Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Giếng xưa thì thầm ...

Collapse
X

Giếng xưa thì thầm ...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Giếng xưa thì thầm ...

    Nguyễn Văn Sa

    GIẾNG XƯA THÌ THẦM......
    … giếng làng còn ướt trăng trên đá


    Bằng phương tiện kỹ thuật ngày nay, người ta có thể dẫn nước đến khắp mọi nơi, phục vụ tận chỗ và vào mọi lúc cho mọi nhu cầu sinh hoạt. Nhưng đâu phải vì thế mỗi khi nhớ về, lại không dấy lên trong chúng ta nỗi tiếc thương về sự biến mất lặng lẽ của những giếng làng xưa cùng bao hình bóng,

    Những giếng làng xưa ấy vốn được đào theo phương pháp thủ công, số lượng hay vị trí tùy thuộc vào sự phân bổ cư dân. Theo lời của quý bậc trưởng lão, lễ khởi công bao giờ cũng hội đủ “văn võ bá quan” – nào cụ tiên chỉ áo dài khăn đóng, ông hương ông lý cau trầu thành khẩn. Mọi việc nhất nhất đều được tiến hành theo một quy trình hết sức trang trọng.

    Miệng giếng hình vuông hoặc tròn, thường được mở trên một thế đất tương đối cao, cạnh hoặc đường kính non 2 mét nhưng sâu cạn không chừng. Ngoài cái giếng cạnh khu đình cổ, nghe đâu đào chưa tới mươi thước (thước ta) trúng ngay long mạcu “non nước” tha hồ; các giếng còn lại thường sâu gấp rưỡi gấp đôi thế.

    Nhằm tránh bị tuột đất, thành giếng từ dưới lên đều được xây bằng đá. Đáy giếng tất nhiên lót ván, loại gỗ chịu nước nhiều tấm ghép vào nhau. Riêng phần lộ thiên cao khoảng nửa thân người, mặt ngoài được tô nhẵn với bốn trụ tròn nhô lên ở bốn góc khoảng vài tấc. Chẳng rõ kiểu cách bắt buộc hay xuất phát từ sự ngẫu hứng của bác thợ cả nào đấy!

    Bài bản vậy song vẫn có giếng, nước cung không đủ cầu. Tay nghề thầy địa cây nhà lá vườn khiêm tốn quá chăng hay thần thánh cũng có lúc buồn vợ giận con, say say tỉnh tỉnh. Ngỡ đào giếng cũng như đào hố cất giấu rượu, càng sâu càng tốt! Tiếc nỗi qua cái tên gọi, trời xanh đôi khi lại quen thói đánh ghen nhầm. Bởi trong số những giếng có dấu hiệu sẽ tịt ngòi, ngoài giếng Ngọc ở cuối làng còn có thêm tên tuổi của chiếc giếng sau lưng miếu thờ Ngài khai canh: giếng Kiều. Nhưng “lạ gì bỉ sắc tư phong” nên ngay với những sự vật vô tri, tạo hóa vẫn không quên dành chút ít đãi ngộ theo tinh thần hơn thiệt bù trừ. Nước giếng Kiều càng khan hiếm càng ngọt trong và mát, bá tánh uống đến đâu lòng dạ hân hoan đến đó.

    Thuở chúng tôi còn bé, phần ngầm lẫn phần nổi của giếng đều đã phong rêu. Một loại dương xỉ tầm gửi bên trong các hốc lõm hàng hàng lớp lớp, có cây còn thè ngọn dài ra quá cả gang tay. Tuy nhiên vốn thuộc họ nhà thảo thân mềm, chẳng gây phiền lụy cho ai nên chúng mặc tình sống lâu sống khoẻ.

    Đáy giếng lâu ngày cũng bị lún, mùa khô nước cạn tụ vào góc thấp tựa một vũng nước đọng với mặt thoáng hơn nửa mét vuông, độ sâu nhiều lắm ngập mươi lóng ngón tay rất khó múc. Phải dùng loại gàu chuyên dụng bằng mo dừa và chỉ những thôn nữ chính gốc may ra, khi buông dây không cần nhìn xuống gàu vẫn rơi đúng tầm và ở vị thế nằm nghiêng. Miệng gàu hướng ra tâm giếng, đáy gàu ngược lại sát góc và thấp hơn. Đang lúc nước ùa vào, giựt dây theo một độ lệch nào đó sẽ giữ được một lượng nước tương đối. Do mo gàu ngấm nước, mềm và có tính gần như đàn hồi, độ chao của nước trong gàu vì thế không đáng kể. Thậm chí lúc kéo gàu lên nhỡ chạm thành giếng, nếu là ban ngày nước có bắn ra cũng chỉ lấm tấm từng hạt như sương, vừa đủ óng ánh bảy sắc cầu vồng trông càng thêm vui mắt mà thôi.

