Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Duyên Anh Và Tôi

Collapse
X

Duyên Anh Và Tôi

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Duyên Anh Và Tôi

    Vũ Trung Hiền

    Duyên Anh Và Tôi

    Nguồn : ThuVienVN




    Những Chuyện Bên Ly Rượu

    Định mạng đưa tôi đến với Duyên Anh và trở thành người em kết nghĩa được anh tin cậy và yêu mến nhất. Trong những năm tháng cuối đời Duyên Anh, tôi được may mắn gần gũi anh một thời gian, được chuyện trò, học hỏi, vui đùa với anh như với một người bạn thiết. Chẳng biết có phải vì linh cảm lần gặp gỡ tháng 8, 1995 sẽ là lần cuối cùng hai anh em sống gần nhau không, Duyên Anh bảo tôi thu băng lại những điều anh tâm sự, và dặn tôi “mai đây, anh có chết, em đừng buồn, vì lời anh nói vẫn còn ở bên em”. Những cuốn băng ấy là kỷ vật vô giá anh để lại cho tôi. Mỗi lần nghe lại, tôi còn thấy như thoáng đâu đây hình ảnh của một Duyên Anh tràn đầy sức sống, mái tóc bồng bềnh, da mặt hồng hào, nụ cười rạng rỡ, với tiếng cười ngạo nghễ, pha lẫn những câu chửi thề dòn dã bên ly rượu, trong phòng khách, ngoài vườn sau...

    Duyên Anh đã có lần nói với tôi:

    - Thiên hạ chẳng mấy ai hiểu được anh. Có lẽ, phải đến lúc anh chết rồi, người ta mới hiểu và thương anh.

    Duyên Anh qua đời đã ba năm rồi. Tôi nghĩ, đã đến lúc ghi lại những kỷ niệm với Duyên Anh, những điều chính tai tôi đã nghe anh nói, mắt tôi đã thấy anh làm, cả những cái hay lẫn những điều dở; để cho những người yêu mến Duyên Anh, cũng như những ai chưa từng gặp anh, có được một bức tranh trung thực về con người đặc biệt này.

    Có lẽ, đến quá nửa câu chuyện trao đổi giữa hai chúng tôi, đều được ghi lại trong những lần uống rượu với nhau. Những khi ấy, Duyên Anh bốc đồng, nói vung vít, rút hết ruột gan ra với tôi, phô bày trọn vẹn con người thật của anh. Rất có thể, vì quá yêu, hoặc quá ghét, một số nhân vật nào đó, anh đã có những nhận xét rất chủ quan, có khi khắt khe, có khi lại rất dễ dãi, đối với những người này. Duyên Anh gọi những người anh không ưa bằng ông, hoặc bằng thằng. Và cũng dùng chữ thằng đối với những người bạn, anh thực sự yêu mến. Độc giả sẽ nhận ra ngay, Duyên Anh là người yêu ghét rất phân minh. Anh chẳng bao giờ cần che đậy khía cạnh tình cảm ấy của mình.

    Những điều Duyên Anh nói với tôi, và tôi đã trực tiếp nghe từ nơi anh, rất có thể, sẽ không hoàn toàn đúng, hoặc thiếu chính xác, về một số phương diện nào đó. Thậm chí, có khi còn sai lầm nữa. Nhưng điều tôi có thể đoan chắc với người đọc, đó chính là những gì anh đã nói; tôi đã nghe, và ghi chép lại.

    Một vài thân hữu, xem qua bản thảo, đã đề nghị tôi bỏ bớt những chỗ Duyên Anh chửi thề trong đó. Tôi cám ơn các vị này, nhưng để giữ sự trung thực, tôi quyết định để nguyên những chỗ ấy (Duyên Anh nói chuyện, mà không chửi thề, câu chuyện sẽ mất hay đi rất nhiều, những bạn thân của Duyên Anh đều đồng ý với tôi như vậy). Tôi cũng để nguyên cả những chỗ, tôi biết anh nói không đúng.

    Mục đích của tôi, không nhằm mô tả Duyên Anh như một thần tượng đã từng được hàng triệu độc giả, trong số đó có tôi, ngưỡng mộ. Tôi chỉ muốn vẽ lại Duyên Anh, như một con người. Một con người rất người, với một số thói hư tật xấu, sôi động thất tình, cũng như những ý nghĩ thật đẹp của anh. Tôi biết rất rõ, bức tranh ấy không thể nào vẽ lại được hoàn toàn con người Duyên Anh. Nhưng có một điều chắc chắn: những điều tôi sẽ viết ra đây là những gì chân thành nhất tôi có thể nhớ và nghĩ được về Duyên Anh Vũ Mộng Long, như một nguời anh kết nghĩa đã thương yêu tôi như đứa em ruột; và như một người bạn thân thiết đã chia xẻ với tôi không biết bao nhiêu là kỷ niệm.

    Ít nhất, xin hãy cứ coi như đây như đóa hoa tâm tưởng tuyệt vời nhất tôi dâng lên hương hồn Duyên Anh Vũ Mộng Long.

    Ước mong quý vị độc giả thân mến, những anh em, bè bạn của Duyên Anh hãy cùng tôi nhóm một lò trầm tưởng niệm. Hãy cùng tôi chia xẻ kỷ niệm, kỷ niệm tha thiết cuả tôi. Để tưởng nhớ Duyên Anh Vũ Mộng Long. Mãi mãi.

    Vũ Trung Hiền


    Chương 1

    Mệnh phụ có cái mốt đi vào bệnh viện Cộng Hòa “ủy lạo” chiến sĩ bị thương nằm trong đó. Một bữa kia, bà thủ tướng đi thăm thương bệnh binh; chuyến đi thăm này đã được Duyên Anh tường thuật và ca tụng trên báo. Bài báo kết thúc bằng câu hát nhái theo bài hát trẻ con Frères Jacques, thường được các cô mẫu giáo dạy các em hát thành Giờ Chơi Đến Rồi.

    Bà thiếu tướng ..., bà thiếu tướng…
    Giầu tình thương, giầu tình thương
    Công đức kia, ai hơn bà, công đức kia ai hơn bà
    Công bà to, Ơn bà to !

    Sau hôm báo ra chừng một tuần, Duyên Anh cười khà khà, bảo tôi:

    - Anh nghe tụi nó nói, vợ chồng K. khoái lắm, tưởng anh khen thật. Chúng nó đâu có biết là anh xỏ lá!

    Tôi nói:

    - Anh muốn chơi chữ công đức, như ngày xưa cụ Nguyễn Khuyến dùng để ca tụng một bà Me Tây ở Hà nội, nhân dịp bà này được vua ban bốn chữ Tiết Hạnh Khả Phong, và bà tổ chức khao vọng tưng bừng phải không ?

    Duyên Anh gật gù, vừa nói vừa cười:

    - Phải rồi, mẹ chúng nó, ngàn năm công đức của bà to. Nó to như vậy đó!

    Mùa hè 1970, Duyên Anh thụ huấn quân sự mấy tuần ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, sau đó, được trở về Saigon tiếp tục viết báo. Trong thời gian ở Quang Trung, Duyên Anh làm bài thơ Em 16, theo trường phái Hồ Xuân Hương, để vừa nói tới khẩu súng cá nhân ngày đêm gần gũi bên mình, vừa mô tả rất gợi cảm những hành động âu yếm với người yêu. Rất tiếc, tôi đọc qua một lần, không còn nhớ được câu nào trong bài thơ ấy. Thời gian này, anh cũng kéát thân với nhạc sĩ Thục Vũ, tác giả những ca khúc Tình Mùa Chinh Chiến, Đàn Thu Tay Ngọc,…người đã phổ nhạc một số bài thơ cuả Lệ Khánh, tác giả thi tập Em Là Gái Trời Bắt Xấu. Thực ra, người nữ thi sĩ này không xấu như chị đã khiêm tốn nói về mình đâu. Tôi đã được gặp Lệ Khánh hai lần: lần đầu, trên Đà Lạt, trước 75, khi cùng đi với Vũ Đức Nghiêm; lần thứ nhì, khoảng 77, 78, khi chị ghé nhà tôi với cháu Vũ Khánh Thục. Một trong những bài thơ Lệ Khánh, Thục Vũ phổ nhạc, khá thành công trên thị trường âm nhạc lúc ấy, vì dễ hát, và được nữ ca sĩ Thanh Tuyền hát nhiều lần trên đài phát thanh. Bản nhạc này mở đầu và kết thúc bằng mấy câu thơ năm chữ giản dị

    Hôm nay trời vào thu
    Đà lạt lắm sương mù
    Cây khô buồn trút lá
    Gió ven hồ bay xa
    Mây thu lờ lững trôi
    Nhè nhẹ gió lưng đồi.
    Xin anh đừng giận dỗi
    Viết thư về thăm em
    Viết thư về thăm em

    Mai đây tàn chinh chiến
    Áo em mầu mô-sa
    Đón anh về hoan ca

    Bấy giờ, Thục Vũ đang làm Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị tại TTHL Quang Trung.

    Sau Tết 1971, đến phiên tôi thụ huấn giai đoạn một, khóa 1/1971 SQTB Thủ Đức, đại đội 1, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng, cũng tại Quang Trung. Duyên Anh viết mấy chữ giới thiệu tôi với Thục Vũ, đại khái “Người cầm giâáy này, Vũ Trung Hiền, là em Vũ Đức Nghiêm, và cũng là em của moi nữa. Thục Vũ có thể giúp gì cho Hiền thì giúp nhé. Cám ơn bạn. Thân. Duyên Anh.”

    Một buổi chiều, tôi mang giấy này đi tìm Thiếu Tá Vũ Văn Sâm, tên thật của Thục Vũ. Nhà anh ở rất gần cổng trại. Thục Vũ tiếp tôi khá niềm nở, và có cảm tình ngay, khi tôi hát cho anh nghe mấy bài nhạc anh làm, tôi đã thuộc từ trước. Thục Vũ bảo, khi nào rảnh, ghé chơi với anh. Nhưng tôi chỉ ghé thăm anh có một lần, buổi sáng, tuần lễ không ai được về phép. Căn nhà anh ở, khu dành cho sĩ quan, bày biện giản dị. Phòng khách kê bốn ghế bành, chiếc bàn gỗ tròn đặt ở giữa. Đặc biệt, ở chỗ dựa mỗi ghế, phủ tấm vải vuông trắng, viền đăng ten, trên các tấm vải này, thêu những hàng chữ mầu, tên các sáng tác ưng ý của anh. Thục Vũ pha cà phê sữa nóng, đãi tôi. Tôi mượn anh chiếc guitar, hát cho anh ca khúc Đàn Thu Tay Ngọc, anh phổ thơ Đinh Hùng

    Trong vắt lời ca phảng phất nhung
    Lòng như mưa lạnh, nhớ lưng chừng
    Lưng chừng nỗi nhớ thu đi lạc
    Bước nhỏ trăng soi gót rụng hồng
    Ôi phím đàn hoa rộn ngón tay
    Làn môi mê dại tóc buông dài
    Em cười thoảng gió lên cung bậc
    Tiếng thở dài vương thương nhớ ai
    Tay ngọc tà thu ngón tuyéát sa
    Gió mưa tình ý lệ chan hòa
    Bốn giây tuyệt vọng đau hàng phím
    Hoa dịu làn môi nghẹn khúc ca
    Anh nắm bàn tay nhịp xuống em
    Bàn tay dạ nhạc mướt tơ mềm
    Tơ mê lùa gió lên cung ngọc
    Cánh nhạc hồn anh nhập bóng em
    Xin em đưa nhạc lên trời xanh
    Ý đẹp tay thơm kết mộng lành
    Anh gục đầu lên trang sách ước
    Chờ nghe máu chuyển một dư thanh

    Tôi xin phép Thục Vũ cho tôi để nhờ chiếc xe Honda 50 ở nhà anh, trong lần trả phép tuần kế tiếp. Anh bằng lòng. Nhờ đó, trong ba tháng tập tành ở Quang Trung, thay vì phải đi bộ vài ba cây số mới đón được xe đò về Saigon, tôi chỉ mất năm mười phút, là đã ngồi lên xe của mình, tiết kiệm được vài ba tiếng đồng hồ quý báu của 24 giờ phép.

    Sau 1975, Thục Vũ đi tù cải tạo. Vì sức yếu, anh qua đời tại trại tù Sơn La, miền Bắc, tháng 11, 1976.

    Bản nhạc sau cùng, Thục Vũ để lại cho đời, Anh Ở Đây, lời 2 Vũ Đức Nghiêm viết, mô tả cuộc sống ngục tù buồn chán, khốn nạn, ở các trại Tân Hiệp, Suối Máu, và Sơn La. Bài này đã được nhóm Hưng Ca phổ biến rộng rãi ở hải ngoại.

    Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây,
    áo rách xác xơ vai gầy, cùng chung kiếp sống lưu đầy
    Anh ở đây, ngày ngày cơm chia vài chén
    Chiều chiều ra trông đàn én kiếm mồi thâáp thoáng bay nhanh
    Toa liền toa, tầu đi trong bóng hoàng hôn, tiếp nối những dư âm buồn….
    thành thơ day dứt tâm hồn….
    Anh đẩy xe, bạn bè anh cũng đẩy xe
    dưới nắng gắt gay trưa hè, lòng đau viễn xứ ê chề
    Mưa chiều đông nhạt nhòa, mưa rơi lạnh giá
    ngậm ngùi trông nhau lặng lẽ, chân buồn đếm bước lê thê…

    ° ° °

    Tháng 4, 1972, tại trường Trung Học Tổng Hợp Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, Nguyễn Thiện Cơ và tôi tổ chức một buổi cho Duyên Anh nói chuyện với các độc giả trẻ tuổi của anh. Hội trường chật ních người tham dự. Hiệu Trưởng và các giáo sư Thoại Ngọc Hầu ngồi hàng ghế đầu; học sinh đứng cả lên dãy bàn cuối hội trường, một số em đến sau phải đứng ngoài cửa, hoặc trèo lên cửa sổ mắt cáo bên hành lang, nhìn vào.

    Hôm ấy, Duyên Anh khuyên những độc giả trẻ tuổi của anh, nếu yêu thích văn chương và muốn bước vào con đường viết lách, hãy có cam đảm đi ngược chiều: phải tạo cho mình một lối viết, một cách suy nghĩ riêng biệt, đừng rập khuôn theo một ai, ngay cả bắt chước cách hành văn của nhà văn mình ái mộ, cũng không nên.

    Duyên Anh nêu ra những cuốn Luận Đề về Nguyễn Công Trứ, Luận Đề về Trần Tế Xương, v.v., do các giáo sư Việt Văn viết, và học sinh phải học thuộc, để khi đi thi, gặp đề tài tương tự, sẽ dựa vào những gì đã học trong mấy cuốn luận đề ấy mà viết lại. Anh đọc thuộc lòng bài thơ tả cảnh mùa hè của Nguyễn Khuyến, “ cái nóng nung người, nóng nóng ghê”, trích dẫn phần bình luận trong cuốn Luận Đề về Nguyễn Khuyến, rằng Nguyễn Khuyến có tư tưởng cách mạng, mong có cuộc nổi dậy đuổi giặc Pháp, để toàn dân được sống trong cảnh thanh bình.

    Duyên Anh cho đây chỉ là một lời bàn nhảm, đem ý riêng của kẻ hậu sinh gán ghép vào tư tưởng bậc tiền bối. Duyên Anh cũng không đồng ý với những người ca tụng Trần Tế Xương. Theo anh, nhà thơ trào phúng đất Nam Định, với thành tích cao lâu thường ăn quịt, thổ đĩ lại chơi lường, chỉ là một “kẻ sĩ bệ rạc trong thời buổi đất nước bị đô hộ”, không có gì đáng ca ngợi cả.

    Buổi nói chuyện cũng là dịp ra mắt tác phẩm Phượng Vĩ của Duyên Anh. Mấy chồng sách anh mang theo, chỉ trong chốc lát, những độc giả trẻ tuổi ấy mua hết sạch.

    Những ngày cuối tháng tư, 1975, tôi hay đến thăm Duyên Anh ở tòa soạn đường Bùi Thị Xuân. Có lần, anh chở tôi trên chiếc xe Ford Pinto đời 74 gắn máy lạnh, màu xanh cánh chả, đi một vòng Saigon xem thiên hạ chộn rộn bán đồ, chuẩn bị cho việc ra đi. Anh cho tôi biết tình hình lúc ấy rất bi đát, nhưng vẫn trông chờ một cuộc chiến đấu bảo vệ Sài gòn, mà anh ước ao được tham dự, để có thể viết một tác phẩm lớn về cuộc chiến đấu đó. Anh bàn với tôi, nếu tình hình nguy ngập, không còn hy vọng gì nữa, và bất đắc dĩ phải ra đi, chúng tôi nên để lại gia đình, mới dễ tìm cách thoát thân được.

    Anh vẽ ra những cảnh sống rất nghệ sĩ ở Paris, nơi anh dự tính sống với tôi và vài người tuổi trẻ cùng chí hướng khác.

    Dự tính ấy bất thành. Chúng tôi đều bịn rịn vợ con, không dứt áo ra đi một mình được.

    30 tháng 4, 1975, miền Nam thua trận. Duyên Anh đến thăm tôi một sáng giữa tháng 5. Anh nói:

    - Có lẽ, anh sẽ vào chiến khu. Người ta vừa liên lạc với anh.

    Tôi ngạc nhiên:

    - Thế còn chị và các cháu ?

    - Anh có hỏi. Tổ chức sẽ đưa chị và mấy đứa nhỏ ra ngoại quốc. Đàn ông ở lại, dễ làm việc hơn.

    Tôi tò mò, hỏi thêm. Duyên Anh không giấu gì tôi, kể lại đầu đuôi việc chính phủ của thủ tướng Đinh Xuân Cầu mời anh tham gia với chức vụ bộ trưởng thông tin tuyên truyền. Ông Đinh Xuân Cầu là anh ruột giáo sư ĐXT dạy Anh văn ở Đại Học Văn Khoa Saigon, cuối thập niên 1960, đầu 1970. Duyên Anh cả tin, nghe họ nói mọi thứ đã chuẩn bị xong, chỉ chờ ngày đưa gia đình anh đi xong, là anh sẽ vào bưng với tổ chức ngay. Anh có vẻ phấn khởi, vì sẽ có dịp thi thố sở trường của mình.

    Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, Duyên Anh tâm sự với tôi: “Ông Đinh Xuân Cầu và tổ chức của ông chỉ là những người mắc chứng hoang tưởng, không có thực lực gì hết.”

    Hơn mười năm sau, khi viết Hồn Say Phấn Lạ, có lẽ Duyên Anh đã xây dựng nhân vật Phan Thức, một phần nào dựa trên kinh nghiệm cá nhân của anh đối với nhân vật Đinh Xuân Cầu có thực ở ngoài đời. Duyên Anh cho tôi biết, anh cũng liên lạc với nhóm chống cộng của bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Bs Quế, lúc ấy vẫn còn làm việc ở bệnh viện Chợ Rẫy. Dĩ nhiên, những điều anh thổ lộ với tôi, trong hơn hai mươi năm qua, tôi chưa hề kể lại với một người nào khác.

    Những ngày sau 30 tháng 4, 1975, Duyên Anh ở nhà thường xuyên. Thỉnh thoảng, tôi ghé 225B Công Lý thăm anh. Có bữa, tôi đến nhằm lúc anh đang ngồi rửa chén bát ở dưới mái hiên bên phải, cạnh chỗ trước đây, anh hay đậu chiếc xe Pinto. Bên cạnh anh, một người phụ nữ trẻ, rất trẻ, đang rửa phụ với anh. Duyên Anh giới thiệu:

    - Chú Hiền, em của cậu. Còn đây là T., cháu gái anh.

    Người phụ nữ chào tôi bằng “chú”, giọng nói miền Bắc rặt. Tôi hỏi:

    - Cháu từ Hà nội vào, phải không?

    - Vâng, cháu mới vào thăm cậu cháu đây.

    Tôi nhìn Duyên Anh vừa nói chuyện với tôi, vừa chậm rãi dùng búi xà phòng rửa thật kỹ từng chiếc bát ăn cơm. Anh nói:

    - Làm việc gì cũng thế, mình cứ thích làm cho kỹ, cho sạch và đẹp mới được.

    Cô cháu gái Duyên Anh có nước da trắng, nụ cười và hàm răng rất giống anh. Cô ta làm cán bộ ngân hàng nhà nước, vừa vào Nam công tác, tiện thể đến thăm cậu ruột mình.

    Mấy hôm sau, Duyên Anh đến nhà tôi chơi. Anh bảo:

    - Cái con cháu hôm nọ, thật ra, là con gái anh đấy. Anh dặn nó gọi anh bằng “cậu”. Chị ấy với mấy đứa nhỏ không biết đâu.

    Tôi nói:

    - Gọi bằng “cậu” thì cũng đâu có khác gì? Ở nhà em, mọi người đều gọi bố em bằng “cậu”. Hôm nọ, lúc anh giới thiệu, chính em cũng hơi ngờ ngợ. Bởi vì T. giống anh quá.

    Duyên Anh nói:

    - Tội nghiệp con bé! Hai mươi hai năm rồi mới gặp lại bố. Hồi anh rời miền Bắc, nó chưa được một tuổi. Anh đang cố gắng bù đắp lại cho nó, nhưng không dám làm gì lộ liễu, sợ chị ấy biết.

    Tôi hỏi:

    - Như vậy, mẹ của T. là thế nào?

    - Thì là vợ trước của anh. Em biết, anh là con cả trong nhà. Ông cụ anh muốn có cháu nội sớm, nên dàn xếp với gia đình bên kia để làm đám cưới. Hồi ấy, mình mới có mười mấy tuổi, có biết gì đâu.

    - Lúc anh bỏ đi rồi, chắc mẹ con vất vả lắm nhỉ?

    - Dĩ nhiên rồi. Mẹ con cháu phải về sống với ông bà ngoại một thời gian, rồi sau đó, bà ấy lấy chồng khác. Cháu kể lại với anh, nghe thương lắm! Có lần cháu sốt, lúc ấy nó chỉ chừng ba bốn tuổi, mẹ đang ôm dỗ cháu ngủ thì phải để nó nằm một mình, để quay sang “chiều” ông bố ghẻ đến cơn đòi hỏi.

    (Khi tôi viết những dòng này, con gái Duyên Anh, VTMT, đã là một thiếu phụ bốn mươi sáu tuổi. MT hiện đang sống với chồng con ở Hà nội.)

    Bất chợt, Duyên Anh quay sang chuyện khác:

    - Thôi, không nói chuyện cũ nữa. Đem guitar ra đây, anh hát cho nghe mấy bài này, vui lắm.

