Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Ngày ra đi

Collapse
X

Ngày ra đi

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Ngày ra đi


    NGÀY RA ĐI

    Mệ


    Phần I

    Ra đi kể từ ngày mất nước đến nay đúng một phần tư thế kỷ, một quảng thời gian dài bằng một thế hệ. Gia đình ai nấy cũng gấp đôi, gấp ba khi cộng thêm dâu rể và cháu chắt. Nhưng mỗi khi nhớ lại ngày ra đi tưởng chừng như vừa mới xảy ra.
    Và cuộc ra đi của bất cứ gia đình nào cũng đầy bất ngờ và nhiều tình huống lâm ly bi đát vì tính cách mất nước chạy loạn, tránh sự giết chóc và đi tìm tự do tại một nơi mà mình không biết trước, tương lai mù mịt, rồi đây sẻ ra sao. Chính vì thời gian cấp bách và không chuẩn bị trước là nguyên nhân chính tạo nên sự hổn loạn trong cuộc chính biến vào các ngày cuối tháng Tư năm 1975.

    Trường hợp chạy loạn của mỗi gia đình hay cá nhân mỗi khác, không trường hợp nào giống trường hợp nào. Tôi chắc rằng những ai đã may mắn đến được bờ tự do đều cám ơn Thượng Đế và không bao giờ quên được những sự việc xảy ra tuy đã lâu lắm rồi, vì đây là những sự việc đau buồn và hãi hùng hằng in sâu trong tâm khảm mọi người. Và dẩu có kể ra bao nhiêu lần cũng không hết được. Bằng chứng là biết bao lần gặp mặt giữa bạn bè hay thân quyến, nếu ai có nhắc lại trường hợp chạy loạn của mình đều có những chi tiết mới, hay những sự việc không thể giải thích được, chỉ có tâm linh tin tưởng mà thôi, nên ai cũng chăm chú theo dỏi. Dẩu câu chuyện hay hay dở cũng đều quí giá đối với các thế hệ cháu chắt sau này, tìm hiểu về nguồn gốc của cha ông mình tại sao đến xứ này và ra đi trong trường hợp nào?

    Như tôi đã có kể lại ở bài "Nhà Tan" trước kia, giữa tháng 3 năm 1975, Ban mê Thuột thất thủ, Quân Đoàn II từ bản doanh Pleiku rút về vùng duyên hải Nha Trang. Khoảng cuối tháng 3, Quân Đoàn I, ở Đà Nẳng bỏ chạy tán loạn. Ngày 1 tháng 4 năm 1975 đến lượt Nha Trang di tản. Vùng Duyên Hải chỉ còn Phan Rang trở vào phía Nam. Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Cộng sản chiếm nốt Phan Rang rồi Phan Thiết. Quân Đoàn I và Quân Đoàn II hoàn toàn tan rả. Lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa cũng như lực lượng quân sự chỉ còn lại Vùng III và Vùng IV Chiến Thuật do Quân Đoàn III và Quân Đoàn IV trấn giữ.
    Tình hình chính trị lúc đó tại thủ đô Saigon hết sức lộn xộn và bi quan, Tổng Thống dân cử Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, ngày 21 thàng 4 năm 1975 và sau đó ra đi, cũng là lúc Hoa Kỳ lập cầu không vận ồ ạt di chuyển quân đội và nhân viên Hoa Kỳ còn lại rời khỏi Việt Nam. Và đây là nguyên nhân chính đã tạo nên sự hoảng hốt trong dân chúng và quân đội, Nhứt là khi có lệnh cho phép di tản ra ngoại quốc những nhân viên dân chính làm việc cho các cơ quan Hoa Kỳ.
    Riêng trong quân đội nói chung, Không Quân nói riêng cho phép di tản ra nước ngoài gia đình quân nhân theo thứ tự cấp bực. Nên gia đình của các Tướng Lảnh Không Quân cùng một số gia đình của các sỉ quan cấp Tá thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân rời Saigon bằng không vận vào ngày 22 tháng 4 năm 1975, dưới sự hướng dẫn của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan vì lúc đó đã bị thương không còn cầm quyền nữa. Theo Hoa Kỳ, ưu tiên số một là di tản gia đình của các hoa tiêu khu trục trước, không phân biệt cấp bực. Lúc đó không mấy người biết, nay mới hiểu rõ, là muốn cho các hoa tiêu khu trục, nhứt là F-5, rảnh rang vấn đề thê nhi, biết rằng vợ con đã đến được nơi an toàn, bình tâm chiến đấu; thất trận sẻ lái phi cơ đến các Căn Cứ Không Quân Hoa Kỳ đóng ở Thái Lan. Như thế Hoa Kỳ sẻ thâu hồi một số phi cơ khả dụng. Bởi vậy nên cũng đừng ngạc nhiên khi một phi cơ nào của Không Quân Việt Nam vừa đáp xuống liền được xóa ngay huy hiệu và thay vào bằng huy hiệu Không Quân Hoa Kỳ. Và người hoa tiêu khu trục được đón tiếp niềm nở hơn các người tỵ nạn khác.
    Việc di tản tuy lộn xộn về phía ta vì vấn đề gia đình ưu tiên, nhưng đối với Không Quân Hoa Kỳ trôi chảy trong mấy ngày đầu cho đến khi chiếc vận tải cơ khổng lồ C-5 chở các trẻ mồ côi rơi vào ngày 4 tháng 4 năm 1975. Cầu không vận ngưng lại trong một thời gian ngắn, sau đó Không Quân Hoa Kỳ chỉ sử dụng C-130 cho công tác này mà thôi và phần nhiều đáp và cất cánh vào lúc ban đêm để tránh phòng không của Cộng sản vì lúc đó Cộng quân đang vây quanh thủ đô Saigon, bằng chứng là tai nạn phi cơ C-5, có thể bị phòng không địch bắn hạ lúc vừa cất cánh ra khỏi không phận Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt, cũng có thể bị phá hoại bằng bom nổ chậm đặt sẳn trong phi cơ.

    Tôi thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân đã theo đơn vị từ Nha Trang di tản về tạm trú taị Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt từ đầu tháng 4. Tuy sự chuẩn bị không mấy chu đáo, nhưng nhờ phương tiện chuyển vận dồi dào nên cũng đưa hết nhân viên cơ hữu và tất cả khoá sinh về Saigon. Nhưng về phần cơ giới vật liệu chỉ đem theo được những phi cơ khả dụng mà thôi, còn tất cả đều bỏ lại Nha Trang. Bởi vậy khi về tới Saigon tôi không có xe để di chuyển. Ngày ngày tôi quá giang xe của các anh em Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp Không Quân để đến văn phòng. Vì trường này vẫn còn trực thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, nên Đại Tá Đặng Văn Hậu Giám Đốc trường đã ưu ái cho gia đình chúng tôi tạm trú ở cư xá của trường này.
    Lúc này công tác huấn luyện, ngoại trừ Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp Không Quân ra, đình chỉ hẳn, vì tất cả phương tiện huấn luyện không thể mang theo, nên số khóa sinh được lệnh trở về đơn vị cũ. Nhưng lý do chính là vì tình hình chính trị và quân sự lúc bấy giờ hết sức rối ren và bi quan, đã tác động mạnh vào tinh thần chiến đấu của toàn thể quân nhân. Chính phủ và nhứt là quân đội đang phối trí lại các lực lượng rút lui mất còn của hai Quân Đoàn I và II để tăng cường cho hai Quân đoàn III và IV còn nguyên vẹn chống địch, còn đâu nghĩ tới vấn đề huấn luyện. Lúc đó phần nhiều các khóa sinh được phân phối tới các đơn vị chiến đấu.
    Trường hợp của Trung Tâm Huấn Luyện cũng không ngoại lệ. Tuy không bận rộn về công tác huấn luyện, nhưng hằng ngày vẩn có hai buổi tập họp sáng và chiều để điểm danh quân số. Riêng Bộ Chỉ Huy gồm chỉ huy trưởng, chỉ huy phó và giám đốc các trường sau khi điểm danh buổi sáng xong, đều dự buổi họp cho đến trưa mới giải tán. Chúng tôi đề cập tới vấn đề tinh thần của quân nhân, đây là mối quan tâm hàng đầu của cấp chỉ huy, làm sao quân nhân giử vững tinh thần kỷ luật, nói rõ ra là đừng đào ngũ, vì lúc đó tinh thần hết sức giao động bởi tình hình chính trị và quân sự như đã trình bày ở trên, cộng thêm nơi ăn chốn ở của quân nhân rất thiếu thốn. Vì doanh trại của Sư Đoàn 5 Không Quân, Tân Sơn Nhứt chỉ đủ chứa quân nhân cơ hữu mà thôi, nay vì hoàn cảnh bắt buộc phải cưu mang thêm số quân nhân của hai Sư Đoàn Không Quân từ Đà Nẳng và Nha Trang rút về, làm sao mà đầy đủ cho được. Nơi ăn chốn ở thiếu thốn thế nảy sinh ra vô kỷ luật.Bàn hết chuyện quân sự, rồi tới tình hình đất nước, bằng chứng hiển nhiên nhứt là cuộc di tản đang diễn ra trước mắt. Gia đình các Tướng Lãnh và các sĩ quan cao cấp ở Bộ Tư Lệnh Không Quân đều đã được đưa ra ngoại quốc một cách an toàn. Điều này là dấu chỉ mất nước tới nơi, nên khi Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng hỏi về tình hình đất nước hiện tại và với tư cách là một quân nhân thì ta phải hành động như thế nào. Là Chỉ Huy Phó, tôi phát biểu ý kiến trước, rằng tình hình đất nước đã đến lúc không còn cứu vãng được nữa. Là một quân nhân tôi không muốn bị Cộng sản bắt cầm tù và hành hạ gia đình tôi. Nếu có phương cách tôi sẻ đưa gia đình tôi ra ngoại quốc, lánh nạn Cộng sản đã, sau đó sẻ tính. Sở dỉ tôi bạo dạn nói như thế vì gia đình của các thượng cấp đã ra nước ngoài rồi. Tiếp lời tôi, Trung Tá Định, Giám Đốc Trường Phi Hành phát biểu ý kiến, rằng nếu mất nước sẻ rút vào mật khu kháng chiến, chứ không đi đâu hết. Dỉ nhiên là trong số các sĩ quan hiện diện không ai theo ý kiến của tôi mà chỉ bàn tới ý kiến của anh Định vì có vẻ anh hùng. Còn ý kiến của tôi là tiêu cực hèn nhát. Nếu không mất nước, còn ở lại, tôi đã phải vô tù vì ý kiến thực tiển trên. Cứ mỗi lần tan họp, vừa bước ra khỏi phòng liền gặp một số anh em đợi sẳn ở ngoài để dò la tin tức vì ai cũng nóng lòng và lo lắng cho sự an toàn của gia đình mình.
    Trong lúc họp tôi phát biểu ý kiến làm sao, khi ra khỏi phòng họp gặp ai đến hỏi, tôi cũng bảo như thế, khuyên họ tìm phương cách đưa gia đình ra nước ngoài. Một số sĩ quan quá kỷ luật sợ bận lo cho gia đình, sẽ vắng mặt trong các buổi điểm danh hằng ngày. Tôi trả lời sẽ che chở cho họ, nếu thượng cấp có hỏi tới. Tôi không ngại bị quở trách, cũng không phải tôi có ý khuyến khích thuộc cấp đào ngũ. Vì đây là kinh nghiệm hết sức đau thương, tôi đã gánh chịu cách nay chưa đầy bốn tuần lễ, tôi lạc vợ mất con cũng vì quá kỷ luật. Tuân hành thượng lệnh, tôi giữ vợ con ở lại để gia đình thuộc cấp khỏi giao động. Và đi công tác tại Saigon khi Nha Trang di tản trong lúc gia đình tôi đang còn ở đó, ngoài căn cứ không quân. Cuối cùng, may mắn thay gia đình tôi cũng được thoát nạn, mặc dầu hết sức vất vã. Cám đội Ơn Trên. Chuyện này tôi đã kể chi tiết ở bài "Nhà Tan".