    Trường hợp nghiệp dư như những anh “trai khôn” toan tính học đòi “chọn vợ giếng đông” thì dẫu đầu hôm thùng trống quẩy đi, rất có thể nửa khuya vẫn… thùng trống quẩy về. Ấy thế, luật làng dù bất thành văn dễ đâu cho phép anh nào có mặt tại giếng Kiều vào đêm hôm kia chứ! Trót nhỡ thương thầm nhớ trộm chị nào, hãy kín đáo tìm hiểu lộ trình đi về rồi giả vờ đứng ngắm đom đóm bay qua hàng giậu nhà ai, nhằm mượn cớ tỏ tình. Song liệu có kiên trì đợi đến lúc trăng tà hầu gặp được người trên vai nước non nặng gánh, còn bắt gặp lẽo đẽo theo sau một hai thằng em nhóc tì cận vệ. Nhưng tình ý dẫu thế nào, bước chân “tứ đức”(1) của các chị vẫn cứ nhịp nhàng. Sẽ không thiếu sự giám sát đều khắp bởi trăm đôi mắt của nhau, kể cả cỏ cây và mưa nắng vô tình...

    Mấy ai đã nên duyên chồng vợ trong những đêm gánh nước và chờ trăng thuở ấy, tôi không biết rõ. Chỉ biết vào những năm tháng trôi xa, dấu binh lửa đã không ít lần in đậm dấu ấn dọc các bờ ruộng lũy tre. Thay vì ra giếng đêm đêm, trong số đã có chị vĩnh viễn yên nằm tại nghĩa trang làng sau những ngày đầm nước mắt – mẹ khóc con, lũ em khóc chị, bạn bè khóc nhau.

    Nhưng thôi, hãy trở lại với giếng Kiều – đấy là cách tưởng nhớ đến các chị, hình tượng một thời về phẩm cách của phụ nữ quê tôi ngày đó.

    Là giếng cung cấp sản phẩm chất lượng cao, quanh “Kiều” dĩ nhiên luôn nhộn nhịp… bướm ong. Ai cũng muốn mang về dù khuya khoắt một lượng nước tối thiểu. Ngoài việc nấu ăn đun chè, ít ra còn phần cho lũ trẻ chúng tôi “tu sống” mỗi ngày. Tắm rửa, giặt giũ hay tưới tiêu đã có nước sông, thông qua các con hói nhỏ chạy song song đến cận bìa làng.

    Riêng chuyện điện đóm thuở ấy ở quê nghèo cứ như đèn thần nghìn lẻ, nào ai dám mơ. Dầu thắp còn hạn chế, huống gì. Hễ đêm xuống có trăng hay không, nhà nhà vẫn dọn bữa ra sân mà sắn khoai là chính. Thức ăn thuần rau luộc, muối dưa nên cố tình gắp nhầm cũng khó. Nhầm (!) chăng là con trẻ chúng tôi những khi có thêm món chả trứng, dĩa thịt kho hoặc tô canh cá.

    Cơm nước xong chẳng cần văn ôn võ luyện, học thêm học bớt. Chúng tôi lăn kềnh ra trên những đống lang còn nguyên lá lẫn rễ, ngắm nghía chị Hằng và thiếp đi. Chừng tỉnh giấc trăng đã lưng lửng ngọn tre và đây đó vẳng lại một thứ âm điệu xập xình nghe quen từ đầu trên xóm dưới, ngõ hẹp ngõ tắt. Vâng, chỉ những cái thùng thiếc rỗng dập vào các quai gióng thép theo nhịp chân đi mới phát ra thứ âm sắc vui tai đến thế. Thứ nhạc hiệu nhắc khéo các chị trong xóm, đã đến giờ “họp giếng” rồi đấy. Quả đúng thế thật, chị tôi đang chải tóc vội chạy ra cổng nhìn ngược nhìn xuôi. Đâu đâu cũng… “kiến kỳ thanh bất kiến kỳ hình”(2) những đồng nghiệp gánh nước giếng khuya của chị…

    Cuối cùng cũng gióng cũng thùng trên vai, chị tôi ung dung băng ngang sân chào mọi người. Qua chỗ chúng tôi, chị không quên vẫy vẫy tay trêu. Miệng cười rất tươi, như thể những thiếu nữ thị thành ngày nay trên đường ra phố mua sắm thời trang vậy. Mãi sau này lớn lên, hầu như không bao giờ tôi còn bắt gặp một hình ảnh nào sống động và ý nghĩa hơn, phản ánh niềm vui cùng nói lên giá trị của sự cần lao bằng hình ảnh chị tôi với cặp thùng thiếc rỗng đi ra ngõ vào lúc ấy.