    Rồi vừa đệm đàn, anh vừa hát nho nhỏ cho tôi nghe bài Như Có Bác Hồ

    Trong Ngày Vui Đại Thắng, mà anh đã sửa lời thành

    Như có ông già trong nhà thương Chợ Quán
    Vừa bước ra bị con nít đánh lên đầu…

    Bài Thành Phố Mang Tên Người, Duyên Anh hát

    Từ thành phố này Người đã ăn khoai, ăn xong hết khoai ăn đến củ mì, ăn hết mì rồi, đến tối Người về húp cháo trừ cơm...;

    và ...

    Bác đã đến từng nhà , bắt các cụ già, cầm tay chúng con, Bác dắt vào nhà lao Chí Hòa..

    Hai bản nhạc này, tôi đem xuống Trường Phổ Thông Cấp 3 Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, hát cho mấy đồng nghiệp trẻ tuổi nghe trong những đêm mưa chúng tôi tạm trú tại cư xá giáo viên của trường, một lớp học trống, với hai mặt bàn kê sát làm giường ngủ; chiếc bếp dầu hôi kê gần cửa sổ là chỗ nấu ăn của bốn năm nhà giáo thiếu nhiệt tình với chế độ mới.

    Dĩ nhiên, với tâm trạng và suy nghĩ bơi ngược chiều như thế, tôi không thể tồn tại lâu dài trong môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa được. Chưa xong một niên khóa, tôi nhận giấy của Tỉnh Ủy Đồng Nai tuyên dương “toàn thể gia đình làm tay sai cho Ngụy, bản thân không tán thành chế độ mới, sa thải vĩnh viễn khỏi ngành giáo dục, đề nghị địa phương quản lý đương sự”.

    ° ° °

    Duyên Anh và tôi, kẻ trước người sau, đều đi tù. Ngẫu nhiên, chúng tôi cùng được thả đầu tháng 9, 1981. Lại gặp nhau, thân thiết như xưa. Hôm đầu tiên đến thăm Duyên Anh sau ngày ra tù, tôi thấyanh đang tiếp Tạ Tỵ, Doãn Quốc Sỹ, và ông Nguyễn Hùng Trương, giám đốc nhà sách Khai Trí. Sau khi giới thiệu tôi với các vị này, Duyên Anh đọc cho tất cả nghe mấy bài thơ anh vừa làm. Tạ Tỵ cao giọng ngâm bài thơ Tiếng Hát Trong Tù của anh. Sau đó, tôi hát cho tất cả nghe Mưa Long Giao và Mai Em, Anh Về, thơ Hà Thượng Nhân, Vũ Đức Nghiêm phổ nhạc, vừa lén gửi về cho tôi.

    Những tuần lễ kế tiếp, chúng tôi gặp nhau thường xuyên. Có hôm, tôi chở Duyên Anh bằng xe đạp đi Xóm Mới, Gò Vấp thăm gia đình một vài người bạn tù Xuyên Mộc của anh, những người đã giúp đỡ anh trong thời gian ở đó. Duyên Anh biếu tiền vợ con bạn tù của anh, và mời họ đến nhà anh ở 225B Công Lý, đểù nhận những vật dụng có thể dùng được, vì chị Duyên Anh với mấy cháu sắp sửa đi Pháp. Có bữa, Duyên Anh nhờ tôi đưa anh đến một biệt thự trên đường Phan Thanh Giản. Anh dặn tôi đúng hai tiếng sau, trở lại đón anh .

    Trên đường về, chúng tôi ghé lại một quán cà phê vỉa hè gần góc Công Lý-Yên Đổ. Quán vắng, chỉ có hai chúng tôi ngồi riêng biệt sát bờ tường. Duyên Anh mở lời, như đoán biết thắc mắc của tôi:

    - Mỗi tuần, anh phải đến đó hai lần để “làm việc”.

    Tôi ngạc nhiên:

    - Làm việc? Anh làm việc với cơ quan nào?

    Duyên Anh bật cười:

    - Làm việc chó gì đâu. Anh dùng chữ của chúng nó. Đây là một cách để chúng kiểm soát anh thôi.

    Tôi hỏi:

    - Vậy thì mỗi lần vào đó, anh làm những gì?

    - Cũng nhẹ nhàng thôi. Kiểu mạn đàm thân mật, có cà phê, thuốc lá, hoặc trà nóng. Những thằng công an văn hoá này, đa số từ miền Bắc vào, đều thuộc loại có trình độ đại học, tương đối lịch sự. Chúng nó đọc các tác phẩm trước 75 của anh kỹ lắm, nhất là cuốn Mây Mùa Thu. Đại khái, chúng muốn biết anh làm những gì, đi lại những đâu, giao du với ai…Nhưng cái điều chính chúng nhắm là muốn thuyết phục anh hợp tác với chúng nó.

    - Hợp tác như thế nào?

    - Chúng nó muốn anh viết lại. Viết toàn truyện cho tuổi thơ thôi. Chúng nó bảo ở ngoài Bắc lẫn trong Nam không có thằng nào viết về tuổi thơ cự phách như anh đâu. Chúng nó bảo, việc bắt giam những nhà văn miền Nam hồi 1976 là một sai lầm lớn.

    Tôi nói:

    - Họ bốc anh như vậy, chắc là có dụng ý gì rồi. Đời nào có chuyện anh hợp tác với họ, phải không?

    Duyên Anh gật gù:

    - Hợp tác thế nào được với chúng nó? Ở cái đất này thêm ngày nào, mình chết dần chết mòn ngày ấy thôi. Anh chỉ đang chờ cơ hội để dzọt đây.

    Tôi hỏi:

    - Nhưng anh sẽ không nói gì để cho họ nghi ngờ anh có ý định ấy chứ?

    Duyên Anh cười trấn an tôi:

    - Dĩ nhiên rồi. Anh nói chuyện đó riêng với em thôi. Trước mặt chúng nó, anh bảo, chỉ ước ao được về lại quê nhà Thái Bình, sống với ông bố anh, chứ chẳng còn tham vọng gì nữa cả.

    Những tuần lễ kế tiếp, Duyên Anh chạy xe đạp mini, rủ tôi đi uống cà phê ở mấy biệt thự biến thành quán giải khát dọc đường Trương Minh Giảng. Chúng tôi nhậu thịt chó với nhau mấy lần, khu Ngã Ba Ông Tạ, Ngã Tư Bảy Hiền. Có sáng, Duyên Anh đến nhà lúc tôi đang kèm trẻ, rủ tôi đi ăn điểm tâm. Tôi cho học trò về sớm, sang bên kia đường, ăn phở gà Nam Xuyên với anh. Thời gian ở tù về, Duyên Anh nằm nhà nhiều hơn ra đường. Trong lúc rỗi rảnh, anh làm nhiều thơ bảy chữ và tám chữ, mỗi lần tôi ghé chơi, anh đều lấy ra khoe, và đọc cho tôi nghe.

    Có dạo, tôi vui bạn bè, đi buôn than củi chơi. Một tối mưa, tôi theo chuyến xe than từ Long Khánh về, ghé nhà Duyên Anh, nhờ anh cho để nhờ khoảng bảy tám bao than ở dưới mái hiên bên phải, hôm sau tôi sẽ đến lấy, đem giao cho người mua. Duyên Anh kéo tôi vào phòng khách, đọc cho tôi bài thơ Saigon Ra Đường anh mới làm, và đưa luôn tờ giấy cho tôi:

    - Em giữ đi. Anh tặng em đấy.

    Bài thơ khiến tôi xúc động, và trong một sáng ảm đạm của Saigon xơ xác, tháng 10, 1981, trong lúc đứng núp mưa trên đường Trương Minh Giảng, chờ chuyến xe than đi Long Khánh, những nốt nhạc đầu tiên của Saigon

    Ra Đường cũng thánh thót rơi, vang vọng trong lòng tôi

    Saigon ra đường không áo dài
    Em sợ đang mùa gió chướng bay
    Gió bay cuốn hút mùi hương cũ
    Chỉ để riêng mình ta ngất ngây

    Saigon ra đường không phấn son
    Em sợ rừng sâu gỗ giận hờn
    Chinh phu gió cát nghìn phương lạnh
    Chinh phụ nào ham chuyện lược gương

    Saigon ra đường không thích cười
    Em sợ đèo cao lệ đá rơi
    Nên mãi mùa Đông về tạm trú
    Đã về sương tuyết phủ niềm vui

    Saigon ra đường không giống ai
    Tóc mây lớp lớp khói u hoài
    Mắt chim khuyên đã diều hâu hết
    Cúi xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi

    Suốt trên đường đi, tôi cứ lẩm nhẩm mãi những câu nhạc của bài hát này, cho đến lúc thuộc lòng. Mất cả buổi với cây guitar, tôi mày mò ghi lại bản nhạc trên khung nốt, đem tới nhà Duyên Anh, hát cho anh nghe. Trí nhớ Duyên Anh quả thật phi thường! Anh nghe tôi hát có vài lần thôi. Vậy mà hai năm sau, sang Paris, anh ghi lại thật chính xác bài Saigon Ra Đường, nhờ Bạch Yến hát, thu vào băng Ru Đời Phù Ảo.

    Tháng 6, 1982, sau nhiều lần thất bại trong toan tính đi bằng đường thủy, tôi vượt biên đường bộ đến biên giới Thái Miên, và một năm sau, có mặt ở Hoa Kỳ. Thời gian đầu, bận rộn học hành, làm việc, và cố gắng thích nghi với cuộc sống mới, tôi không còn thì giờ tìm hiểu, nên chẳng biết chuyện gì đã xảy đến cho Duyên Anh. Những gì tôi thỉnh thoảng nghe nói về anh, thì cũng chỉ là tin đồn. Có người bảo Duyên Anh vẫn còn ở Việt Nam, kẻ thì nói có gặp anh ở trại tị nạn. Có người còn nói Duyên Anh vượt biên, và đã mất tích rồi.

    Mãi hai năm sau, một người quen từ Pháp qua cho tôi biết Duyên Anh trở thành thuyền nhân tị nạn ở Mã Lai, và đang sống tại Paris. Tôi viết thư nhờ anh tôi, Vũ Đức Anh, hỏi thăm địa chỉ Duyên Anh để tôi liên lạc, nhưng anh tôi không thuộc giới văn nghệ, nên không biết ai mà hỏi cho được.

    Mấy tháng sau, một hôm ghé thăm phố Bolsa, tình cờ đọc tạp chí Đời do Nguyên Sa chủ trương, tôi mừng vô kể khi thấy chương mở đầu hồi ký Cõi Không Tưởng của Duyên Anh. Tôi viết thư ngay về tòa soạn, nhờ chuyển cho tác giả. Ba tuần sau, tôi nhận thư Duyên Anh.

    Paris ngày 25 tháng 8 năm 1986

    Em Hiền ,

    Vừa nhận thư em, anh vui mừng quá, viết ngay cho em khỏi mong. Tháng 6, 1982, ghé thăm em, gặp cô Cúc bảo em đi sang Miên rồi, chưa có tin, anh lo và nhớ thương em thật nhiều. Tuần sau trở lại hỏi thăm, biết em đã tới biên giới, anh mừng chảy nước mắt, nhưng vẫn lo chẳng biết chỗ em tạm trú có yên ổn không. Về phần anh, sau một thời gian trốn tránh, sống lây lất, anh vượt biển qua Mã Lai, ở đó bảy tháng, và trở thành dân tị nạn tại Pháp từ tháng 10, 83.

    Cuộc sống anh tương đối tạm yên, hơi chật vật một chút, nhưng cũng chẳng sao. Mình vẫn còn sướng hơn hàng vạn đồng bào và bè bạn đang nằm trong tù ngục bên nhà.

    Gia đình anh vẫn thường. Các cháu cuả chú lớn hết rồi. Sơn Đốm đã 21. Cháu Ki sắp lập gia đình. Hôn phu của cháu dân xứ Tô Cách Lan, biết nói tiếng Việt, và rất yêu mến quê hương Việt Nam.

    Rất mong nhận thư em. Khi nào rảnh, nhớ viết cho anh.

    Thương yêu,

    Anh

    Duyên Anh

    Dĩ nhiên, tôi viết thư sang cho anh ngay. Vài tuần sau, tôi nhận thư thứ nhì của Duyên Anh.

    Paris 11 tháng 9, 1986

    Em Hiền ,

    Anh vừa về đến nhà, khoái quá, không thể không viết ngay để báo cho em biết tin vui: Un Russe à Saigon đã ra đời, sau chín tháng chờ đợi. Tuần trước, Ghislain Ripault, thằng agent littéraire của anh, đưa anh dến thăm nhà xuất bản Belfond, một trong ba nhà xuất bản lớn nhất Âu Châu, để xem mặt thằng con mới sinh. Trước khi ra về, họ trao cho anh tấm jaquette bọc Un Russe à Saigon và bảo anh trong suốt năm 86 này, chỉ cuốn sách của anh là có jaquette thôi. Như vậy, anh của em cũng hách đấy chứ! Hôm nay, trong căn phòng trải thảm đỏ, anh ngồi ký tặng sách cho khoảng ba trăm người trong giới văn học Pháp và Âu Châu. Ký mỏi tay luôn.

    Nhưng mà khoái lắm, em ạ! Không ngờ thằng bé thất học thuở nào của làng Tường An lại có ngày ngồi ở chỗ ngồi của các nhà văn tài danh hiện đại, ký sách tặng thiên hạ. Như vậy, anh đã là quốc tế rồi đấy. Em có mừng không?

    Hẹn gặp em, sẽ nói chuyện nhiều.

    Anh của em,

    Duyên Anh

    ° ° °

    Từ đó, cứ tháng tháng, tôi lại nhận thư Duyên Anh. Có tháng nhận được hai lá. Duyên Anh cho biết anh cư ngụ ở ngoại ô Paris, trong một chung cư dành cho giới thợ thuyền và những người có lợi tức thấp. Khu vực Ivry sur Seine, nơi anh ở, là vùng đất của Georges Marchais, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Pháp.

    Đầu năm 1987, Duyên Anh gửi sang tôi mấy chục tình khúc anh vừa viết, nhờ tôi liên lạc với nữ danh ca Mai Hương để xin chị hát cho mười bài trong số đó. Phải công nhận, nhạc Duyên Anh làm, thật không giống ai cả. Và nhất là, nhiều bản không dễ hát chút nào. Muốn trình bày thành công ca khúc Duyên Anh, người hát phải có giọng khoẻ, giỏi xướng âm, và thật vững nhịp mới được. Theo tôi, về các giọng nữ, ngoài Mai Hương, chỉ những tiếng hát Bạch Yến, Châu Hà, Quỳnh Giao, Kim Tước, và Julie, mới thích hợp và đủ khả năng phô diễn nét tài hoa trong nhạc Duyên Anh. Nhạc Duyên Anh là thứ nhạc kỳ lạ, nghe một vài lần chưa thể cảm thấy hết cái hay của nó. Phải nghe đi nghe lại, nghe cho tới khi thuộc lòng, những lời nhạc trau chuốt, đẫm ướt chất thơ ấy mới thấm đượm hồn ta, như một thứ men nhẹ làm ta ngây ngất. Nhạc Duyên Anh không phải là loại nhạc để cho ca sĩ trình diễn trên sân khấu đại nhạc hội ồn ào. Càng không phải là thứ nhạc, ca sĩ vừa hát vừa uốn éo, vừa cười tình, nhìn ngang liếc dọc để câu khán giả.

    Muốn nghe nhạc Duyên Anh cho tới, lý tưởng nhất là nghe một mình, hoặc cùng lắm là với một hai người bạn tâm đầu ý hợp, để hồn chùng xuống, yên lặng mà nghe. Không bàn tán, không cả nhận xét nữa. Chỗ nào tuyệt vời nhất, chỉ một cái gật đầu, một cái chớp mắt, là bạn mình đủ hiểu. Bạn ơi, nếu có một phút nào đó nhớ đến Duyên Anh, bạn hãy rót một ly rượu vang đỏ, mở băng nhạc, vừa nhấp từng ngụm nhỏ, vừa nghe anh tâm sự :

    Ta xin gần đời, đời chẳng dung ta
    Ta xin gần người, người đuổi xua ta
    Ta đi tìm em, hoàng hôn bóng gẫy, mịt mù chân mây, hiu hắt đường gầy...
    Ta xin vì đời, chìm nổi phong ba
    Ta xin vì người, mòn mỏi phôi pha
    Ta xin vì em, quạnh hiu thánh giá, mời gọi thương yêu khắp cõi người ta.

    Tâm sự ấy càng não nùng hơn, khi Duyên Anh giàn trải nỗi cô đơn khôn cùng của mình:

    Rồi tôi đi đâu, đầm đời đầy cá sấu?
    Rồi tôi về đâu, ác thú vẫn theo sau?
    Nọc rắn xâm lăng từng mạch máu, quỉ sứ đâm thêm nhầu đường dao,
    tôi nghe mình đã hư hao...

    Trở lại việc Duyên Anh nhờ tôi mời Mai Hương hát, anh nói trước là không được dư giả, nên chỉ có thể trả thù lao tượng trưng, theo tôi, rất tượng trưng, cho Mai Hương thôi.

    Mai Hương quả là một người đầy ắp tâm hồn nghệ sĩ. Không coi thù lao là chuyện quan trọng, chị bằng lòng hát mười bản chọn lọc của Duyên Anh. Theo dự tính, Mai Hương sẽ thu giọng hát của mình, với phần nhạc đệm keyboard riêng rẽ. Gửi sang Paris, Duyên Anh sẽ nhờ Bernard Gerard tách phần keyboard ra, cho piano, violon và cello vào.

    Tôi có dịp tham dự mấy buổi tập dượt với Mai Hương và Đặng Ngọc Quốc. Mười bài hát của Duyên Anh, tôi đã đệm guitar và hát trước ở nhà, nên trong lúc nghe Mai Hương hát thử, đôi khi, tôi có góp ý vớùi chị về cao độ của vài nốt nhạc. Một danh ca như Mai Hương, nghe một thứ tay mơ về âm nhạc nhận xét, góp ý, có khó chịu không? Làm việc với Mai Hương, tôi khâm phục đức khiêm tốn của chị. Nghe tôi trình bày, chị vui vẻ xem lại bản nhạc và hát cho đúng với cao độ của mấy nốt nhạc đó.

    Sau một vài buổi hát thử, chúng tôi đến thu băng tại studio Lê Đức Cường. Thời gian này, Lê Đức Cường còn làm việc ở nhà; trung tâm Người Đẹp Bình Dương của anh chưa ra đời. Theo tôi nhớ, phải thu liên tiếp hai buổi tối, mới xong mười tình khúc Duyên Anh. Tôi nhờ Cường in từ Master ra ba copy, một cho Mai Hương, một cho tôi. Copy thứ ba gửi chung với Master Mai Hương đem sang Pháp cho Duyên Anh. Nhận Master, Duyên Anh giữ mãi cho đến ngày sang Mỹ lần cuối, vì không đủ tiền thuê hòa âm và ban nhạc chơi phụ hoạ theo tiếng hát Mai Hương.

    Suốt mấy tuần lễ tháng 3, 1987, Duyên Anh chuẩn bị tổ chức một đêm nhạc để Mai Hương trình bày những sáng tác của anh. Vào tuần lễ chót, việc chuẩn bị gặp trở ngại, vì cũng trong dịp này, Hội Y Sĩ VN tại Pháp phối hợp với Hội Y Sĩ Thế Giới tổ chức đêm hát tại rạp Maubert lấy tiền giúp con tàu Rose Schiaffino cứu người vượt biển. Ngoài ra, cả hai trung tâm băng nhạc Thúy Nga và Phượng Hoàng, trong mấy tuần lễ đó, liên tiếp mời Khánh Ly, Thanh Tuyền, Giao Linh, Duy Quang, Linda Trang Đài… sang hát đại nhạc hội.

    Một số thân hữu ở Paris khuyên Duyên Anh nên dời ngày tổ chức đêm nhạc lại một vài tuần, vì sợ làm cùng ngày với các đại nhạc hội kể trên, khán giả sẽ phân tán. Riêng Duyên Anh, anh rất sợ Mai Hương sẽ buồn nếu thấy khán giả thưa thớt. Anh viết cho tôi: “Mình không thể để một danh ca buồn được”. Duyên Anh nhờ tôi hỏi Mai Hương có thể sang Paris hát ngày 9 tháng 5, 1987 được không. Trong trường hợp không được, anh dự tính mời Mai Hương hát nhạc của anh ở San Francisco, nhân dịp anh qua Mỹ. Duyên Anh đã rất ngây thơ và chủ quan khi tin tưởng vài người “bạn” anh ở vùng San José, San Francisco thực lòng giúp đỡ trong việc đưa nhạc Duyên Anh ra mắt thính giả Bắc Cali. Rốt cuộc, đã không có một buổi nào để Mai Hương hát nhạc Duyên Anh ở Paris. Tháng 5 năm ấy, Mai Hương có đi lưu diễn Âu Châu, cùng với một phái đoàn nghệ sĩ do Lê Văn của VOA làm trưởng đoàn. Nhưng chị không lưu lại thủ đô Pháp quốc lâu, kịp cho Duyên Anh kịp tổ chức đêm hát nhạc của anh. Mai Hương chỉ có đủ thì giờ trao lại cho Duyên Anh cuốn master ghi mười bản nhạc chị đã thu vài tháng trước. Cuốn master ấy, Duyên Anh giữ mãi, cho đến ngày sang Los Angeles lần cuối cùng, đưa cho tôi cất. Ước mơ của Duyên Anh, là thực hiện được một băng nhạc Mai Hương hát mười tình khúc của anh. Kèm theo cuốn băng, là tập nhạc in mười bản ấy thật đẹp, với bài viết trang trọng của Duyên Anh về Mai Hương. Đã hơn một lần, Duyên Anh tâm sự với tôi:“Nghe Mai Hương phải đi hát phòng trà, anh thương Mai Hương quá! Giọng ca ấy không thể đứng trên bục hát, trong lúc thực khách ăn uống ồn ào bên dưới được.” Tháng 2, 1987, Duyên Anh đã viết Mai Hương, Thiên Đường Tìm Lại, đăng trên tạp chí Ngày Nay của Lê Hồng Long, để ca tụng giọng hát Mai Hương:

    “…Giọng hát của Mai Hương đôn hậu, thuần khiết. Không hề có làm dáng trong cách truyền đạt ca khúc của nàng. Chất lãng mạn ở giọng hát Mai Hương bảng lảng lãng mạn dân tộc. Ngay cả lối tỏ tình qua lời ca cũng là tình tự dân tộc. Đừng mất công tìm kiếm sự rã rượi ở Mai Hương. Quê hương Việt nam đau khổ thì có, nhưng rã rượi thì không…Giọng hát Mai Hương là giọng hát nguyên chất dân tộc. Bởi vì, nghe nàng hát là thấy vùng đời cũ hiện ra. Nghe nàng hát là nhớ từng miếng nắng, từng hàng cây, từng viên gạch, từng khúc sông, từng ngọn suối… Như thế, Mai Hương, con chim họa mi ngậm hồi tưởng, đậu trên ngọn cao lưu vong, mỗi ngày mỗi hót “Giấc Mơ Hồi Hương”. Có lần, giọng hát truyền cảm tột độ của nàng đã làm tôi xao xuyến khôn cùng. Cơ hồ tôi trở về quê hương tuổi nhỏ và cổ tích của tôi vào một đêm xuân. Tôi đứng ngoài vườn giữa đêm trăng. Ngẩn ngơ…”

    Nữ danh ca Châu Hà cũng là người diễn tả ca khúc Duyên Anh thật tuyệt vời! Duyên Anh cho tôi nghe cassette thu mấy bản nhạc của anh, Châu Hà hát. Tôi hỏi anh đã từng gặp Châu Hà bao giờ chưa. Duyên Anh nói: “Sự đồng cảm của nghệ sĩ, nó lạ lắm, em ạ. Anh chưa gặp Châu Hà lần nào cả.”

