Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Sự hình thành cuả ngành ANKQ

Collapse
X

Sự hình thành cuả ngành ANKQ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Sự hình thành cuả ngành ANKQ

    Sự hình thành cuả ngành ANKQ
    Niên Trưởng Đặng Hữu Hiệp


    Giai Ðoạn
    Quân Ðội Quân Chủng Ngành An-Ninh Chú thích
    (Những sự kiện thời sự quan trọng.)
    1945
    1949
    Pháp tái lập chế độ Bảo hộ tại Ðông Dương
    Quân đội Viễn Chinh Pháp

    Forces Terrestres en Extrême Orient
    F.T.E.O
    Không Quân Pháp tại Viễn đông
    Commandement de lAir en Extrême Orient
    C.A.E.O
    An ninh Quân đội Pháp

    Sécurité Militaire des F.T.E.O
    Việt Nam Quốc Gia chưa có Quân Ðội riêng.
    Tuy nhiên đã có: 1) Những toán quân người Việt do Pháp tuyển mộ và do ngườI Pháp chỉ huy.
    2) Những người Việt theo học khóa Sĩ quan do Pháp đào tạo
    1950
    1954

    T.Thống Pháp Vincent Auriol ký Hiệp-ước Élysée ngày 8/3/1949 công nhận chính-phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Ðại làm Quốc Trưởng
    có quân đội riêng nhưng nằm trong hệ thống Quân-đội Liên-hiệp Pháp


    Tại Nam
    Vĩ tuyến 17
    Quân độI
    Liên hiệp
    Pháp

    Quân đội Quốc Gia Việt Nam /
    Bộ Tổng Tham Mưu (État Major des Forces Armées du VN)
    Trung Tá KQ Pháp Nguyễn văn Hinh giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng QÐQGVN
    Mang lon Trung tướng cuả QÐVN
    Thành lập các Tiểu đoàn Bộ binh (BVN) và Khinh-quân Việt-Nam, do SQ người Việt chỉ huy.
    C.A.E.O
    P h á p


    Khối Không Quân (VN) (Département Air) do Ðại-tá Không quân Pháp Sagon phụ trách. (Vìên chỉ huy cuối cùng)
    Thiếu tá KQ Pháp Carret là Chỉ huy trưởng Trường KQ/Nha-Trang Việt Nam (CIAVN)
    Phi đoàn I Quan Sát (1er GAOC)
    Ðại-úy Nguyễn ngọc Oánh là Chỉ huy trưởng Việt Nam đàu tiên.
    Sécurité Militaire Pháp

    An Ninh Quân Ðội Việt Nam
    Ðệ Tam Quân-Khu (Hà-Nội)
    Chánh Sở là Thiếu Tá André
    Trần văn Ðôn và
    Ðại-Úy Ðỗ Huệ là Phụ Tá.
    -Tuy chưa có Sĩ-quan An ninh cho Không quân tại Sở ANQÐ/Ðệ Tam Quân Khu nhưng SQAN của riêng CIAVN dạo đó là Trung-úy Ðỗ trọng Huề (1953)
    3) Cộng sản Tàu chiếm lục điạ.

    4) Quân đội Pháp thua ở biên giới Hoa-Việt.

    5) Pháp thừa nhận Chính thể Bảo Ðại, có quân đội nằm trong Quân đội Liên Hiệp Pháp.
    6) Ðộng viên các thanh niên đi học 2 trường Sĩ quan Trừ bị ở Nam- định và Thủ-Ðức.
    7) Nga Sô &Tàu Cộng công nhận Chính phủ Hồ chí Minh
    8) Tây phương công nhận Chính phủ Bảo-Ðại.

    9) Pháp thua ở ÐBP (7-5-54)
    Hiệp định Genève chia hai VN tại vỹ tuyến 17 (Sông Bến Hải.Quảng Tri)
    1955
    1963
    (Ðệ Nhất Cộng Hoà)
    Trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955 truất phế Bảo-Ðại, bầu Thủ Tướng Ngô-đình Diệm
    lên làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà
    Quân Ðội Việt Nam CộngHoà thay thế Quân đội Viễn chinh Pháp rút khỏi Ðông Dương

    Thành lập:
    Bộ Tổng Tham-mưu QÐQGVN
    Các Sư-đoàn Bộ binh, các binh chủng (Thiết giáp,
    Pháo binh,
    TQLC, Dù..)
    Bộ TLKQ
    Không Quân Pháp chuyển giao cho QÐQGVN Các CCKQ (Tân-sơn-Nhất Nha-Trang, Biên Hoà, Ðà Nẵng)

    Các Phi đoàn
    (Vận-tải, Khu-trục, Trực-thăng, Liên lạc, Quan-sát)
    Công-Xưởng KQ Biên-Hoà
    Nha ANQÐ
    (Ty A N KQ)


    Sĩ quan An Ninh Căn cứ


    10) Ty ANKQ do một Tr/úy KQ và chừng 15 quân nhân KQ biệt phái qua Nha ANQÐ.
    11) Có Sĩ quan An-ninh tại các căn cứ KQ (TSN, Biên Hòa, Nha Trang và Ðà Nẵng) do Không Quân Pháp chuyển giao.

    12) Không có SQAN đơn vị.
    1963
    1975
    (Ðệ Nhị Cộng Hoà)

    HộI đồng Tướng Lãnh đảo chánh lật đổ Chính quyền Ngô đình Diệm ngày 1/11/63
    Quân Lực VNCH
    Bộ T.T.M
    - Quân Khu Thủ-Ðô 4 Vùng CT
    - Các Quân Ðoàn.
    - Quân, Binh Chủng.
    - Quân Trường
    Bộ TLKQ
    ( Phụ tá AN )
    -Các CCKQ
    Chiến thuật
    - Sư-Ðoàn KQ :
    Không Ðoàn
    Phi Ðoàn
    - TTHLKQ
    - Trung Tâm
    Kỹ Thuật &
    Tiếp Liệu Biên Hoà
    Cục ANQÐ
    ( Sở ANKQ )
    Tháng 5/ 1965
    Phòng An Ninh KQ tại mỗi SÐKQ.

    Sĩ quan Trưởng Lưới tại mỗi đơn vị phi-hành (kiêm nhiệm)
    An ninh Phi - Cảng T.S.N
    13) Khóa 1 Sĩ - quan An-ninh (SQAN) mãn khoá ngày 20/ 5/65 tại TSN.
    Sau đó,các SQKQ được đều đặn gửi đi Mỹ học về ngành Ðiều tra đặc biệt cuả KQHK. (OSI/USAF)

    14) Phòng ANKQ tại mỗi SÐKQ nhưng trực thuộc Sở ANKQ tại Cục ANQÐ.
    (Hệ thống dọc)

    Sở An ninh Quân đội/Quân Chủng Không Quân

    I- Sự hình thành.

