấy là khi đồng chí của Ba tôi đi tới đâu thì họ cũng lấy nhà, lấy đất của dân chúng để làm nhà ở và làm cơ quan, Má tôi bất đồng với Ba tôi nhiều lắm. Lúc nhỏ tôi không hiểu tại sao Ba, Má ban đêm hay cãi lộn, nhưng sau này các chị mới nói là vì Má không có đồng ý với đường lối làm việc bí mật của Ba tôi.
    Ba tôi có 2 tổ chức, một là Việt Minh, hai là tổ chức của những người Việt Minh sau khi bị Tây bỏ tù ở Côn Đảo 5 năm thì họ bí mật đi theo Cộng sản. Từ đó Má tôi không bằng lòng với chế độ của Cộng sản, với đường lối và cách tổ chức của người Cộng sản. Má tôi không ngấm ngầm mà luôn ra mặt cho Ba tôi biết là Má tôi không chấp nhận cái đường lối làm việc theo Cộng sản của Ba tôi.
    Lúc Ba tôi đi tập kết, Ba muốn đem Má và 7 đứa con theo, nhưng mà Má tôi không đi. Má tôi nói là “Anh đi đi, chừng nào anh sáng con mắt của anh ra thì anh trở về”, nhưng Ba tôi đi đến 20 năm Ba tôi mới về.








    VOA Là một người con, khi mà Ba và Má có hai niềm tin khác nhau, hai ý thức hệ khác nhau và khi mà cha bà quyết định xa gia đình để cống hiến cuộc đời mình cho lý tưởng của ông, thì chắc hẳn trong bà nó có một sự giằng có và một lựa chọn khó khăn khi phải quyết định theo Ba hay theo Má phải không thưa bà?
    Mỹ Dung: Dạ không, tại vì thật ra trong đời sống trong bưng, thì ba đi vắng nhà nhiều lắm, thành ra Má ở nhà nuôi 7 đứa con một mình với cái nghề may vá. Một tháng Ba có thể đi một tuần, hoặc là ở nhà hai, ba tháng rồi đi vắng một tháng nữa. Trong gia đình của tôi, chuyện Mẹ nuôi con một mình là chuyện tự nhiên. Thành thử, lúc mà Ba đi thì nó không có giằng co gì hết về sự quyết định của Má ở lại, nhưng mà sự đau khổ nhất của con cái và Má tôi là Ba đi vắng nhà. Lúc đó tôi 9 tuổi thì tôi không biết Hà Nội nó bao xa, nó ở đâu, không biết chừng nào Ba tôi mới về, thành ra cái điều đau khổ nhất là sự cô đơn. Tôi nhớ Ba tôi nhiều lắm.
    VOA: Vậy là cho dù là ý thức hệ của bà cũng như Má trái ngược hẳn với của người Cha, nhưng ông ấy vẫn là người Cha của bà, và tình cảm cha, con thì vẫn gắn bó và không có gì chia cắt phải không ạ?
    Mỹ Dung: Dạ phải, Má tôi cũng vậy, hai người hai ý thức hệ mạnh mẽ ghê lắm. Má tôi không theo Cộng sản mà còn chê bai nữa. Khi tôi lớn lên đến tuổi học trung học thì chừng đó mới biết mình cũng khác với Ba mình quá nhiều, mình lại là người chống Cộng sản. Nhưng mà tình thương của cha, con, vợ, chồng thì không bao giờ thay đổi. Bằng chứng là Ba không lấy vợ khác, Má không lấy chồng khác, mà con cái thì luôn quí trọng Ba, nhưng mà trong gia đình luôn nói câu “ước gì Ba không theo Cộng sản”.