    Trong lúc gia đình của mấy ông lớn đi cả rồi, chúng tôi mỗi ngày điểm danh hai lần sáng và chiều và họp hành bàn luận không đi tới đâu, cốt để cho qua thì giờ. Phần tôi, gia đình chưa đi được, tôi hết sức sốt ruột. Khi Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng báo cho hay, một số gia đình sĩ quan trực thuộc hãy chuẩn bị sẳn sàng, sẽ không báo trước, hể được lệnh là lên đường ngay. Nghe tin này một số sĩ quan rất phấn khởi. Ai nấy vội vã đến Bộ Tư Lệnh Không Quân nộp đơn. Quang cảnh tại đây hết sức khác thường, lề lối làm việc cũng lạ lùng. Thay vì nộp đơn nơi Phòng Tiếp Vận vì nơi đây chuyên lo về chuyển vận, chúng tôi bắt buộc phải nộp đơn ở Văn Phòng Tư Lệnh. Được Đại Tá Đỗ Văn Ri, Chánh Văn Phòng nhận đơn, tôi hết sức hy vọng vì nghỉ rằng là chỗ quen biết, xưa kia là Sĩ Quan Nhân Viên của đơn vị do tôi chỉ huy, sẽ nể tình cho gia đình tôi đi hôm đó là ngày 25 tháng 4 năm 1975, cũng chẳng phải là ưu tiên gì. Vì trong mấy ngày nay có rất nhiều chuyến C-141 và C-130 đến Tân Sơn Nhứt chở không biết bao nhiêu gia đình các cấp, kể cả bên Lục Quân nữa. Nếu tính về cấp bực tôi chỉ dưới hàng Tướng mà thôi. Nếu tính về chức vụ, tuy chức vụ tôi không quan trọng, cũng là Chỉ Huy Phó của một đại đơn vị. Nhưng gia đình tôi chưa được đi, trong lúc gia đình của mấy ông chỉ huy phó kia đã được đi trước rồi, kể cả các gia đình không quân không phi hành thuộc hàng Úy; chính tôi thấy tận mắt. Vì chiều nào sau giờ bãi việc tôi thường đến Trạm Hàng Không Quân Sự Việt Nam và Trạm Hàng Không Hoa Kỳ ở DAO (Defense Attaché Office) để dò la tin tức. Sinh hoạt ở DAO hết sức nhộn nhịp gần như hỗn loạn vì số người quá đông, có những gia đình lê la ở bên ngoài vì phòng ốc không đủ chứa, đa số là hành khách dân sự ăn mặc bảnh bao với những va li hành lý no phồng. Cũng có nhiều quân nhân đến đây để lo cho gia đình mình di tản.
    Nhưng tại Trạm Hàng Không Quân Sự Việt Nam, số hành khách có vẻ thưa thớt vì chỉ những gia đình được đi mới lưu lại; còn những ai đến đây dò la tên gia đình mình trong danh sách hành khách, nếu không thấy, vội vàng đi nơi khác tìm phương cách, hay chạy đôn chạy đáo nghe ngóng tin tức.
    Nhưng lạ thay khi lên phi cơ thì số hành khách rất đông, phi cơ nào cũng đầy ắp, trên hai ba trăm người cho các vận tải cơ khổng lồ. Những ai như tôi chứng kiến cảnh đưa người lên phi cơ này đều hết sức ngạc nhiên. Tự hỏi người đâu mà nhiều như thế vì khi trước chỉ thấy số hành khách ở Trạm Hàng Không Quân Sự Việt Nam chưa đầy một trăm người. Xin thưa vì có một số rất đông hành khách xuất phát từ Phòng An Ninh Phòng Vệ/Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt và từ Phòng An Ninh Không Quân, mà hồi đó chúng tôi gọi hai nơi này là hai trạm hàng không quân sự phụ. Hành khách của hai trạm phụ này lên phi cơ trước có vẻ ưu tiên hơn số hành khách của trạm hàng không quân sự chính thức. Và nhân viên của hai phòng này luôn luôn có mặt khi đưa hành khách lên phi cơ, lý do là để kiểm soát những quân nhân thừa cơ hội này chuồng ra nước ngoài. Tuy kiểm soát chặt chẽ như vậy nhưng cũng có một vài quân nhân qua mặt được, bằng cách cải trang làm đàn bà. Hồi đó có tin đồn rằng chính phủ và quân đội đã bắt lại bỏ tù một số dân chính trốn nhiệm sở và quân nhân đào ngũ.