    Những bản nhạc Châu Hà hát trong băng, Yêu Em, Hôn Em Kỷ Niệm, Tình Sử, có lẽ, chưa từng ai hát. Và theo tôi, cho dù sau này, ca sĩ nào hát, khó có giọng ca nào diễn tả mấy ca khúc đó tha thiết, và đẫm ướt cảm xúc, như tiếng hát Châu Hà. Duyên Anh đã cho tôi nghe tiếng hát tuyệt vời của Châu Hà trình bày bản nhạc Yêu Em, một ca khúc mà lời hát từng câu, từng chữ bàng bạc chất thơ; ý nhạc lạ lùng, độc đáo, không giống bất cứ bản nhạc nào

    Yêu em thuở còn hư vô
    Yêu em thuở còn thô sơ
    Yêu em thuở trăng mới ló, thuở sao mới rõ, thuở chưa đất vỡ, thuở trời thiếu nhớ, thuở người bỡ ngỡ, tháng ngày vu vơ

    Yêu em địa đàng xôn xang
    Yêu em rộn ràng nhân gian
    Yêu em vàng ngon trái cấm, bùi tai lưỡi rắn, ngọt thơm chất đắng, lòng bừng nắng ấm, hồn ngời ánh sáng, thắp đẹp ái ân

    Yêu em nồng nàn núi sông
    Yêu em đường vui khôn cùng
    Yêu em mây dệt thương mong, biển đợi gió trăng, xao xuyến thời gian, cỏ lá hân hoan, bờ hoang bãi vắng, náo nức mùa sang

    Yêu em gọi về chiêm bao
    Yêu em gọi về trăng sao
    Yêu em gọi về quá khứ, thời xưa đất vỡ, trời xưa bão nhớ, người buồn héo úa, tình buồn trót lỡ, tháng ngày hư hao

    Yêu em dù hồn lao đao
    Yêu em dù hồn xanh xao
    Yêu em dù tim móng cấu, dù môi ứa máu, dù đêm bão tố, dù ngày sóng gió, dù đầy khốn khó, nỗi người bơ vơ

    Yêu em chập chùng thiên tai
    Yêu em sầu dài chân mây
    Yêu em quạnh hiu cuốn xoáy, dạt trôi cuối bãi, mộng phơi nắng cháy, ngậm ngùi đếm mãi từng cành tóc gẫy, xuống tình đắng cay

    Yêu em lạnh ngời nghĩa trang
    Yêu em mộ bia điêu tàn
    Yêu em trên vòng hoa tang, lời nào dối gian, tê buốt niềm oan, buồn nối nhau đan, buồn hơn dĩ vãng, tiếng nấc lìa tan

    Yêu em nhạc đầu non reo
    Yêu em ngọn dòng cô liêu
    Yêu em lạc theo lối khói, bình minh khuất lối, hoàng hôn chói vói, cuộc trần mắc lưới, cuộc tình bối rối, xế đời em ơi.

    Trong thời gian sống ở Paris, Duyên Anh gặp nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, và đã cùng Lương Ngọc Châu sáng tác Hồn Muôn Năm Cũ, nhạc Lương Ngọc Châu, lời Duyên Anh. Nhạc sĩ Lương Ngọc Châu sáng tác cùng thời với Văn Cao và Phạm Duy. Ông viết rất nhiều ca khúc, cuối thập niên 40, trong đó có bài Lô Giang rất hùng tráng, mô tả chiến thắng của quân đội Việt Minh trong trận đánh với quân Pháp trên giòng sông này.

    Tôi hỏi Duyên Anh về ngôn ngữ lạ lùng của Hồn Muôn Năm Cũ. Duyên Anh bảo, anh hy vọng ca khúc này sẽ trở thành một bài hát chiêu hồn, ở các buổi lễ tưởng niệm, trong một nước Việt Nam mới, thời hậu Cộng Sản. Cho đến nay, Châu Hà vẫn là giọng hát duy nhất trình bày tuyệt diệu Hồn Muôn Năm Cũ.

    Hồn muôn năm cũ, tâm hồn biển dâu
    Người muôn năm cũ, vẫn thương đời sau
    Đi về một lối có nhau, cùng chia sầu đau
    Hồn muôn năm cũ, đã buồn chiều nay
    Người muôn năm cũ, ngất ngư cuộc say
    Thôi rồi trần thế ngất ngây, ngày tháng hao gầy
    Ôi, non nước xưa đó, nghe xót xa tim già
    Ôi, non nước xưa đó, bao hồi kinh qua
    Ôi, non nước xưa đó, ai đã thêu gấm hoa
    Ai phơi xác cho khải hoàn ca
    Nghe gương tốt đã vỡ, nghe máu xương mênh mông
    Nghe vang tiếng ca huy hoàng, trời Đông bùng gió
    Bằng nước mắt sông dài, bằng cay đắng muôn đời
    Và sông núi còn lại đây
    Người xưa vẫn sống trong lòng người nay
    Hồn xưa lay bóng phất phơ cờ bay
    Hương trầm tỏa khói ngất ngây, nhạc ấp u hoài

    Trong Ngược Giòng Chữ Nghĩa, Duyên Anh đã viết những lời như sau, ca tụng tiếng hát Châu Hà:

    “….Nàng là nghệ sĩ đúng nghĩa, sống như hát, ta pi hồn mình lên mặt cuộc đời, chung thủy và đôn hậu. Điều làm người ta yêu quý Châu Hà là nàng biết giữ giá trị tài năng của mình….Chưa hề nghe Châu Hà hát một ca khúc thấp kém cả âm điệu lẫn lời ca….Ở một hoàng hôn luân lạc, sỏi đá học đòi khen chê ngọc ngà, cỏ rác nhởn nhơ lênh đênh trên dòng thơ, Châu Hà cứ nhún vai, cứ mỉm cười, cứ làm thinh…Khi Châu Hà hát nhạc tình, suối đắng bỗng ngọt ngào, rừng khô mọc đầy chồi ao ước, sông núi đổi mầu sắc, hoa bướm dạt dào, cỏ cây thầm thĩ, trời đất gần nhau…”

    Ngoài ra, Duyên Anh còn soạn riêng mười ca khúc, ghi rõ ràng “Những bài dành cho danh ca Kim Tước”. Chẳng biết có lần nào, Duyên Anh gặp Kim Tước, để nhờ giọng ca vàng này hát mấy bản đó chưa?

    Cũng trong thư viết cho tôi, tháng 3, 1987, Duyên Anh dự tính làm chuyến Mỹ du trong mấy tháng tới. Anh viết:

    “ Anh đi Mỹ chỉ với mục đích đẩy cuốn An American Prisoner in Vietnam vào một nhà xuất bản lớn ở New York. Khi em gặp đại diện cựu chiến binh Mỹ, đừng quên giới thiệu anh là tác giả A Russian in Saigon (đã và đang bị Cộng Sản Việt Nam đưa lên télé, radio, báo chí…mổ xẻ, tơi bời, khiến dân chúng hả hê lắm), và cho họ biết An American Prisoner in Vietnam là cuốn sách phục hồi danh dự cho lính Mỹ. Thực ra, anh chỉ viết về một người Mỹ đích thực, dũng cảm và biết chịu đựng, a real American”.

    Trong thư kế tiếp, Duyên Anh nhờ tôi liên lạc với Hồ Văn Xuân Nhi để việc giấy tờ đi Mỹ của anh được dễ dàng hơn . Việc xin nhập cảnh từ Pháp đến Hoa Kỳ gặp khó khăn. Tòa Đại Sứ Mỹ ở Paris đòi hỏi người muốn vào Mỹ phải có thân nhân bảo lãnh chuyện đi lại, ăn ở…v.v, vì sợ dân tị nạn Việt Nam ở Pháp đến Mỹ, sẽ ở lại luôn.

    Theo tôi hiểu, Hồ Văn Xuân Nhi sẽ nói với dân biểu Robert Dornan gửi một thư mời Duyên Anh, với tư cách một nhà văn Việt Nam tị nạn tại Pháp, sang thăm Hoa Kỳ. Trong thư này, dân biểu Dornan hứa sẽ đài thọ vé máy bay khứ hồi, ăn ở, và di chuyển trong suốt thời gian Duyên Anh ở Mỹ. Một bản sao của thư này sẽ được gửi cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Paris. Dĩ nhiên, đây chỉ là hình thức thôi. Duyên Anh và bạn bè anh sẽ lo liệu những chi phí kể trên.

    Tháng 6, 1987, Duyên Anh gửi bản thảo Một Tù Binh Mỹ Ở Việt Nam sang cho Phạm Kim Vinh xem, và nhờ anh Vinh góp ý về một số chi tiết viết về quân đội Mỹ, chẳng hạn chế độ quân dịch, tình nguyện như thế nào, nên cho nhân vật chính mang cấp bậc gì…

    Duyên Anh nhờ tôi, sau khi xem bản thảo tiểu thuyết này, xúc tiến việc tìm người dịch sang Anh Ngữ. Anh nói, cần dịch xong trước tháng 9, để khi anh sang đến nơi, có sẵn để thương lượng với nhà xuất bản Mỹ.

    Tôi viết cho Duyên Anh, nói qua tình hình xuất bản ở Mỹ, rằng hàng năm, có tới cả chục ngàn bản thảo gửi đến cho các nhà xuất bản Mỹ, và tác giả các bản thảo này không hề nhận được một dòng chữ cám ơn chiếu lệ của mấy ông chủ nhà xuất bản nào hết. Hầu hết, bị quăng vào sọt rác. Tôi cho anh biết, muốn cho sách mình được lọt vào một nhà xuất bản Mỹ, cần phải tìm được một người đại diện văn chương thích tác phẩm của mình đã. Người đại diện này phải có uy tín đối với nhà xuất bản, mới giới thiệu thành công tác phẩm của mình được. Tôi muốn Duyên Anh hiểu, nhờ người dịch qua tiếng Anh mà không đưa tiền trước cho họ, chẳng ai chịu làm hộ mình đâu, dù cho mình có hứa khi nào nhà xuất bản nhận in tác phẩm của mình, mình sẽ trả 50 phần trăm cho họ, họ cũng không dám phiêu lưu với mình.

    Duyên Anh bảo tôi, như vậy, anh sẽ nhờ một người bạn ở miền Đông Hoa Kỳ dịch Một Tù Binh Mỹ Ở Việt Nam sang Anh Ngữ. Ông bạn này, theo anh, rất giỏi tiếng Anh, đã hứa sẽ dịch cho anh. Cho tới ngày Duyên Anh sang Mỹ, nửa năm sau đó, vẫn chẳng thấy ông bạn quý của anh nhúc nhích gì hết. Tôi hỏi Duyên Anh chuyện này, anh bảo “có lẽ nó bận”. Mấy tháng sau, tôi hỏi, lần thứ nhì, chừng nào ông bạn anh dịch xong, Duyên Anh có vẻ bực bội, bảo tôi: “Quên nó đi. Em đừng nhắc tới thằng ấy nữa!”

    ° ° °

    Lúc Duyên Anh ở nhà tôi, một hôm có ông khách đến chơi. Ông này vốn là sĩ quan bên nhà, theo Nguyễn Khánh rời VN từ 1965. Qua Mỹ, ông ta đậu Ph.D, và đang là giáo sư môn khoa học chính trị ở một đại học taị tiểu bang Colorado. Chuyện trò một hồi, ông khách phấn khởi lắm. Ông bảo Duyên Anh, ông sẽ dịch Môt Tù Binh Mỹ Ở Việt Nam, “có lẽ chừng ba bốn tháng là xong ngay.”

    Ba tháng sau, ông giáo sư tiến sĩ chính trị đại học Mỹ gửi trả lại bản thảo, cho biết không ông đủ khả năng phô diễn văn chương Duyên Anh trong tác phẩm này bằng Anh Ngữ. Ít nhất, theo tôi, ông giáo sư cũng đáng khen ở chỗ ông dám thành thật xác nhận khả năng giới hạn của mình.

    Cũng trong thư tháng 6, Duyên Anh viết:

    “….Trong khi viết cho em, anh vừa nhận từ Belfond cái contrat mới cho The Fanta Hill. Có lẽ, tháng giêng 1988 sẽ xuất bản. Năm nay hơi bận, vì thằng Ghislain Ripault sửa bản dịch chậm quá. The Fanta Hill hay lắm, nên Belfond ký luôn giao kèo gọi là Contrat de cession des droits d’adaptation audiovisuelle. Anh đầy đủ tư cách nhà văn quốc tế rồi hả ?…”

    Quả nhiên, mấy năm sau, tiểu thuyết Đồi Fanta, viết về một trại tập trung các trẻ em bụi đời ở Phước Long, được một hãng phim Pháp , phối hợp với hãng phim Algérie, đạo diễn Youcef Sahraoui, thực hiện dưới tên Poussières de Vie . Phim dài 87 phút, nói tiếng Pháp và Việt, phụ đề Anh ngữ, quay tại Mã Lai, hầu hết tài tử là người Pháp, Mã Lai và Algérie.

    Phim đã được chiếu ở Paris và nhiều thành phố bên Pháp. Ở Hoa Kỳ, Poussières de Vie ra mắt khán giả trong một đại hội phim ảnh tại thành phố New York, khoảng tháng 6, 1997. Duyên Anh, trước khi trở về Paris lần cuối, có cho tôi xem video cuốn phim này. Thật sự, Duyên Anh không được hài lòng cho lắm về việc các nhà làm phim phóng tác tiểu thuyết Đồi Fanta của anh. Duyên Anh nói với tôi:

    - Đ.m, mấy anh đạo diễn này, chúng nó hiếp dâm tác phẩm của anh kỹ quá. Chúng nó thêm vào những chi tiết không hề có trong nguyên bản. Ví dụ, cảnh nhân vật của anh giết thằng tù bắt nạt nó, cảnh bọn trẻ con trốn trại, đóng bè xuôi về thành phố, cảnh thằng cai tù tốt bụng tặng giấy viết nhật ký cho thằng bé… Tuy nhiên, xem phim này, nhiều bà đầm cảm động khóc sướt mướt. Ít ra, Đồi Fanta và cuốn phim cũng thành công ở chỗ cho người ta thấy được sự tàn ác của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đối với đám trẻ bụi đời.

    Duyên Anh viết tiếp, trong lá thư tháng 6, 1987:

    Sẽ photocopie cho em 14 bài thơ Độc Ngữ (Duyên Anh mới), đọc xong em sẽ nghẹn ngào rồi bốc lửa. Anh của em lúc nào cũng tỏ ra xứng đáng với gia đình, bằng hữu, quê hương.

    Hôm nay, gửi em đọc chơi bài thơ 100 câu 1 vần của anh.

    Về nhạc Vũ Đức Nghiêm, em lựa cho anh vài bài viết về Chúa thật hay. Đó cũng là một khía cạnh của tù nhân: Đức Tin . Mỗi bài anh sẽ giải thích, em ạ.

    Anh hỏi thăm Hồ Văn Xuân Nhi. Chúc em mạnh giỏi.

    Anh của em,

    Duyên Anh

    TB: Hãy quan tâm về translator cho A Just American. Anh em mình sẽ trúng mối nhờ cuốn này đấy. Và ta sẽ có nhiều phương tiện làm việc cho quê hương.

    Bài thơ 100 câu, Bài Lưu Đầy, Duyên Anh làm tặng Kiều Vĩnh Phúc, bạn anh, là tâm sự lưu vong não nề của Duyên Anh. Anh mở đầu bằng một lời than thở

    Ta đến đây đành ở lại đây
    Cuối đời thấm thía kiếp lưu dầy
    Nghẹn ngào sách vở từng trang mục
    Chữ nghĩa vèo bay như lá bay

    Thơ Độc Ngữ là loại thơ viết bằng máu hừng hực cảm xúc bốc lên từ trái tim của một con người chưa bao giờ chịu cam đành ngậm miệng trước những nhố nhăng, áp bức, bất công trên cõi đời này. Duyên Anh là thế đó. Bằng thứ ngôn ngữ riêng của anh, có đoạn thật tha thiết, tình cảm; đoạn khác thật độc địa, tàn nhẫn, Duyên Anh đã viết bài thơ Nhân Danh Những Điều Tôi Biết, mô tả cảnh sống khốn nạn của người vợ một chiến sĩ miền Nam tử trận, tiền tử tuất không đủ nuôi bốn con dại, đã phải làm nghề bán thân xác mình. Trong khi ấy, một vài cấp chỉ huy quân đội ở trung ương, không phải xông pha trận mạc, lại sống xa hoa “sáu bảy vi la, ba bốn vợ”, với tiền tham nhũng, bằng cách

    “… mở lò bánh mì đồ sộ
    Tiền điện tính vào kinh phí Bộ Quốc Phòng
    tính vào
    máu lính tiền đồn bảo vệ biên cương
    tính vào
    xương chiến sĩ xông pha trận mạc
    tính vào
    quả phụ đêm dài nước mắt
    tính vào
    cô nhi ngày muộn thèm cơm..”

    Cũng trong Nhân Danh Những Điều Tôi Biết, Duyên Anh kể lại trường hợp một người lính đi phép, bịn rịn vợ con, trở lại đơn vị trễ mất mấy ngày, bị khép tội đào ngũ, đưa đi lao công đào binh, và chết ở mặt trận. Anh phẫn uất, tự hỏi ai sẽ xử tội những ông tướng rời đơn vị trước 30 tháng 4, 1975, bỏ thuộc cấp ở lại?

    Nhớ lại những ngày tháng tư 1975, Duyên Anh đã ngậm ngùi. Rồi phẫn nộ

    “…Chúng nó trốn
    khi kẻ thù
    còn xa lắm
    còn Khánh Dương
    nhảy dù
    đánh thật hăng
    còn Thị Nghè
    lính văn nghệ
    diệt xe tăng
    Trước giờ ban lệnh
    đầu hàng
    tướng hèn đã
    đào ngũ…”

    Duyên Anh nhắc lại chuyện một ông tướng đứng ở xứ đạo Tân Sa Châu tuyên bố :

    “Không đi. Đứa nào đi
    sang Mỹ làm cu li
    còn vợ nó thì xoay nghề đĩ.
    Vài hôm sau, nó âm thầm sang Mỹ…”

    Bài thơ vừa kể, đăng trên tờ Quan Điểm của Phạm Kim Vinh năm 1987, đã khiến một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa thâm thù Duyên Anh. Họ thù hận đến độ, tháng 12, 1999, gần ba năm sau ngày anh qua đời, khi biết một nhà báo ở miền Đông Hoa Kỳ sắp phổ biến một bài viết ghi lại kỷ niệm với Duyên Anh, mấy ông cựu tướng trong vùng đã áp lực, bằng nhiều cách, để nhà báo phải bỏ ý định cho đăng tải bài viết này!

    Tôi muốn xác nhận ở đây, Duyên Anh có thể đã chỉ trích, và coi thường một số cấp chỉ huy trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nhất là những người đã, vì nhiều lý do khác nhau, rời khỏi đất nước trước ngày cộng sản chiếm trọn miền Nam.

    Nhưng Duyên Anh chưa bao giờ dám viết lên, hay nói ra một điều gì bất kính đối với những vị tướng miền Nam đã ở lại chiến đấu tới giờ phút cuối cùng, và sau đó, đã tự kết liễu đời mình để giữ tròn khí tiết, hay những vị tướng đã trải qua hàng mười mấy năm ê chề trong tù ngục.

    Duyên Anh không bao giờ dám nhục mạ tập thể quân đội miền Nam. Xin đừng ai hiểu lầm, hoặc gán cho Duyên Anh cái tội đó. Bởi vì gán ghép như vậy, là việc làm thiếu công bằng, nếu không muốn nói là gian trá.

    Chiều 30 tháng 4, 1975, chứng kiến cảnh thua trận đau đớn của miền Nam, Duyên Anh đã kể lại

    “…Em ơi, chiều ba mươi tháng tư
    Tâm hồn tôi chít mảnh khăn sô
    Tôi đứng giữa hoàng hôn nào đó
    như ngày xửa ngày xưa bé nhỏ
    Đếm xác người chết đói ngổn ngang
    Ôi xác ngày xưa
    Hôm nay
    súng ngắn súng dài mũ sắt quân trang
    Nằm rên rỉ dưới giép râu cộng sản…”

    Duyên Anh mô tả cảnh sống cơ cực, nhục nhã của dân chúng miền Nam sau ngày cộng sản miền Bắc chiếm đóng

    “…Tôi đã thấy con người và con chó
    cùng mưu sinh trên đống rác Sài gòn
    chó và người đòi đoạn nguồn cơn
    Bởi xã hội chủ nghĩa chỉ giầu khẩu hiệu

    Tôi đã thấy đồng bào ta xếp hàng bán máu
    máu đỏ tươi đổi gạo trắng chợ đen
    Bán máu nhanh, phải hối lộ chút tiền
    phải giữ chỗ từ đêm hôm trước…

    …Tôi đã thấy sản phụ mất sữa nuôi con
    ra phường, xuống quận, lên thành
    ba lần bị cởi trần nhay vú
    khi hội đủ chỉ tiêu dã thú
    mới được mua sữa rẻ quốc doanh…”

    Cuối cùng, Duyên Anh xác nhận đường hướng sáng tác mới của anh.

    Em hiểu không, tôi độc hành đơn kiếm

    Chẳng báo nào chứa nổi thơ tôi
    Nhưng vẫn làm thơ dán khắp tường đời
    Dẫu kẻ thù vằm băm nát ngực
    Dẫu lưới thép bủa lên tôi oan khiên ngộ nhận

    Vẫn làm thơ can đảm Trần Dần
    Vẫn phóng ra những chiêu thức tuyệt luân
    Vẫn nhảy múa trên đầu Cộng Sản
    Tôi vẫn làm thơ cho đêm đen bừng sáng

    Tôi vẫn làm thơ đánh thức mặt trời
    Tôi vẫn làm thơ ca ngợi Con Người
    Dẫu rắn độc chụp đầu trăm kiểu mũ
    Dẫu bạo lực gài mìn bức tử

    Vẫn làm thơ, còn hơi thở vẫn làm thơ
    Tôi làm thơ không gióng trống phất cờ
    Không thủ bút triện son và không dự thi ăn giải
    Tôi làm thơ vì Công Bằng Lẽ Phải
    Thơ nâng niu nỗi khổ mủ sưng.