    VOA: Kể từ đó Bà có gặp lại cha của mình không, thưa bà?
    Mỹ Dung: Dạ thưa có. Tháng 8 năm 1975, Ba tôi đại diện phái đoàn của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đi qua Tokyo để dự hội nghị chống bom nguyên tử thì lúc đó tôi được gặp Ba tôi. Cuộc gặp đó đau lòng lắm. Một mặt tôi là đứa con gái gặp lại cha mình sau 20 năm, một mặt là một người công dân của Việt Nam Cộng hòa đi gặp một ông đại sứ phía bên kia. Nhưng ngược lại thì Ba tôi lại rất vui mừng. Ông là một nhà ngoại giao lão thành, mà lại là một người cha nữa. Ông là người chiến thắng, tôi là người mất nước, thành ra khi gặp tôi, Ba tôi rất vững để cha và con không có nói gì tới chiến tranh, không nói gì về ý thức hệ, nhưng tôi thì mừng rỡ khóc, xong rồi thì tôi nói “chế độ của Ba đã cướp nước của con.” Rồi sau đó thì cãi nhau, nói là cãi nhau nhưng Ba tôi không có cãi gì mà tôi là người tấn công Ba tôi nhiều nhất.
    VOA: Cuộc gặp đó do ai sắp xếp thưa bà?
    Mỹ Dung: Đi ngược lại một chút, hồi tháng 3 năm 1975, biết là Cộng sản sẽ chiếm miền Nam, thành ra tôi có tới nói cho CIA biết là Ba của tôi là ông đại sứ của Mặt trận Giải phóng miền Nam ở Liên Xô, tôi là vợ của một sĩ quan hải quân Mỹ. Tôi xin CIA giúp Má tôi ra khỏi Việt Nam, khi giúp đuợc rồi thì nếu CIA muốn tôi giúp Mỹ thì tôi sẵn sàng trả ơn đó, nhưng họ nói rằng chuyện đó bỏ qua, để giúp Má tôi ra khỏi Việt Nam truớc đã. Khi mà họ giúp Má tôi rồi thì họ có tới gặp tôi, và sau đó chừng đầu tháng 5 tôi bắt đầu liên hệ để làm việc với cơ quan tình báo Mỹ CIA.
    VOA: Còn về cuốn 'Ngàn giọt Lệ rơi' của bà, lời khen hay bình luận nào làm bà cảm thấy hài lòng, hay tự hào nhất về cuốn sách đó thưa bà?
    Mỹ Dung: Rất nhiều người yêu mến cuốn sách của tôi đã nói là: ‘cám ơn chị đã viết cuốn sách này dùm cho tôi. Gia đình tôi ngày xưa cũng có người đi tập kết, nhưng không tiện nói ra.’ Có nhiều ngừơi ở Việt Nam viết thơ nói là: ‘cô viết dùm cho tôi vì tôi ở Việt Nam tôi không có tự do để nói ra những đau khổ của gia đình tôi.’ Tất cả những người trong cuốn sách này vẫn còn sống. Có nhiều nguời viết thơ nói là: ‘à, chị nói nơi chốn đó, chị là hàng xóm của tôi.’ Có người nói ‘ngày xưa ông bố của chị tới cái làng đó ở, chính phủ lấy nhà cho gia đình chị ở, đó là nhà ông nội của tôi.’ Có ngừoi nói ‘ba của chị ở tù Tây chung với tôi.’ Thành ra cái đó là điều tôi rất mừng, quyển sách này viết rất là thật. Tôi là người miền nam, tôi viết không có văn chương nhưng nó đem lại màu sắc, tiếng nói, tâm hồn của người Việt Nam của mình.
    VOA: Xin cảm ơn bà Mỹ Dung đã dành cho đài VOA cuộc phỏng vấn ngày hôm nay.

    Thưa quí vị, trong lời tựa của cuốn 'Ngàn Giọt Lệ Rơi', cựu Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ Griffin Boyette Bell viết, xin trích: "Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với nước ta, và tôi vui mừng thấy rằng cuối cùng người đọc đã được biết đến câu chuyện của người phụ nữ xuất sắc này. Hy vọng của tôi là cuốn sách này sẽ đóng góp vào quá trình hàn gắn vết thương và xiết chặt tình cảm ở đất nước này và ở Việt Nam.”.