    Trong những năm đầu cuả cuộc chiến ở Đông Dương, Quân đội Viễn chinh Pháp hoàn toàn giữ vai trò chủ động, với mục đích duy nhất là tái lập chính quyền thuộc điạ đã bị quân đội chiếm đóng Nhật-Bản lật đổ đêm 9-3-1945, rồi sau đó bị Mặt trận Việt Minh do đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo đã cướp chính quyền ngày 19-8-45 và thành lập chính thể Dân Chủ Cộng Hoà ngày 2-9-1945.

    Như bảng tổng kết ở trên đã vạch rõ, chỉ đến năm 1955 sau khi Quân đội Pháp bị thua ở Điện Biên Phủ ngày 7-5-54 và rút về Nam vỹ tuyến 17 theo Hiệp-định Genève thì chính quyền Quốc-Gia Việt Nam do Bảo-Đại làm quốc trưởng mới dần dần thoát ra được khỏi sự kiềm chế cuả Pháp. Rồi sang tới năm 1955 tiếp theo đó, Hoa-Kỳ bắt đầu viện trợ trực tiếp cho Việt Nam, không còn qua trung gian cuả Pháp nữa. Và nhất là khi chính thể Cộng Hoà được thành lập, thì Quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã phát triển nhanh chóng để kịp thời đối phó với chính quyền Cộng Sản miền Bắc đang được Cộng Sản Quốc tế viện trợ ào ạt.

    Tuy nhiên, vì lúc đó các quân chủng Hải và Không Quân hãy còn non trẻ, nên vấn đề an-ninh cuả hai quân chủng này hãy còn do Nha An-Ninh Quân Đội trực tiếp phụ trách, chung cho toàn thể quân đội.¹
    Tới sau biến cố ngày 01/11/1963, khi Hội-đồng Tướng Lãnh lật đổ chính quyền Ngô-đình-Diệm, lập nền Đệ nhị Cộng Hoà, thì Quân đội VNCH trong đó có Quân Chủng Không Quân đã được nhanh chóng phát triển để đáp-ứng với sự biến chuyển cuả thời cuộc.

    Sau một thời gian khoảng gần 2 năm bất ổn về chính trị dẫn đến sự tham chiến trực tiếp cuả Quân đội Hoa-Kỳ vào chiến cuộc Đông Dương ngành An-Ninh Quân Đội cuả Quân Chủng Không Quân được thành lập để đáp ứng hai nhu-cầu cấp bách:

    • Sự tăng trưởng nhanh chóng cuả Quân Chủng Không Quân: Từ những phi đoàn riêng rẽ, kết hợp thành những Không đoàn Chiến thuật, rồi Sư-đoàn Không quân tại mỗi Vùng Chiến Thuật.
    • Sự tham chiến cuả QĐ Hoa Kỳ mang theo sự đồn trú cuả các đơn vị KQHK ở trong các Căn Cứ KQ/VNCH. Do đó, cần phải có sự tương đồng về tổ chức cũng như về phương cách điều-hành cuả hai cơ quan ANKQVN và ANKQHK (OSI/USAF/ District 50) để giữ gìn An ninh Nội bộ cuả cả 2 bên tại các CCKQVN có các đơn vị KQHK đồn trú.

    II- Sự đào tạo SQANQĐ/Quân Chủng KQ

    Tháng 5/1965, một toán HLV cuả OSI/USAF sang mở một khoá đào tạo SQANKQVN tại CCKQ/TSN gồm 16 học viên được tuyển lựa từ những HSQ/KQ hội đủ những điều kiện sau:

    • Có chỉ số kỹ thuật bậc 5 (Sơ đẳng) hay bậc 7 (Cao-đẳng).
    • Về văn hoá, có bằng Tú-tài toàn phần. Có các chứng chỉ Luật khoa được ưu-tiên.
    • Được gửi đi học khoá Sĩ-quan tại Truờng Quân sự tại TTHLKQ Nha trang trước khi theo học Khoá SQAN.
    • Riêng cấp Trưởng Phòng ANKQ biệt phái tại các Sư đoàn KQ được tuyển lựa từ những Sĩ quan có cấp bậc từ Thiếu Tá và đã có những thời gian phục vụ trong những ngành chuyên môn như phi-hành, kỹ thuật v.v. trước khi chuyển sang ngành An Ninh Quân Đội/Không Quân. Thí dụ: Trưởng phòng ANKQ tại Sư đoàn 4 KQ ở CCKQ/Bình-Thuỷ đã từng là Sí quan An-phi cuả Phi đoàn trực thăng 217. Trưởng Phòng ANKQ/Biên Hoà đã từng là phi tuần trưởng trên loại khu-trục AD-6.

    Sau khoá đầu tiên này, các đợt kế tiếp được gửi thẳng qua trường đào tạo OSI/USAF tại Washington D.C cho tới khi đủ quân số Sĩ quan cho mỗi Phòng ANKQ tại mỗi Sư đoàn Không Quân.
    Các Hạ-sĩ-quan An ninh được gửi đi học bổ túc tại Trường Quân Báo-An Ninh Cây Mai.. Các khoá tu-nghiệp này rất cần thiết cho các HSQ/An ninh vốn đã quen giải quyết công việc theo lề thói cũ thời Pháp để lại.

    Tỷ lệ quân số ngành AN là 1% so với quân số cuả Quân Chủng.