    Tựa lòai chim sâu nhỏ bé thiếu khả năng tự vệ, thường phải nương thân trong những lùm cây nhiều gai nhọn để kiếm mồi. Người dân quê nghèo tự bao đời đã khéo thích nghi với sự khắc nghiệt của môi trường sống. Họ lặng lẽ khai thác theo chiều ngược lại từ sự dè sẻn của thiên nhiên từng niềm vui nho nhỏ. Giả sử nuớc giếng Kiều luôn đầy hoặc thay vào đó bằng một giếng khoan, một máy bơm hiện đại chẳng hạn, làm sao những cô gái trong làng như chị tận dụng được danh nghĩa để tham dự những buổi họp mặt thắm thiết kéo dài thâu đêm? Bài học “tri túc tiện túc, tri nhàn tiện nhàn”(3)các chị nào được tiếp thu. Song bắt nguồn từ những hạn chế và trong những điều kiện làm việc vượt quá sức mình, các chị sớm biết cách tự hóa giải mọi nỗi nhọc nhằn để tồn tại và vui sống.

    Đêm đêm như thế, lũ em tôi mắt nhắm mắt mở vừa lúc chị khuất dạng rồi ngủ tiếp như thể nằm mê. Tôi thì không, đã bao lần tôi cố thức để được theo các chị cùng ra giếng. Ở đấy, trên đám cỏ xanh chằng chịt rễ của một thân cây bồ đề cụt ngọn dễ mấy vòng ôm còn sót lại từ thời tiêu thổ kháng chiến, các chị tự giác ngồi đánh vòng từng nhóm theo thứ tự đến trước đến sau. Không vội vã, không tranh phiên. Thay vì lo việc “nước” – các chị chẳng ai bảo ai hồn nhiên nhập cuộc, như thể đến đây chỉ để tham dự một buổi liên hoan rồi về. Các chị bàn bạc, các chị ríu rít cơ man những chuyện trên đời. Chuyện nắng chuyện mưa, chuyện thương chuyện nhớ, chuyện buồn chuyện vui… Xen kẽ giữa những câu chuyện tâm tình và gỡ rối ấy là từng món quà vặt, thổ sản của vùng quê đất cày lên sỏi đá được chuyền tay nhau. Vài trái ổi xanh, từng chùm khế chua chua ngọt ngọt hay những quả chay đang độ chín tới kèm theo vô số gói lớn gói nhỏ muối ớt. Có chị còn mang theo cả đùm ốc gạo đã luộc chín, những con ốc gạo bé tí mà thịt của chúng vừa ngọt vừa bùi được khươi bằng các đầu cây bốm và những cậu em ngoan ngoãn như tôi mặc sức xí phần.

    Chiến trường ăn uống sau đó luôn được thu dọn nghiêm túc và mỗi sáng mai, đố ai biết rằng đêm đêm quanh giếng có một cuộc đánh chén rộn ràng của những nàng tiên nghèo… không cánh!

    Tất cả sinh họat bên những giếng xưa ấy, tự bao giờ đã góp phần không nhỏ trong việc tượng hình một phong cách sống đậm tính văn hóa và đầy chất đồng nội. Vô hình chung đấy còn là một trung tâm góp nhặt và truyền đạt thông tin, phát huy kinh nghiệm ứng xử cũng như vun đắp truyền thống “nhiễu điều”(4) giữa một lớp người đồng hương đồng tộc… Sự thường xuyên san sẻ tâm tình còn giúp các chị tự điều tiết “cái tôi” vốn chịu nhiều ức chế ở tuổi dậy thì. Có phải nhờ vậy mà chứng trầm uất đã thiếu đất sống trong tập quần của bao cô gái quê mộc mạc? Giềng mối gia đình ở chốn điền dã cũng thế, hiếm khi xẩy ra những sự cố ngậm ngùi để luôn tồn tại bền vững?