    Thời gian ấy là lúc Duyên Anh bị kẻ thù xông hãm tứ phía. Một vài người trong giới văn nghệ, vì đố kỵ tài năng, rơi vào bẫy Cộng Sản, viết bài trên báo, vu cáo Duyên Anh làm ăng ten trong tù, làm tay sai cho cộng sản, bác xác anh em..

    Cộng Sản Việt Nam thâm hiểm biết rất rõ, không một nhà văn Việt Nam nào, trong nước cũng như hải ngoại, trước và sau 1975, chống cộng mãnh liệt và có hiệu quả như Duyên Anh. Cho nên, trước khi, vì một số vận động và trao đổi quốc tế, phải trả tự do cho anh, họ đã bày trò dựng nên những tin bẩn thỉu, rỉ tai, mớm lời cho một số người ghen ghét Duyên Anh, trong tù cũng như ở bên ngoài. Mục đích của cộng sản là triệt hạ uy tín chống cộng của Duyên Anh, để khi thả anh ra, chữ nghĩa của anh không còn hiệu lực nữa. Cộng Sản Hà nội quỷ quyệt ở chỗ họ dùng bọn nằm vùng miệng lưỡi xảo trá, rỉ tai bôi lọ Duyên Anh. Họ mượn tay chính những người ở trong hàng ngũ quốc gia tấn công Duyên Anh. Và điều đáng buồn là một số người trong chúng ta đã mắc mưu cộng sản. Kẻ thù chính của chúng ta là cộng sản Hà nội, chúng ta không đánh; lại nhè anh em trong nhà mà đánh dập đánh vùi.

    Một số người, tài năng không bằng Duyên Anh, mừng rỡ chụp lấy cơ hội bằng vàng, viết những bài báo vu cáo anh. Bất đắc dĩ, Duyên Anh phải phản công. Vì mất tâm sức và thì giờ phản công những bài báo vu khống đó, sức công phá của Duyên Anh vào thành trì Cộng Sản Hà nội bị suy giảm ít nhiều.

    Trong Bài Lưu Đầy, Duyên Anh dàn trải nỗi đau đớn của người biệt kích văn nghệ cô đơn bằng hai câu :

    …Đường người, chó sói nhe răng nhọn
    Nghe buốt đau thương cả đế giầy…

    Cuối tháng 6, 1987, Duyên Anh gửi cho tôi bản thảo Trại Tập Trung, nhờ tôi đọc lại, sửa những lỗi chính tả do người đánh máy bản thảo đánh lầm. Anh cũng cho tôi địa chỉ nhà xuất bản Xuân Thu, nhờ tôi giao bản thảo cho Phạm Công Danh.

    Trong thư, ngoài những việc nhờ tôi làm cho anh, Duyên Anh tâm sự :

    “…Cuộc sống của anh rất đỗi chật vật. Luôn luôn anh bị gây bực mình…. Cảm hứng sáng tác cũng mất mát nhiều. Đã nhiều lần, anh định dứt khoát sống cho riêng anh cuối đời, nhưng tình nghĩa làm anh không thể, không nỡ. Anh sẽ khó mà lên ngọn đỉnh…. Đôi khi, anh muốn tự tử, hoặc xin về Việt Nam vào tù. Đó là tâm sự, và tâm trạng buồn bã của anh. Rốt cuộc, vẫn phải sống, vẫn phải ngoi lên…”

    Cuộc sống gia đình của Duyên Anh, tôi đã biết từ những lần đến thăm anh ở Saigon, dĩ nhiên, đã có những ngày tháng hạnh phúc; nhưng cuộc sống hôn nhân êm đềm này không được dài lắm. Tôi cũng phải nói ngay, tình trạng này, một phần, do anh gây ra. Duyên Anh không phải là một người chồng tốt, nếu dựa trên những tiêu chuẩn bất cứ người vợ nào cũng mong muốn nơi chồng mình: cơm nhà quà vợ, không bê tha rượu chè, bài bạc, trai gái…

    Duyên Anh đã, ít nhiều, vướng vào mấy thứ này, gây buồn phiền cho vợ con anh.

    Những lúc gây buồn khổ cho gia đình, đôi khi Duyên Anh cũng biết ăn năn, dùng văn thơ, và cả âm nhạc nữa, để xin lỗi vợ con. Điển hình là ca khúc Về Với Em, anh nhờ Mai Hương hát để bày tỏ lòng yêu thương và ân hận của mình đối với chị Duyên Anh, sau một lần bỏ nhà đi hoang :

    …Bước phiêu du trầy máu, bước phiêu du quặn đau
    Yêu em gọi dĩ vãng ngọc châu
    Về với em, về với em kỷ niệm êm
    Về với em, về với em quên buồn phiền
    Theo cuộc chơi, hạt tim rơi, hoàng hôn úa sân đời,
    rồi sẽ ai với ta chiều côi?

    Mãi vì em, Ngọc Phương, anh về. Nhớ lòng tê, nhớ hồn mê,
    nhớ hao gầy giọt lệ em nỗi khuya.
    Hãy vì anh đóa hôn nồng nàn. Môi kề gần trong mật nắng,
    nghe trời đất xôn xang chuyện trần gian…

    Tôi biết, chị Duyên Anh rất thương yêu anh, và có lẽ, cũng là người oán ghét anh nhất đời. Tôi đã chứng kiến sự tận tụy, lo lắng của chị đối với anh thời gian anh vừa bị bắt, sự chu đáo của chị những lần chuẩn bị đi thăm anh ở các trại tù, và cũng được nghe chị kể nỗi đau khổ, cả tinh thần lẫn thể xác, chị đã chịu đựng, trong đời sống hôn nhân với anh. Nhưng đó là cái giá một số bà vợ lấy chồng nghệ sĩ phải trả. Nhất là, một nghệ sĩ có quá nhiều tài năng như Duyên Anh. Nguời ta đã chẳng từng nói lắm tài lắm tật hay sao?

    Đầu tháng bảy, tôi nhận tiếp một thư nữa của Duyên Anh

    Em Hiền

    Không nhớ thư trước anh đã báo tin mừng Belfond vừa ký thêm với anh một contrat về La Colline de Fanta chưa? Trí nhớ của anh suy sụp lắm rồi… Đàn bà họ không nhớ những điều tốt đẹp mình làm cho họ, mà chỉ nhớ đến những sai lầm của mình thôi.

    Anh đang nghĩ xem đã đến lúc mình buông trôi, sống một mình cho yên lặng để dễ làm việc chưa. Anh sợ hãi đàn bà quá rồi. Tháng 9 này không kịp ra La Colline de Fanta. Phải đợi tháng 1-1988.

    Belfond ngửi thấy Fanta dễ làm phim hay, nó ký thêm “Hợp đồng nhượng bộ quyền phóng tác thính thị”. Anh lại lo cuốn thứ 3. Anh hy vọng, vài năm nữa thôi, anh sẽ thực sự nổi tiếng thế giới.

    Em nghĩ xem, sau khi Robert Dornan viết thư mời anh, anh có nên tặng ông ta cuốn Un Russe à Saigon? Anh đã gửi Nhà Tù, hồi ký, cuốn 1 gồm 3 phần viết về Sở công an, đề lao Gia Định, khám Chí Hòa, 600 trang, cho Xuân Thu, gần chỗ em ở. Nó trả anh khoản tiền nhỏ về sách cũ rồi, và sách mới cũng ứng trước 2000 đôn). Nếu em rảnh, ghé sửa bản cuối cùng trước khi chạy máy giùm anh nhé! Cuốn 2 gồm 2 phần, viết về Sa Ác và Rừng Lá, mang tên Trại Tập Trung, 600 trang. Em có loan tin The Fanta Hill, nhớ nói anh ký giao kèo ngày 23-6-1987. Anh có contrat 5 cuốn, mỗi cuốn lại một contrat riêng. Độ rày anh ốm đau hoài, ăn ít. Rượu đã giới hạn tối đa. Đổi sang hút pipe, mà vẫn hút Gauloises khi ngồi viết. Đôi khi, anh rối tinh như hẹ, cái gì cũng muốn viết, và cái gì cũng chán viết. Anh mong xa nhà 6 tháng. Và chỉ có dịp qua Mỹ là anh thảnh thơi. Ít ra cũng… Bây giờ anh mới thấy chân lý: Ở tù là hạnh phúc.

    Vài hàng thăm em.

    Anh,

    Duyên Anh

    Đầu tháng 8, tôi nhận thêm một thư nữa

    Em Hiền,

    Anh đã nhận thư của Robert Dornan, Hồ Văn Xuân Nhi. Họ cũng gửi cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Paris. Thư nồng nhiệt lắm. Tuy nhiên, anh vẫn chưa thích thú lắm sang Mỹ dịp này. Bị xếp hàng xin visa, anh càng nản. Vậy Mỹ du, có thể là không. Anh trả lời em những điểm em nêu trong thư:

    · David McAree không dịch Fanta Hill. Mới chỉ có bản dịch La Colline de Fanta thôi, và sẽ xuất bản Janvrier 1988. David dịch được 5 chương A Russian in Saigon. Nó không thích A Just American. Theo nó, truyện sẽ thành công, nhưng nó sợ cộng sản kết tội anh nói láo! Vả nữa, nó phải đánh vật với tự điển vài năm. Nó lại bận đi cứu đói thế giới.

    · Em đừng vì A Just American mà nghỉ việc. Đừng, anh xin em.

    · Đồng ý. Diều hâu sẽ đổi thành kên kên.

    · Em tóm tắt lại A Just American cho anh, thật trung thực.

    · Em bỏ Télévision là đúng.

    · Rất cảm động về sự tự nguyện của em, vì anh, cho anh. Nay mai Thúy Nga sẽ qua California. Anh gửi hắn cầm bản thảo:

    - Nhà Tù: 200 trang viết tay của anh, đã đưa Xuân Thu xuất bản. Bản thảo này, em giữ lấy. Cần thì photocopy cho PKV xem trước.

    - Trại Tập Trung: 150 trang viết tay của anh. Em photocopy cho em một bản, có vài trang anh quạt bọn NQL và tụi báo L. Còn bản anh gửi, khi Xuân Thu đến lấy, thì em đưa cho nó.

    - Hồn Say Phấn Lạ: 300 trang viết tay của anh. Em photocopy cho em một bản. Bản anh gửi, em giữ cho anh. Khi nào anh bảo đưa cho ai hãy đưa.

    Thúy Nga sẽ gặp em nói chuyện thực hiện băng nhạc Vũ Đức Nghiêm. Em chép sẵn:

    1. Mưa Long Giao
    2. Xin Làm Cỏ Biếc Vương Chân Em Đi
    3. Giả Sử Mai Ta Về
    4. Khóc Đi Em Giọt Lệ Tủi Mừng
    5. Khúc Thần Ca Năm Xưa
    6. Nước Mắt Chảy Xuôi
    7. Gọi Người Yêu Dấu
    8. Em Có Hay Chăng
    9. Người Xa, Người Xa Mãi
    10. Trong Ngục Tù Bao La

    Mỗi bài đều có lời giới thiệu giải thích của anh. Anh VĐA của em có bà vợ không nghệ sĩ tí nào. Đến thì ngồi dưới xe chờ. Lên thì chưa ngồi đã dục chồng về. Thành ra, anh chưa nói chuyện lâu với anh của em được. Bà này có vẻ như là rất “thương hại” anh nghèo nàn và qua Tây tị nạn kinh tế. Em biết vậy thôi nhé!

    Thân nhiều,

    Duyên Anh
    4-8-87

    16 tháng 8, 1987, tôi viết thiệp sang, mừng sinh nhật thứ 52 của anh, kèm theo mấy tờ giấy ghi những lỗi chính tả trong bản thảo Trại Tập Trung, và mấy chỗ tôi đề nghị anh sửa. Gần cuối tháng, tôi nhận bức thư đề ngày 24 tháng 8 của anh

    Em Hiền,

    Sáng nay, Sơn lấy thư lên đưa cho anh.

    Nếu anh đi Mỹ, có lẽ, anh sẽ không trở lại Paris nữa. Tụi nhóc lớn cả rồi. Anh cần sống cho anh vài năm để hoàn tất vài tác phẩm lớn.

    Em tóm tắt kỹ lưỡng Một Tù Binh Mỹ ở Việt Nam thì đỡ bị hiểu lầm là anh pro-Américain như Ghislain Ripault đọc xong bản tóm tắt quá sơ lược của anh V. Anh rất hy vọng cuốn này. Ít ra, nó cũng giải quyết cơm áo cho anh, để yên tâm viết bộ truyện vinh tôn tổ quốc, dân tộc: Người Việt Nam. Nếu tháng 9 anh không đi Mỹ, chắc chắn, anh phải rời Paris lên vùng Bretagne ẩn thân. Ở đó, anh có nhà ở, có việc làm tại trang trại. Đây là nhà của một trong những thành viên Amnesty International đã bảo trợ anh…

    Anh vẫn giữ ý định in chung tập nhạc của hai anh em mình. Nhạc thì anh có sẵn. Nhưng ai chịu in có 10 bài thôi? Họ in 36 bài. Nếu Xuân Thu chịu in 58 bài của anh, em tuyển chọn 10 bài của em đi, anh nhờ Võ Đức Tuyết kẻ và in chung. Âm nhạc đối với anh là trò chơi mới, và cũng là hệ lụy mới. Rồi có dịp, anh sẽ kể “ hệ lụy”. Nó dính vào đàn bà, và tiền của đàn bà. Không bao nhiêu, 6 ngàn đôn thôi, mà cũng mang tiếng. Tưởng vớ được bà bá tước yêu nghệ thuật, ai dè đồ bỏ!

    10 giờ đêm qua, 23 tháng 8, Vĩnh Phúc (BBC) gọi cho anh. Anh ta bảo BBC tiếc em lắm. Em viết hay, đọc hay, kể như thí sinh trúng tuyển thượng ngoại hạng. Anh Phúc nói, nếu em làm cho BBC, em sẽ làm suốt đời. BBC mới là tương lai rực rỡ của em, là nơi em thường xuyên về Việt Nam, là nơi em có thể đưa vợ con em qua dễ dàng. Judy Stowe không đẹp lắm, nhưng trí thức, sang trọng, duyên dáng, lịch sự. ĐV bình dị, hiền hòa. Chưa có con, và sẽ không có con. Vợ chồng già cả rồi, sắp về hưu.

    Cuốn băng Ru Tình Ngất Ngây sẽ nhờ Võ Đức Tuyết viết hòa âm và chơi nhạc. Trục trặc kỹ thuật là nhạc đệm cũ…lệch nhịp hết. Ngày mai, anh đến studio hỏi xem có thể cắt giọng Mai Hương ra, chơi nhạc trước, rồi thu lời sau? Chứ đánh nhạc để xóa nhạc cũ, e gặp trở ngại.

    Thư hoài cho anh nhé! Và đừng đề cập chuyện buồn của anh.

    TB: Anh phone cho Vĩnh Phúc lúc 10 giờ tối 24, sau khi viết thư cho em xong. Vĩnh Phúc và Đỗ Văn chấm bài của em. Anh ta bảo, giá em làm cho BBC, sau contrat 4 năm 2 tháng, em sẽ trở thành chính ngạch. Anh Phúc rất tiếc, rất tiếc…

    ° ° °

    Đầu tháng 9, 1987, Thiên Hương, con gái duy nhất của Duyên Anh, lập gia đình. Chú rể David McAree, dân Tô Cách Lan, rất giỏi tiếng Việt, là thành viên Amnesty International, chạy tới chạy lui, lo thủ tục giấy tờ bảo lãnh của cơ quan này cho Duyên Anh, nên quen biết Thiên Hương. Trong ba người con của Duyên Anh, Thiên Hương thừa hưởng nhiều tài năng của bố nhất. Cô bé thông thạo Anh văn, Pháp văn, chơi piano hay; và viết văn tiếng Việt cũng giỏi nữa.

    Trong thư 9 tháng 9, 1987, Duyên Anh viết

    Anh vừa nhận thư mới của em. Đám cưới Thiên Hương, David đã xong. Kết quả tốt đẹp, về tổ chức. Anh Vũ Đức Anh đến dự, cùng chị Anh và cháu gái, từ nhà thờ tới chỗ làm hôn lễ theo phong tục cổ truyền Việt Nam. Tân khách quốc tế: Tô Cách Lan, Anh, Pháp, Ý, Mỹ, Nam Tư, Việt Nam…

    Kể như anh đã nhẹ nhàng.

    Trả lời thư em:

    · Khi anh sang, anh em mình sẽ có nhiều đêm tâm sự.

    · Vụ nhà xuất bản và nhà sách, chờ anh sang sẽ thảo luận.

    · Cám ơn em đã lo vụ Mai Hương giúp anh. Đi Mỹ về, có tiền, anh sẽ thuê Bernard Gérard ( 17,000 F ), không có, thì nhờ Võ Đức Tuyết chơi đàn điện hết, trừ piano ( violon, violoncelle…), mất 5,000 F thôi. Và đợi mùa thu 1988, mời Mai Hương qua hát, ra mắt băng nhạc. Và chỉ cần bán ở Paris là hòa sở hội: tiền ca sĩ + nhạc sĩ + studio…

    · Những trang ở Nhà Tù do anh sửa bỏ, không phải Xuân Thu. Đoạn V.P., anh bỏ, vì đ. cần nó ca tụng. Đúng, anh đã gửi qua những trang bỏ vợi chỗ chửi TT. Nó đề nghị hay. Tác phẩm không nên “trả thù” nhiều.

    · Em đúng. Nền đỏ chữ vàng, vậy sửa lại.

    · Thằng đó là bác sĩ N.N.T, chủ tịch đảng Dân chủ, Trưởng ty y tế P.Y..

    · Anh không thua thằng nào cả, nếu thua là chỉ vì mình là dân tộc nhỏ bé, và trót sống với bọn hèn mạt (không dùng chữ hèn mọn nữa).

    · Anh sẽ viết tóm tắt lại A Just American.

    · Hy vọng anh em mình sẽ gặp nhau trong tháng 9. Vậy không viết nhiều nữa.

    Thương yêu

    Anh

    TB: Em đưa Hồn Say Phấn Laï cho Xuân Thu dùm anh. Nhớ photocopy lại 1 bản để dành thủ bút của anh.

    Duyên Anh

    Cuối tháng 9, tôi lại nhận thêm một thư nữa của anh

    Em Hiền,

    Trước hết, về những chữ anh sai ở Trại Tập Trung và Hồn Say Phấn Lạ, hoàn toàn em đúng. Anh có thói xấu, viết xong không bao giờ chịu đọc lại. Vậy em sửa giùm:

    Phạm văn Phú thay vì Nguyễn văn Phú
    kho đạn Long Bình thay vì Long Thành
    Đỗ Hữu Cảnh thay vì (vài chỗ) Nguyễn Hữu Cảnh
    đã ở đề lao 17 tháng thay vì 18 tháng
    co quắp thay vì co coắp
    gươm giáo thay vì gươm dáo
    hủ hóa thay vì hủ quá
    Trần Hữu Thanh thay vì Nguyễn Hữu Thanh
    Souvana Phouma thay vì Soupha Phuma. Chỗ này thận trọng, nếu là chủ tịch nhà nước Lào thì Souvana Nouvong (?) trang bao nhiêu ? Sách nào ? ( Duyên Anh nhớ gần đúng. Thực ra, tên ông chủ tịch nhà nước Lào thời ấy là Souphanouvong.)
    vô tuốt thay vì vô tút
    Trần Ngọc Châu thay vì Nguyễn Ngọc Châu
    Đặng Võ vì ngại động chạm Đặng Vũ. Nữ chúa tên thật là Đặng Vũ thị Thanh Lan (xì ke ở Trại Long Thành) mà anh đã viết ở Sỏi Đá Ngậm Ngùi.

    ……..

    Còn gì em thấy sai nữa thì cứ tự ý sửa. Ở Trại Tập Trung, phần thứ 1, anh có sửa và bỏ đi nhiều lắm. Em thấy những chỗ anh đóng khung mầu là anh sửa bỏ hết (mới gửi sang) và phần thứ 2 anh thêm (từ dứt chương 13) 3 chương mới về suy tư của anh về tuổi trẻ. Anh đã giao hẹn với Xuân Thu, cấm nó tự ý sửa. Anh thấy bỏ vợi phần chửi cu TT và đồng bọn, Trại Tập Trung giá trị hơn. Mình hơn chúng nó, chả cần thèm chửi nữa. Ô kê. Thế nào cũng gặp em trong tháng mười.

    Anh

    Vũ Mộng Long

    Duyên Anh đề nghị tôi dựng lại Nhà Xuất Bản Tuổi Ngọc, do tôi và Hồ Văn Xuân Nhi trông coi. Duyên Anh nghĩ Hồ Văn Xuân Nhi là người có lòng, nhiệt tình, và đông anh em. Duyên Anh dự tính viết mỗi tháng một cuốn truyện thiếu nhi, loại Dzũng Đakao; thoạt đầu có thể cứ hai tháng phát hành một cuốn, dần dần sẽ mỗi tháng một cuốn. Duyên Anh bảo, cứ mỗi trang viết tay của anh là 4 trang in, như vậy viết đều đặn 30 trang sẽ được một cuốn truyện thiếu nhi loại này. Duyên Anh nói, sẽ gửi một cuốn truyện thiếu nhi của nhà xuất bản Poléo cho tôi làm mẫu. Tôi sẽ phải tìm họa sĩ giỏi, nhờ họa sĩ vẽ khoảng năm sáu bức tranh cho mỗi cuốn truyện. Chúng tôi sẽ in ở Mỹ 1000 cuốn, và ở Pháp 500 cuốn. Trong dự tính của Duyên Anh, việc tiêu thụ sẽ rất dễ dàng: Xuân Thu 200 cuốn, Ngày Nay 100 cuốn, nhóm bạn bè của Hồ Văn Xuân Nhi bán qua bưu điện 200 cuốn, các tiệm sách khắp tiểu bang 500 cuốn…Rồi thì Làng Văn Canada và các nơi khác nữa.

    Duyên Anh gợi ý tôi về Bolsa mở một hiệu sách. Nam Á sẽ cung cấp sách cho tôi bán, điều kiện rất dễ dàng, bán sách trước rồi cuối năm trả tiền cũng được.

    Theo Duyên Anh nghĩ,

    “…Nếu em có tiệm sách, bán sách do mình xuất bản, làm từ A đến Z; được 500 cuốn là đủ sở hụi và tác quyền . Nghề xuất bản mau giầu lắm. Chúng ta cần nhiều tiền để làm việâc lớn. Đi làm công chức không thể phục quốc kiểu Do Thái được.

    Anh nghĩ một mình em cũng đủ dựng bảng hiệu Tuôåi Ngọc. Nhóm bạn Hồ Văn Xuân Nhi sẽ giúp em việc phát hành, cổ động.