    III-Tổ-Chức và Nhiệm vụ cuả Sở ANQĐ/Quân Chủng KQ

    Nhiệm vụ chính cuả ngành An-Ninh Quân đội là chống các hoạt động cuả đối-phương nhằm vào quân chủng như nội tuyến, phá hoại do chính quân nhân Không Quân đã bị móc nối và thực hiện các công tác này. Để thi hành nhiệm vụ này, ANKQ/ Phòng Điều Tra Lý-lịch (ĐTLL) lập Hồ-sơ Lý lịch (HSLL) cho mỗi quân nhân KQ mọi cấp, dựa trên những tin tức và lý lịch do Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia lấy từ sinh trú quán cuả đương sự. Hồ-sơ lý lịch căn bản khi mới nhập ngũ cuả những thành phần khả nghi dần dần được bổ sung bằng kết quả theo dõi những hoạt động bất thường và khả nghi cuả đương sự trong thời gian tại ngũ, và đương sự trở thành đối tượng bị theo dõi (ĐTTD). Đến giai đoạn này, Hồ sơ cuả đương sự được chuyển qua Phòng Phản Tình Báo (PTB) để thụ-lý, bằng cách theo dõi đương sự tại phần sở qua báo cáo cuả các mật báo viên có sẵn ở đơn vị hoặc do nhân viên cuả Ban Sưu-Tầm đi tới khu vực sinh sống cuả đương sự dò hỏi hàng xóm, theo dõi hoạt động hàng ngày, các mối liên hệ giao-dịch cuả đối tượng v.v... Nếu cần, ANKQ có thể chính thức yêu cầu sự giúp đỡ, yểm trợ cuả các cơ quan an ninh cảnh sát điạ phương nơi sinh trú quán cuả đối tượng, cung cấp những tin tức bổ túc cần thiết. Một khi các tin tức thu thập được cho thấy đã có đủ chứng cớ tình nghi đương sự có thể đang hoạt động cho đối phương, Phòng Phản-Tình Báo có thể trình Chánh Sở xin tạm giữ đối tượng để Ban Thẩm vấn (BTV) cử một SQ thụ-lý lập Hồ-sơ Nội vụ (HSNV) để tới những kết luận cuối cùng. Tùy theo kết quả điều tra, Sở sẽ lập Phiếu trình lên Tư-lệnh Không Quân (có ý kiến cuả Cục Trưởng Cục ANQĐ) lấy những biện pháp thích nghi tùy theo mức độ vi phạm, như truy tố trước Toà Aùn Quân Sự (TAQS), phạt kỷ luật, thuyên chuyển ra khỏi những chức vụ tín cẩn, giải ngũ v.v...

    Trái với lề lối làm việc sẵn có từ hồi ANQĐ cuả QĐVC Pháp thường dùng biện-pháp mạnh (Tra điện, đánh đập người bị tình nghi để khai thác tin tức, không cần kể tới luật pháp, nhân phẩm con người dù chỉ mới là nghi can) những biện pháp kiểu thực dân này hoàn toàn bị cấm trong thời kỳ cải tổ phương cách làm việc của Sở ANQĐ/Không Quân. Sự thẩm vấn dựa theo sự đã thu thập đầy đủ chứng cớ, nhân chứng, sự tôn trọng nhân phẩm cuả đối tượng, nêu rõ sự phân biệt phải trái, lợi hại cuả hành động thiếu suy xét cuả đối tượng, phần nhiều đạt được kết quả.

    IV- Sơ đồ Tổ chức Hệ thống ANQĐ/Không Quân

    Tư-Lệnh Không Quân-------------Cục Trưởng An Ninh Quân Đội
    (Phụ Tá An Ninh)----------------(Chánh Sở ANKQ)
    Các Sư-Đoàn Không Quân---------------Các Phòng An Ninh Không Quân
    (Các đơn-vị phi-hành)------------------(Sĩ quan Trưởng lưới)

    V- Sơ đồ Tổ chức Sở An Ninh Không quân

    Chánh Sở tại Cục kiêm Phụ tá An Ninh tại Bộ Tư lệnh Quân Chủng:
    • Phòng
      Điều Tra Lý lịch
      (Ban Thẩm vấn)
      Phòng Kế hoạch
      (Ban Văn-Khố)

    • Phòng
      Phản Tình Báo (3)
      (Ban Thẩm vấn)
      Phòng Hành Chánh
    • Phòng
      Điều Tra Tổng Quát
      Ban Sưu Tầm (Ban Thẩm vấn)
      Phòng Kỹ Thuật


    Chú thích:
    • Cả 3 Phòng: ĐTLL, PTB và ĐTTQ đều có Ban Thẩm vấn riêng biệt: ĐTLL thiết lập Hồ sơ cá nhân (HSCN) qua sự Sưu tra Văn Khố Tổng Nha CSQG và các Cơ quan An Ninh bạn. Còn 2 Phòng PTB và ĐTTQ thiết lập Hồ Sơ Nội-vụ (HSNV) đang được thụ-lý. Trong tiến trình điều tra, nếu cần tìm thêm chứng cớ, hai Phòng này đều có thể dùng nhân viên cuả Ban Sưu Tầm và các thiết bị như máy chụp hình, máy ghi âm,v.v.. cuả Phòng Kỹ-Thuật để hoàn tất công tác theo dõi. Nhân viên Ban Sưu Tầm mặc thường phục, xử dụng các xe gắn máy mang bảng số dân sự trong việc di chuyển vì công vụ (công tác theo dõi) trong thành phố hay thị-xã.
    • Phòng ĐTLL còn có nhiệm vụ sưu tra lý lịch các nhân viên dân chính ra vào làm việc trong các CCKQ, và các quân nhân KQ xuất ngoại vì công vụ (du học, du hành ).
    • Một HSNV bao giờ cũng khởi nguyên từ HSCN cuả các nghi can và triển khai từ đó để lập thành Hồ Sơ điều tra nội vụ. Sĩ quan thụ lý nội-vụ bao giờ cũng phối-hợp với các Phòng khác cuả Sở, thậm chí cả với các Cơ Quan bạn trong suốt quá trình điều tra.


    VI- Kỹ thuật điều tra

    Nói tới hai tiếng An-ninh, người nghe thường có những định kiến không mấy tốt đẹp cho ngành. Đó cũng dễ hiểu khi ai cũng biết rằng trong suốt thời gian cuả giai-đoạn đầu cuả cuộc chiến Đông Dương (1945-1949)

    Quân Đội Viễn Chinh Pháp hoàn toàn chủ động trong mọi hành động, tự cho quyền sinh sát, bắt bớ người dân Việt Nam mang về giam giữ, tra hỏi đánh đập. Trong những cuộc hành quân dạo đó mang tên là “dẹp phiến loạn”, công việc bắt giữ những dân chúng ở vùng hành quân là cuả Phòng Nhì/Quân Đội Pháp vì QĐVC Pháp đang hành quân chiếm lại một cựu thuộc-điạ vừa mới bị mất. Còn tại các thành phố mà Quân Đội Viễn Chinh Pháp chiếm đóng, không những trong giai đoạn đầu (1945-1949), mà ngay đến cả trong giai đoạn II (1950-1954) là lúc đã có chính quyền Quốc Gia VN theo Hiệp-định Élysée, các Cơ-quan An Ninh quân và dân sự Pháp như Phòng Nhì (2è Bureau Militaire), An Ninh Quân đội Pháp (Sécurité Militaire Française), Công An Liên Bang (Sureté Fédérale) giữ độc quyền bắt bớ mọi người Việt bất kể quân hay dân sự. Một thí dụ điển hình : Khoảng giữa năm 1952, khi các SQ Trừ Bị Nam-Định/Thủ-Đức mãn khoá và được thuyên chuyển về các Tiểu Đoàn Bộ Binh VN (Bataillon Vietnamien) để làm Trung đội trưởng hoặc Đại đội trưởng. Dù rằng Tiểu đoàn trưởng có thể là Sĩ quan VN nhưng Tiểu đoàn lại nằm trong hệ thống lãnh thổ (Secteur hay Sous secteur) cuả Quân Đội Pháp. Mỗi lần đi hành quân mà có mang về những nghi can thường dân thì quân đội Pháp sẽ trực tiếp phụ trách việc tra hỏi họ chứ không tới tay các giới chức VN.