    MINH ANH thực hiện
    Last edited by chimtroi; 10-05-2021, 07:54 PM.

  • #2



    Thật vô cùng xúc động khi nghe qua câu chuyện viết về cuộc đời của bà Yung Krall Đặng Mỹ Dung và gia đình. Xin nghiêng mình kính phục một nhân cách lớn của Bà trong một gia đình mà hầu hết đều theo cộng sản. Một hồi ký mà mỗi chương đều đầy ắp những ngang trái, đau thương và nước mắt, càng nghe càng không muốn ngừng lại.
    Một sự kiện gây nhiều xúc động nhất với tôi có lẽ là đoạn trích sau đây trong truyện của bà, đó là ngày oan nghiệt 11 tháng Giêng, năm 1971, ngày người em thân yêu của Bà là Đặng Hải Vân (tức SVSQKQ Trần Văn Vân trên giấy tờ) bị tử nạn. NT Đặng Hải Vân khóa 69 (?), đang học bay tại Savannah, tiểu bang Georgia. Chiếc Huey do NT Đặng Hải Vân lái bị rớt trong một trận bão tuyết hiếm có cùng với một người khác là SVSQKQ Nguyễn Văn Bé: "Hải Vân bay quá thấp, và khi bão đến, muốn bay cao hơn không kịp nữa, nên bị đụng dây điện trong rừng thông". Việc nầy chắc có nhiều vị NT cùng khóa học bay biết đến, nếu có thể xin chia xẻ để cùng tưởng niệm đến một chiến hữu, một Niên Trưởng đầy khí phách của một người trai miền Nam trong cơn quốc biến, hiên ngang chọn đứng về phía đối nghịch với cha và anh mình, cũng là một hình ảnh đầy bi hùng của một người thanh niên chưa tròn ước mơ đã không may gãy cánh.


    Trích chương 26 (Audio tập thứ 21):
    ...
    Vào đầu mùa thu năm 1970, chúng tôi nhận được một tin mừng. Hải Vân sẽ được đi Mỹ học lái máy bay, Em sẽ học ở Lackland, tiểu bang Texas, và sau đó sẽ đi trường khác để học lái trực thăng.

    Em đã miệt mài học ngày học đêm để thi vào không quân. Giấc mơ của em là lái trực thăng, và được ở căn cứ Biên Hoà. Có lần tôi hỏi em sao không về Cần Thơ, quê hương mình? Em cho biết Cần Thơ không phải là đất lành, nên chim không đậu được. Tôi mới nhớ rằng gia đình tôi cũng đã tìm cành khác mà đâu, và Cần Thơ cũng không còn là “đất lành” nữa.

    Vào trường huấn luyện, Hải Vân tiếp tục được bằng “xuất sắc” suốt thời gian em học. Em làm bản sao những giấy khen này để gởi cho chị Kim, chị Cương và tôi. Bản chánh cho má. Hải Vân là người thông minh, học giỏi. Hồi còn học ở trường nam Tiểu học Cần Thơ, em cũng mang nhiều giấy khen về cho má coi, sau đó má gởi bản chánh về cho ông ngoại giữ. Tôi nhớ có lần ông ngoại tôi mở ngăn tủ bàn thờ, nơi ông cất những giấy tờ quan trọng, và giấy khen của anh Quốc và Hải Vân, rồi ông nói:

    - Học trong vùng quốc gia, không giúp được nước cũng được nhà. Tụi bay mà học theo đồ “chó đẻ” ngoài Bắc thì lại làm cộng sản; nó chờ con nít có xương có thịt lớn lên một chút, thì cho học giết người, cướp của cho thằng Hồ. Nhớ ăn cây nào rào cây nấy. Đừng có nghe đám lớn trong nhà này; cả lũ vừa đi vừa hát trong họng “Ơn cách mạng bằng trời bằng bể, công Cụ Hồ phải kể bao năm”. Ơn cháu mang là ơn của má cháu, công cũng là công của má cháu, chớ không phải của thằng già chó đẻ kia đâu, nhớ không?