    Tôi chứng kiến cảnh gia đình của các quân nhân khác được đi càng thêm sốt ruột, nhưng cũng không làm gì hơn, chỉ còn cách chờ đợi trong sự hi vọng. Nhà tôi hoảng hốt đôi khi giục tôi đến gặp Chuẩn Tướng Tham Mưu Trưởng hay Trung Tướng Tư Lệnh để trình bày về trường hợp của gia đình chúng tôi, nhưng tôi không đi vì suốt đời quân ngũ tôi chưa hề xin thượng cấp ban cho tôi một ân huệ. Trong lúc đó mấy bạn bè của tôi bên Lục Quân, ngành Tiếp Vận đang phụ trách di tản, muốn giúp, dành chỗ phi cơ trong số Không Quân Hoa Kỳ cấp, để chở gia đình chúng tôi. Nhưng tôi cám ơn và từ chối vì nghĩ rằng mình Không Quân mà đi nhờ vã Lục Quân về chuyển vận bằng hàng không thì mất mặt quá. Nhưng dẩu sao tôi cũng rất cám ơn cảm tình của Đại Tá Mai Xuân Thưởng, Tiếp Vận dành cho tôi trong lúc hoạn nạn. Nếu như gia đình tôi kẹt lại, tôi sẻ ân hận suốt đời vì tôi đã ngu xuẩn từ chối sự giúp đỡ này. Và nhứt là tánh khí khái của tôi thể hiện không phải lúc. Ở đời không ai có thể sống cô lập được, mà phải sống hợp quần, tức là cần có sự tương trợ lẫn nhau; cũng có khi mình giúp người ta thì cũng có khi kẻ khác giúp mình. Giúp đỡ và thọ ơn là chuyện thường tình khi sống trong xã hội, dẫu các bậc cao sang quyền quí như vua chúa xưa kia và nay các tổng thống hay quốc trưởng cũng không tránh khỏi. Trường hợp nguy kịch như thế này, dẩu tôi có hạ mình xin thượng cấp đặc ân cho gia đình tôi được di tản sớm cũng không có gì là xấu hỗ. Thế mà tôi vẫn cứng đầu. Nhưng hồi đó nếu có muốn cũng không gặp được thượng cấp, khó hơn lên trời. Quân cảnh gác vòng trong vòng ngoài hết sức chặt chẽ. May mắn lắm mới được Đại Tá Đỗ Văn Ri, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh nhận đơn. Vì gia đình nào được đi hay không, hoặc đi trước hay đi sau đều do văn phòng này quyết định cả.
    Hôm nay là ngày 28 tháng 4 năm 1975 gia đình tôi vẫn chưa đi được. Tâm trí tôi hết sức căng thẳng vì đang sống những giờ phút lo âu tột cùng, ngồi đứng không yên. Vào khoảng gần trưa vừa mới ra khỏi phòng họp trở về, chưa kịp vào nhà đã gặp nhà tôi hớt hơ hớt hải chạy lại báo tin, rằng có người vừa điện thoại bảo "Anh chị nên đưa gia đình đến Trạm Hàng Không Quân Sự tranh đấu mà đi. Vì số chỗ của gia đình anh chị đã bán cho Tàu Chợ Lớn rồi". (Nguyên văn). Nghe xong tôi rất ngạc nhiên, hỏi lại nhà tôi, ai đã báo tin này. Nhà tôi trả lời, có hỏi nhưng họ không xưng tên, chỉ nói có bấy nhiêu đó rồi cúp ngay có vẻ vội vàng lắm. Nghe vậy tôi càng chưng hửng. Tuy không biết đích danh là ai, nhưng chắc chắn là người quen thân và ngang trang ngang lứa.Tình hình nguy kịch quá rồi, không còn thì giờ đâu mà nghĩ ngợi tìm kẻ báo tin. Tôi vội vàng mượn xe Jeep của chú em tôi và cũng nhờ chú dùng xe La Dalat nữa mới có thể chở hết gia đình đông của tôi đến Trạm Hàng Không Quân Sự để tranh đấu mà đi, như lời dặn dò của ân nhân vô danh.
    Đến nơi tôi tìm gặp ngay Đại Úy Lê Đại Hiền, Trưởng Trạm Hàng Không Quân Sự, để hỏi xem gia đình tôi có được đi hôm đó không? Được trả lời không thấy tên gia đình tôi trong danh sách hành khách vừa được Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi xuống. Tôi hỏi cho có lệ, chứ cũng biết không có. Nếu có thì tôi đã được thông báo rồi, đâu đến nổi vất vã mấy hôm rày. Trong lúc đó hành khách đa số là gia đình cấp Úy, kể cả những gia đình của các sỉ quan không phi hành thuộc cấp của tôi nữa. Bởi vậy tôi liền vặn hỏi tại sao lại có trường hợp bất thường như thế này.
    Thấy tôi có vẻ gay gắt, Đại Úy Hiền ôn tồn trả lời rằng "Dạ để tôi sắp xếp". Nghe vậy tôi rất vui mừng nhưng đã trải qua những giờ phút hết sức hồi hộp khi gọi tên điểm danh từng gia đình một, nghe đọc đã lâu gần cả nửa giờ đồng hồ nhưng chưa nghe đến tên gia đình tôi. Vì khi gọi đến tên gia đình nào thì tên người vợ được gọi trước, tiếp đến là tên các con cái. Phần nhiều các gia đình trả lời và đứng lên rất nhanh khi được gọi tên, chẳng khác nào như được trúng số đến lảnh phần thưởng. Trái lại có những gia đình trình diện một cách ngập ngừng vì họ tên, tuổi tác và vóc dáng của những người cùng trong một gia đình hết sức khác thường. Người mẹ còn trẻ măng được gọi tên đến ba bốn lượt, ngớ ngẩng mới đứng lên, sau đó là những người con to lớn và già dặn đứng bên cạnh. Sự khác lạ này ai cũng thấy không riêng gì tôi và ngay cả quân nhân làm việc ở Trạm Hàng không Quân Sự lại càng rỏ hơn, nhưng không ai làm gì được, vì quyền hành đều do Văn Phòng Tư Lệnh nắm cả. Trên đưa xuống danh sách hành khách thế nào thì dưới thi hành làm vậy.
    Cuối cùng gia đình tôi cũng được gọi tên và ghi ở danh sách hành khách sau chót. Nay đến giai đoạn cho phép hành khách lên xe bus và GMC để chở sang DAO. Trong khoảng thời gian chờ đợi này tôi mới có cơ hội tìm hiểu sự khác lạ nơi những gia đình bất bình thường. Đó là những gia đình dân sự Việt có, Hoa có, khi nghe giữa họ đối thoại với nhau. Và giữa những người trong gia đình không phải liên hệ mẹ con hay anh em ruột thịt. Chuyện quá quái gỡ, tôi không thể ngờ được. Là quân nhân, chúng ta xã thân chiến đấu; đến giờ phút nguy nan, gia dình được phép di tản lại bị bỏ lại để lấy chỗ chở gia đình dân sự, mà tôi có thể khẳng định rằng đây là thành phần có quyền thế và tiền của nhờ chiến tranh và sự hy sinh xương máu của quân cán chính chúng ta. Cho dẩu họ có đóng góp gì đi nữa trong việc bảo vệ đất nước, nhưng gia đình họ cũng không thể được di tản ưu tiên hơn các gia đình quân nhân. Bấy giờ tôi mới chợt hiểu thì ra suốt cả tuần lễ nay gia đình tôi chưa được đi vì lý do này. Và nếu hôm nay không nhờ cú điện thoại của ân nhân vôdanh thì không biết chừng nào mới đến lượt gia đình tôi được di tản. Gặp chuyện bất bình xảy ra trước mắt ảnh hưởng trực tiếp tới sinh mạng của gia đình mình, nhưng vì tình hình khẩn cấp và nguy nan trước mắt nên chưa ai muốn tìm hiểu lý do và nguồn gốc.
    Không biết vì tức giận bởi chứng kiến cảnh tượng đau lòng trước mắt hay vui mừng vì gia đình tôi được di tản hôm nay mà tôi sững sờ im lặng hồi lâu, mãi cho tới khi xe chở hành khách chuyển bánh để đi qua DAO tôi mới sực tỉnh, đưa tay vẩy chào gia đình với nổi lòng tan nát và đầy lo âu vì không biết sau này có cơ hội đoàn tụ hay không. Tôi nghỉ rằng đây cũng là nỗi lòng chung của những ai đã từng tiển đưa gia đình mình trong giờ phút nguy nan lúc đó.
    Đứng ở Trạm Hàng Không Quân Sự nhìn cho tới khi xe chở hành khách khuất bóng, tôi một mình lái xe Jeep định trở về cư xá Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp. Đang đi chưa về tới nơi, tôi nghe tiếng bom nổ đâu đó trong căn cứ, lúc đó khoảng 6 giờ chiều. Tôi vội vàng lái xe tấp vào cư xá sĩ quan gần nhất dọc đường Phạm Phú Quốc trong căn cứ, để lánh nạn và nghe ngóng tin tức. Sau này mới biết là hoa tiêu Cộng sản nằm vùng Nguyễn Thành Trung đã lái A-37 do Cộng sản chiếm được ở Căn Cứ Không Quân Phan Rang trước đó hai tuần lễ, ném bom ở bãi đậu phi cơ của Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt.
    Nếu tính về thời gian thì giờ này xe chở hành khách từ Trạm Hàng Không Quân Sự chưa thể tới nơi DAO, nên tôi có phần lo lắng. Quả đúng như thế.

    Và sau đây là phần nhà tôi kể lại.

    Giữa đường chưa tới DAO nghe bom nổ, tài xế ngừng xe lại, hành khách vội vàng xuống xe tìm chỗ ẩn núp. Đây là một đoạn đường trống trải, nên đa số chỉ còn cách nằm sát bên lề đường. Có những người vì quá sợ hãi đã nằm ở lạch nước dơ dưới chân đường và khóc rưng rức. Gia đình chúng tôi đông con trên mười đứa, trong đó có hai đứa đang đau nặng, một đứa nhà tôi ẳm, đứa kia do người con lớn chúng tôi săn sóc, cũng nằm im dưới đất như mọi người trong sự hồi hộp. Cả một giờ đồng hồ sau tình hình yên lặng, tài xế mới bảo hành khách trở lên xe và cùng đến DAO. Hành khách chờ đợi ở đây.
    4 giờ sáng hôm sau 29 tháng 4 năm 1975, Cộng sản bắt đầu pháo kích Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt hết sức dữ dội. Và chính trong giờ phút nguy nan đó, gia đình tôi và một số đông hành khách khác đã được đưa lên phi cơ, cất cánh giữa tiếng nổ vang trời và ánh lửa lập loè của bom đạn. May mắn thay, nhưng cũng không trọn vẹn.