    Vì vậy, tất cả những chuyện lạm dụng quyền lực để bắt bớ, giam giữ và dùng các biện pháp mạnh để tra hỏi các nghi can mà các cơ quan quân và dân sự Pháp có thói quen dùng dạo đó, đã để lại những ấn tượng khó xoá sạch trong đầu óc dân chúng Việt Nam và trở thành một định kiến.

    Sau khi QĐQGVN giành lại quyền chủ động từ tay QĐVC Pháp thì phương pháp thẩm vấn các nghi can hoàn toàn căn cứ vào các chứng cớ đã thu thập được, đã phối kiểm và triển khai đầy đủ. Sự doạ nạt cũng như sự dùng biện pháp mạnh hoàn toàn bị cấm dùng, không những vì đó là trái luật mà vì còn đưa đến những kết quả trái ngược với sự thật.

    Sĩ quan thụ-lý nội vụ vì thế cần nhiều thời gian và kiên nhẫn để nghiên cứu và hoàn tất một nội vụ về PTB.

    Các nội vụ về loại Tổng Quát nói chung đơn giản hơn vì có sẵn tang vật, nhân chứng, sự tố cáo và do đó sự vi phạm đã là hiển nhiên. Khác với những nội vụ PTB, những nội vụ về Tổng Quát vì chỉ liên quan tới sự vi-phạm về kỷ-luật nên thường được phối hợp với bên Quân Cảnh/ Liên đoàn Phòng Thủ để khám xét nhà hay phi cơ, tịch thu tang vật.

    Một thí dụ: Một sự chứa hàng lậu thuế nhập cảng qua ngả Hàng Không Dân Sự tại nhà một sĩ quan KQ toạ lạc trong Căn cứ để sau đó cho con buôn gửi đồ chờ đến đêm tối sẽ chuyển đồ ra khỏi CC. Được tin báo sự vi phạm đã quá mức và có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia, Chánh Sở điện thoại cho Tư-Lệnh Sư-đoàn 5 KQ đề nghị cho Quân Cảnh phối-hợp với Phòng ANKQ/Sư-đoàn 5 KQ khám nhà và tịch thu tang vật. Nội vụ được giải quyết tận gốc, tang vật được giải giao qua Quan Thuế, SQ chủ nhà bị phạt quân kỷ và thuyên chuyển ra khỏi QKTĐ.

    VII- Một vài nội-vụ điển hình đáng ghi nhận


    Sau đây là một vài nội vụ điển hình trong lãnh vực an ninh đã xảy ra trong suốt thời kỳ Quân đội VNCH hoàn toàn làm chủ vận mạng vùng lãnh thổ mình phụ trách, không còn bị sự kiềm chế cuả QĐVC Pháp.(1955-1975)

    Giai đoạn chưa thành lập Hệ thống ANQĐ/ KQ (1955-1965)

    • Nội-vụ đặt chất nổ phá hoại Phi-đoàn Quan Sát 112 tại TSN.
    Vào thời-điểm đầu năm 1964 khi QĐHK mới bắt đầu tham chiến ở Việt-Nam, KQVN lúc đó hãy còn chưa thành lập cấp Không-đoàn chiến thuật. Phi đoàn 112 (PĐ2QS) còn đồn trú tại CCKQ/TSN, bao vùng hướng dẫn khu-trục từ Phan-thiết vào tới Quân-Khu 5 (có một biệt đội biệt-phái thường xuyên tại Cần-thơ). Sau mỗi ngày hành quân, các phi-cơ L-19 được đẩy vào nhà chứa phi-cơ, xếp theo lối xen kẽ. Binh nhì Trương-thế-Lanh phụ trách ca gác đầu tiên đêm đó đã đặt những bánh chất nổ lên một vài phi-cơ xếp phía ngoài cùng. Khi chiếc đầu bốc cháy, các quân nhân KQHK cuả đơn vị C123 (Mule Train) làm việc tại nhà chứa phi-cơ sát đó đã kịp thời chạy sang dập tắt và phụ đẩy các phi cơ còn lại ra khỏi nhà chứa, nên sự thiệt hại được giảm thiểu rất nhiều. (Ở thời điểm này, hệ-thống ANQĐ/QCKQ chưa thành lập, chỉ có SQAN Căn cứ.)

    • Một vụ mang phi-cơ đào thoát.
    Khoảng đầu năm 1958, trong một phi-vụ hộ tống phi-cơ chở Tổng thống Ngô-đình-Diệm đi công du, phi-công Georges Tòng, bay một trong 4 chiếc khu-trục Bearcat F8F hộ tống, đã tách rời đoàn và bay thẳng tới Căn cứ Séno (Lào) là nơi tập trung cuả Không Quân Pháp sau khi họ dời Việt-Nam, để xin tỵ nạn chính trị.( Hệ thống ANQĐ/KQ chưa thành lập)

    • Sự xử dụng phi cơ vào những vụ binh biến.
    Chỉ một phi-tuần AD6 mang bom 500lbs và những khẩu đại-liên dưới cánh cũng đã có đủ hoả-lực san bằng nhiều khu vực. Vụ bắn phá Dinh Độc-Lập vào năm 1962 cuả các phi-công Quốc-Cử đã cho mọi người dân thường ở thành phố thấy rõ điều này, chứ đùng nói gì tới giới quân nhân ở ngoài mặt trận. Cũng vì thế mà sau vụ đảo chánh 1/11/1963, trong giai-đoạn bất ổn chính trị vào những năm 64/65, đã thường xuyên xảy ra những vụ đảo chánh, chỉnh lý cuả các phe nhóm giành nhau nắm quyền. Bên nào “nắm” được Không Quân là kể như thắng! Và chính trong vụ lật đổ chế-độ Ngô-đình Diệm, Không Quân cũng đã giữ một vai trò trọng yếu.

    Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào ngăn chặn được những âm mưu loại này? Rất khó mà trả lời cho đúng, nhưng không phải là không thể làm được. Vụ binh biến 1/11/63 sở dĩ thành công vì chính người cầm đầu Nha ANQĐ dạo đó (ANQĐ/KQ chưa thành lập) và Quân chủng Không Quân đã tham gia.