    Sau khi Hải Vân nhập ngũ, tháng 5 năm 1969, tôi rước má và Minh Tâm qua Mỹ thăm chúng tôi, với hy vọng là má sẽ thích nước Mỹ và ở lại: sau đó chúng tôi sẽ bảo trợ Hoà Bình. Hải Vân được tên thâu vào không quân. Má không còn lo thức khuya dậy sớm lo em đi chơi về nữa. Bây giờ tôi lượt trung tâm huấn luyện canh giờ “giới nghiêm” của nó thay má tôi.

    Minh Tâm sang Mỹ chỉ một vài tháng thì có tin Hải Vân cũng tới Mỹ. Chúng tôi ra gặp em. Không quân cho gia đình và em ra đi chơi nửa ngày. Chúng tôi dẫn em đi Knock Berry gần đó để tiện việc trở về đúng giờ với nhóm lính của em.

    Vừa đi, hai chị em vừa líu lo chia xẻ niềm vui của mình. Tôi cho Hải Vân hay, khoảng tháng 12 em được lên chức làm cậu. Nó rất mừng, câu cổ tôi mà xúc động vô cùng. Em dặn: “Suốt đời chị lo cho má và tụi em. Bây giờ có chồng có con, mình lo mình đi nhen”.

    Rồi Hải Vân lên đường tiếp tục bay qua Kackland, Texas. Mấy tuần sau, nó viết thơ không có nói gì nhiều về trường huấn luyện, mà nói đàn anh tử tế tế, chỉ huy trưởng rất tốt với mấy con em mới. Dặn gia đình đừng lo, nó đang ở thiên đàng. Rồi em nói đến những cô con gái Mỹ tóc vàng, tóc đỏ, mắt xanh nó gặp trong bữa tiệc, trong những buổi đi picnic do nhà thờ bảo trợ. Sinh viên Việt Nam được đưa đến các tư gia để biết đời sống gia đình Mỹ. Em tôi lọt vô mắt xanh của cô con gái ông mục sư. Thằng nhỏ phải đi nhà thờ mỗi chúa nhựt để sau đó được về nhà mục sư gặp cô con gái. Em vừa cười vừa khoe:

    - Con nhỏ mê em quá rồi!

    Tôi nửa đùa nửa thật hỏi:

    - Cưng có muốn cưới nó rồi ở lại Mỹ luôn không?

    Em liền trách tôi:

    - Em chưa đánh giặc ngày nào, đừng có xúi bậy. Chị đi lính không được, em đi thế cho chị nè. Được con gái mê thì cũng thích, cái tôi lớn hơn một chút cho vui, chớ ai lại để con gái làm hư đời mình!

    Hải Vân nóng lòng đem những gì học được sau kỳ huấn luyện về phục vụ đất nước. Tôi thì khoe rằng cái thai trong bụng tôi khoẻ lắm, đạp tôi liên hồi. Chắc thằng nhỏ sau này thành một cầu thủ tài ba.

    Từ Lackland, Texas, lớp của Hải Vân được chuyển tới Hunter Airfield ở Savannah, Georgia, để thực tập lái Huey. John và tôi rất vui mừng và hãnh diện khi Hải Vân ra trường hạng nhất. Lớp của em có nhiều sinh viên các nước, như Canada, Đại Hàn… Trung tướng giám đốc trường viết thơ riêng cho tôi. Ông khen má tôi có thằng con học giỏi. Má tôi đã quen với những giấy khen của các thầy, cô giáo, mà lần nào má cất và thưởng Hải Vân. Nhưng kỳ này, nhận được giấy khen của trung tướng Không quân Mỹ, má tôi lại không nhắc gì đến nó trong những lá thơ viết cho tôi hàng tuần. Khi tôi hỏi thì má tôi hỏi, má nói:

    - Khó cho má vui được, khi nhận được cái giấy khen này. Em của con lớn lẹ quá. Trong khi tôi, ba và anh Khôi con ở ngoài Bắc. Mà thôi, Hải Vân nó chọn con đường đó, là mình chánh thức cho mấy người ngoài kia biết mình không có theo họ. Tụi con chán cộng sản hoài đâu có ai nghe; Hải Vân đăng vô không quân và tiếng đồn chắc ra tận ngoài Bắc rồi.