    Nhà Xuất Bản TUỔI NGỌC

    Giám Đốc: Vũ Trung Hiền

    Chuyên Xuất Bản Truyện Tuổi Thơ

    Tác giả cột trụ: DUYÊN ANH

    Sau 5 cuốn mới, sẽ xen kẽ 1 cuốn cũ của anh. Rồi em sẽ khám phá những tài năng mới mà khuyến khích, nâng đỡ. Một việc làm có ý nghĩa cho cuộc đời mà ra nhiều tiền, tại sao không thực hiện nhỉ? Chả lẽ anh đi viết truyện tuổi thơ cho bọn lái sách? Em và Anh là lý tưởng. Cho anh biết ngay. Cuốn thứ nhất sẽ tuyệt diệu và anh sẽ…

    Không làm việc ngay cho thiếu niên và thanh niên thì nguy lắm.

    Có anh viết, em không lo tác quyền, anh sẽ viết cả 100 cuốn, đến già.

    Anh,

    Duyên Anh

    Duyên Anh vẽ ra một tương lai rực rỡ như thế đân biểu Robert Dornan vừa gửi sang Pháp, giấy tờ nhập cảnh Mỹ của Duyên Anh được Tòa Đại Sứ chấp thuận ngay. Anh sang Texas trước, ở với gia đình anh Đặng Xuân Côn một thời gian, trước khi qua Cali.

    ° ° °

    Cuối 1987, Duyên Anh đến Los Angeles lần đầu tiên. Ra đón anh ở phi trường có khá đông bạn hữu. Cả Phạm Duy cũng ra đón Duyên Anh. Trong lúc ngồi chờ máy bay đáp xuống, tôi gợi ý với Phạm Duy đứng ra hòa giải trận đánh đấm tàn khốc trên báo giữa Duyên Anh và Tạ Tỵ. Tôi nhớ tháng 10, 1981, khi đến thăm Duyên Anh ở 225 B Công Lý, tôi gặp ông Khai Trí, Tạ Tỵ và Doãn Quốc Sỹ đang trò chuyện thân mật với Duyên Anh . Không hiểu sau đó, sang Mỹ rồi, nghe ai mớm lời, Tạ Tỵ viết bài trên tạp chí VĂN của Mai Thảo, tố cáo Duyên Anh “ đầu hàng cộng sản, bán xác anh em.” Duyên Anh phản công dữ dội. Ngoài một số bài trên các báo, Duyên Anh còn nhắc tới Tạ Tỵ khá kỹ ở trong hồi ký Nhà Tù và Trại Tập Trung về “ thành tích vẽ ảnh Hồ Chí Minh, ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm cháy của heo...”

    Theo Duyên Anh kể cho tôi nghe, sau lần tôi gặp Tạ Tỵ và Doãn Quốc Sỹ, Tạ Tỵ trở lại một lần nữa, dắt theo Lê Ngộ Châu, chủ nhiệm tạp chí Bách Khoa. Vì Duyên Anh biết Lê Ngộ Châu chơi thân với Huy Khánh, bí danh Hai Khuynh, một cán bộ Việt Cộng; nên khi Tạ Tỵ yêu cầu Duyên Anh đọc thơ tù cho Lê Ngộ Châu nghe, Duyên Anh từ chối, và tiếp đãi nhạt nhẽo. Cũng theo Duyên Anh, có thể Tạ Tỵ mất mặt với Lê Ngộ Châu, nên để bụng thù hận Duyên Anh từ đó…

    Phạm Duy nghe tôi đề nghị, tỏ vẻ lạnh nhạt:

    - Hơi đâu mà làm chuyện đó. Hai người ấy, họ lớn cả rồi...

    Duyên Anh từ hành lang phía trong đi ra, bạn bè bao lấy. Anh hớt tóc cao, và không chải đầu gì cả. Duyên Anh cười lớn khi có người nhận xét về tóc tai của anh:

    - Để tóc kiểu này là kiểu chiến đấu. Bây giờ là lúc phải cho lửa vào thơ văn cuả mình mới được.

    Phạm Duy hỏi:

    - Tôi nghe chúng nó bảo lúc này cậu cũng làm nhạc nữa phải không?

    Duyên Anh cười ha hả:

    - Có chứ. Đứa nào thắc mắc, ông bảo chúng nó là tôi còn sắp sửa VẼ nữa, cho chúng nó sợ.

    Tôi xách hộ Duyên Anh chiếc xắc tay, đinh ninh anh sẽ về nhà tôi, như anh đã hứa trong điện thoại mấy hôm trước. Mẹ tôi biết anh sang, đã làm cơm sẵn chờ tôi đưa anh về cùng ăn.

    Ra khỏi khu lấy hành lý, Duyên Anh bảo tôi, anh sẽ về khu Bolsa, có một đám bạn đang chờ anh dưới đó, và rủ tôi đi cùng. Tôi từ chối, không muốn la cà trong lúc mẹ đợi cơm ở nhà.

    Tôi hơi giận Duyên Anh, nên mấy hôm sau, khi anh gọi, rủ tôi đi với anh đến ăn cơm tối ở nhà Mai Hương, tôi lấy cớ đang phải học thi, không đi được. Tôi cũng không hỏi anh đang ở đâu.

    Nhưng tôi không giận Duyên Anh lâu được. Vài tuần sau, Duyên Anh gọi tôi xuống Orange County chơi với anh. Tôi hỏi anh đang ở đâu. Duyên Anh nói, anh đang ở nhà CTB. Tôi hỏi địa chỉ, và tìm đến thăm anh. Tới nơi, tôi thấy anh đang nói chuyện với TMC, cựu đại tá cảnh sát. Biết Duyên Anh sắp đi chơi với tôi, TMC ngôài lại thêm mấy phút nữa, rồi cáo từ. Duyên Anh rủ tôi đi gặp Hồ Văn Xuân Nhi, Nguyễn Ý Thuần, Nguyễn Đức An, Trần Nghi Hoàng tại một quán Bò 7 Món khu Bolsa. Duyên Anh uống khá nhiều, càng uống nói càng hay. Anh kể chuyện viết văn, làm báo, và tỏ ý muốn cho sống lại tờ Con Ong. Trong gần ba tiếng đồng hồ, Duyên Anh chia xẻ với những người viết trẻ này kinh nghiệm văn chương của mình.

    Trên đường tôi đưa Duyên Anh về, anh cho tôi biết, sang Mỹ chuyến này dễ dàng nhờ thư mời của dân biểu Robert Dornan. Lúc ấy, Hồ Văn Xuân Nhi đang làm phụ tá cho dân biểu Dornan, nên Nhi đã sắp đặt tất cả chuyện giấy tờ, để việc nhập cảnh Mỹ của Duyên Anh được nhanh chóng.

    ° ° °

    Ngày 2 tháng giêng, 1988, Duyên Anh ra mắt Nhà Tù tại Embassy Room, khách sạn Disneyland, thành phố Anaheim, phía Bắc Westminster. Đây là lần đầu tiên, và có lẽ cũng là lần duy nhất, nhà xuất bản Xuân Thu tổ chức ra mắt sách cho tác giả ở một địa điểm sang trọng như thế. Duyên Anh rủ tôi xuôáng tham dự. Anh nói, sẽ có Mai Hương hát nhạc của anh; và Kiều Chinh sẽ lên phát biểu về cuốn hồi ký độc đáo này.

    Phòng họp bề thế, trải thảm, trang hoàng rực rỡ. Khách tham dự khoảng gần hai trăm người, nhưng đặc biệt, không có mááy nhà văn. Chẳng biết vì thiệp mời không gửi, hay có gửi, mà vì những lý do nào đó, các vị ấy không đến. Hồ Văn Xuân Nhi giới thiệu chương trình. Anh nói về tác phẩm của Duyên Anh với một sự trang trọng đặc biệt. Hồ Văn Xuân Nhi cho biết, chỉ trong vòng bốn năm, từ ngày tị nạn tại Pháp, Duyên Anh đã hoàn thành hai mươi tác phẩm. Tiếp theo, Phạm Công Danh trình bày đường hướng xuất bản mới của anh, và nói sơ qua về mấy tác phẩm sắp xuất bản. Duyên Anh được giới thiêäu liền sau đó. Anh nói, Nhà Tù là phần đầu trong bộ hồi ký hai tập, ghi lạïi những đau thương, hệ lụy anh đã trải qua trong hơn năm năm ở tù cộng sản. Theo Duyên Anh, Nhà Tù tượng trưng cho cái tĩnh của đời sống tù ngục, khác với cái động của trại tập trung lao cải.

    Sau khi một bé gái bước lên, tặng hoa cho tác giả, nhạc sĩ Lê Văn Khoa ngồi vào piano, đệm cho Mai Hương hát hai bản nhạc tiêu biểu của Duyên Anh. Tôi chờ, nhưng không thấy Kiều Chinh lên nói. Cũng không thấy có mặt chị trong buổi ra mắt này. Trong lúc Duyên Anh ngồi ký sách cho độc giả và thân hữu, khách tham dự thưởng thức vài món ăn nhẹ và giải khát ở một góc khác của phòng họp.

    Như mọi lần, Duyên Anh dành một bản đặc biệt, đề tặng tôi.

  • #2
    Sài Gòn Ra Đường- Duyên Anh & Vũ Trung Hiền- Tiếng Hát Bạch Yến


    Sài Gòn Ra Đường- Duyên Anh & Vũ Trung Hiền- Tiếng Hát Bạch Yến

    Saigon ra đường không áo dài
    Em sợ đang mùa gió chướng bay
    Gió bay cuốn hút mùi hương cũ
    Chỉ để riêng mình ta ngất ngây

    Saigon ra đường không phấn son
    Em sợ rừng sâu gỗ giận hờn
    Chinh phu gió cát nghìn phương lạnh
    Chinh phụ nào ham chuyện lược gương

    Saigon ra đường không thích cười
    Em sợ đèo cao lệ đá rơi
    Nên mãi mùa Đông về tạm trú
    Đã về sương tuyết phủ niềm vui

    Sài Gòn ra đường không líu lo
    Em sợ âm vang động cỏi thơ
    Hãy nghe hơi thở còn xao xuyến
    Trong đáy hồn nhau gợi ước mơ

    Saigon ra đường không giống ai
    Tóc mây lớp lớp khói u hoài
    Mắt chim khuyên đã diều hâu hết
    Cúi xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi





    Last edited by saomai; 02-05-2012, 09:10 AM.

    Comment


    • #3
      Chương 2

      Ở Orange County một thời gian, Duyên Anh về Pasadena, sống với gia đình tôi hơn một tháng. Thời gian này, tôi chưa có nhà riêng, vẫn còn ở chung với cha mẹ tôi tại nhà anh chị cả tôi, mục sư Vũ Đức Chang. Lúc đó khoảng tháng 2, 1988. Duyên Anh đang cặm cụi viết cho xong hồi ký văn nghệ Nhìn Lại Những Bến Bờ .

      Lúc ấy, tôi vừa bắt đầu làm cho Los Angeles County, đang còn trong tình trạng tạm tuyển, không thể xin nghỉ để có nhiều thì giờ ở nhà với anh.

      Sáng nào cũng vậy, tôi thức dậy, ra phòng khách, Duyên Anh đã ngồi ở bàn, bút BIC trên tay, cắm cúi viết; ấm trà nóng và gói thuốc Marlboro đặt trước mặt.

      Đều đặn, đúng giờ, chăm chỉ như một viên công chức là Duyên Anh, ít nhất cũng là Duyên Anh cuả một tháng ròng rã, cặm cụi viết cho xong Nhìn Lại Những Bến Bờ, phần đầu của bộ hồi ký Nhìn Lại Mình , ghi lại cuộc đời làm thơ, viết báo, viết văn của anh.

      Duyên Anh thường bảo anh vừa rong chơi vừa viết. Thực ra, đó chỉ là một cách nói thôi. Nhu cầu văn chương, đối với Duyên Anh, quả là một thôi thúc mãnh liệt. Đến nỗi, một khi đã đặt bút viết, anh viết say sưa, mê mệt. Bao nhiêu suy tư, mơ ước, tâm huyết từng ấp ủ trong lòng. Bao nhiêu kinh nghiệm, cả lúc thành công lẫn khi thất bại, vấp váp, lầm lỗi, Duyên Anh đều muốn dàn trải trong tác phẩm này, với hy vọng giúp ích phần nào cho những người trẻ đang muốn bước vào con đường anh đã đi qua. Vì thế, Duyên Anh, trong suốt một tháng ở Pasadena, đã chỉ ngồi yên trong nhà, dệt những sợi tơ tâm tưởng của mình trên từng trang giấy, chứ chẳng rong chơi chút nào cả. Những ngày cuối tuần, tôi rủ anh đi chơi núi, anh không chịu đi; muốn đưa anh ra ngắm biển, anh bảo cũng chẳng khoái gì; đề nghị đi Disneyland, Universal Studio, Huntington Library cho biết, anh đều lắc đầu:

      - Chán lắm , chẳng có gì đâu.

      Đối với Duyên Anh, ít nhất là trong khoảng thời gian này, chẳng có ai, và chẳng có gì, hấp dẫn anh cho bằng xấp giấy trắng , cây viết BIC mực đen, chiếc gạt tàn đầy ắp tàn thuốc, và bình nước trà trước mặt. Một lần, tôi hỏi tại sao anh không chịu để tôi đưa đi chơi chỗ này chỗ nọ, Duyên Anh bảo:

      - Viết văn rồi, mình đâm ra nghiện, em ạ. Không viết, không chịu được. Khi nào em cảm thấy nếu em không cầm bút viết xuống một điều gì đó, em sẽ mất ăn mất ngủ; khi nào em cảm thấy mình cần viết hơn cần ngủ với vợ, chơi với con, thù tạc với bạn bè, hoặc rong chơi phù phiếm như những con người bình thường chung quanh, lúc ấy, em đã trở thành một thằng nhà văn rồi đó.

      Nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên sao Duyên Anh viết được nhiều như thế. Chính Duyên Anh cũng hay tự hào mình là kẻ nghĩ nhanh viết vội. Nhưng riêng tôi, tôi có thể quả quyết số lượng hai mươi tác phẩm Duyên Anh hoàn thành trong vòng bốn năm, từ 1984 đến 1988, chỉ là kết quả của sự làm việc bền bỉ và hết sức cần mẫn của anh: 11 giờ đêm, tôi đi ngủ, ở ngoài phòng khách, Duyên Anh vẫn cắm cúi viết. 6 giờ sáng thức dậy, tôi đã thấy anh ngồi ở bàn viết tự lúc nào rồi.

      Tốc độ viết của Duyên Anh trung bình từ năm đến bảy tám trang viết tay mỗi ngày. Khổ giấy 8x11, anh viết được tới gần 60 dòng, chữ lại bé và sát vào nhau, nên cứ mỗi trang như vậy tương đương với ba trang in. Hôm nào tinh thần thơ thới và viết hết mình, Duyên Anh có thể viết được tới ba, bốn chục trang sách in.

      Thói quen Duyên Anh không thể bỏ được : hút thuốc lá trong khi viết. Ở Paris, anh hút Gauloises. Theo Duyên Anh mô tả, Gauloises không phải là thuốc lá thơm, có vị nặng, gần giống mùi vị Bastos xanh của Việt Nam trong thập niên 60, 70. Sang Mỹ, anh dùng Marlboro Lights đầu lọc, hoặc ba số 5. Duyên Anh hút khá nhiều, trung bình 2 gói một ngày. Điếu thuốc lá được đốt lên, nhưng có khi chỉ được hút có vài hơi thôi. Lúc Duyên Anh say sưa viết, anh thường viết luôn một mạch cho tới khi điếu thuốc tàn. Khi nào cần dừng lại suy nghĩ, anh mới thong thả đốt điếu khác, lim dim đôi mắt, môi dưới hơi trề ra, đưa khói thuốc cho chui lại vào mũi. Đó cũng là lúc anh thường rót trà, uống từng hớp nhỏ.

      Duyên Anh không khó tính như một số người khi uống trà. Lại càng không ưa những cái gọi là “nghệ thuật uống trà”, hay “trà đạo”...Anh có vẻ ưa hương vị trà Thiết Quan Âm, nhưng khi hết trà tàu, pha một vài gói Lipton cho anh cầm cự cả buổi, Duyên Anh cũng cứ vui vẻ như thường.

      Thứ bảy, chủ nhật, nghỉ làm, tôi pha cà phê phin, hai anh em uống, nói chuyện cà kê cả buổi. Duyên Anh rất ghét cà phê bột instant, loại khuấy vội uống nhanh. Anh bảo, thà nhịn cà phê, chứ đã uống là phải uống thứ cà phê xay, pha thật đậm, lọc từ từ qua phin, nước sôi thật già; tách cà phê cũng phải tráng cho nóng mới được.

      Duyên Anh có một thói quen rất hồn nhiên và dễ thương : Mỗi lần viết xong một đoạn vừa ý, anh hay gọi tôi ra, đọc lớn tiếng cho tôi nghe. Những lúc ấy, khuôn mặt anh thật rạng rỡ, và câu văn cuối cùng bao giờ cũng nối tiếp bằng chuỗi cười thật sảng khoái, hết sức dòn dã của anh.

      Nhưng đôi khi, có bữa đi làm về, tôi nghe anh than thở:

      - Mẹ nó, hôm nay không hiểu sao, ngồi mãi mà viết được có hai trang. Như thế này thì không đáng ăn cơm rồi!

      “ Bản thảo cuả Duyên Anh sạch và đẹp nhất thế giới”, Duyên Anh đã thường tự hào như thế. Là người đầu tiên được vinh dự đọc Nhìn Lại Những Bến Bờ khi còn là bản thảo, tôi có thể xác nhận niềm tự hào ấy của anh. Hơn một trăm trang viết tay gọn gàng, nắn nót, hầu như không một gạch bôi xoá. Khi cần sửa một chỗ nào, Duyên Anh dùng LIQUID PAPER tô thật sạch, viết đè lên, hoặc có khi dùng kéo cắt dán lại cả đoạn.

      Nhìn Lại Những Bến Bờ đưa người đọc cùng đi, cùng sống với Duyên Anh qua những chặng đời gian nan, khốn khó của tác giả, thuở mới tập tễnh nuôi mộng làm nhà báo, với những đoạn văn, những bài thơ hồn nhiên thời mới lớn. Độc giả sẽ theo anh từ Thái Bình lên Hà nội, vào Saigon, cùng cười với anh trong những ngày tạm trú ở Nhà Hát Tây, tháp tùng anh ngược Ban mê Thuật, chia xẻ nỗi ngậm ngùi với Duyên Anh sau những tháng “đi làm cách mạng”, xuống miền Tây, rồi qua miền Đông; cùng anh bùi ngùi nỗi lưu lạc trên đường bán thuốc dạo với con người bí mật Lý Vô Danh. Duyên Anh, qua phần cuối của Nhìn Lại Những Bến Bờ , đã khiến người đọc xúc động trước tấm chân tình của những tấm lòng vàng trong manh áo rách, khi người đạp xích lô và cô gái giang hồ bày tỏ lòng thương xót, cưu mang Duyên Anh trong lúc anh đói khát, ngặt nghèo.

      Điều quan trọng Duyên Anh muốn trao gửi đến những người bạn nhỏ thân mến của anh là: để có thể theo đuổi giấc mộng văn chương, người ta cần phải có tấm lòng yêu văn chương thật tha thiết. Lời khuyên thứ nhì, nếu có thể coi đó như lời khuyên, là người mới tập viết chỉ nên viết về những đề tài gì gần gũi nhất với mình, chứ đừng bắt chước rập theo khuôn mẫu của bất cứ ai, kể cả những tác giả mình yêu mến nhất. Điều thứ ba Duyên Anh muốn nhắc nhở những người viết mới: hãy cố viết sao cho thật giản dị, trong sáng. Giản dị và trong sáng cỡ như lối hành văn trong “Quốcï Văn Giáo Khoa Thư” , “Luân Lý Giáo Khoa Thư”, là kể như đã “đạt”.

      *

      * *

      Một chiều thứ sáu, Duyên Anh cao hứng đề nghị:

      - Anh em mình làm món giả cầy ăn chơi đi.

      Tôi ra chợ xách về một gói giò heo, vài chiếc bánh đa vừng, gói bún tươi, thêm ít riềng, và lọ mắm tôm. Không cần mua mẻ, vì ở nhà đã có sẵn. Trong lúc tôi cạo rửa sạch sẽ những chiếc giò heo, ngoài cửa bếp, Duyên Anh nhóm bếp than, quạt cho lửa đỏ hồng, đặt vỉ sắt lên.

      Những chiếc giò heo cạo rửa xong, tôi đưa cho Duyên Anh nướng kỹ từng miếng cho chín đều. Xong, anh bảo tôi rửa lại, rồi chặt nhỏ trong khi anh xắt vụn mấy củ riềng, trộn với mắm tôm, mẻ, chút bột ngọt. Tôi đổ chỗ giò heo vừa chặt vào nồi, Duyên Anh dốc hết chỗ gia vị vào, rồi dùng tay trộn đều, vừa trộn vừa nói:

      - Phải trộn đều như thế này, nó mới thấm vào trong.

      Tôi toan bắc nồi lên bếp, Duyên Anh ngăn lại:

      - Khoan đã, mình để chừng một tiếng nữa, cho dậy mùi, rồi xào, mới ngon được.

      Một lát sau, lửa thật già, anh bắc nồi lên bếp, dùng đũa đảo đều, cho những miếng giò heo săn lại, tới khi những vụn riềng cháy xém cạnh, mới bảo tôi đổ nước sôi vào, đun lên chừng hai mươi phút, rồi vặn nhỏ lửa, đậy nắp nồi lại, cứ mươi phút lại mở ra canh chừng cho tới khi nước vừa cạn thì đảo đều thêm một lần nữa, và đậy vung, tắt lửa.

      Mười lăm phút sau, đặt nguyên cả nồi lên bàn, chúng tôi mở nắp. Món giả cầy bốc khói nghi ngút, kéo theo mùi thơm ngào ngạt tỏa khắp gian phòng. Bên chai Martel, chúng tôi cho giả cầy thơm phức phối hợp với bánh đa vừng dòn tan và những ngọn bún mềm mại, mát rượi. Duyên Anh ăn ít, dành cho tôi quyền ưu tiên phá mồi. Uống ở nhà cũng như ở bất cứ chỗ nào, tôi đều chỉ uống một ly là đủ. Uống cho vui câu chuyện, chứ nhất định không để cho say. Về phần Duyên Anh, anh cạn ly này xong là tiếp tục rót ly khác, vừa uống vừa kể đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, chuyện trong nước, ngoài nước, chuyện trước 75, chuyện vừa xảy ra, nhớ chuyện gì anh nói chuyện ấy. Bất chợt tôi hỏi chuyện gì, anh mở ngăn kéo ký ức, thao thao bất tuyệt cho đến khi tôi hết thắc mắc mới thôi.

      Biết anh vừa sang London chơi, tôi hỏi:

      - Anh có tới thăm BBC không?