    Giai-đoạn Sở ANQĐ(/KQ đã thành lập.( Sau tháng 5/1965)

    • Một nội vụ móc nối dùng phi-cơ trực thăng H-34 chở thuốc phiện.
    Trong thời gian QĐHK tham chiến ở Đông Dương, giới buôn lậu ma-túy hoạt động rất mạnh, chủ yếu dùng đường hàng không cho mau chóng.

    Được một trưởng phi-cơ H-34 báo cáo, Sở ANKQ đã lập một kế hoạch bắt gọn một chuyến hàng chở trên 400 ki-lô thuốc phiện từ một điạ điểm ngoài Vùng I CT bay vào đổ hàng tại một khu rừng gần Long Thành đã có sẵn xe tải chờ. Tang vật và tên áp-tải bị bắt và được giải giao qua Nha Quan thuế.
    Vào thời điểm gần ngày sụp đổ chế độ miền Nam cũng có âm mưu dùng Không Quân vào việc lật đổ những người đang cầm quyền để thay thế bằng những người có khả năng hơn. Nội vụ không thành vì nhiều lý do khác nhau, và Tư-lệnh Không Quân đương tại chức, được thông báo, đã nhanh chóng lấy những biện pháp thích hợp nhất với hoàn cảnh lúc đó.

    Tóm lại, sự xử dụng phi-cơ quân sự để oanh tạc những “mục tiêu chính trị” đã trở nên ngày càng khó làm sau vụ oanh tạc Dinh Độc Lập năm 1962, vì đã mất yếu tố “bất thần”. Mặt khác, với hệ-thống “Sĩ quan Trưởng lưới” tại các đơn vị phi-hành, (dù đồn trú ở bất kỳ nơi nào, tại đơn vị gốc hay ở nơi biệt phái, xa hay gần Thủ-đô Sàigòn) mọi sự điều động các loại phi-cơ khu trục, trong các phi-vụ hành quân, do các Trung Tâm Hành Quân Không Trợ làm, đều được theo dõi sát về mặt hành quân cũng như về mặt an-ninh, ngay từ lúc cất cánh. Thế sao mà lại có vụ Nguyễn-Thành-Trung, phi-công F5 đã bắn phá Dinh Độc Lập ngày 8/4/1975?


    Nội Vụ Nguyễn thành Trung

    Ở đây chỉ xin tóm lược nội vụ đã xảy ra với mục đích tìm hiểu nguyên nhân cuả sự thành công cuả phi-công Trung trong một phi-vụ táo bạo ở một thời điểm quyết định cuả cuộc chiến lâu 30 năm ở Việt Nam.

    Sáng 8/4/1975 cả Sàigòn nhốn nháo, xe cộ kẹt cứng ở trung tâm thành phố vì Dinh Độc Lập đã bị phi-cơ dội bom. Khu vực quanh Dinh Độc Lập được cô-lập tức khắc, các đơn vị thiết giáp, binh sĩ Dù, được mau chóng điều động tới bảo vệ Dinh và yểm trợ cho các đơn vị phòng không đã có sẵn ở trong khuôn viên cuả Phủ Tổng-Thống,và bên vườn Tao-Đàn.

    Cố nhiên cuộc điều tra từ phía Quân chủng được tiến hành tức thời tại Căn cứ Không quân Biên Hoà (Sư đoàn 3 Không-quân) nơi đồn trú cuả những phi-đoàn phản lực F5 siêu thanh cuả Không lực VNCH mà một chiếc đã đơn độc bắn phá Dinh Độc Lập sáng hôm đó, và viên phi-công là Nguyễn thành Trung.

    Cuộc điều tra sơ khởi đã mau chóng phát hiện những lý do tại sao Trung đã giữ kín được công việc sửa soạn và thi hành một phi-vụ độc đáo một cách hoàn hảo như vậy.

    Sáng hôm đó, 8/4/1975, Trung được cắt bay trong một phi tuần gồm 3 chiếc F-5E, cất cánh từ Biên Hoà, đi oanh tạc những đoàn quân Bắc Việt đang di chuyển giữa Nha-Trang và Phan-Rang, trên đường tiến về Sàigòn.

    Phi tuần di chuyển từ bến đậu, ra đường băng sắp hàng chờ lệnh cất cánh trên tần số từ đài kiểm soát (phi cơ Trung lái ở vị thế số 2). Để tránh sự quá nhiều phi cơ cùng nói trên tần số một lúc, phi tuần trưởng ra hiệu lệnh cất cánh bằng tay tới hai tuần viên. Như chờ đợi sẵn lúc này, Trung giơ 2 ngón tay hình chữ V, ngụ ý có trục trặc vô tuyến. Tuần viên kia giơ ngón tay cái tỏ ý sẵn sàng. Phi-tuần trưởng bèn ra hiệu phi-tuần sẽ bay đội hình 2 phi cơ với chiếc thứ 3 cất cánh thay chỗ cho chiếc cuả Trung đang tạm thời kiểm soát lại hệ thống vô tuyến cuả mình thêm 5 giây đồng hồ nữa. Tất cả mọi thay đổi về thứ tự cất cánh vì làm bằng dấu hiệu tay nên đài kiểm soát không hay biết. Trung đợi lúc phi cơ số 2 đã xa, lúc đó mới cất cánh và quay ngay về phiá Sàigòn, thẳng tới Dinh Độc Lập. Có lẽ vì Trung quá căng thẳng nên 2 trái bom đầu rơi ra ngoài khuôn viên, Trung phải quay lại thả nốt 2 trái bom 500 lbs còn lại, lần này trúng và làm sập một cánh trái cuả Dinh. Tuy nhiên không có ai bị thiệt mạng vì mọi người đã có đủ thời giờ chạy xuống hầm trú ẩn kiên cố cuả Dinh.

    Sau đó Trung bay ra Nhà Bè bắn đại liên vào những bồn chứa săng tại đó nhưng không gây được hỏa hoạn như mong muốn, Trung bèn lái chiếc F5 bay tới Lộc Ninh và đáp an toàn xuống một phi đạo dài 3000 bộ mới được quân đội Bắc Việt khẩn cấp làm sau khi chiếm được Phước Long.

    Từ đó, mười ba ngày sau, vào ngày 21/4/75, Trung được đi xe Jeep theo đường mòn Hồ chí Minh lên Pleiku. Ở đó qua đêm, sáng 22/4/75 Trung đi trực-thăng xuống phi trường Đà-Nẵng.

    Tại đây, với một chiếc A-37 cuả Không Lực VNCH để lại, Trung đã cấp tốc xuyên huấn cho các phi công MIG-17 cuả Bắc Việt.