    Trường hợp vào mùa khô hạn, đêm lại quá khuya mà giếng không đủ nước, mọi người tự nguyện san bớt cho nhau cốt sao vừa đủ nặng thùng nhằm dễ gánh để ra về cùng lúc. Từng kỷ niệm cứ thế được chắt chiu và gìn giữ như một thứ “hồi môn tập thể” dành sẵn cho nhau chờ ngày, bởi ai dám chắc trong …đám xuân xanh ấy:

    (Có chị)… năm nay còn gánh thóc
    Dọc bờ sông trắng nắng chang chang (5)
    Nhưng, biết ra sao ngày mai – người ở người đi, giọt vắn giọt dài đầy vơi lưng giếng:
    Ngõ cũ không mong người trở lại
    Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa (6)

    * * *

    Năm tháng dần trôi.

    Chưa hết cấp tiểu học, một số trong những cậu bé quê chúng tôi lên tỉnh tiếp tục “đèn sách”. Rồi chiến tranh và đời lính, sự mất mát cùng bao mối hiểm nguy rải khắp. Thị tứ phồn hoa hay chân trời góc biển, ruộng đồng bát ngát hay núi thẳm rừng già. Dễ gì chúng tôi được phép dừng chân đủ lâu ở một nơi nào, hầu bắt gặp dù chỉ trong giây lát hình ảnh của một thời ấu thơ thanh bình bên những giếng nước.

    Nhưng một dạo tôi về sau nhiều năm xa cách, ngỡ cùng với khung cảnh “con cò lại bay trên đồng ruộng xanh” cùng “mùi khói rơm quen thuộc” sẽ nhìn thấy lại giếng xưa. Song đó đây từng chòm cây lá rũ mà giếng xưa đâu và các chị –- “những người muôn năm cũ” ấy?

    Bao nhiêu thân phận nữ nhi ngược xuôi nặng nợ cơm áo, dọc đường đạn bom đã nghìn năm ngủ giấc? Bao nhiêu tráng thôn “cổ lai chinh chiến” mấy ai hẹn về, khiến người người dần phai nhan sắc. Trong nhờ đục chịu mười hai bến nước, vẫn luôn còn đó từng “bến đợi không chồng”? Bao nhiêu và bao nhiêu goá phụ muộn phiền cuối đời quạnh hiu, đành quê người đất khách bước thêm bước nữa?...

    Đâu rồi giếng xưa với những dáng người trinh bạch, từng đôi mắt ngước nhìn thành khẩn nhưng duyên số mãi cứ chập chùng… gói tròn thương tiếc?

    Gốc đa xưa cũng đã mất dấu, thay vào đó là một kiến trúc miệt vườn thời kỳ hậu chiến chuyên kinh doanh dịch vụ “văn hóa”! Những dòng chữ nguệch ngoạc trên những bức tường màu sắc diêm dúa, chân dung những mỹ nhân “thiếu mặc”, những siêu “người mẫu đói ăn” với hằng hà những áp phích quảng cáo dung tục, hạ thấp nhân phẩm…

    Nhớ về các chị như nhớ về “từng người tình đã bỏ (chúng) tôi đi” nhân danh mùa xuân thấm thoắt, chợt dưng tôi muốn khóc. Sự dị ứng trước trào lưu thực dụng của một lớp người vô tình lãng quên nguồn cội, hối hả đổi đời bằng mọi giá? Mặc cảm dửng dưng của những kẻ từ lâu chất chồng tuổi tác bước hẳn sang lề, mất dần sĩ khí và lòng tự trọng?

    Hay do con tim vốn dĩ yếu mềm sau bấy nhiêu bầm dập, nhịp phách nay trót đã vô thường ?


    Chú thích

    Ngoài các cụm từ trong ngoặc kép “…” thường là ý mượn từ thơ văn của nhiều tác giả.
    (1) Công, dung, ngôn, hạnh (tứ đức của phụ nữ Á Đông),.
    (2) nghe thấy tiếng, không thấy hình.
    (3) Biết đủ xem như đủ, biết nhàn xem như nhàn.
    (4) Tấm vải màu đỏ che trước khung kính có di ảnh người đã khuất (nhiễu điều phủ lấy giá gương – người trong một nước phải thương nhau cùng).
    (5) thơ Hàn Mặc Tử
    (6) thơ Quang Dũng (Cố quận, 1940)


    NGUYỄN VĂN SA
    Last edited by khongquan2; 01-27-2013, 04:04 PM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X