    Ngày 9 tháng 12, 1970, con tôi chào đời ở nhà thương Fort Ord, một căn cứ Lục quân. Nơi này giáp với tỉnh Monterey California. John đặt tên nó là Lance David Krall, Lance là tên một người bạn thân trong đội bơi lội hồi học trung học. David là tên chú rể phụ David Goldstein.

    Giáng sinh năm đó Hải Vân được đi phép, tôi rủ em đến California gặp mặt thằng cháu mới ra đời. Những Hải Vân cho biết chị Kim tả Washington D.C, đẹp quá, hấp dẫn quá, em phải qua thăm vì chỉ có dịp này thôi. Hải Vân còn hẹn gặp tôi với Lance vào dịp Tết sắp tới ở Việt Nam. Tôi thất vọng, vì chắc phải lâu lắm tôi mới có thể bồng con về Việt Nam thăm gia đình.

    Những nỗi thất vọng ấy chỉ là một mối buồn nhỏ, không đáng kể so với cái tin khủng khiếp tôi nhận được sau Giáng Sinh đó. Hải Vân tử nạn! Ngày 11 tháng Giêng, năm 1971, chị Kim gọi từ Washington D.C, cho biết chiếc Huey do Hải Vân lái bị rớt trong một trận bão tuyết hiếm có ở Savannah, tiểu bang Georgia. Chị tôi và tôi, mỗi người một nơi, cùng ôm cái điện thoại mà không nói được lời nào nữa. Chúng tôi như chết nửa thân người, còn hồn tê dại đến độ không sao khóc được.

    Chị tôi chờ niên trưởng của Hải Vân gọi lại. Tôi phải đưa Lance cho John bồng, vì lúc đó tôi không dám ôm nó trong lòng, cũng không muốn gần ai trong giờ phút đó.

    Mấy tiếng đồng hồ sau, chị tôi gọi lại. Không quân chánh thức xác nhận em tôi và một phi công khác tên là Nguyễn Văn Bé tử nạn.

    Tôi nghe như có tiếng la hét trong đầu tôi: “Không, không phải em tôi chết đâu. Không phải Hải Vân chết đâu. Người ta lộn tên rồi. Em tôi mới 21 tuổi, chỉ mơ ước được về nước đánh giặc. Giấc mộng chưa thành, em không thể chết được. Tôi ngồi co quắp dưới chân giường, cầu xin Trời, Phật, van nài Chúa Jesus cho tôi được sống, tôi sẵn sàng chết thế, sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời tôi cho em. Tôi đã sống trên đời này nhiều rồi, đã từng cay đắng, gian truân, từng lao đao, cực khổ, từng nếm mùi ngon ngọt của hạnh phúc; tôi đã yêu và đã được yêu, tôi sẵn sàng chết để em tôi được sống. Tôi xin cho em lá gan, lá phổi, cánh tay, cái chân, con mắt để em được sống. Tôi tới một nhà thờ nhỏ trong khuôn viên trường Monterey Postgraduate là nơi chúng tôi đã làm hôn lễ, để cầu xin Thượng đế hãy cho biết tôi phải làm gì bấy giờ. Tôi có nên về Việt Nam với má trước khi Không quân đưa xác em về không? Hỏi Chúa, Chúa không trả lời. Tôi chạy tới nhà thờ lớn hơn ở Pacific Stewe xin cha cho tôi một người hướng dẫn, vì tinh thần tôi đang sa sút, bấn loạn. Từ khi nhận được hung tin, tôi chẳng biết gì, cứ ngồi trong xe chạy loanh quanh, lúc thì dạt vào bãi cỏ, lúc thì chạy ngoài đường tìm nhà thờ, tìm Chúa, mà không về nhà. Tôi mới sanh con có 32 ngày, tôi sợ tôi phát điên mất. Đã có lần, vì đau đớn quá, tôi đã có ý tưởng điên rồ là má và tôi cùng chết một lượt để tránh nỗi đau thương này. Nhưng tôi lại nhận ra chết như vậy là vô trách nhiệm, là hèn nhát, là tàn nhẫn với tất cả mọi người trong gia đình. Để gạt bỏ những ý nghĩ điên rồ, tôi vô nhà thờ dung thân.