    Bốn ngày sau, vào ngày 27/4, tất cả toán phi-công MIG, bây giờ đã thạo cách xử dụng loại A-37, cùng với Trung, được một trực thăng chở tới phi-trường Phù Cát tại đây đã có 5 chiếc A-37 cuả KQVNCH bỏ lại, và đã được sửa soạn sẵn sàng cho phi-vụ oanh tạc phi-trường TSN sắp tới.

    Ngày 28/4/75, toán 5 chiếc A-37 này bay tới phi-trường Phan Rang, lúc này đã ở trong tay quân đội Bắc Việt từ ngày 15-4, và được các chuyên viên kỹ thuật Không quân Bắc Việt gắn 2 trái bom MK-82 (loại 500 lbs) và 2 trái MK-81 (loại 300 lbs) lên mỗi chiếc A-37.

    Các phi công được lệnh chỉ oanh tạc các bãi đậu, tránh các phi-đạo để người Mỹ còn có thể dùng phi-cơ vận tải di tản nhân viên cuả họ.

    5 giờ chiều ngày 28/4/1975, năm chiếc A-37 trang bị bom đạn cất cánh từ Phan Rang trực chỉ phi trường Tân Sơn Nhứt, thả 20 trái bom vào những bãi đậu, phá huỷ gần hết các phi cơ đang đậu tại những chỗ đó.

    Sự bất ngờ gần như hoàn toàn. Hầu hết những chiếc F-5E gắn hoả tiễn không-đối-không đã được di tản qua Thái-Lan từ những hôm trước, theo lời yêu cầu cuả Không Lực Hoa Kỳ, để tránh khỏi rơi vào tay cuả quân đội Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lúc này đã tới cửa ngõ Thủ đô Sàigòn sau khi sự kháng cự anh dũng nhưng tuyệt vọng cuả các đơn vị VNCH tại Xuân-Lộc bị tràn ngập dưới số đông. Do đó toán phi-cơ A-37 vừa oanh tạc TSN đã an toàn quay về phiá Bắc mà không bị truy kích.

    Khoảng 3 giờ chiều ngày 29/4/1975, các phi-cơ trực thăng hạng nặng cuả Thủy quân Lục chiến Hoa-Kỳ từ Đệ thất Hạm đội liên tục hạ cánh trong vòng rào D.A.O ở Tân Sơn Nhứt để di tản những người Mỹ và Việt, đã tụ tập ở trong đó từ những ngày trước, ra những chiến hạm và tầu buôn đã chờ sẵn ở ngoài hải-phận quốc tế.

    Thế nhưng vẫn còn một câu hỏi cho đến đây vẫn chưa được giải đáp: Tại sao và làm cách nào mà Nguyễn thành Trung đã xin được vào Không-quân để sau đó được gửi đi học phi-công tại Hoa Kỳ từ 1969, rồi "mai-phục" nhiều năm trong các đơn vị khu trục mà không bị phát giác?

    Ron Moreau, trên tập san hàng tuần Newsweek ấn bản Đông Nam Á ra ngày 22 tháng 9 năm 2000, thuật lại lời cuả Trung, lúc này đang phụ trách việc điều-hành các chuyến bay quốc ngoại cuả Hàng Không Việt Nam.

     Để trả thù cho việc quân đội VNCH đã bắn chết cha tôi, một du-kích, trong một cuộc hành quân vào năm 1963, rồi sau khi kéo lê xác ổng trên đường, đã vứt xác xuống sông. Lúc đó tôi mới được 15 tuổi, Mặt Trận Giải phóng Miền Nam đã tìm cách thay tên, đổi họ và di chuyển tôi lên Sàigòn tiếp tục học. Năm 1969, tôi thi vào Không quân và được gửi qua Mỹ học về ngành khu-trục. Trở về nước năm 1971, tôi được thuyên chuyển về những phi đoàn A-37, loại phi-cơ ném bom hạng nhẹ mà tôi đã được huấn luyện ở Mỹ (T-37). Sau cùng, tôi được xuyên huấn sang loại nghênh cản siêu thanh F-5E, đồn trú tại Sư đoàn 3 Không Quân, thuộc Căn cứ Không Quân Biên Hoà.

     Thật là lý tưởng cho những gì, tôi và cấp trên (trong MTGPMN) cuả tôi đã kín đáo bàn bạc trong suốt nhiều tháng trời.

    Mục tiêu sẽ phải là Dinh Độc Lập, đầu não cuả chính quyền Sàigòn. Vấn đề còn lại là làm thế nào lấy được một phi cơ đã có sẵn bom đạn để làm việc này và sau khi thi hành song công tác thì phải làm thế nào để thoát hiểm? Và Trung đã tìm ra cách làm, với một sự may rủi khá lớn như đã kể ở trên, và đã thành công.

    Như đã nói ở trên, ngay sau khi vụ ném bom xảy ra sáng ngày 8/4/75, một cuộc tìm hiểu cấp tốc được làm ngay tại CCKQ Biên Hoà. Giả thuyết “Không quân đảo chính” được loại bỏ ngay vì không có sự chuyển quân nào ở dưới đất.

    HSCN cuả Trung không có dấu hiệu gì khác thường ngoài một sự trùng hợp là đã bị mồ côi cha từ nhỏ, một sự việc rất bình thưởng trong chiến tranh. Tuy nhiên, khai thác thêm những hồ sơ nặc danh tố cáo những vụ Việt Cộng đăng vào Không Quân vào những năm cuối thập-kỷ 60 thì có một vụ mà người đăng vào KQ có sinh quán trùng hợp với lời khai cuả Trung trong HSCN cuả mình. Thế nhưng tên tuổi lại hoàn toàn khác, và thư nói rõ là đối tượng đó xin đăng theo học ngành trực thăng. Phòng ANKQ Bình Thủy, Sư đoàn 4 KQ đã phái nhân viên về tận nơi sinh quán để tìm hiểu thêm nhưng không có kết quả cụ thể, và sự việc được tạm xếp vào loại chờ khai thác nếu về sau có thêm yếu tố.

    Một vài hàng nói qua về những thư tố cáo nặc danh. Không phải là cái thư nào thuộc loại này cũng chỉ là tài liệu vu vơ, biạ đặt do tư thù cá nhân.

    Vài thí dụ sau đây cho ta thấy có những trường hợp mà dù có biết rõ liên hệ gia đình rất gần cuả một vài Sĩ quan Không quân với các nhân vật trọng yếu cuả đối phương mà các giới chức nhận tờ trình cũng không hề lấy biện pháp nào thích hợp. Nhưng mà phải thế nào mới là thích hợp?