    Phần II


    Tôi không tiễn gia đình tôi đến DAO trong lúc tôi rảnh rổi, mà lại điềm nhiên trở về cư xá, gặp lúc nghe tiếng bom nổ vang trời, nhưng tôi cũng không mấy lo lắng vì nghĩ rằng có người có ta. Ăn tối xong, tôi đến Bộ Tư Lệnh Không Quân để dò la tin tức. Vừa đậu xe xong và đang đi bộ giữa sân trống để tiến lên lầu, tôi liền gặp người bạn thân đang phục vụ ở đây, tôi rất mừng rỡ vì khi chuyện trò thế nào tôi cũng thâu thập được những tin tức hữu ích, nhứt là khi anh ta cho hay vừa mới dự họp ở Văn Phòng Tư Lệnh xong. Chẳng có tin tức gì mới lạ, chỉ là những chuyện tôi đã từng nghe qua từ ngày mất Pleiku và Đà Nẳng, như về chính trị thì có thành phần thứ ba đứng ra thương thuyết với Cộng sản; về phần lãnh thổ sẻ cắt đất, trước kia là Vĩ Tuyến 16, rồi 15, 14 sau cùng là ranh giới tỉnh Khánh Hoà.Vì Phan Rang là quê quán của đương kim Tổng Thống phải trấn thủ bằng mọi giá. Tin tức toàn đồn nhảm cả, bằng chứng là nay Phan Rang đã lọt vào tay Cộng sản. Thế mà ông bạn của tôi vẫn còn tin tưởng mảnh liệt vào thành phần thứ ba, nên khuyên tôi ở lại, đừng đưa gia đình tôi đi đâu cả. Lời khuyên này đã được nhà tôi thuật lại, rằng anh bạn kia mấy hôm trước lúc đến thăm nhà tôi đang nằm ở tại Bệnh Xá/Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt cũng đã nói như vậy. Hồi đó tôi không tin, nay chính tôi trực diện đối thoại. Anh bạn có hỏi thăm gia đình tôi, tôi thành thật trả lời rằng gia đình tôi đã được chở qua bên DAO lúc căn cứ bị dội bom; có đi được hay không, chính tôi cũng không biết, lúc đó vào khoảng 10 giờ đêm. Anh bạn tôi liền hỏi: "Tại sao anh không tiển chị lên phi cơ?" Tôi đáp: " Đi theo nhà tôi và gia đình sang DAO, tôi sợ người ta hiểu lầm tôi lợi dụng cơ hội này để trốn ra ngoại quốc". Nghe tôi giải thích như thế nên anh bạn không còn hỏi nữa về gia đình tôi, mà quay về vấn đề chính là phân tách tình hình chính trị, đặc biệt đề cập tới thành phần thứ ba.
    Kẻ muốn đi, người muốn ở lại, không bên nào thuyết phục được bên nào. Cuối cùng chúng tôi rủ nhau đi ăn khuya, rồi chia tay vào khoảng nửa đêm. Dĩ nhiên anh bạn tôi ở lại, và đó cũng là lần chia tay cuối cùng giữa hai chúng tôi. Sau này được tin anh bạn thân này chết trong trại tù Cộng sản, tôi rất đau buồn. Rất nhiều người bị kẹt lại vì rất nhiều lý do, chẳng hạn như vì lý do gia đình, lý do không hiểu Cộng sản, lý do chậm chân và vân vân. Riêng anh bạn này tuy nhỏ tuổi hơn tôi, nhưng đáng bực đàn anh tôi về trí thông minh và khôn ngoan tại sao anh không nhận thức và phân biệt được tình hình lúc bấy giờ? Tôi không thể hiểu nổi.

    Lúc tôi vừa về tới phòng, định thay quần áo để nghỉ ngơi, liền được tin có lệnh di tản gia đình quân nhân ra Côn Sơn bằng phương tiện cơ hữu của không quân nhà, tôi rất vui mừng vì tôi còn có trách nhiệm đối với gia đình chị tôi nữa gồm bốn người. Đây là cơ hội tốt, tôi tức tốc lái xe đến văn phòng Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Không Quân, để xin cho gia đình bà chị ra Côn Sơn, nhưng bị từ chối, mặc dầu tôi năn nỉ hết lời, có phần qui luỵ nữa vì đây là gia đình bà chị, tôi kính trọng như bậc trưởng thượng vì chúng tôi mồ côi cha mẹ. Khi ra đi tôi hi vọng tràn trề vì nghỉ rằng Chuẩn Tướng Tiên là người quen biết, ngang trang ngang lứa, xưa kia cùng giữ chức vụ ngang nhau; nay lại có thêm Đại Tá Đinh Thạch On, Tư Lệnh Phó là bạn thân cùng Khoá 1 Quan Sát Viên với tôi nữa. Thế mà lời yêu cầu của tôi bị bác khước. Tôi rất hỗ thẹn đối với mấy vị có mặt hôm đó tại văn phòng Tư Lênh Sư Đoàn 5 Không Quân thì ít, chẳng hạn như Đại Tá Văn, Đại Tá Thế và nhiều sỉ quan hoa tiêu của Sư Đoàn, nhưng tôi xấu hỗ với mình thì nhiều vì đã hạ mình năn nỉ.
    Tôi tiu ngỉu ra về với lòng buồn chán. Rủi thay xe tôi bị hết xăng, nằm vạ dọc đường. Tôi liền gọi Phòng Quân Xa, gặp được Trung Tá Lê Tấn Trị, Trưởng Phòng, ông đích thân mang xăng tới giúp tôi ngay. Không những đây là sự may mắn đặc biệt mà sau này còn là một phước đức cho tôi. Dĩ nhiên là tôi hết lời cám ơn anh Trị. Về đến phòng nằm ngồi không yên vì nhớ lại chuyện vừa xảy ra, tôi liền chở gia đình bà chị trên xe ghé ngang qua trại tạm trú của các gia đình Hạ Sĩ Quan từ xa về, báo tin cho họ biết có lệnh di tản ra Côn Sơn, để cùng ra Trạm Hàng Không Quân Sự xin đi. Nhiều hạ sĩ quan cũng đã biết tin này rồi, nên quang cảnh hết sức nhốn nháo, giục réo gọi nhau ơi ới vì chuẩn bị gấp gáp.
    Chúng tôi cùng đến Trạm Hàng Không Quân Sự vào khoảng 3 giờ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, nhằm lúc nơi đây đang hỗn loạn. Người ta xô đẩy, tranh nhau ra cửa để đến bãi đậu phi cơ; trong lúc đó phía bên trong, nhân viên trạm hàng không hợp với quân nhân phòng vệ cố sức đẩy ngược lại làn sóng người kia. Sự dằn co xô xát này làm cho mấy người già yếu và các trẻ nít bị kẹt ở giữa khối người la hét inh ỏi. Có kẻ té ngã bị người ta dẫm lên, mình mẩy đầy thương tích, trông thật tội nghiệp.

    Sở dỉ có sự hỗn loạn như thế là vì những gia đình quân nhân này không có giấy tờ chứng minh của đơn vị như sự đòi hỏi của Trạm Hàng Không Quân Sự, để lập danh sách hành khách trước khi lên phi cơ. Một bên làm theo nguyên tắc quân đội, một bên tỵ nạn chạy loạn, lại nhằm giữa đêm khuya khoắc, làm sao có thể xin giấy tờ chứng minh được. Riêng Trung Tâm Huấn Luyện có tôi hiện diện tại đó, tôi ký xác nhận các gia đình quân nhân thuộc quyền. Nhưng những gia đình này cũng không thể lọt ra cửa được vì khối người không có giấy tờ chứng minh làm reo, chận cửa lạị. Rốt cuộc không ai đi được, có chăng là những người lực lưỡng khoẻ mạnh và liều lỉnh mới có thể lọt ra cửa. Còn số người được di tản ra Côn Sơn trước khi chúng tôi đến là bao nhiêu, chẳng ai biết được, ngay cả Trạm Hàng Không Quân Sự vì tình trạng hổn loạn này. Gia đình chị tôi gồm người lớn tuổi và trẻ nít không thể tranh đua với người ta được, đành đứng nép một bên, sợ vạ lây vì sự xô xát kia.
    Đang chen lấn nhau, bổng mọi người cùng nghe tiếng nổ vang rền của trọng pháo, ban đầu thưa thớt nghe xa, rồi nhịp độ nổ đều đặn nghe rất gần. Lúc hiểu ra, không ai bảo ai, mọi người cùng ngưng xô xát, nét mặt lộ vẻ lo lắng. Lúc đó vào khoảng 4 giờ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975. Đến loạt đạn trọng pháo thứ ba thì đèn đóm trong căn cứ tắt ngúm. Giờ đây mọi người mới hoảng sợ, khóc la và tìm nơi trú ẩn. Nhưng biết ẩn núp ở đâu, chỉ còn cách nằm sát mặt đất, có kẻ chui dưới gầm bàn ghế, hoặc nép bên các vách nhà.
    Nhận thấy phương cách tránh pháo kích bằng cách này không mấy an toàn, tôi đành liều mạng chở gia đình bà chị chạy dưới làn mưa pháo, về nhà chú em, vì ở đây có phòng ẩn núp. Nhân số của hai gia đình gồm 13 người chen chúc nhau ngồi ở dưới hầm trú ẩn chật hẹp, lại thêm mùi hôi ẩm ướt làm mọi người muốn nôn, nhưng cũng đành chịu cho tới sáng. Lúc ấy khoảng 6 giờ rưởi 7 giờ trời đang còn sương mờ, từng loạt trọng pháo vẫn đều đăn dội vào căn cứ, trong lúc mọi người vẫn còn núp dưới hầm, tôi một mình mạo hiểm ra ngoài, lái xe định đi tìm kiếm con gái chúng tôi đang kẹt ở ngoài phố Saigon, nhưng vì thiết quân luật, tôi không ra cổng được, đành quay xe lại, qua DAO vì không biết giờ này gia đình tôi đã rời khỏi Saigon chưa. Nếu như gia đình tôi chưa đi được, tôi sẻ chở ra phi đạo tìm phi cơ cùng trốn thoát, vì lúc chạy băng ngang bến đậu phi cơ, tôi có thấy vài vận tải cơ đang di chuyển, và có chiếc đang quay máy.