    Cha trả lời tôi một câu thật ngắn gọn. Dường như ông đã biết hết nỗi lòng của tôi, biết rõ mọi chuyện trong gia đình tôi và cũng hình như ông đã nghe Đức Chúa Trời phán hồi tối hôm qua.

    - Thượng đế đã chọn em của con, một đứa con xứng đáng để phục vụ Ngài.

    Đã nhiều lần tôi tìm tới Chúa, tôi mong mỏi được gần Chúa, muốn đem Thiên Chúa vào đời sống của tôi, vì má tôi rằng muốn cho gia đình có hạnh phúc, vợ chồng nên mất đạo. John chắc không bỏ đạo Thiên Chúa, còn tôi nên theo đạo của anh để cho gia đình được hoà thuận. Tôi đã vâng lời. Bây giờ cần tới Chúa, tôi cảm thấy mình lạc lõng hơn! Không biết cha nói có đúng như vậy không? Có phải Chúa chọn đứa con xứng đáng, hay là cha chỉ muốn an ủi tôi? Có thật là Chúa chọn Hải Vân không? Nếu thật, Chúa đâu có quyền bóp chết linh hồn của gia đình tôi, của má tôi. Chúa toàn năng thì lẽ nào Chúa cho rồi nửa chừng lấy lại. Má tôi là người phàm, mà khi chờ ba, má cho luôn làm hành trang vào đời để sống, má có đòi gì đâu!

    Nếu trong đời, má tôi cần tới con cái và gia đình, thì lúc này má tôi cần nhứt. Nỗi đau tôi mang trong lòng, không sao sánh được với nỗi đau của má tôi. Tôi muốn về với má và ba đứa em, nhưng tôi không về được. Visa nhập cảnh Mỹ chỉ có một lần. Về Việt Nam rồi trở qua sẽ không được vô Mỹ nữa. Ngay việc xuất cảnh khỏi Việt Nam lần thứ nhì cũng không được, trường hợp của chị Kim tôi cũng vậy. Chị em tôi còn mang quốc tịch Việt Nam.

    May mắn là anh Wray, chồng chị Cương, đang phục vụ cho Lục quân Mỹ ở Thái Lan, nên chị về được, và chị đã cho hay chị sẽ về với má và các em. Chị Kim sẽ đi Savannah nhìn Hải Vân lần cuối, và trường của em sẽ làm lễ truy điệu trước khi đưa em về cho má.

    Thời gian như đông lại. Thế giới bên ngoài gia đình dường như đã tan biến hết. Bây giờ tất cả chỉ có cái chết của em tôi. Chúng tôi chờ tin Không quân cho biết ngày nào sẽ đưa Hải Vân về Việt Nam. Chờ để làm gì? Để thấy má tôi ôm cái quan tài khóc cho thằng con chết yểu? Chờ để biết rằng vận hạn không may đã chôn vùi tương lai của một thẳng con trai thông minh, yêu nước, yêu gia đình? Chờ để biết rằng ước mơ của gia đình tôi đã bị chôn vùi, chôn tiếng cười, tiếng đàn guitar của em; và một phần đời của chúng tôi cũng chôn theo em. Bảy ngày chờ đợi dài vô tận. Nhưng rồi cũng người ta đưa quan tài của em về Việt Nam.