      Duyên Anh gật:

      - Có. Bạn anh, Kiều Vĩnh Phúc, có cho anh tới thăm.

      - Cơ sở của họ có lớn không? Tối tân không?

      Duyên Anh phá lên cười:

      - Chẳng ra cái con c. gì hết. Ở bên nhà, nghe nói BBC, mình cứ tưởng là ghê gớm lắm. Cơ sở khác của họ ra sao, anh không biết. Nhưng cái chỗ mà anh đến, nó cũng chỉ rộng bằng cái phòng khách nhà mình thôi, mà còn chung với mấy chương trình khác nữa.

      - Thế còn số nhân viên Ban Việt Ngữ. Được chừng bao nhiêu người ?

      - Cũng chẳng biết chính xác. Nhưng chắc không đến mười mạng đâu.

      - Mỗi người có bàn làm việc riêng không ?

      Duyên Anh cười ngất:

      - Anh đã nói rồi mà. Trông nó y như cái tòa soạn Nhật Báo Trắng Đen ở Saigon hồi xưa thôi. Có khi còn bé hơn nữa. Ở bên nhà, mình nghe “Đây là đài BBC, phát thanh từ Luân Đôn”, úi dào, nghe sướng quá đi mất thôi, có ngờ đâu, trước mặt mình, nó chẳng ra cái gì cả. Người ngợm chán lắm cơ ! (Sau này, khi có dịp nói chuyện với nhà văn Vĩnh Phúc, người đã đưa Duyên Anh tới thăm BBC, tôi được biết chỗ anh đến chỉ là phòng phát thanh chương trình Việt Ngữ. Vì Thế Giới Vụ của BBC có tới bốn mươi ngôn ngữ khác nhau, mỗi chương trình chỉ phát thanh troụi tư nhân mà.

      - Đường lối của đài dường như thân cộng phải không ?

      - Không phải. Tụi nó đứng trung lập.

      - Còn Ban Việt Ngữ thì sao ?

      - Nói riêng em biết, chỉ có mấy ngoe thôi mà cũng chia ra ba phe: Bọn thân cộng, phe chống cộng, và nhóm trung lập.

      - ĐV thuộc phe nào ?

      - Trung lập.

      - Thế còn anh Vĩnh Phúc ?

      - Dĩ nhiên là chống Cộng rồi. Nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng mới đánh du kích, phang cho Việt Cộng một cú thôi.

      - Sang London, anh ở đâu ?

      - Ở nhà anh Vĩnh Phúc. Anh ấy vốn là giáo sư, trước đây tu nghiệp ở Tân Tây Lan. Sau 75, trở thành thuyền nhân, và được BBC tuyển thẳng từ Pulau Bidong, năm 1979. Vĩnh Phúc ở chung với vợ con, hai trai một gái dễ thương lắm, và bà mẹ vợ. Nhà anh ấy có một phòng nhỏ để tiếp đón bạn bè từ xa tới. Năm ngoái, nếu em bằng lòng qua BBC làm, anh đã giới thiệu em với Vĩnh Phúc để em ở trọ nhà anh ấy trong thời gian đầu rồi.

      - Vĩnh Phúc nhỏ tuổi hơn anh ?

      - Kém anh vài ba tuổi gì đó. Con người tốt bụng, hào sảng và phóng khoáng lắm. Cái mà anh khoái nhất ở thằng này là lòng chân thật của nó. Nó là một thằng quốc gia, cô đơn giữa một bọn thân cộng và những thằng ươn hèn đứng giữa. Thằng Vĩnh Phúc, anh thương nó lắm.

      - Anh gặp Judy Stowe không ?

      - Có. Người phụ nữ này có vẻ lịch thiệp và trí thức.

      - Ngoài BBC ra, anh còn đi thăm những đâu nữa ?

      - Úi dào, anh đi có một hôm thôi, mấy bữa còn lại chỉ nằm nhà uống rượu. Đ.m, nước Anh chán lắm, chẳng có gì đâu!

      Thấy tôi nhíu mày, Duyên Anh giải thích, giọng nói đã bắt đầu nhừa nhựa:

      - Sông Thames nước rút, bẩn lắm, còn thua cái rạch Thị Nghè của mình nữa...Waterloo Bridge thì như con c. ấy. Ngày xưa mình xem phim Robert Taylor đóng với Vivian Leigh, cứ tưởng Waterloo Bridge là ghê gớm lắm !

      - Lại còn mấy cuốn L’Anglais Vivant nữa chứ ?

      - Ừ. Dạo ấy, mình cứ tưởng nước Anh là đệ nhất hoàn cầu. Anh nhớ, năm 1946, anh học đệ nhất niên, tức là lớp đệ thất, lần đầu tiên nhìn thế giới qua cuốn L’Anglais Vivant, mình phục tụi ăng lê quá đi chứ...

      Duyên Anh bỗng nhiên đổi đề tài:

      - Em biết, năm 1946 anh đã học đệ thất rồi nhé. Bây giờ, tính nhẩm xem, nếu anh cứ học đều đặn thì 1947 lên đệ lục, 1948 lên đệ ngũ, 1949 thi Trung Học Phổ Thông, 1950 vào đệ tam, 1951 thi Tú Tài 1, 1952, đỗ Tú Tài 2, 1953 làm sinh viên, cũng ngon lành đấy chứ?

      - Nhưng mà anh bỏ học?

      - Ừ, mẹ nó ! Học đâu có hết niên khoá, anh bỏ ngang về làng, rồi lêu lổng suốt ba năm ở quê nhà, có học hành gì đâu. Suốt ngày cứ theo trẻ con trong làng đi câu cá, đơm đó, làm ống bắt lươn, cất vó..., thôi thì đủ mọi trò...

      Nâng ly rượu uống một hơi hết một phần ba còn lại, Duyên Anh cười

      khanh khách:

      - Kể cũng lạ! Nhiều khi anh cứ tự hỏi tại sao Thượng Đế giao cho mình cái sứ mạng ấy; tại sao mình lại trở thành một thằng nhà văn nhỉ. Lạ lắm cơ! Nhưng mà, nghĩ đi nghĩ lại, anh cũng phải công nhận là chẳng đứa nào chịu khó làm việc như anh...

      - Dĩ nhiên. Em đã từng nói anh làm việc như một ông công chức có kỷ luật...

      Duyên Anh ngắt lời tôi:

      - Kỷ luật và đam mê.

      - Thận trọng nữa chứ? Cứ xem những chữ, những đoạn anh bôi xóa trên bản thảo...

      - Những chỗ nào viết chưa chỉnh thì phải tẩy xóa nó đi chứ. Đâu có thể múa bút như hồi viết báo được.

      Ngừng một lát, anh tiếp tục, giọng nói có vẻ trầm ngâm hơn:

      - Thượng Đế đã phó thác cho mình những khả năng nào thì mình phải biết dùng nó sao cho thích hợp...À này, có hàng nghìn đề tài đáng viết sau năm 1975 mà anh chưa khai thác được: chuyện cuộc chiến tàn chưa, chuyện có hòa bình rồi mà anh em trong nhà vẫn thù hận lẫn nhau, chuyện người dân liều chết vượt biên tìm tự do... Cái nước Việt Nam mình lạ lùng lắm, em ạ. Việt Nam soi sáng cho toàn thế giới. Thế mà không có Nobel, thì mình chỉ đáng ăn cứt thôi!

      Rồi đột ngột, anh chuyển qua đề tài khác:

      - Em biết không, ngày còn bé, anh mê Vũ Trọng Phụng lắm, coi ông ấy như thần tượng vậy. Sau này, xem lại những sách ông ấy viết, có nhiều câu cũng bất thành cú, và rải rác lỗi chính tả nữa. Nhưng dù sao, mình không thể phủ nhận ông ta là một trong những bến bờ chính của giòng sông văn học quê hương.

      - Tiếc là ông ấy chết trẻ quá nhỉ?

      - Cuộc đời Vũ Trọng Phụng khổ lắm. Một người có tài. Làm thư ký ở Godard, nuôi mẹ già, vợ dại con thơ; bệnh lao phổi nặng mà vẫn phải viết, viết thật nhiều. Thỉnh thoảng, Lan Khai dẫn Vũ Trọng Phụng đi ăn cơm Tây. Họ Vũ ngậm ngùi bảo Lan Khai: “Đời tôi, nếu mỗi tuần được đi ăn cơm Tây thế này thì đâu đến nỗi...”

      Tôi hỏi:

      - Về sau, con của Vũ Trọng Phụng, có ai theo đuổi nghiệp viết lách như ông ta không?

      Duyên Anh đáp:

      - Sau ngày 30 tháng tư chừng vài tháng, anh đi chơi với Hoàng Hải Thủy. Hôm ấy là một ngày mưa. Đi chơi về, ông bố anh ra ngoài cổng đón, bảo anh: “ Con trai Vũ Trọng Phụng muốn gặp mày đó. Anh ta chờ hơn một tiếng đồng hồ rồi.”

      - Như vậy là nhận bà con hay sao?

      Duyên Anh cười:

      - Không phải. Anh chàng này muốn gặp anh, chỉ vì anh ta biết Duyên Anh là Thương Sinh.

      - Anh ta có viết lách gì không?

      - Anh cũng không kịp hỏi nữa. Nhưng có lẽ, cũng phải là dân yêu mến chữ nghĩa...

      - Có thể, anh ta khoái Thương Sinh vì lối viết Thương Sinh gợi nhớ lối viết của bố anh ta?

      - Có thể lắm. Nhưng tội nghiệp thật, phải chờ hơn một tiếng chỉ để thấy mặt Thương Sinh thôi!

      Duyên Anh lại đổi câu chuyện:

      - Mấy hôm nay, anh đang nghĩ đến đoạn mở đầu quyển sách anh sẽ viết về ông cụ anh.

      - Ông cụ được tám mươi chưa ?

      - Cũng sấp sỉ thôi.

      Tôi nhớ, khoảng tháng 5, tháng 6, 1975, đến nhà Duyên Anh, tôi được gặp cụ thân sinh của anh. Ông cụ năm ấy, có lẽ chừng 70, dáng người nhỏ nhắn, có vẻ khoẻ mạnh. Đặc biệt, hàm răng và nụ cười Duyên Anh giống hệt bố anh.

      Duyên Anh nói tiếp:

      - Tội nghiệp ông cụ anh, ngày ngày cong mình thái dao cầu, đạp thuyền tán, bốc thuốc cho thiên hạ, cứ tưởng thằng con mình gửi lên Hà Nội chăm chỉ học hành và sắp trở thành bác sĩ. Ông cụ đâu có ngờ thằng qúy tử ham chơi hơn là ham học. Ngay cả khi biết anh vào Nam rồi, cụ vẫn cứ trông mong thằng con sẽ thành bác sĩ...

      - Thế cụ có biết anh trở thành nhà văn không?

      Duyên Anh lắc đầu:

      - Không, cụ chẳng biết gì hết. Nhưng dù không trở thành bác sĩ để cho bố anh hãnh diện, rốt cuộc mình cũng còn được chữ “sĩ” của một thằng văn sĩ. Có lẽ ông bố anh cũng không đến nỗi thất vọng lắm về anh đâu...

      Chúng tôi chuyển sang nói về việc Duyên Anh dự tính xuất bản những tiểu thuyết mới viết xong của anh. Tôi nêu ra một vài tên tuổi, đề nghị Duyên Anh nhờ họ lo dùm công việc đó. Anh lắc đầu, châm điếu thuốc mới, trầm ngâm:

      - Nếu phải nhờ, thì anh chỉ tin cậy em và một người nữa thôi.

      Tôi im lặng. Duyên Anh thở khói thành vòng tròn, ngậm ngùi:

      - Rốt cuộc, anh chỉ còn có một thằng bạn, cho đến giờ này, vẫn còn trung thành với anh mà thôi. Có những đứa, anh cứ tưởng là bạn. Chúng nó sang Paris, mình đưa đón, đãi đằng chúng nó. Về lại Mỹ, chúng nó gang họng chửi mình.

      Duyên Anh nói tiếp:

      - Thằng Côn , nó thương anh lắm! Suốt đời, nó chỉ hy sinh cho anh thôi. Tháng trước, ở nhà nó, nó cản không cho anh sang đây...

      Tôi ngắt lời Duyên Anh:

      - Chắc anh ấy lo ngại cho anh...

      Duyên Anh gật đầu:

      - Đúng vậy, nó lo cho anh. Nó bảo anh về Cali này là vùng có nhiều đứa thù ghét anh. Nhưng anh bảo nó “Tao phải đi”. Đ.m, anh sợ gì chúng nó chứ.

      Duyên Anh quay sang chuyện trước ngày rời Việt Nam:

      - Không ngờ, ở Saigon mình có những thằng em vẫn quý mến mình như xưa. Thằng Từ Kế Tường ở Tuổi Ngọc, em biết chứ? Nó làm chủ nhiệm Nhà Văn Hóa Quận 4, hồi anh đi tù về. Nghe anh về, nó đến thăm. Cháu Ki, con gái anh, ra bảo Tường “Bố cháu đi vắng rồi”. Thằng Tường có vẻ buồn, phàn nàn với Đinh Tiến Luyện. Anh nói với Luyện “ Mày bảo thằng Tường đến gặp tao. Hôm ấy tao đi vắng thật. Nó làm chủ nhiệm Nhà Văn Hóa thì kệ nó chứ. Đâu có phải vì thế mà tao không thèm tiếp nó. Nó vẫn là em tao thôi.” Mấy con nhà thằng Phạm Đình Thống, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Thanh Trịnh đều tốt với anh cả. Thằng Thống lo tìm thuốc men cho anh lúc anh bị ốm. Thằng Mường Mán thì ở xa, anh không gặp lại. Nói chung, mấy thằng em ấy vẫn quý anh. Thằng Nguyễn Thanh Trịnh vẫn viết đều. Có hôm, nó đi họp với bọn Tuổi Trẻ. Một thằng cán bộ văn hóa miền Bắc phát biểu: “ Kể cũng lạ, bao nhiêu năm rồi mà chúng ta chưa có được một nhà văn nào quyến rũ tuổi trẻ cho bằng thằng Duyên Anh”. Nguyễn Thanh Trịnh bảo anh: “ Em ngồi nghe chúng nó nói về anh như thế, em sướng quá!” Thằng Trịnh bảo anh: “ Em vẫn nhớ, anh là người đầu tiên giới thiệu em với độc giả trẻ tuổi thời ấy. Bây giờ, một năm chúng nó chỉ đăng cho em có hai truyện, làm sao độc giả biết đến em được.”

      Tôi hỏi:

      - À, thế trên tờ Tuổi Trẻ, thằng nào vẽ anh đang chụm củi nồi nước sôi, luộc đám nhi đồng?

      - Mẹ nó. Một thằng nhóc tên là Vũ.

      - Nó là bạn cháu Chương?

      - Không, bạn cái con mẹ gì. Nó là con thằng C. ở đây này. Con riêng của vợ lớn nó. Thực ra, nó vẽ thì cũng chỉ vì theo lệnh của mấy thằng to đầu thôi. Hôm biết anh về rồi, nó bảo với thằng Thống: “ Tôi không dám đến gặp ông Duyên Anh đâu. Tôi xấu hổ lắm.” Thằng Thống bảo: “ Không, mày cứ gặp ông ấy chứ. Ông ấy coi mày ra cái đ. gì. Con cháu mà.”

      Duyên Anh “hừ“ một tiếng:

      - Đ.m nó, cuộc đời anh nghĩ lại, thật trầm luân đủ thứ. Chán lắm cơ! Nhiều lúc khổ vì …, anh phải nghĩ, có lẽ đó là cái thắng để thắng bớt mình lại, cho mình khỏi đi quá đà...

      - Hoặc là để cho anh tập rèn luyện một đức tính gì anh vẫn còn chưa có, hay có mà chưa đủ,...đức nhẫn chẳng hạn...

      - Nhẫn?

      - Vâng, em thấy lúc này, anh có vẻ biết nhẫn nhịn hơn rồi đó. Ít nhất, có thể nói, tương đối là như vậy. Hồi xưa, trên mặt báo, ai đụng anh một chút là phải biết nhé.

      Duyên Anh cười:

      - Bây giờ thì anh có thể nói với em rằng, chúng nó có chửi anh trên báo, thì chúng nó cứ tha hồ. Thứ nhất, anh không có thì giờ đọc. Thứ nhì, có đọc thì anh cũng kệ mẹ chúng nó thôi. Ngu đâu mà mình mất thì giờ trả lời, hay đôi co với những đứa chẳng ra gì ấy ? Chúng nó in lậu sách của anh, ăn cắp bao nhiêu công trình tim óc của mình mà lại còn bảo “ Sách của Duyên Anh chỉ đáng vứt vào sọt rác” thì lạ quá, anh chẳng thể hiểu nổi ! Nhưng thôi, chúng mày nói gì thì nói, tao không thèm nói lại. Tao khinh bỉ chúng mày, chẳng thèm để ý đến chúng mày nữa, chúng mày đ. xứng đáng để tao phải mất công nhắc tới nữa...

      - Cứ giữ thái độ ấy đi, coi như là “đạt” rồi đó. Coi như Duyên Anh đã “đắc đạo”, thoát khỏi cái vòng “thất tình” luẩn quẩn.

      - Đ.m, còn lâu mới “đắc đạo”. Còn phải xét lại đã. Để từ từ, còn lâu mà...

      - Bây giờ, ví dụ thôi nhé, nếu Tạ Tỵ muốn làm hoà....

      - À, Tạ Tỵ hả. Được chứ. Nếu Tạ Tỵ gọi cho anh, bảo “ Ê, Duyên Anh, ngày mai đi uống rượu với tao”, thì anh ô-kê liền thôi.

      - Như vậy, kể ra anh cũng cao cả lắm đấy chứ. Anh biết làm theo lời Chúa Jesus, tha thứ cho kẻ thù...

      - Ối dào, anh tha thứ cho nhiều đứa khác nữa đấy chứ. Ngay thằng cộng sản, mình còn tha thứ được nữa mà? Có lần, sau khi đi tù về, anh gặp lại một thằng công an coi tù. Hồi ở trong trại, nó hành bọn tù chúng anh ghê lắm cơ. Anh vừa chào nó “Thưa cán bộ...”, thằng nhỏ đã rối rít “anh anh, em em” ngọt xớt. Nó bảo nó hết làm công an rồi. Anh cũng chẳng hỏi vì sao, nhưng anh đoán cu cậu phạm lỗi gì, bị sa thải rồi, vì trông nó có vẻ đói rách lắm. Nói chuyện qua quít một hồi, anh móc túi cho nó ít tiền, cu cậu cảm động, cám ơn cám huệ mãi. Xét cho cùng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản và bọn thiểu số lãnh tụ chóp bu là kẻ thù để mình chống thôi. Những thứ cắc ké như bọn cán bộ quản giáo, công an coi tù...chúng nó có ra cái gì, mà mình phải coi chúng là kẻ thù?

      - Mình chỉ chống chủ nghĩa thôi, chẳng nên chống con người?

      Duyên Anh gật gù:

      - Đúng vậy. Như thế mới là nhân bản chứ. Nhưng cũng vì thế mà anh vướng vào những hệ lụy mới.

      Tôi nhìn anh dò hỏi:

      - Nghĩa là ...

      - Thì cũng vì anh tội nghiệp những thằng công an con nít, cho chúng nó thuốc lá, lạp xưởng, dạy chúng nó làm thơ tán gái , một số bạn tù cho rằng anh khiếp nhược, sợ bọn cai tù, đầu hàng cộng sản. Thậm chí, có người còn bảo anh làm việc cho cộng sản nữa. Nhưng không sao, anh bằng lòng chịu những hệ lụy đó. Để khỏi phải a dua với chúng nó.

      Tôi hỏi:

      - Như vậy, quan niệm của anh giống NT?

      Duyên Anh có vẻ không bằng lòng về sự so sánh đó:

      - Ông NT thì làm sao thù hận cộng sản được. Như mình đây này, bị chúng nó nhốt gần sáu niên, thì mới nói chuyện thù hận hay không thù hận chứ. Còn ông ấy, chúng nó không thèm bắt ông ấy, chẳng thèm nhốt ông ấy ngày nào, cũng chẳng chửi rủa ông ấy dòng nào trên sách báo của chúng, thì nói chuyện không thù hận cộng sản cũng chỉ bằng thừa thôi. Nếu anh là ông ấy, thì anh cứ làm chuyên viên computer thôi, không viết văn chống cộng nữa. Vì cộng sản nó có coi ông ấy ra cái gì đâu mà phải viết chống chúng nó?

      Ngừng lại một vài giây, Duyên Anh tiếp:

      - Ông NT và mấy nhà văn cùng quan điểm với ông ta, trong thời gian gần đây, có vẻ muốn tôn vinh chủ nghĩa Mác xít. Họ lầm tưởng chủ nghĩa này sẽ đưa họ lên một đỉnh cao nào đó của nghề viết. Nhưng mà, em phải biết, ngay cả Thượng Đế cũng không tạo ra nổi một thằng nhà văn cự phách. Thế thì một cái chủ nghĩa vớ vẩn như Mác xít, làm sao mong làm được chuyện đó? Những ai nghĩ rằng Đảng xây dựng họ, Đảng đẻ ra họ, là láo toét hết. Chẳng có thứ uy quyền linh thiêng nào trên trời dưới đất có thể đẻ ra nhà văn hết. Nhà văn, trước hết, phải có chút tài Thượng Đế ban cho. Nhưng nó đâu có thể ngồi không? Nó cũng phải cố gắng làm việc hết mình, mới tạo ra tác phẩm được chứ. Thế thì làm sao chủ nghĩa tạo ra chúng nó được? Anh cho là, chỉ những anh nhà văn hết thời, những anh viết lách chẳng ra gì, mới mang ảo tưởng dựa dẫm vào chủ nghĩa, và vào Đảng, để mong vớt vát chút danh thừa mà thôi.

      Tôi hỏi:

      - Anh căn cứ vào tác phẩm hay phát biểu nào gần đây của NT để nhận xét như vậy? Ít ra, NT cũng chiếm giải văn chương toàn quốc thời cụ Ngô?

      Duyên Anh nói ngay:

      - Chẳng dựa vào phát biểu nào cả. Anh nhận thấy vậy thôi. Ông NT viết văn, và dự giải thi văn chương rất sớm, khi miền Nam mới có rất ít người viết thôi.

      Bất chợt, Duyên Anh lại chuyển qua câu chuyện khác:

      - Hôm nọ, ông Đ. dẫn anh đi xem bói...

      - Bác sĩ HVĐ ấy hả ?

      - Ừ. Mẹ, thằng thầy bói này ở Santa Ana. Nó bảo để cho nó photocopy lá số tử vi của anh. Nó bảo “ông là bậc chính nhân quân tử, tới năm 1992, ông sẽ được một giải thưởng”. Anh hỏi giải thưởng gì, thì nó không nói. Nhưng mà nó nói trúng phong phóc những chuyện gì đã xảy ra cho anh hồi còn ở Việt Nam. Rồi nó nhìn mặt anh, bảo anh có một nốt ruồi cần phải tẩy đi, nếu không thì công danh sẽ chậm, và gia đạo cứ xào xáo hoài...