    Khi tới gần cổng DAO, tôi thấy một số sỉ quan đang đứng luẩn quẩn bên ngoài, cạnh đống xe dân sự đắt tiền như Mercedes hay Peugeot không người lái, đậu ngổn ngang. Tôi hơi ngạc nhiên hỏi tại sao họ không vào bên trong, họ trả lời rằng không thể vào được vì sự ngăn cấm của người lính gác Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Hể ai đến gần, anh ta sẻ nổ súng. Có một vài người liều mạng leo lên hàng rào mắt cáo chống B-40 để vào bên trong. Tuy tôi nóng ruột nhưng không dám mạo hiểm bằng cách đó, nhở anh lính gác Hoa Kỳ bắt gặp sẻ nguy hiểm tới tính mạng. Tôi đang hoang mang, tiến thối lưởng nan, liền gặp Trung Tá Đoàn Viết Liêu, sỉ quan huấn luyện viên của Trường Đại Học Dalat trước kia cùng thời với tôi biệt phái ở đây, nay trường đã dời về Long Bình và đổi tên thành Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp. Trung Tá Liêu cho biết gia đình đã vào trong DAO, chưa rỏ có đi được hay không, đang nóng lòng nhưng cũng không thể vào được bên trong. Hai chúng tôi đang nói chuyện với nhau bổng thấy một chiếc xe bus đang chạy vào DAO. Khi ngang qua chúng tôi, xe chạy chậm lại vì gần tới cổng. Chúng tôi réo gọi và ra dấu yêu cầu xe dừng lại, nhưng người tài xế dân sự lắc đầu, xe tiếp tục chạy. Hai chúng tôi không ai rủ ai, cùng chạy theo sau đít xe. Đến trước cổng, người tài xế dừng xe, bước xuống tự mình mở cổng để cho xe vàọ. Lợi dụng khoảnh khắc này, tài xế đang bận rộn, chúng tôi lọt vào bên trong xe. Khi tài xế bước lên xe thấy hai chúng tôi, chào hỏi vui vẻ ra điều thông cảm và chúng tôi nghỉ, ngay cả anh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cũng vậy, nên đã không ngăn cấm chúng tôi tháp tùng xe bus vào bên trong.
    Thoạt nhìn, quang cảnh nơi đây có vẻ yên lặng, không thấy ai ở bên ngoài vì sợ pháo kích. Nhưng khi bước vào bên trong phòng đợi, hành khách chật ních. Trung Tá Liêu phải vất vã lắm mới tìm gặp được gia đình. Còn tôi sục sạo khắp nơi vẫn không thấy gia đình tôi đâu cả. Tôi dò hỏi tin tức qua các gia đình quen biết đang có mặt ở đó. Tôi gặp Trung Tá Vỉnh Quốc, quân nhân thuộc quyền, hiện đang học Khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp ở Long Bình, cùng với gia đình cũng đang ngồi đợi như mọi gia đình khác. Trung Tá Quốc cho biết hồi hôm cũng có thấy gia đình tôi. Nhưng sau khi pháo kích không còn gặp mặt nữa, có lẻ gia đình tôi đã đi rồi trong mấy chuyến máy bay trước. Anh có theo dõi nên biết được chuyến bay số 45 cất cánh lúc pháo kích khoảng 4 giờ sáng là chuyến bay cuối cùng vì gia đình anh đã được sắp xếp cùng các gia đình khác ở chuyến bay số 46, hiện đang đợi nhưng phi cơ không trở lại. Nghe vậy tôi an lòng, miễn là gia đình rời khỏi Saigon trong giờ phút nguy nan này, sau đó phiêu bạt về đâu sẽ tính. Nói chuyện một lúc rồi chia tay. Trung Tá Quốc theo tôi cùng ra về. Tôi hiểu thâm ý này, nên ghé tai nói nhỏ, bảo anh ở lại lo cho gia đình vì tình hình trước mắt quá nguy kịch. Có lẻ anh Quốc hiểu lầm tôi đến đây kiểm soát quân nhân thuộc quyền, bắt trở về đơn vị, vì bấy lâu nay anh đi học nên không biết những gì tôi phát biểu ý kiến trong các buổi họp hằng ngày.
    Khi vào bên trong có hai người, nay ra về chỉ có một mình tôi. Khi ngang qua cổng tôi giơ tay vẩy chào anh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đang đứng gác nơi ụ chiến đấu, cốt để cho anh ta nhìn thấy tôi và đừng nổ súng. Tôi ra cổng an toàn, tức tốc lái xe về nơi gia đình chị tôi đang trú ẩn. Nửa đường gặp chú em tôi đang đi tìm tôi. Câu đầu tiên chú hỏi là làm sao bây giờ? Tôi trả lời, hãy chở gia đình ra bãi đậu phi cơ của Sư Đoàn 5 Không Quân, thấy người ta đi, mình đi theo. Trước khi ra đi chú em tôi đã điện thoại cho Đại Tá Lê Ngọc Duệ, bạn cùng đang học khóa Cao Đẳng Quốc Phòng, biết ý định của chúng tôi. Nếu muốn đi thì hẹn gặp nhau trên đường ra bãi đậu phi cơ. Lúc đó vào khoảng 10 giờ rưởi sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975.
    Lần này cũng một Jeep và một La Dalat chở đầy người chạy loạn. Tuy nhà ở sát đường chính, nhưng không biết Trời xui Đất khiến như thế nào mà chúng tôi lái xe vòng chữ U ra phía sau, rồi đi dọc theo sân tennis của Bộ Tư Lệnh Không Quân để ra đường chính. Khi xe tôi vừa đến cổng Bộ Tư Lệnh Không Quân bị Quân Cảnh thổi còi chận lại, để cho đoàn xe từ bên trong chạy ra. Nhờ thế tôi mới thấy xe đầu chở Chuẩn Tướng Vỏ Dinh, Tham Mưu Trưởng, xe kế tiếp Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh, chỉ huy trưởng trực tiếp của tôi, rồi đến xe Đại Tá Lê Văn Thịnh, xe Đại Tá Hà Dương Hoán và nhiều xe khác chở các sỉ quan cao cấp tham mưu. Khi xe cuối cùng vừa ra khỏi cổng, chúng tôi tháp tùng theo sau. Tôi nghỉ rằng, hể bám sát hai ông Tướng này thì thế nào cũng có cơ hôi đưa gia đình bà chị tôi đi được. Riêng tôi tự cảm thấy rất yên tâm, không còn mặc cảm bỏ trốn chùng lén. Khi gần ra tới bãi đậu phi cơ, chú em tôi ghé lại nhà Đại Tá Duệ để giục đi, tôi bắt buộc phải dừng xe chờ. Bởi vậy khi tiếp tục đi ra bãi đậu phi cơ, chúng tôi không còn thấy đoàn xe của Bộ Tư Lệnh Không Quân nữa.