    Tim tôi tan vỡ. Tôi quá cô đơn, thấy mình yếu đuối, bé nhỏ trong tay định mệnh. Cho tới ngày nay, đã 39 năm qua, tôi vẫn còn giận khi nhớ tới lời nói của ông linh mục, vẫn còn thương nhớ em tôi mỗi lần nghĩ tới nó. Tôi đoán. Ở bên kia thế giới, em cũng giận, cũng tiếc, vì chưa một ngày nào được phục vụ đất nước. Em tôi chết rồi, mà cộng sản còn lợi dụng cái chết của nó để tuyên truyền. Chúng báo cho ba tôi biết là CIA đã giết Hải Vân vì chúng biết em là con của ba tôi. Tôi giận sôi gan, vì ba tôi tin lời tuyên truyền đó, tin cho tới ngày ông lìa khỏi cuộc đời.

    Tôi thất vọng, vì ba tôi nhìn đàn con lớn lên qua lăng kính cộng sản. Vì vậy, ông không thấy được rằng ngoài người con trai kỹ sư tên lửa, ông còn một thằng con trai khác nữa, thông minh, lanh lợi không kém anh nó.

    Cuộc điều tra tai nạn máy bay của Hải Vân đã diễn ra rất chu đáo. Không có gì đáng nghi cả. Sau này chồng tôi được đổi về Ngũ Giác Đài, làm việc cho cơ quan tình báo của Hải quân. Anh xem bản kết quả của cuộc điều tra. Hải Vân bay quá thấp, và khi bão đến, muốn bay cao hơn không kịp nữa, nên bị đụng dây điện trong rừng thông.

    Phải nói là em tôi bất hạnh, gia đình tôi bất hạnh, nhưng tôi không phải là nạn nhân của bất cứ ai.
    ....
    Last edited by chimtroi; 03-28-2023, 07:22 AM.

    Comment


    • #3
      Nhận được tin buồn:

      Bà DUNG KRALL , nhủ danh Đặng Mỹ Dung

      vừa qua đời tại USA

      Hội Quán Phi Dũng thành kính chia buồn cùng tang quyến.
      Xin cầu nguyện hương linh của Bà được sớm siêu thoát về miền an lạc.


      TIN BUỒN.
      Vô cùng thương tiếc báo tin cho các thân hữu chị DUNG KRALL , nhủ danh Đặng Mỹ Dung vừa mới qua đời vào lúc 7giờ tối ngày 23 tháng 3 năm 2023 sau một thời gian bạo bệnh.
      Chị DUNG KRALL là tác giả của tác phẩm hồi ký A thousand Tears bằng Anh Ngữ hiện có bán trên Amazon. Bản Việt ngữ Ngàn Gịot Lệ Rơi.
      Chị là ân nhân của hơn hàng ngàn gia đình người Việt tỵ nạn khi bước chân tới Atlanta, và những vùng phụ cận, Hoa Kỳ.
      Chị là một người phụ nữ có tấm lòng nhân hậu và cản đảm, trung trực đầy nhiệt huyết, giúp đỡ nhiều hoàn cảnh khó khăn của người Việt tỵ nạn từ 47 năm nay. Một người phụ nữ ưu tú trong cách đối nhân xử thế.
      “Đến khi về chín suối,
      Ta xin gửi đá vàng,
      Của trăm năm buồn tủi,
      Về trả lại nhân gian...”
      (Bùi Giáng)
      Cầu nguyện cho chị được an nhiên trong cõi Vĩnh Hằng.
      Xin phân ưu cùng tang quyến và bạn bè khắp nơi.
      Kính bái.
      Thân Hữu:
      Nguyễn thị Thảo An.
      Phan thị Mỹ Hạnh.
      Nguyễn thị Thu Hương.
      Anh Chị Nguyễn văn Hương
      PS. Gia đình không làm tang lễ và tổ chức Viếng Thăm theo di nguyện của chị DUNG KRALL.
      (Theo FB Nguyễn Thị Thảo An)

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X