      - Thế anh có tin lão thầy bói này không ?

      - Không. Anh đếch thèm tẩy. Nó là cái đ. gì mà bảo anh làm theo ý nó. Mẹ thằng thầy bói ấy, anh không chửi thẳng vào mặt nó là may ấy chứ. Anh định bảo nó: “ Anh tưởng nói như thế là tôi sướng à ? Tôi tin c. gì anh ? Anh cũng là con người như tôi chứ thầy tướng thầy bói cái đ. gì...”

      - Thế sao anh bảo hắn nói đúng mấy chuyện quá khứ?

      - Thì có thể Thượng Đế bảo cho nó nói như vậy. Thượng Đế sinh ra mình, tóc tai, râu ria như thế này, ông ấy cho cái gì, mình nhận cái đó, cho mình cái nốt ruồi thì mình giữ lấy, chứ tẩy xoá làm cái gì? Tẩy xoá như thế tức là chống Thượng Đế. Vậy thì mày muốn ông chống Thượng Đế để ông chết à?

      Duyên Anh cười khà khà rồi tiếp:

      - Mày hơn Thượng Đế không? Mày cũng là con người như tao mà mày xúi tao chống Thượng Đế à? Mà nếu không có Thượng Đế thì cha mẹ tao sinh ra tao. Tao nghe mày để chống cha mẹ tao à? Tao đ. vào. Nó bảo anh “ Tôi cam đoan với ông, ông cứ tẩy đi, mọi việc sẽ hanh thông ngay thôi”. Anh hỏi lại nó “Ông thầy lấy cái gì để cam đoan với tôi?“ nó bảo “ Ông muốn tôi lấy cái gì cũng được”. Anh không nói gì thêm nữa.

      Tôi hỏi:

      - Anh có giữ một bản sao những gì hắn đoán cho anh không?

      - Có chứ được không ? Tao tin ở tài năng của tao thôi. Tài năng ấy, Thượng Đế cho tao. Ông ấy cho tao cái hình hài này, đ.m, tao phải giữ chứ ? Mày chỉ là cái thằng thầy bói cắc ké, mày dám ngon hơn Thượng Đeá à ? Mày chỉ nói ra cái điều tao biết chắc chắn là sẽ xảy ra, đấy là cái giải thưởng. Cần chó gì mày phải nói ra điều ấy. Tao tin tao là đủ rồi.” Mẹ nó, anh đ. tin, Duyên Anh mà, chướng lắm cơ!

      - Thế rồi hắn nói gì nữa không?

      - Nó bảo “ Ông mà không nghe tôi thì gia đạo bất an, sự nghiệp công danh sẽ hỏng đấy.” Anh muốn nói với nó: “ Mày nhầm rồi, tao không chửi mày là may cho mày đó. Bởi vì, tao đi xem bói đ. mất tiền, đã có người trả tiền cho tao rồi. Cha mẹ sinh ra tao, tẩy xoá cái gì cha mẹ cho mình đã là phạm tội bất hiếu rồi. Mà nếu Trời sinh ra mình, mình không bằng lòng cái của Trời cho, tẩy xoá đi, ông ấy nổi giận thì chỉ có nước chết với ông ấy thôi. Đ.m, mày doạ tao, tao không sợ đâu. Đã có ông ấy che chở tao rồi. Tao chỉ sợ ông Trời thôi. Tao mà chống ông ấy, ông ấy bảo thằng Vũ Mộng Long này hỗn quá, ông ấy đập cho một phát là đời tao khốn nạn ngay. Mẹ anh thầy bói, tôi nhờ anh tí. Anh chưa có đủ tư cách để dọa tôi đâu. Tôi còn đẻ ra các anh thầy bói ấy chứ.

      Hít một hơi thuốc, Duyên Anh cười khà khà, rồi tiếp:

      - Rốt cuộc, chỉ có những người như ông anh HVĐ của chúng mình mới đi tin thầy bói thôi. Đ.m, thiên hạ điên hết rồi. Trên đời này, có lẽ chỉ có hai anh em mình là chưa điên thôi. Mình không tin mình mà lại đi tin mấy thằng thầy bói! Tin cái con c.. Mất vài ba chục nghe chúng nó nói cho sướng tai vậy thôi. Mất tiền cho mày để mày nịnh ông cho ông sướng chốc lát. Có vậy thôi. Nhất là, nếu nghe nịnh mà không mất tiền thì thỉnh thoảng cũng nên nghe chơi cho biết.

      - Như vậy, anh tin cái gì?

      Duyên Anh thôi cười. Suy nghĩ vài giây, anh chậm rãi:

      - Anh tin nơi một Đấng nào đó che chở cho anh. Và anh cũng tin nơi những việc tốt đẹp mình đã và sẽ làm. Anh tin là mình sẽ không làm những điều xấu…

      Tôi ngắt lời anh:

      - Chứ nhất định không tin thằng thầy, con bà nào hết phải không?

      Duyên Anh lại bật cười ha hả:

      - Đúng vậy. Chúng nó có phải thánh thần do Trời sai xuống đâu? Rặt một bọn mồm mép, dùng trò bói toán làm kế sinh nhai thôi. Thế mà cứ làm như có sứ mạng cứu nhân độ thế vậy đó...Anh có bao giờ thèm tin chúng nó đâu...

      Nhìn nồi giả cầy mới vơi đi một góc, Duyên Anh bảo:

      - Mình ăn tối nay, chưa ngon đâu. Giả cầy này, phải hâm lại lần thứ nhì, thứ ba, càng hâm lại càng ngon hơn lúc mới nấu xong.

      Đúng như anh nói, chúng tôi chỉ dùng muôi múc ra bát vừa đủ ăn thôi. Tối hôm sau, hâm lại, hương vị giả cầy đậm đà hơn nhiều.

      Câu chuyện không đầu, không đuôi giữa hai anh em tôi lại tiếp tục, bên ly rượu, mãi đến quá nửa đêm...

      Comment


      • #4
        Duyên Anh Và Tôi

        Chương 3

        Một buổi tối cuối tháng hai, 1988, chúng tôi ngồi bên hai phin cà phê, dưới hàng hiên nhìn ra con đường Lake. Duyên Anh đốt thuốc liên tục, nuốt khói, rồi ngửa cổ thả những vòng tròn hình chữ “ O”. Tôi hỏi anh về thời kỳ làm báo Xây Dựng. Duyên Anh cười vui:

        - Thú vị lắm em ạ, là cái thời kỳ này! Mình có cảm tưởng công việc viết lách của mình cũng giúp ích được cho một số người đáng được giúp đỡ. Anh muốn nói đến những người thấp cổ bé miệng, không có tiền hối lộ viên chức chính quyền hay thuê luật sư. Họ biết trông cậy vào ai nữa, ngoài mấy thằng nhà báo như bọn anh?

        - Trong thời gian viết báo này, có vụ nào anh cho là ngoạn mục nhất?

        - Vụ đồn điền cao su Xuân Lộc.

        Tôi nói:

        - Anh kể đầu đuôi vụ này em nghe coi.

        Duyên Anh chậm rãi:

        - Như thế này nhá…Thật ra, cũng chẳng có gì ghê gớm cả. Đồng bào di cư Nùng được phép canh tác trên đất của đồn điền cao su từ thời ông Diệm. Bọn Tây đồn điền muốn bán đất, nên hối lộ cho chính quyền tỉnh Long Khánh và tòa án Biên Hòa, để ra án lệnh trục xuất đồng bào di cư. Mọi thứ đã xong xuôi cả rồi. Coi như đồng bào chỉ còn có việc thu dọn đồ đạc, đi kiếm chỗ khác sinh sống thôi.

        - Anh có lên tận nơi quan sát không?

        - Có. Ông Lãm bảo anh lên. Có cả phóng viên mấy tờ báo khác nữa. Lúc mới xuống đến nơi, anh nghĩ ông Lãm gửi anh đi làm một chuyện thừa thãi. Vì tụi nó dàn xếp với nhau cả rồi mà. Giấy tờ chúng nó ký cả rồi.

        - Anh có tiếp xúc với đồng bào chứ?

        - Dĩ nhiên. Hôm ấy, phe Tây đồn điền dẫn theo một thằng thừa phát lại. Thấy nó cứ xum xoe với mấy thằng Tây, anh đã bực mình rồi. Chính cái thằng thừa phát lại mất dạy này mới là cảm hứng cho mấy bài báo của anh trên Xây Dựng.

        - Mất dạy như thế nào?

        - Anh hỏi nó là tòa đã ra án lệnh chưa, và có thể cho chúng tôi xem không. Nó bảo “Anh là cái gì mà đòi xem án lệnh?” Anh bảo “ Chúng tôi là nhà báo”. Nó đòi anh trình thẻ nhà báo cho nó xem. Anh bảo “Ông không có quyền gì xem thẻ ký giả của tôi cả. Ông không muốn cho xem, thì chúng tôi đi về”. Thế là anh đi về. Và sáng hôm sau, Xây Dựng chơi một bài tám cột anh viết, ký tên Mõ Báo. Cái tựa nghe nổ như tạc đạn “Toà Án Biên Hòa và Chính Quyền Xuân Lộc Cấu Kết với Thực Dân Tây Đồn Điền Tiêu Diệt Đồng Bào Di Cư Nùng”

        Duyên Anh cười phá lên rồi tiếp:

        - Đ.m, thế là ta đặt lên thành vấn đề chính trị. Ngay lập tức, cha con chúng nó hoảng mẹ nó lên! Nguyên do cũng chỉ vì thằng thừa phát lại hỗn với anh thôi. Giá mà nó khiêm tốn hơn một tí, bảo anh “ Dạ đây, án lệnh đây, mời ông xem” thì đã đâu có chuyện gì. Bọn Tây đồn điền gọi điện thoại thương lượng với ông Lãm. Anh có mặt ở tòa soạn lúc chúng nó gọi…

        - Họ đề nghị những gì?

        - Chúng nó bảo, nếu anh bằng lòng ngưng loạt bài chửi chúng nó, chúng nó sẽ tặng cho anh hai trăm ngàn…

        - Hai trăm ngàn vào thập niên 60 cũng khá lớn đấy chứ? Anh còn nhớ năm nào không? Và hồi đó, lương tháng anh được bao nhiêu?

        - Dĩ nhiên. Năm 1964. Hàng tháng, ông Lãm trả anh mười lăm ngàn. Hai trăm ngàn là đủ để mua một căn nhà rồi…

        - Lúc ấy, anh đã mua nhà chưa?

        - Chưa, anh còn đang ở nhà thuê.

        - Cám dỗ cũng mạnh đấy. Ông Lãm có bảo gì anh không?

        - Ông ấy hỏi anh nghĩ sao. Anh nghĩ, mình mà nhận lời, nó có thể lừa, và cho mình vào tròng; thân bại danh liệt là cái chắc. Ngu gì chơi trò thả mồi bắt bóng? Mình đang thắng thế mà? Em phải nhớ, lúc ấy anh mới hai mươi chín tuổi thôi. Vẫn còn ăm ắp lý tưởng về thiên chức làm báo của mình. Anh nói với ông Lãm “Ngài cứ cúp máy xuống, phải chơi tiếp mới được”. Mình đã nhập cuộc chơi, đâu có thể đánh trống bỏ dùi được. Sau đó, anh đi một lúc ba bài báo ký tên Thương Sinh, trong lúc Mõ Báo tiếp tục chửi thằng thừa phát lại hít tô phe ( hút thuốc phiện ). Rốt cuộc, tòa xé án lệnh, quyết định cho xử lại. Bọn lâu la của Tây đồn điền phá rẫy của đồng bào Nùng. Chúng dùng máy cày đào tung khoai lang, khoai mì, và mùa màng của đồng bào, chất đầy trước trụ sở xã ấp. Đ.m nó, đâu có thể để cho con người ta vỡ đất hoang, khai khẩn hằng chục năm, tới khi đất tốt, trồng trọt được thì lại đuổi người ta đi chỗ khác? Thế là tòa án Biên Hòa phải hủy bỏ án lệnh, đồng bào di cư được bồi thường số hoa mầu bị phá hoại, và được tiếp tục canh tác như cũ.

        Duyên Anh cười sảng khoái:

        - Đ.m, mình cũng sướng nữa! Đồng bào Nùng treo biểu ngữ trước cửa báo Xây Dựng, cám ơn mình. Mấy ông chức sắc Công Giáo, Phật Giáo, và đại diện đồng bào Nùng, cả ông đại tá Wòng A Sáng nữa, mời Xây Dựng dự tiệc mừng ở nhà hàng Đồng Khánh. Một ông đại diện đồng bào Nùng đọc diễn văn, ca tụng “ Ba bài báo sấm sét của ông Thương Sinh giống như ba nhát búa của Trình Giảo Kim!” Họ làm anh vừa sung sướng vừa xấu hổ.

        Tôi nói:

        - Như vậy, có thể coi như anh là con gà nòi của Xây Dựng?

        Duyên Anh gật gù:

        - Nói như vậy cũng không phải là quá đáng. Anh vừa làm phóng viên, vừa viết feuilleton, vừa viết phóng sự hài hước. Sau này, ông Lãm còn giao cho anh viết phim trang ngoài nữa…

        - Anh viết phóng sự nào vậy?

        - Kép Cũ Tuồng Mới. Lấy bút hiệu Thương Sinh.

        - Tại sao lại là Thương Sinh?

        - Lúc ấy mình có để ý chó gì đâu! Cứ nghĩ nôm na, Thương là thương yêu, Sinh là chúng sinh. Thương Sinh là thương người, yêu người vâäy thôi. Về sau, tra tự điển Hán Việt, mới biết Thương Sinh nghĩa là đau ốm, bệnh hoạn. Hình như bút hiệu này nó vận vào người hay sao đó. Trong thời gian làm báo, anh cứ hết bệnh nọ đến tật kia hoài.

        - Anh viết những gì trong Kép Cũ Tuồng Mới ?

        - Anh chửi bọn lãnh tụ đảng phái, bọn chính trị gia hoạt đầu, bọn chủ nhiệm báo chí vô lương: Thời Ngô Đình Diệm thì hèn mạt suy tôn Ngô Tổng Thống. Ông Diệm vừa đổ thì gang họng lên án Ngô triều, và bịa đặt đủ thứ chuyện tồi bại để lăng nhục gia đình họ Ngô. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn thôi. Ông Lãm thâáy mục này đụng các đảng phái kỹ quá, đề nghị anh ngưng viết, thay bằng film du jour.

        - Viết phim, anh lấy bút hiệu gì?

        - Mục phim này, anh đặt tên Trong Họ Ngoài Làng, nên dùng bút hiệu Mõ Báo.

        - Còn feuilleton?

        - Ảo Vọng Tuổi Trẻ.

        - Đây là cuốn viết về thời anh theo Duy Dân lên Ban Mê Thuật làm cách mạng?

        - Dựa trên một số chi tiết về thời gian ấy thôi. Tiểu thuyết mà.

        - Chắc ông Lãm thấy ngay được sở trường của anh là ở phóng sự tiểu thuyết?

        - Có lẽ như vậy. Vì thế, lúc anh đề nghị làm phóng sự Chợ Người, ông ấy bằng lòng ngay…

        - Chợ Người?

        - Ừ. Sau khi bắt buộc phải ngưng Kép Cũ Tuồng Mới, anh nẩy ra ý định viết một phóng sự về những phụ nữ từ các vùng quê nghèo lên Sài gòn kiếm sống, phải đi ở mướn thời ấy. Mỗi lần đi qua bùng binh chợ Bến Thành, nhìn những phụ nữ nghèo khổ, ngồi buồn chờ thiên hạ tới mặc cả, thuê mướn về làm người ở đợ, anh thấy dậy lên một niềm bất nhẫn, không viết không chịu được.

        Tôi hỏi:

        - Thời gian ở Xây Dựng, anh làm việc với những ai?

        - Anh khá thân với Vũ Bình Nghi, Tường Tuấn, và Triều Khê.

        - Họ làm công việc gì cho Xây Dựng?

        - Triều Khê là họa sĩ, phụ trách trang thanh thiếu niên. Vũ Bình Nghi cũng là họa sĩ, trình bày báo, thỉnh thoảng có viết tin. Còn Tường Tuấn là Tổng Thư Ký.

        - Tường Tuấn, em có gặp mấy lần ở khu nhà thờ Ba Chuông, khoảng cuối 1981. Anh ấy mở một quán cà phê trên vỉa hè. À, anh còn nhớ vụ Nguyễn Văn Trỗi không?

        - Cái thằng “liệt sĩ” của Hà nội ấy à? Bấy giờ là thời Nguyễn Khánh. Thằng đặc công nhóc con bị Việt Cộng dụ dỗ làm Kinh Kha đi giết Mc Namara.

        - Thằng này có hô “Hồ Chí Minh Muôn Năm” ba lần, như chúng nó kể lại trong Sống Như Anh không?

        Duyên Anh cười khẩy:

        - Muôn năm cái con mẹ gì! Vãi đái ra quần thì có. Thằng NTL đi xem xử bắn về, kể lại cho anh em nghe: “… Khi bị dẫn ra sân bắn, trong nhà tù Chí Hòa, ông liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi một mực kêu oan và khóc như di ấy. Nó bảo nó không biết gì cả, chỉ bị mấy thằng Việt Cộng dụ dỗ, xúi đi đặt chất nổ thôi. Nó có biết Mc Namara là thằng quái nào đâu?…”

        Một buổi tối khác, uống rượu với nhau, tôi hỏi Duyên Anh:

        - Anh có biết vụ Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn?

        Duyên Anh gật đầu:

        - Lúc Nguyễn Khánh cho bắn Trưởng Ty Công An Phan Quang Đông ở sân vâän động Huế, anh cũng đang ở đó, nhưng không đi xem. Buổi trưa, xử bắn Phan Quang Đông. Đến chiều thì bắn Ngô Đình Cẩn.

        - Phan Quang Đông bị bắn vì tội mật vụ?

        - Mật vụ cái chó gì! Tội công giáo thôi. Để xoa dịu Phật giáo, thực ra là xoa dịu nhóm Phật giáo quá khích phe TTQ.

        - Còn Ngô Đình Cẩn? Ông ta có “lãnh chúa ác ôn” như thiên hạ đồn không?

        - Ngô Đình Cẩn chỉ là một ông nhà quê nhí nhố, đáng tội nghiệp thôi. Tội nghiệp vì bị ĐM lừa cho sập bẫy.

        - Lừa như thế nào?

        - ĐM vào thăm Ngô Đình Cẩn trong khám Chí Hòa, bảo Ngô Đình Cẩn cứ nhận tội cũ đi, không sao đâu; rồi lúc ra tòa, ông ta sẽ dùng uy tín cá nhân, bảo tòa xử cho trắng án. Cậu Út Trầu ngây thơ, tin vào lời hứa nhảm. Thế là bị chúng nó lôi ra bắn. Ở sân sau khám Chí Hòa, đối diện một ngôi chùa. Cũng chỉ để xoa dịu bọn quá khích thôi.

        - Ông Diệm, ông Nhu bị giết rồi. Bắn thêm Ngô Đình Cẩn ích lợi gì đâu?

        - Thì vậy. Buổi tối xem bắn ông Cẩn về, anh viết một bài tường thuật vụ xử tử cho Xây Dựng. Sáng hôm sau, đưa cho ông cha Lãm. Nhưng ông ấy không dám đăng.

        - Anh viết những gì? Vì sao ông ấy không đăng?

        - Đại khái, anh nêu ra những nghi vấn về sự hồ đồ trong việc vội vã kết án tử hình Ngô Đình Cẩn. Anh kết luận “Nhưng dù thế nào đi nữa, Ngô Đình Cẩn đã chết, đã chết thật rồi! Chúng ta còn lý do gì để tiếp tục thù hận nữa không?” Trong một ngày, hai cái chết, hai vụ xử bắn. Như thế là quá đủ rồi. Sau đó, anh bảo ông Lãm “Để tường thuật mấy vụ giết người này, Ngài sai đứa khác đi”. Em biết không, hồi mười tuổi, anh đã bị chứng kiến vụ xử tử tên Việt gian Ban ở Vọng Cung.

        - Anh có nhắc tới trong Con Thúy phải không?

        - Ừ. Xem bắn người, ghê bỏ mẹ! Nhưng mà điều đặc biệt ở Ngô Đình Cẩn là ông ta có vẻ rất bình tĩnh trước cái chết. Ông ta mặc áo dài đen, quần trắng. Mắt bị bịt chặt; hai tay bị trói vào cột. Một tiểu đội hành quyết cùng bắn. Ông ta khụy xuống. Được thêm một phát súng lục ân huệ vào đầu cho chết hẳn.

        - Người ta đồn Ngô Đình Cẩn có cả trương mục ở ngoại quốc?

        - Không phải đâu. Ngô Đình Cẩn chẳng có gì hết. Ông ta chỉ là một anh già trầu nhí nhố, thích quyền bính thôi.

        - Còn Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục? Ông tướng Nguyễn Chánh Thi viết trong hồi ký là ông Thục cho người ký hợp đồng khai thác gỗ với Việt Cộng. Khu rừng đang khai thác, không ai được bén mảng tới. Những xe chở gỗ này của Đức Cha, không ai được phép xét hỏi. Nhờ đó, Việt Cộng cải trang thành thợ rừng, xâm nhập vào các đô thị của mình…

        - Ông Nguyễn Chánh Thi nói như vậy là quá. Anh biết ông Ngô Đình Thục. Ông ấy chỉ có cái tham vọng lớn nhất là trở thành Hồng Y thôi. Muốn như vậy, ông ta phải làm sao cho có thêm thật nhiều người tân tòng. Dĩ nhiên, ông ấy có cậy thế ông Diệm làm một số điều phiền lòng những người theo Phật giáo ở Huế.

        Tôi hỏi:

        - Thế còn vụ xử Đặng Sĩ, sự thực như thế nào?

        - Sự thực, là vụ này do TTQ đạo diễn, áp lực Nguyễn Khánh đưa Đặng Sĩ ra xử, để dằn mặt Công Giáo thôi. Thiếu Tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội Anh Thừa Thiên, bị chúng nó tố cáo dùng xe tăng xích sắt đàn áp đồng bào Phật Giáo biểu tình ở Đài Phát Thanh Huế, và cho lính ném lựu đạn vào đám đông…

        - Tố cáo tầm bậy! Ít nhất là cái vụ ném lựu đạn. Mới đây, báo chí Mỹ tiết lộ một thằng CIA Mỹ tên là Scott đã đặt chất nổ trước Đài Phát Thanh Huế, hôm ấy. Và tại sao lại xử một mình Đặng Sĩ? Không nhận lệnh của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, làm sao Phó Tỉnh Trưởng Đặng Sĩ dám đem xe và lính đến dẹp biểu tình?