    Tiến thối lưởng nan, ba xe chúng tôi đậu lại giữa bãi trống khoảng mươi phút, nhưng tưởng chừng như lâu hằng giờ, trong lúc trọng pháo địch vẫn bắn vào không ngớt, nguy hiểm vô cùng, nhưng không biết tính sao. Chỉ đành phó thác cho số mệnh. May mắn thay, không ai hề hấn gì. Trong lúc chúng tôi nhìn tứ phía một cách tuyệt vọng, bổng nghe tiếng quay máy của trực thăng, mọi người cùng hướng về Đài Kiểm Soát Không Lưu, thấy cánh quạt của một trực thăng khổng lồ đang nặng nề quay. Chúng tôi vội vã lái xe tới. Đến nơi nhằm lúc trực thăng đang thử sức mạnh, nâng lên để xuống, trong lúc dân chúng chen chúc nhau vào bên trong phi cơ. Trong quảng thời gian ngắn ngủi sống chết này, không những tôi đã may mắn đưa được gia đình bà chị lên trực thăng mà còn kéo thêm hai sỉ quan học viên của Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp Không Quân cùng lên nữa. Bổng thấy Trung Tá Hoàng Song Liêm, thuộc Khối Chiến Tranh Chính Trị/Bộ Tư Lệnh Không Quân chạy lại, tôi đưa tay ra, cố gắng hết mình đến hai ba lần, nhưng không thể kéo Trung Tá Liêm lên phi cơ được, một là vì tôi đã yếu sức, lại thêm trực thăng ở lưng chừng cách mặt đất hơi cao. Thử máy lần cuối trước khi cất cánh, hai dàn cánh quạt Chinook quay rất nhanh, tạo nên trận cuồng phong đẩy giạt Trung Tá Liêm và mấy người ra xa, trong đó có một đứa bé. Nhưng can đảm thay đứa bé lấy hết sức bình sinh chạy trở ngược lại vừa lúc trực thăng hơi hạ thấp xuống để lấy đà trước khi nhấc bổng lên. Nhờ vậy, tôi đưa tay kéo đứa bé kia lên phi cơ một cách nhẹ nhàng. Giờ đây tôi mới định tỉnh nhìn trong phi cơ, hành khách đầy ắp, chen chân không lọt, tất cả cùng đứng, trong khi trực thăng vừa bay vừa lắc làm mọi người chòng chành, nên phải ôm tựa vào nhau mới khỏi ngã. Trên mặt ai cũng lộ vẻ ngơ ngác hoặc kinh hoàng, nhưng những kẻ sợ hãi hơn cả có lẻ là hoa tiêu và các nhân viên phi hành, sợ trực thăng rơi vì chở quá nặng. Có nhiều đứa trẻ khóc ré vì bị chen lấn; cũng có những người lớn khóc ấm ức vì thân nhân chậm chân không lên được phi cơ, trong số đó có bà Đoá đang khóc sướt mướt và gọi tên đứa con mà theo bà nghỉ nó đã bị kẹt lại. Thấy vậy tôi liền bảo, nó đây này, tức là đứa bé tôi vừa kéo lên khi trực thăng cất cánh. Nghe vậy bà liền hỏi, nó đâu, nó đâu. Tôi phải vất vã lắm mới đưa được đứa nhỏ ra trước mặt mẹ nó vì nó nhỏ con, đứng lẩn khuất trong đám đông. Trực thăng cất cánh nhắm hướng Chợ Lớn, rồi quay mấy vòng trên trường đua Phú Thọ, bay thêm mươi phút nữa rồi đáp ở Cát Lái. Vì hồi đêm sau khi Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, Bộ Tư Lệnh Không Quân đã ra lệnh cho các trực thăng di tản ra Cát Lái và Nhà Bè. Bởi vậy từ đằng xa đã nhìn thấy trực thăng đậu nhan nhản. Khi Chinook vừa đáp và nghe nói hệ thống thủy điều bị hư, mọi người cùng ùa ra như ong vở tỗ, chạy ngay đến các trực thăng nhỏ để xin đi. Nhưng lạ lùng thay trong số hành khách này lại có Chuẩn Tướng Dinh và Chuẩn Tướng Oánh và một số sỉ quan cao cấp của Bộ Tư Lệnh Không Quân. Tưởng rằng lạc nhau không bao giờ gặp lại, không ngờ cùng chung di tản trong chuyến trực thăng định mệnh này. Những gia đình của các vị này đều đã đi trước, giờ đây họ chỉ đi một mình, rảnh tay, nên đã tìm cách xin quá giang các trực thăng nhỏ UH-1 bay rời khỏi Saigon. Số phận rủi may tùy từng trường hợp của mỗi người, có người bay về Vùng IV, có người ra thẳng Hạm Đội 7 Hoa Kỳ hay sang Thái Lan.
    Riêng tôi và một số quân nhân khác có gia đình cùng đi theo, đành chịu chết ở lại tại chỗ. Lạ thay Đại Tá Hà Dương Hoán đi một mình, không biết vì lý do gì, sau khi trực thăng đáp đã lâu, mọi người đều xuống hết, anh vẫn còn ngồi trong lòng trực thăng, ngơ ngác hỏi tôi, mấy ông Tướng đi đâu rồi. Tôi đáp, họ đã sang trực thăng nhỏ đi rồi. Nghe vậy, anh Hoán hoảng hốt phóng ra khỏi lòng trực thăng đi mất. (Sau này khi ở trên đất Mỷ chúng tôi có liên lạc với nhau và nhắc lại chuyện cũ).
    Nay còn lại, tôi với gia đình bà chị, Đaị Tá Trần Ngọc Đóa và gia đình, phu nhân của Đại Tá Lê Ngọc Duệ và hai người con, phần Đại Tá Duệ vì chậm chân nên không lên trực thăng được. Còn hai sỉ quan cao cấp nữa là Y Sỉ Đại Tá Nghiêm Xuân Húc hồi đó còn độc thân và Đại Tá Phạm Hữu Phương đi một mình. May thay còn có các sĩ quan hoa tiêu và thợ máy trực thăng cùng ở lại với chúng tôi, nên mới có thể sửa chửa hệ thống thủy điều hư hỏng. Điều may mắn thứ hai là số hành khách còn lại rất ít, nên trực thăng mới có thể cất cánh an toàn. Vì Chinook này vừa kiểm kỳ xong, chưa bay thử, nên số lượng xăng còn trong máy rất ít. Bay chỉ vài phút, Chinook bắt buộc phải đáp ở Nhà Bè để xin tiếp tế xăng.
    Cảnh tượng diển ra trước mắt làm mọi người cùng lo lắng: rất nhiều trực thăng nhỏ gãy đuôi, gãy cánh nằm la liệt, trong lúc đó có những hoa tiêu đang dùng cách hút xăng trong các trực thăng lâm nạn, đựng trong mũ sắt, rồi đỗ vào các trực thăng tốt. Sự việc này cho thấy họ đang gặp trở ngại trong vấn đề tiếp tế xăng, nên mới dùng cách khó khăn này; biết bao giờ mới có thể đỗ đầy xăng cho một trực thăng nhỏ, huống hồ là một trực thăng to lớn như Chinook cần rất nhiều xăng. Bao nhiêu trực thăng trên đường chạy loạn, hết xăng, đáp ngay kho xăng; chẳng khác nào như người lữ hành đang đói khát gặp được kho lương thực, tưởng rằng mình may mắn được cứu sống, không ngờ quân nhân phụ trách kho xăng từ chối tiếp tế xăng vì không có lệnh trên, cũng chẳng khác nào như người giữ kho lương thực từ chối cứu trợ thực phẩm. Thật là bất nhẫn, chúng tôi năn nỉ hết lời, họ cũng không cho xăng. Chúng tôi ai nấy mặt mày buồn so. Bổng thấy Đại Tá Phạm Hữu Phương, không biết nảy giờ đi đâu, nay đang ngồi sau xe gắn máy của một sỉ quan Hải Quân/Nhà Bè chạy ngang trước mặt. Ai cũng nghỉ rằng Đại Tá Phương đang đi xin xăng. Là chỗ quen thân, trước kia cùng ở chung một đơn vị, tôi lớn tiếng gọi và hỏi tin tức về việc xin tiếp tế xăng, Đại Tá Phương gật đầu rồi biến mất. Tuy hi vọng nhưng ai cũng sốt ruột vì ngồi đợi cả bốn năm tiếng đồng hồ, từ khoảng một giờ trưa cho đến chiều. Trong khoảng thời gian chờ đợi định mệnh này, chúng bàn tới chuyện di tản ra Côn Sơn hồi đêm và theo dỏi tin tức qua đài phát thanh, hoặc hướng mặt theo tiếng gầm thét của các phản lực cơ Hoa Kỳ đang bay lượn trên không phận Saigon.
    Đại Tá Phương là nguồn hi vọng của chúng mà giờ này đã xế chiều vẫn chưa thấy trở lại, nhưng không biết hỏi ai. Mọi nguười rầu rĩ lại thêm đói khát đang nằm nghỉ ngơi dưới đất, bổng hăng hái vùng dậy khi hay tin được tiếp tế xăng. Ai cũng reo mừng, chẳng khác nào như người sắp chết đuối mà vớ được phao nổi. Giây phút đỗ xăng này thật hồi hộp vì sợ quân nhân và gia đình ở đây ùa ra chiếm phi cơ. May thay sự việv này không xảy ra. Có lẻ quân nhân và gia đình của Căn Cứ Nhà Bè không rỏ tình hình đang diển biến tại Saigon trong 14 tiếng đồng hồ qua, nên họ vẫn bình tỉnh như không có chuyện gì xảy ra, trái hẳn với tình trạng sôi động hiện thời tại Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt, có những kẻ đang hốt hoảng tìm cách trốn thoát, hoặc có những người sợ hải tìm chỗ ẩn núp pháo kích.
    Xăng đã đỗ đầy, máy đang quay, trực thăng sắp cất cánh lúc đó mới thấy gia đình Đại Tá Phương và nhiều gia đình khác đang gấp rút chạy lại, leo lên phi cơ. Trực thăng nhấc bổng an toàn, ai nấy mới thở phào nhẹ nhỏm. Vì sợ trực thăng bị bắn, nên chúng tôi đã kêu gọi những ai đang mang tiền Việt Nam trong người hãy trao ra, giao tận tay cho nhân viên kho xăng nhờ phân phát lại cho những quân nhân đang hiện diện lúc chúng tôi cất cánh. Phải chăng nhờ vậy mà chúng tôi được ra đi an toàn? Nhưng riêng tôi luôn luôn mang ơn những người lính lương thiện này, họ thật là hiền hoà. Và tôi hằng cầu mong họ có được cuộc sống khá giã dẩu ở lại hay ra đi.

    Mười lăm năm sau khi sự việc xảy ra, tôi có cơ hội gặp lại Đại Tá Phương, mới rỏ đầu đuôi câu chuyện. Thời gian trực thăng chờ đợi xin xăng, nhưng không được tiếp tế, cũng như sự vắng mặt lâu của Đại Tá Phương là có chủ ý và mục đích. Sợ cho xăng trước, chúng tôi sẻ bay đi và để họ ở lại. Chính trong khoảng thời gian bốn năm tiếng đồng hồ chúng tôi chờ đợi sốt ruột đó, Đại Tá Phương đã về Saigon tìm vợ con, hiện đang tạm trú tại nhà của người anh em đồng hao là một sỉ quan cao cấp Hải Quân/ Căn Cứ Nhà Bè. Rồi hai gia đình và thân nhân trở lại Nhà Bè cùng đi với chúng tôi. Nhờ có sự liên hệ gia đình như thế nên chúng tôi mới được tiếp tế xăng đầy đủ.