    • Vụ Đại Tá H.M.B có thư tố cáo là em vợ cuả Phạm Hùng, có thời là nhân vật số 2 cuả chính quyền MTGPMN. Đại Tá HMB vẫn được biệt phái qua bay Hàng Không VN, và vào ngày 30/4/75, đang ở sân bay HongKong, sau đó đã bay về nước.
    • Bộ trưỡng Tư Pháp Trương Như Tảng cuả Chính phủ Lâm thời miền Nam Việt Nam là anh ruột cuả Đại-Uý T.N.H. thuộc Liên Phi-Đoàn Vận tải.
    • Bên gia đình nhà vợ, cuả vài KQ cao cấp dạo đó, có Đại Tá Hà văn Lâu, trưởng phái đoàn Việt Minh tại Hội nghị Trung Giá vào tháng 7/1954 sau trận Điện Biên Phủ, họp bàn cãi về việc trao đổi tù binh, dẫn đến Hội nghị Genève chia đôi đất nước sau đó. Hà văn Lâu cũng là một thành viên quan trọng cuả phái đoàn VNDCCH ở cuộc Hội Đàm 4 bên năm 1972 tại Paris.

    Vì vậy, việc Trung hoàn toàn thay đổi lý lịch, dù bằng cách nào, gửi gấm hay chạy chọt, để lọt vào Không Quân mà không một ai biết cũng là đương nhiên mà thôi.

    Trong một cuộc nội chiến như là cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam, chẳng cứ chỉ là ở quân chủng Không Quân, nhiều gia đình cuả các giới chức cấp lãnh đạo quốc gia có anh em ruột đứng ở hai bên chiến tuyến là chuyện thường xảy ra: Dương văn Minh và Dương văn Nhật, Đồng văn Khuyên và Đồng văn Cống là những thí dụ điển hình.

    Khoảng 9 giờ sáng ngày 29/4/75, giữa cảnh tan hoang cuả Căn Cứ TSN, sau khi Chánh Sở đích thân gặp mặt Tư-Lệnh KQ tại Phòng Hành Quân Chiến Cuộc ở BTLKQ, một buổi họp cấp Trưởng phòng được nhóm cấp tốc tại trụ sở Sở ANKQ ở TSN.

    Cuộc rã ngũ cuả cả Quân Lực VNCH, trong đó có quân chủng Không Quân mà Sở ANKQ là một thành phần nhỏ bé (1%) thật là bất ngờ, thật là hoàn toàn nhưng không một ai trong toàn ngành ANQĐ/KQ tự ý rời bỏ hàng ngũ trước khi những hiện tượng xảy ra trước mắt lúc đó đã trở thành một thực trạng đau lòng cho tất cả mọi người.

    Cần phải nói ngay ở đây là các Trưởng Phòng ANKQ tại các Sư Đoàn KQ chia sẻ số phận cuả các Tư Lệnh Sư Đoàn mà phòng mình phục vụ. Thiếu tá Nguyễn tấn Tiên, Trưởng Phòng ANKQ/Phan Rang cùng bị bắt làm tù binh với Chuẩn tướng Tư lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân Phạm ngọc Sang, khi quân đội Bắc Việt đánh chiếm phi trường ngày 15-4-75.

    VIII -Tản mạn

    Trong suốt 10 năm trời liền (1965-1975) không gián đoạn, và ở trong những thời điểm hết sức phức tạp về chính trị và ác liệt về quân sự cuả một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc, tôi đã được chỉ định việc tổ chức và điều hành ngành An Ninh Quân Đội cuả Quân Chủng.

    Để tránh đi ra ngoài khuôn khổ một bài viết thuộc loại sử liệu về quân sự (dù là chỉ liên quan tới một quân chủng và về một khiá cạnh tuy nhỏ hẹp nhưng ít người chịu chú ý tới tầm quan trọng thực sự cuả nó) tôi xin được giải thích vài điều, dưới hình thức thật cô-đọng, về những gì mà người ngoài ngành, kể cả dân chúng có việc giao dịch với quân chủng, thường hiểu nhầm hoặc hiểu sai về công việc cuả ngành An Ninh Quân Đội/KQ.

    ANQĐ, như tên gọi đã định nghiã rõ ràng, là phần hành cuả quân đội có nhiệm vụ giữ gìn an ninh cho quân đội chống lại những hoạt động cuả địch dùng người cuả mình làm những công việc có hại cho quân đội như:

     Thu thập tin tức về những cuộc hành quân (ngày giờ, vùng hành quân, lực lượng tham gia) về nhân sự (cá tính cuả cấp chỉ huy, tinh thần chiến đấu cuả binh sĩ v.v..) để lo liệu sự đối phó, chống cự.
     Thể hiện những công tác phá hoại cơ sở, quân dụng, để làm giảm khả năng chiến đấu cuả đơn vị.

    Và ANQĐ/KQ thi hành những nhiệm vụ đó cho Quân Chủng Không Quân, việc điều tra lẫn việc xét sử đều theo quân luật, ấn định bởi Toà Án Quân Sự, thuộc Bộ Quốc Phòng. Đó là những công việc hệ trọng chỉ có thể làm được theo một hệ thống tổ chức chặt chẽ, phương pháp làm việc dựa vào trí óc hơn là tay chân (!) và phải hợp pháp.

    Từ ở ngoài nhìn vào, công việc có vẻ bí mật (!) và nhiều quyền hạn. Thật ra, không gì sai lầm hơn.