    Trong lúc ngồi đợi, chúng tôi dự định sẻ bay ra Côn Sơn vì hồi đêm có lệnh di tản gia đình không quân ra đó. Nhưng may mắn thay trong lúc bay, hoa tiêu đã bắt được tần số cứu nguy, biết được Hạm Đội 7 Hoa Kỳ đang đậu ngoài hải phận quốc tế. Chỉ bay trong chốc lát, chúng tôi thấy mấy CH-46 của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bay rất gần, có ý dẩn đường. Sau đó chúng tôi đáp an toàn trên một hải thuyền Hoa Kỳ, danh hiệu Miller, vào lúc sẩm tối. Vừa đáp xuống sàn tàu, cánh quạt vẫn còn quay nhẹ, chúng tôi hành khách được lệnh xuống khỏi trực thăng, lập tức tước bỏ vủ khí, xây mặt vào vách tàu để cho mấy quân nhân Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ lục soát trong người, tìm kiếm những vật sắt cứng bén nhọn như dao kéo có thể hại người.
    Số phận Chinook lẽ ra bị đẩy ra khỏi hải thuyền, chôn vùi dưới biển cả, như hầu hết những trực thăng tỵ nạn khác, hầu dành bãi đậu cho những trực thăng sắp đáp sau này. Nhưng vì gia đình của các hoa tiêu trực thăng này đang kẹt trong đất liền, nên họ đã lái Chinook trở lại Saigon kiếm vợ con. Chúng tôi những hành khách vừa mới tới được đưa xuống hầm tàu. Tại đây tôi gặp lại gia đình Trung Tá Vỉnh Quốc và rất đông đồng bào ta. Sáng nay chúng tôi đã gặp nhau ở DAO. Vì suốt cả ngày này Hoa Kỳ đã dùng trực thăng vận chuyển hết số hành khách còn lại ở DAO. Tàu Miller chỉ là nơi dừng chân tạm, sau đó mọi người được chở bằng ca nô nhỏ chuyển tới các thuyền khác lớn hơn. Và cũng kể từ đó chúng tôi lạc nhau.

    Phần gia đình chúng tôi lưu trú trên một Mẩu Hạm hai tuần lễ. Ban đầu sinh hoạt dể chịu vì số người ít. Đến khi tàu tiếp nhận trên sáu ngàn người thì đời sống bắt đầu khó khăn. Chúng tôi ở dưới gầm tàu rất chật chội, khi ngủ chỉ tựa lưng nhau, chứ không có đủ chỗ để nằm xuống. Ban ngày người ta thường trèo cầu thang lên trên boong tàu để thở không khí trong lành và cho giản gân cốt.
    Thời gian lênh đênh trên mặt biển này, tôi đã mục kích nhiều cảnh cứu người thương tâm. Có nhiều gia đình dùng ghe thuyền nhỏ vượt biển, sau bao nổi gian truân, khi gặp được tàu lớn, mừng rở tưởng chừng như chết đi sống lại, nhưng chỉ một nửa gia đình được cứu vớt, còn nửa kia bị chết chìm, hoặc trôi giạt đến các thuyền khác.
    Vì khi cứu vớt người, hai tàu vẫn di dộng; tàu lớn thả lưới vải xuống cho tàu nhỏ chuyển người vào lưới rồi kéo lên. Có nhiều bà mẹ phần hoảng hốt phần ôm con, nên sẩy tay, cả mẹ lẩn con chết chìm dưới biển. Hoặc những kẻ già yếu hay con nít tay chân lật bật, bám níu không chặt cũng làm mồi cho cá. Cảnh tượng đau thương diển ra trước mắt, những ai đã từng chứng kiến cũng đều rơi lệ, nhưng tàu không dừng lại để cứu những người bất hạnh này vì còn không biết bao nhiêu người khác đang cần sự cứu vớt cấp bách.
    Điều làm tôi đau xót nữa là khi biết được tin tức của một trong hai anh hoa tiêu trực thăng quay trở về Saigon đã tìm được gia đình, nhưng rồi không đi được. Vì trực thăng không đươc tiếp tế xăng, nên đã rơi ở quảng đường từ Saigon đến Nhà Bè, trên đường trở lại Hạm Đội 7. Bà mẹ của người hoa tiêu này bị thương tích nặng.Những kẻ may mắn thoát nạn đã dùng phương tiện khác ra khơi và găp lại tôi ở dưới tàu, kể lại chuyện này. Không biết số phận và gia đình của anh hoa tiêu này bây giờ ra sao?.

    Hơn mười năm sau tôi mới rỏ. Một hôm Đại Tá Đặng Văn Phước (Bếp Phước), nguyên Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn/Sư Đoàn 1 Không Quân, điện thoại từ Los Angeles cho tôi hay, chính Đại Tá Phước và Đại Tá Lê Cảnh Di, nguyên Tham Mưu Trưởng Sư đoàn 1 Không Quân là hai hoa tiêu của chuyến bay định mệnh ngày 29 tháng 4 năm 1975, bay từ Tân Sơn Nhứt ra Cát Lái. Đến đây Chinook hư hệ thống thủy điều, nên Đại Tá Phước và Đại Tá Di đã nhảy sang các trực thăng nhỏ và bay đi. Hai người hoa tiêu kế tiếp, trước kia là hành khách, nay trở thành đoàn viên chính từ đoạn đường Cát Lái, Nhà Bè, Hạm Đội 7 Hoa Kỳ. Vì có dự định trước nên họ cất giấu bình điện. Thời gian đi lấy bình điện và ráp vào, cộng thêm thời gian thử máy hơi lâu vì phi cơ vừa kiểm kỳ, chưa bay thử. Nhờ vậy chúng tôi mới có cơ hội bắt kịp.

    Vấn đề ăn uống dưới tàu rất đạm bạc, không phải vì thiếu thực phẩm mà vì phương tiện nấu ăn trên tàu hạn hẹp. Các bếp nấu cơm liên tục 24 giờ/24 giờ cũng chỉ đủ cấp phát cho mỗi người một thìa cơm trong vòng 36 tiếng đồng hồ. Bởi vậy con nít bị đói, khóc la rất tội nghiệp. Có nhiều bà mẹ nhịn phần cho con đến nổi phải xỉu, cần cấp cứu. Có một hôm mỗi người được cấp phát môt quả cam. Tôi đói quá ăn luôn cả vỏ, cảm thấy rất ngon. Vấn đề vệ sinh quá trở ngại. Những chòi vệ sinh lộ thiên tạm thời đặt quanh boong tàu, khi sử dụng rất bất tiện. Có lẻ vì vậy mà vấn đề ăn uống hạn chế.

    Sau đó chúng tôi được đưa lên Subic Bay, là Căn Cứ Hải Quân Hoa Kỳ hồi đó ở lãnh thổ Phi Luật Tân. Sau thời gian lênh đênh trên mặt biển nhọc mệt, giờ đây thấy đất liền ai cũng hân hoan, tranh nhau bước lên bờ. Tôi chưa kịp mừng đã bắt đầu lo khi nghe tiếng loa thông báo, Tổng thống Phi Luật Tân chỉ chấp nhận cho nhập cảnh các tỵ nạn dân sự mà thôi. Những quân nhân nào muốn lên bờ phải cởi bỏ quân phục. Phần tôi chỉ mặc áo bay liền quần, cởi ra chỉ còn quần xà lỏn và áo thun lót, thật xấu hỗ nhưng không làm khác được. Khi đi ngang qua tiếng loa vừa báo, ai cũng nhận ra là ông Âu Ngọc Hồ, cựu Tổng Trưởng Kinh Tế Tài Chánh của VNCH.
    Khi sắp hàng để làm thủ tục giấy tờ vì quá đông, người ta sắp hàng zíc zắc như hình rắn đang bò ngang, tôi gặp được chú em nuôi cùng với gia đình đang ở hàng ngang phía trước. Tôi rất mừng, vội hỏi xin chú một bộ áo quần mặc tạm. Chú rất sẳn lòng, vừa để vali xuống chưa kịp mở ra, đã bị làn sóng người ở đằng sau lấn tới và dẩm lên, rồi mất dạng. Bởi vậy thời gian ở đây một tuần lễ, tôi chỉ mặc độc nhứt một bộ đồ lót trong người, nên ngày nào tôi cũng tắm ở vòi nước lộ thiên vào buổi trưa, rồi phơi nắng cho khô ráo áo quần ướt đang mặc trong người.
    Ở Subic Bay ăn uống rất đầy đủ, bù lại những ngày cam khổ ở dưới tàu. Ngay khi vừa mới lên bờ, sắp hàng làm thủ tục, đã có người đứng hai bên giao thức ăn tận tay. Nhà ăn mở cửa liên tục từ sáng cho tới nửa đêm. Chúng tôi trú dưới mấy tấm tent, tuy nhằm mùa nắng, nhưng nhờ gần bờ biển khí hậu mát mẻ, đêm nằm ngủ phải đắp chăn. Mặc dầu sống tại Subic Bay rất dễ chịu, nhưng ai cũng hiểu đây là trạm dừng chân tạm thời, nên tranh nhau sắp hàng để được chuyển đi nơi khác, chóng vào đất Mỹ.
    Gia đình chị tôi kể cả tôi là 5 người, ngày nào ngoài giờ cơm ra, tôi sắp hàng mong được làm thủ tục chuyển trại vì cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa biết gia đình tôi đang phiêu bạt nơi đâu. Mãi một tuần lễ sau chúng tôi mới được C-130 chở tới Guam.
    Việc đầu tiên khi đến đây là đi tìm gia đình vợ con tôi, để cho hai gia đình cùng đoàn tụ. Thật khó khăn vì số người quá đông trên sáu chục ngàn người, ở trong một rừng chòi vải dựng san sát nhau trên ngọn đồi Orotes vừa mới khai phá. Rũi cho tôi là ngày đầu tôi tìm kiếm không đúng chỗ, tôi đã sục sạo hằng trăm lều vải, nhưng cũng chỉ gặp toàn người lạ. Qua ngày thứ hai trên đường đến văn phòng trại để nhắn tin tìm gia đình, may mắn thay giữa đường tôi gặp được mấy đứa con tôi đang đi sắp hàng ăn cơm. Nỗi mừng nói sao cho xiết. Các con tôi cho hay nhà tôi đang ở nhà thương Hải Quân Hoa Kỳ ngoài phố Guam, săn sóc cho hai con gái nhỏ chúng tôi bị ốm.
    Giờ đây gia đình đã doàn tụ, nhưng niềm vui đối với tôi vẫn chưa trọn vẹn, vì con gái đầu của chúng tôi đang còn kẹt lại tại quê nhà. Trong lúc tình hình đất nước rất nguy ngập, rơi vào tay Cộng sản đến nơi, mà gia đình tôi vẫn chưa được cấp chỗ phi cơ để di tản, tôi rất tuyệt vọng và nghỉ rằng, trong số các con cái đứa nào có thể thoát ra ngoài được thì nên cho đi trước. Bởi vậy khi được thông báo, vị hôn phu của con gái chúng tôi từ Pháp sang Saigon ngay, vì nó đã từng đến Việt Nam ba lần trước thăm chúng tôi. Chúng nó ra phố Saigon xin lập giấy tờ để xuất cảnh suốt mấy ngày liền, chiều nào cũng trở về trong Căn Cứ Không Quân, nơi gia đình chúng tôi đang tạm trú. Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt bị dội bom nên thiết quân luật như đã nói ở phần trên, vì thế nên chúng nó bị kẹt lại ở ngoài phố Saigon. Rạng ngày hôm sau, lúc 4 giờ sáng căn cứ lại bị pháo kích dử dội. Tản sáng trước khi sang DAO để kiếm gia đình tôi vì không biết đã đi được hay chưa, tôi định ra Saigon kiếm tìm hai chúng nó, nhưng nghỉ lại, biết chúng nó ở đâu. Hơn nữa tôi còn có trách nhiệm đối với gia đình tôi và gia đình bà chị nữa. Lại thêm vị hôn phu của con gái chúng tôi là người Pháp, điều này làm tôi có phần vững tâm, nên quyết định không ra Saigon nữa. Nay tôi cảm thấy lo âu, không biết hoàn cảnh của hai đứa chúng nó ra sao. Càng thương con bao nhiêu càng cảm thấy có lỗi đối với con bấy nhiêu.

    Những ngày tháng kế tiếp tôi hết sức buồn chán. Lại thêm áo quần chỉ có độc nhứt một bộ đồ lót trong người, tôi rất xấu hỗ mỗi khi phải xếp hàng để ăn cơm, nếu không thì đói. Bởi vậy tôi thường một mình đến ăn tại những nhà ăn xa, không ai biết mặt. Một hôm tôi đang đứng trong hàng, cúi gầm cố dấu mặt vì tôi thấy có người quen ở hàng bên cạnh, bổng tôi giựt mình vì có bàn tay ai đang để trên vai, tôi quay lại và vô cùng sững sốt khi chạm mặt Đại Tá Đỗ Văn Ri. Chưa kịp chào hỏi, Đại Tá Ri liền mở lời : Xin lỗi đại ca, gia đình đại ca không đi được, không phải tại em, mà do cấp trên HOLD lại (Nguyên văn). Khi đi ăn cơm, gia đình nào cũng sắp hàng chung với nhau, cha mẹ, con cái, ông bà và thân nhân. Nay thấy tôi một mình đứng trong hàng, Đại Tá Ri nghĩ rằng gia đình tôi bị kẹt lại, nên mới an ủi tôi như vậy. Điều này rất đúng vì cho tới ngày cuối mất nước, Đại Tá Ri chưa đưa danh sách gia đình tôi xuống cho Trạm Hàng Không Quân Sự, thì làm sao gia đình tôi đi được. Còn cú điện thoại của ân nhân vô danh báo cho tôi và Đại Úy Lê Đại Hiền giúp gia đình tôi làm sao Đại Tá Ri biết được.
    Tôi đang đau buồn về trường hợp con gái chúng tôi bị kẹt lại, vì không được Văn Phòng Bộ Tư Lệnh Không Quân cấp chỗ máy bay cho đi; nay Chánh Văn Phòng là Đại Tá Ri, người chủ động đã xác nhận, mới nói lên những lời như thế, lẽ ra tôi giận sôi gan mới phải. Nhưng nghĩ lại dầu sao gia đình tôi cũng đến được bờ tự do tuy không trọn vẹn. Hơn nữa, trải qua hai tuần lễ sống trên tàu thủy, tôi đã chứng kiến không biết bao cảnh thương tâm, nên tôi ôn tồn đáp:
    -Thôi cho chuyện đó qua đi.

    Chắc rằng lúc đó Đại Tá Ri sẻ rất ngạc nhiên về thái độ khoan dung và câu trả lời ôn hoà của tôi, trái hẳn với thái độ hung hản của một số quân nhân lạc vợ mất con, đi tìm những kẻ có trách nhiệm để hành hung. Chuyện này cũng đã từng xảy ra khi tôi ở trên tàu thủy. Chúng tôi nói chuyện qua loa vì tâm trạng ai lúc này cũng ngổn ngang trăm bề.

    Ở Guam, lều vải gia đình chúng tôi nằm cạnh lều vải của mấy người Trung Hoa, trong đó có một gia đình gồm bốn người, hai vợ chồng và hai người con. Tôi làm quen, hỏi chuyện, họ cho biết đã mua bốn vé máy bay của mấy ông không quân ở Tân Sơn Nhứt, bằng sáu chục (60) lượng vàng. Tôi không tin, hỏi đi hỏi lại, họ thề thốt có Trời chứng giám. Nghe vậy tôi choáng váng mặt mày, không dám gạn hỏi nữa vì không muốn nghe những lời thề thốt. Tôi tính nhẩm trong đầu, danh sách gia đình tôi trên mười người, đáng giá bao nhiêu?
    Gia đình tôi ở trại tỵ nạn Guam đúng một tháng, sau đó chuyển tới trại tỵ nạn Indian Town Gap, Harrisburg, Pennsylvania, đây là trại tỵ nạn thứ tư, lập sau cùng. Vì lúc đó ba trại tỵ nạn ở California, ở Arkansas và ở Florida đã đầy người. Đến Indian Town Gap, tôi có duyên gặp lại Đại Tá Ri lang thang một mình, vì vợ con ở tại trại tỵ nạn khác, nên chưa được đoàn tụ.

    Tôi kể chuyện này để cho con cháu sau này tìm hiểu. Bởi vậy tôi đã nêu danh tánh nhiều người, hầu hết đều còn tại thế, để làm chứng nhân, chứ tôi không có ý chỉ trích hay lên án một ai, vì tôi cũng hiểu, nhơn vô thập toàn. Lại nữa chuyện xãy ra đã lâu và chúng ta, những người trong cuộc, tuổi đời ai cũng chồng chất, sắp ra đi vĩnh viễn cả rồi, oán trách làm chi. Người nào lầm lỗi thì lương tâm họ không được bằng an, và chỉ có Trời mới luận xét chúng ta mà thôi. Tôi tin mãnh liệt về sự ở hiền gặp lành. Bằng chứng hiển nhiên nhứt là biến cố đất nước cách nay hai mươi lăm năm đã thức tỉnh rất nhiêu người thay đổi nội tâm. Mặc dầu trãi qua không biết bao nhiêu trở ngại và gian khổ, cuối cùng gia đình tôi cũng đến được đất tự do, nhờ các bạn bè giúp đỡ và Ơn Trên phù hộ,qua các sự việc xét bề ngoài có vẻ thông thường nhưng rất quan trọng. Thứ nhứt, cú điện thoại của ân nhân vô danh vào sáng 28 tháng 4 năm 1975, nếu trễ một ngày thì gia đình tôi đã bị kẹt lại. Thứ hai, nhờ tối đó tôi đến Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 xin cho gia đình bà chị tôi di tản, mới khám phá ra xe hết xăng. Nếu nằm nhà, sáng mai lái xe đi, xe sẻ chết dọc đường, tức nhiên tôi và gia đình bà chị sẽ không thoát được. Thứ ba, thay vì đi ngay ra đường chính, tôi lại lái xe đi vòng chữ U, chậm lại, nên mới gặp phái đoàn Bộ Tư Lệnh Không Quân từ trong cổng đi ra. Nếu không gặp phái đoàn này thì tôi cũng không biết đi bằng cách nào. Tại sao ba sự việc lại xảy ra cho gia đình tôi một cách trùng hợp về địa điểm và thời khắc như thế? Không thể giải thích được. Chỉ có thể hiểu đây là sự phù hộ của Ơn Trên.

    Hai mươi lăm năm nay tôi đã hỏi han tìm kiếm ân nhân đã gọi điện thoại báo tin cho tôi vào sáng ngày 28 tháng 4 năm 1975, nhưng không ai chịu nhận vì thi ân không cần đền báo. Cũng như cho tới nay tôi vẫn chưa biết quí danh của hai hoa tiêu trực thăng đã đưa chúng tôi từ Cát Lái, Nhà Bè đến Hạm Đội 7 Hoa Kỳ. Xin các anh nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tôi. Và nếu như ngẩu nhiên các anh đọc bài này, xin các anh vui lòng liên lạc cho tôi thỏa lòng mong ước.

    Tháng 4 năm 2000.
    Mệ



Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X