    • Nhân viên an-ninh, bất kỳ ở cấp bậc, chức vụ nào, trước hết là một quân nhân. Do đó, phải tuyệt đối tuân theo quân lệnh, giữ đúng quân phong, quân kỷ. Chỉ nhân viên sưu tầm đi công tác mới được phép mặc thường phục, có thẻ công cán để khi cần sẽ trình nhân viên công lực (cảnh sát) ở ngoài công lộ hay quân cảnh kiểm soát tại cổng những căn cứ quân sự. Trưởng ban Sưu tầm có trách nhiệm kiểm soát thường xuyên các nhân viên cuả mình.
    • Là một đơn vị, phần sở quân sự, Sở ANKQ có nhiệm vụ tự đảm trách việc canh gác, phòng thủ trụ-sở làm việc cuả mình dù toa lạc tại trong hay ngoài Căn cứ Không Quân và nếu tình hình đòi hỏi, sẽ tham gia vào việc chiến đấu chung. Trong vụ Tết Mậu Thân (1968) Sở ANKQ tọa lạc tại 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng với các Sở khác cuả Cục ANQĐ, đã được phân phối công tác tuần tiễu, canh phòng, bảo vệ tại những khu vực trọng yếu chung quanh như Đài Phát Thanh, Phủ Thủ tướng v.v...
    • Vì có nhu cầu di chuyển trong bất kỳ giờ giấc nào, đi tới bất kỳ nơi nào, mang theo bất kỳ ai, đi trên xe quân hay dân sự nên các cấp Chánh Sở được cấp Thẻ Công Cán Thường Trực cuả Bộ Quốc Phòng ghi rõ – “được phép Thông hành trên toàn cõi Việt Nam trong mọi lúc, với mọi phương tiện và chuyên chở bất kỳ ai mà khỏi xuất trình lý lịch”. Và thêm chú thích “Mặc thưởng phục, mang vũ khí, dấu kín hoặc để ngoài”.
    Ngoài ra còn có thêm một thẻ “Lưu Thông Đặc Biệt” trong giờ Thiết Quân Luật (trong tình trạng chiến tranh) để di chuyển trong nội vi Thủ Đô Sàigòn do Phủ Thủ tướng (Toà Tổng Trấn) cấp. Cố nhiên đấy chỉ là để giải quyết những nhu cầu di chuyển cấp bách và bất thần. Chứ không phải là một đặc quyền tự nhiên.
    • Việc xử dụng phi-cơ vào việc trái phép (trừ việc binh biến) như buôn lậu (phi cơ vận tải) săn thú rừng, chở hàng lậu cho con buôn, chở các quận trưởng đi về Sàigòn họp lấy tiền (trực thăng, quan sát) thường xảy ra. Nhưng Phòng ANKQ sở tại chỉ trình lên Tư lệnh Sư đoàn khi nội vụ xảy ra trở nên quá mức, ảnh hưởng tới tiềm năng chiến đấu cuả đơn vị, còn thì chỉ thông báo miệng cho các cấp chỉ huy trực tiếp cuả các nghi can, Riêng các đơn vị khu-trục không có điều tiếng gi về những vi phạm loại này.
    • Mọi người, nhất là dân chúng có việc ra vào các phi trường quân sự, đặc biệt là Tân Sơn Nhứt, thường dùng chữ AN NINH PHI TRƯỜNG để nói tới những các người có nhiệm vụ kiểm soát ở cổng ra vào như Quân Cảnh, Cảnh Sát. Bốn chữ ANPT cũng được dùng ngay cả trong văn nói lẫn viết để nói về công việc cuả lực lượng phòng vệ (Liên Đoàn Phòng Thủ) cuả mỗi Căn cứ Không quân. ANQĐ/KQ không có nhiệm vụ đứng ở cổng để kiểm soát thẻ ra vào cuả mọi người ra vào. Việc này do Quân Cảnh KQ và Cảnh Sát Phi Trường phụ trách. Phòng ANKQ sở tại chỉ sưu tra lý lịch cuả các dân sự làm việc ở trong CCKQ và đưa kết quả sang bên LĐPT để cấp thẻ thông hành mà thôi. ANKQ cũng không có nhiệm vụ canh gác hoặc đi tuần tra, kiểm soát các điạ điểm trọng yếu như kho bom, kho xăng, bãi đậu phi cơ v.v... Tuy nhiên, các Trưởng phòng ANKQ sở tại vẫn thường xuyên cử nhân viên đi thanh sát những nơi đó, để nếu có những khuyết điểm (thiếu ánh sáng, hàng rào không đủ an toàn, nhân viên canh gác thiếu, vắng mặt v.v...) thì lập phiếu ghi nhận để Trưởng phòng trình Tư Lệnh Sư-đoàn.

    Một điểm nữa cần nói rõ ở đây là Ngành ANQĐ/KQ không có cố vấn Mỹ mà chỉ có một Sĩ quan liên lạc cuả OSI/District 50 có nhiệm vụ, cùng với Phòng Kế hoạch cuả Sở, thiết lập những nhu cầu về gửi người đi huấn luyện, nhu cầu về thiết bị kỹ thuật, xe hơi dân sự, xe gắn máy v.v...

    Khi các đơn vị KQHK dần dần rút ra khỏi VN thì SQLL cuối cùng cuả OSI cũng về nước vào năm 1972.

    Sau cùng, ANQĐ/ KQ không làm chính trị, nghiã là không tham gia vào một đảng phái nào, dù với tư cách cá nhân. Lúc nào Sở ANKQ cũng cố gắng thi hành nhiệm vụ cuả mình trong tinh thần phục vụ quân đội qua hệ-thống các cấp chỉ huy, vì dù sao chăng nữa, chỉ huy có nghiã là gánh nhận trách nhiệm mà chính phủ và quân đội đã giao phó cho mình. Do đó, ANQĐ chỉ có nhiệm vụ trình báo để cấp chỉ huy lấy quyết định thích hợp và chịu trách nhiệm trước quân đội.

    IX Phụ Bản

    1) Danh sách các người Việt theo học các khoá sĩ quan do Pháp đào tạo trong giai-đoạn 1946-1949: (Chú thích 2 ở trang 1, cột 5)
    • Tiểu sử cá nhân sơ lược: (xem các websites dưới đây)
    (cuả Nguyễn-văn-Thiệu)
    (cuả Dương-văn-Minh)
    muốn xem tiểu-sử tướng khác nào nữa, thí dụ Trần văn Đôn chẳng hạn, chỉ cần thay tvdon sau com/

    2) Danh sách các tướng lãnh QLVNCH gồm Tên họ,Năm sanh, Chức vụ http: www.generalhieu.com
    Danh sách không hoàn toàn đầy đủ và chính xác từng chi tiết.

    ---------------------------------------------
    1- Ngành An ninh cuả QĐQGVN (Sécurité Militaire des FAVN) do Th/Tá André Trần-văn-Đôn phụ trách.
    Các Đại-Úy Đỗ Huề, Lâm ngọc Huấn lần lượt làm phụ tá. Điạ bàn hoạt động là Đệ Tam Quân Khu/Hànội

    2- Chánh Sở ANKQ tại Cục ANQĐ đồng thời cũng là Phụ-tá An-Ninh cho Tư-Lệnh KQ.
    3- PTB thụ lý nội vụ liên quan tới chính trị, ĐTTQ thụ lý nội vụ liên quan tới kỷ luật quân đội.
    4- Ở cấp phi đoàn, một hay nhiều phi-công có thâm niên công vụ ( để biết rõ sự điều hành các phi-vụ cuả đơn vị ) được Sở ANKQ bố trí và hướng dẫn trong việc theo dõi sát sự hợp pháp cuả các phi-vụ, đặc biệt là hành quân, cuả các loại phi-cơ khu trục , trực thăng võ trang.


    (Bài do NT Trần Ninh gởi)
    Last edited by khongquan2; 01-07-2013, 05:59 AM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X