        - Thì đấy mới là chuyện khôi hài. Lý do chính: Tỉnh Trưởng là người của Tư Lệnh Vùng 1. Cả hai đều là người của Phật Giáo. Chúng nó phải đưa Đặng Sĩ ra làm vật tế thần chứ?

        - Hồi ấy Tư Lệnh Vùng 1 là ai, anh còn nhớ không?

        - Nguyễn Chánh Thi. Ông này viết hồi ký, tự đề cao mình quá xá. Ông Thi dùng cuốn hồi ký này để kể tội bọn Thiệu Kỳ buôn lậu, và chửi những thằng đã đá ông ấy khỏi Việt Nam. Ông ấy không hề dám nhận mình đã có trách nhiệm gì trong vụ Thanh Bồ, Đức Lợi…

        - Vụ này như thế nào?

        - Hai làng Công Giáo Thanh Bồ và Đức Lợi nằm gần Đà nẵng, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Vùng 1 Chiến Thuật của ông Thi. Bọn lâu la của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, tay sai TTQ, đã đốt rụi hai làng này…

        - Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc? Họ gồm những ai?

        - Mấy thằng trí thức miền Trung, Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, và mấy thằng nữa, anh không nhớ tên. Chúng nó làm tờ Lập Trường ngoài Huế…

        - Anh có thấy tận mắt cảnh điêu tàn ở hai làng này sau vụ đốt phá không?

        - Có. Anh đi theo phái đoàn Công Giáo của Tổng Giám Mục Saigon ra tận nơi…

        - Anh thấy những gì?

        - Nhà tranh , nhà gỗ, cháy rụi hết. Nhà gạch chỉ còn trơ nền và mấy bức tường. Có chỗ, than lửa vẫn còn âm ỉ. Nhà thờ cũng cháy tiêu. Dân làng phải tản cư qua các làng lân cận lánh nạn…

        - Anh có dự phiên tòa xử Đặng Sĩ không?

        - Anh có mặt từ đầu đến cuối.

        - Rồi về tòa soạn viết bài tường thuật?

        - Không. Anh chỉ ghi chép các chi tiết. Giờ nghỉ trưa, ông Lãm ra quán ăn, chỗ anh ngồi, lấy những trang ghi chép, đem về cho người khác viết. Ở Saigon thời ấy, báo nào cũng tường thuật vụ Đặng Sĩ. Nhưng chỉ Xây Dựng là dám đi những bài thật bốc lửa cũng chưa từng nhận một ân huệ nào của ông ta. Nhưng phải công nhận, ông ta là một người trí thức có tầm vóc, một sĩ quan can đảm (Tháng 7, 1999, gặp cựu đại tá quân pháp NVQ, tôi hỏi thăm, được biết đại tá Nguyễn Văn Đức, giám đốc Nha Quân Pháp, đã qua đời năm ông vừa đúng 49 tuổi ).

        - Vậy thì những bài báo nặng ký bênh vực Đặng Sĩ là do ai viết?

        Duyên Anh yên lặng một vài giây trước khi trả lời:

        - Loạt bài ký bút hiệu Lê Thượng Hòa, một tên tuổi hoàn toàn xa lạ với làng báo thời đó. Lúc đầu, ông Lãm giấu, không cho biết Lê Thượng Hòa là ai cả. Về sau, ông ấy cho anh và vài người thân tín biết, Lê Thượng Hòa chính là bác sĩ Trần Kim Tuyến…

        - Ông Trần Kim Tuyến, giám đốc mật vụ thời cụ Diệm?

        Duyên Anh gật đầu:

        - Miền Nam chỉ có một Trần Kim Tuyến thôi.

        - Rốt cuộc, họ xử Đặng Sĩ như thế nào?

        - Ông ấy bị đày ra Phú Quốc. Tội nghiệp, gia đình ông ấy bị ly tán: con cái phải gửi cho họ hàng nuôi dùm!

        Duyên Anh ngưng một lát, chép miệng:

        - Rốt cuộc, chung qui cũng lại thằng Mỹ thôi. Không có Mỹ yểm trợ ngầm, sức mấy các ông sư lật nổi ông Diệm. Thời Nguyễn Văn Thiệu, các ông ấy cũng chống Thiệu tưng bừng đấy. Nhưng Thiệu được Mỹ tin dùng, các ông ấy có làm quái gì được Thiệu đâu? Ông sư Thích Trí Quang, ông ấy cứ việc tuyệt thực 100 ngày để ăn vạ. Tuyệt thực chán, rồi cũng phải về chùa thôi. Làm chó gì được ai đâu? Còn về cái gọi là nhân chứng lịch sử nữa. Đ.m, lịch sử viết bởi những thằng ngu! Lịch sử, nếu cứ tin vào mấy cái hồi ký vớ vẩn của những anh võ biền kiểu Đỗ Mậu, Đỗ Miếc, mà bảo đấy là lịch sử thì nên coi chừng đấy. Mấy tay này, viết hồi ký chỉ là một cách để giải tỏa những ẩn ức của họ thôi. Mấy ông tướng kiểu Nguyễn Chánh Thi, những ông từng đi lính cho Tây, anh hùng cái đ. gì mà học đòi viết hồi ký? Anh hùng quân đội hả? Theo anh, chỉ những sĩ quan trẻ từ các trường Đà Lạt, Thủ Đức, tung hoành chiến địa trong các thập niên 50, 60, 70, mới là những kẻ thực sự góp công xây dựng quân đội miền Nam. Anh hùng quân đội, nếu có thể gọi là những anh hùng, thì chỉ những thành phần này xứng đáng thôi. Mấy ông tướng già, từng đi lính cho Tây, coi như vứt đi hết, chẳng được cái tích sự gì hết! Kể cả mấy ông lãnh tụ chính trị, những ông đàn anh văn nghệ già lọm khọm cứ thích ngồi chiếu tiên chỉ, bắt những người đi sau tung hô mình. Ngay từ hồi còn ở nhà, trong Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ảo Vọng Tuổi Trẻ, anh đã chửi bọn này nhiều rồi. Đâu có phải đến bây giờ anh mới chửi họ? Nhân danh một thằng không có tuổi trẻ, anh chống bọn họ. Chống lại những người ấy, anh có được gì đâu, chỉ tổ bị chúng ghét thôi. Giá anh cong lưng, cúi mặt xu phụ chính quyền, anh đã sướng. Việc đ. gì mình phải viết báo chửi bới chống chính quyền? …

        Tôi hỏi:

        - Nhưng mà anh chửi thì chửi, bộ quốc gia giáo dục vẫn cho Hoa Thiên Lyù vào chương trình Việt văn bậc trung học? Có phải vì biết như vậy nên ông Khai Trí mua đứt bản quyền cuốn này, và anh bán luôn không?

        Duyên Anh cười, gật đầu:

        - Hồi ấy, cần tiền mua nhà, nên anh bán ngay. Giữ làm chó gì? Nhưng mà như thế đã thấm gì? Có thằng trong nội các còn bảo với thằng bạn anh là “ Thằng Duyên Anh có tài lắm. Lẽ ra, người ta đã mời nó ra làm tổng trưởng rồi. Nhưng mà, đ.m., nó chửi quá, người ta chán! Giá mà nó chỉ là thằng Duyên Anh thôi, thì được quá rồi. Khổ nỗi, nó lại là thằng Thương Sinh nữa…” Nghe xong, anh bảo thằng bạn: “Đ. m., tao đ. cần. Tao đ. cần chúng nó cho sách tao vào bộ giáo dục. Tao đ. cần chúng nó mời tao làm tổng trưởng. Có mời, chưa chắc tao đã bằng lòng. Tao chỉ muốn tao là tao thôi.” Và anh tiếp tục chửi chúng nó vung xích chó lên…Anh xử sự rất ư là kiếm hiệp Kim Dung, nghĩa là, người quân tử nhìn lên không thẹn với Trời, ngó xuống không thẹn với Đất, xét lòng mình không thẹn với lương tâm. Là được rồi.

        - Khoái Kim Dung, nên hình như một dạo, anh có ký bút hiệu Lệnh Hồ Xung?

        - Có chứ. Hồi anh viết trên tờ Con Ong… Nhiều lúc, anh thấy mình rơi vào những hoàn cảnh rất giống với hoàn cảnh nhân vật này đã trải qua….

        - Nghĩa là…?

        - Nghĩa là anh bị cả tà phái lẫn chính phái chúng nó ghét, hợp sức tấn công mình….

        - Và anh trở thành….tên biệt kích cô đơn?

        Duyên Anh có vẻ hài lòng về sự so sánh này. Anh cười ha hả:

        - Em chơi với anh hơn hai mươi năm rồi, em biết tính tình anh ra sao. Thằng Duyên Anh nó vẫn cứ thế thôi. Nó vẫn cứ như thế thôi, không khác xưa chút nào cả. Bây giờ, chúng nó có chửi anh, anh cũng mặc thôi. Anh nhắn chúng nó: Đ.m, chúng mày tiếp tục chửi ông nữa, mai đây ông VẼ nữa, thì chúng mày chỉ có nước chết thôi.

        Ngừng một lát, Duyên Anh nói:

        - Em thử nhìn quanh xem, có thằng nhà văn nào mặt mũi sáng sủa như anh không. Chúng mày cứ chửi ông đi. Nhưng mà đố chúng mày tìm được thằng nhà văn nào kẻng trai như ông đấy…

        Tôi phì cười, ngắt lời anh:

        - Có chứ. Hoàng Hải Thủy mà không kẻng trai à?

        Duyên Anh nói ngay:

        - Hoàng Hải Thủy làm sao đẹp giai bằng Duyên Anh được? À, nhưng mà thằng Hoàng Hải Thủy này cũng hay lắm cơ. Hồi thằng Hoàng Anh Tuấn làm đạo diễn, mời nó đóng phim, có cảnh quay nó ngồi ngoài phòng khách, mà lại mặc pyjama mới chết người chứ! Khi chiếu thử, hàng họ của nó trình làng nguyên một đống. Thằng Hoàng Hải Thủy xấu hổ quá, từ đó hết đóng phim luôn. Nhưng mà không nói chuyện đẹp giai xấu giai nữa. Thử hỏi thằng nào ăn nói duyên dáng, thằng nào lịch sự, thằng nào dáng dấp thư sinh nho nhã như thằng Duyên Anh nào? Em cứ thử nói cho anh nghe coi?

        Cất tiếng cười ngạo mạn, anh tiếp:

        - Nhưng mà chúng mày đừng chọc ông thôi. Chọc ông, ông sử dụng chữ nghĩa, là bỏ mẹ ngay…Đừng, đừng chọc ông. Chứ còn bình thường, thì ông rất nhã nhặn, rất lịch sự….Chữ viết ông lại đẹp, mới chết người chứ! Đố em tìm được một thằng nhà văn nào có bản thảo sạch và đẹp như bản thảo của anh đấy…

        Tôi ngắt lời anh:

        - Em biết rồi. Trên tờ bìa bọc bản thảo Một Tù Binh Mỹ ở Việt Nam, anh đã chẳng viết “ Bản thảo của Duyên Anh đẹp và sạch nhất thế giới” hay sao?

        Duyên Anh lại cười sảng khoái:

        - Đ.m, văn hay, chữ tốt; bản thảo sạch và đẹp nhất thế giới! Thế thì ông Trời ông ấy cũng ban cho mình nhiều thứ quá đi ấy chứ?

        Ngừng lại, rít vài hơi Marlboro, anh nói tiếp:

        - Thượng Đế tước đoạt của mình nhiều thứ, nhưng ông ấy cũng ban lại cho mình nhiều thứ quá. Cho mình trùm hết mọi cái. Càng ngày càng trùm. Mẹ, xưa đã hơn nhiều thằng rồi. Nay, vẫn tiếp tục hơn chúng nó….Mẹ, thằng Duyên Anh, mày hỗn quá, ông cho mày tù dăm sáu năm đâáy. Nhưng mà, ông vẫn thương mày. Ông cho mày vào trong đó, thử sức chịu đựng của mày, và để xem mày còn tin ông không…

        - Và anh tin không?

        - Tin mạnh đi ấy chứ! Em biết không, hồi ở trong tù, anh cầu nguyện ghê lắm. Tự nhiên mình có đức tin thôi, chứ chẳng có ai thúc giục gì anh cả. À, mai đây, anh còn lại vào đạo nữa đấy…

        - Vào đạo gì?

        - Công Giáo, dĩ nhiên. Em biết, chị ấy theo Công Giáo mà. Vào đạo cho bà ấy vui.

        - Anh tin ai?

        - Thì tin Chúa, tin Đức Mẹ…

        - À, anh có nói về mảnh đá đen khắc hình bà Maria trong cuốn Trại Tập Trung . Anh còn giữ mảnh đá này không?

        - Có. Anh để trong va li. Sáng mai, anh lấy cho em xem.

        - Anh kể là anh có nhờ linh mục Chân Tín làm phép cho mảnh đá ấy; và cũng nhờ nó, anh đã vượt biển thành công?

        - Ừ, hồi vượt biên sang Mã Lai, anh đeo mảnh đá mầu nhiệm này trên ngực….

        - Anh tin là một mảnh đá vô tri cũng có phép mầu nhiệm?

        - Bình thường, thì anh không tin đâu. Nhưng mà cái này lạ lắm, em ạ. Nếu anh không cầu nguyện, và không nhận được những điều anh cầu xin, thì chắc anh cũng không tin đâu.

        - Những điều anh cầu xin?

        - Đây nhé, nhận được mảnh đá một thời gian ngắn, anh được thả; rồi vượt biển thành công này. Bây giờ, cứ mỗi lần viết một cuốn sách mới, anh đều có thói quen treo mảnh đá hình Đức Mẹ trước mặt. Và nhờ đó, anh viết rất nhanh….

        Tôi cười, tỏ vẻ không tin:

        - Nhưng trước đây, hồi chưa đi tù, hồi chưa nhận được miếng đá đen, anh cũng đã viết rất nhanh rồi cơ mà. Em không ngờ một gã nghịch thiên như anh mà cũng tin mấy chuyện như vậy đó.

        Tôi muốn nhắc anh nhớ lại mấy hàng chữ anh viết trên bài thơ gửi cho tôi một năm trước đó:

        Vũ Mộng Long + Vũ Trung Hiền = Vũ Nghịch Thiên

        Tôi nói:

        - Anh còn nhớ anh đã từng viết “Không ai có thể giết được tài năng đích thực, dù là Thượng Đế” chứ? Và trong bài thơ Em, Anh Đã Đến Paris, anh cũng đã chê Thượng Đế kiêu căng, Thượng Đế nghèo nàn, không thể bố thí cho anh một tổ quốc mà?

        Duyên Anh lắc đầu:

        - Nghịch Thiên đâu có phải là chống lại ông Trời. Mà Thượng Đế đâu có phải là Đức Mẹ. Đức Mẹ còn là con của Thượng Đế cơ mà?

        Tôi bật cười:

        - Như vậy là anh chưa thuộc kinh Kính Mừng của Công Giáo rồi. Làm sao mà người ta cho anh vào đạo được? Anh không nghe người Công Giáo, họ vẫn đọc kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội…” hay sao? Người Công Giáo tin bà Maria là mẹ Đức Chúa Trời, tức là mẹ của Thượng Đế…

        Duyên Anh cũng cười:

        - Đức Mẹ đâu có phải là mẹ của Thượng Đế….

        - Thế thì anh giải thích thế nào cái câu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời?”

        - Bố láo! Mẹ của Đức Chúa Trời sao được? Đức Mẹ chỉ là mẹ của ông Chúa Giê Xu thôi. Đức Chúa Trời, hay Thượng Đế, là một cái gì ghê gớm lắm cơ. Đức Mẹ chỉ có công đẻ ra ông Chúa Giê Xu thôi.,,,

        - Vậy, thì theo anh, Ông Trời mà nhân gian thường nói đến, và Đức Chúa Trời mà mấy người theo Đạo Chúa vẫn nhắc tới, hai ông đó là một, hay là hai? Giống nhau hay khác nhau ở chỗ nào?

        - Hai ông đó khác nhau chứ…

        - Thế còn Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê Xu?

        Duyên Anh nói ngay:

        - Hai ông này cũng khác nhau luôn.

        - Anh có tin ông này là cha ông kia không?

        - Ông nào là cha ông nào?

        Tôi bật cười:

        - Thì Đức Chúa Trời là cha của Đức Chúa Giê Xu…

        - Không. Đức Chúa Trời là Giê Hô Va trong Cựu Ước của người Do Thái. Còn Đức Chúa Giê Xu mãi tới thời Tân Ước mới xuất hiêän. Đức Chúa Giê Xu đâu có phải là con Đức Chúa Trời? Em cứ thử truy nguyên xem thủy tổ của ông Chúa Giê Xu từ đâu ra.

        - Con cháu vua Đa vít…

        - Thì đấy. Có vậy thôi. Chúa Giê Xu đâu có phải là Đức Chúa Trời. Đúng không nào?

        Tôi phá lên cười:

        - Em hỏi thử anh, cho vui vậy thôi. Chứ em thấy, anh hiểu chưa mấy sát về giáo lý Cơ Đốc. Điều anh vừa nói về Chúa Giê Xu rất giống sự tin tưởng của những người theo Do Thái Giáo…

        - Không, anh không cần hiểu theo giáo lý của ai cả. Anh cứ hiểu theo giáo lý của anh thôi. Vì anh có phải là người theo đạo Thiên Chúa đâu? Đâu có ai được quyền bắt anh phải đọc, phải tin, phải cầu kinh, theo y như cách của họ được…

        Tôi vẫn muốn câu chuyện của anh em tôi không bao giờ trở thành một cuộc tranh cãi về bất cứ vấn đề gì. Cho nên, dù biết anh hiểu chưa đúng về Cơ Đốc Giáo, tôi nghĩ, không nên “dồn” Duyên Anh nhiều quá. Chứ vặn vẹo một hồi, không chừng anh đâm ra mâu thuẫn với chính anh. Bởi vì bắt đầu câu chuyện, anh khoe là sắp vào đạo Công Giáo, và tin Đức Mẹ đã phù hộ anh trong nhiều trường hợp… Nhưng dần dần,….

        Cho nên, tôi khôi hài hóa đề tài tôn giáo:

        - Hầu hết các tôn giáo tin vào một Thượng Đế sinh ra con người. Anh nghĩ sao?

        Duyên Anh trầm ngâm một thoáng chốc, rồi cười khinh bạc:

        - Nếu như phải lý luận, thì anh sẽ nói như thế này: Anh bảo Thượng Đế sinh ra loài người à? Chúng tôi suy nghĩ rất là trần tục, nên chúng tôi hỏi anh tại sao chúng tôi chưa bao giờ nghe nói tới một Bà Thượng Đế, một Bà Trời? Tại sao lại chỉ Ông Trời mà không có Bà Trời? Như vậy thì chỉ hoặc là lại cái, hoặc là quái đản lắm mới có chuyện không phải đàn bà mà sinh đẻ được thôi…

        Tôi phì cười vì ý nghĩ lạ lùng của anh. Duyên Anh nói tiếp:

        - Mẹ, tôi tin Thượng Đế, Ông Trời, hay Ông gì gì đó, cũng là do lòng tin của tôi thôi. Anh cũng chẳng chứng minh gì được, mà tôi cũng chẳng chứng minh gì được. Tôi tin là tin vậy thôi. Thì anh đâu có thể bắt tôi phải tin giống y hệt như anh cho được?

        - Thế nếu có ai hỏi, anh là một kẻ Nghịch Thiên mà tin vào Chúa Trời sao được, anh sẽ nói thế nào?

        - Em phải biết, đôi khi những kẻ Nghịch Thiên cũng có cái niềm tin của nó…

        - Và có khi, những kẻ ấy lại tin mạnh hơn ai hết…

        - Bởi vì khi nó nói tôi không tin, tức là nó đã tin…Nó tin ở cái sự không tin của nó…Và đó cũng là niềm tin của nó…

        - Và khi nó xác nhận mình là kẻ Nghịch Thiên, nó cũng đã khẳng định sự hiện hữu của một Ông Trời, để cho nó nghịch lại chứ…

        Duyên Anh gật gù:

        - Ngày anh gặp Ghislain Ripault, thằng agent littéraire của anh đó, nó đang làm chủ bút tờ Contre Ciel, anh hỏi nó: Đ.m mày, mày dám chống cả Thượng Đế à?

        - Thế nó nói sao?

        - Nó bảo anh “Tu ne sais pas. Contre Ciel, c’est tout près Ciel” (tạm dịch “Anh không hiêåu gì cả. Nghịch Thiên, nghĩa là gần sát với Trời đó”). Nó lấy thí dụ Je suis contre le mur, nghĩa là tôi đứng, tôi ngồi, tôi ở sát bên tường, chứ đâu có phải tôi chống lại bức tường. Nó bảo “Contre, c’est tout près.”

        Duyên Anh tiếp:

        - Nói chuyện đạo này, đạo kia thì nó vô cùng lắm. Ai cũng có thể cho đạo của mình là nhất hết. Thực ra, anh cũng chẳng có tin gì mấy đâu. Anh quyết định vào đạo Công Giáo, cũng để làm trọn một lời hứa thôi.

        - Anh hứa với ai?

        - Một tu sĩ Công Giáo trẻ, tên là thầy Bảy.

        - Anh hứa vào thời gian nào?

        - Hồi em đi rồi, anh sống vất vưởng, nay chỗ này, mai chỗ nọ, chỉ chờ ngày vượt biên thôi. Tu sĩ Bảy này giúp sắp xếp chuyến đi cho anh. Còn chuyện cầu nguyện khấn hứa, thì hồi còn ở tù, anh cũng cầu khấn đủ thứ hết, từ Chúa Trời, Chúa Giê Xu, đến Đức Mẹ; ngay cả Ma Hô Mết, đ.m, cũng khấn luôn…Hễ cứ ông nào mình nghĩ có quyền một tí, là mình khấn. Khấn có một tí, mà được ra tù, ngu chi không khấn? Lẽ ra, anh vào đạo từ hồi còn ở Paris đấy chứ…

        - Vì chị ấy là Công Giáo?

        - Dĩ nhiên. Lại cả hai đứa con anh nữa chứ. Con Ki, thằng Tí cũng vào Công Giáo cả rồi. Nhưng cái chính, là mình hứa, thì mình phải làm thôi. Để xem ở đây, có ông cha nào coi được, thì mình nhờ ông ấy cho mình vào. Không, thì để về Paris, rồi vào, cũng chẳng sao.

        Duyên Anh cười:

        - Nhưng mà, vào đạo hay không vào đạo, Công Giáo hay không Công Giáo, mình vẫn chỉ là mình thôi…

        - Nghĩa là tôi vẫn chỉ tin tôi mà thôi?

        - Đ.m, nghiã là vẫn tiếp tục Nghịch Thiên. Thế thôi. Và Nghịch Thiên không có nghĩa là chống lại ông Chúa Giê Xu. Bằng chứng là chưa bao giờ có ai tìm thấy được trong tiểu thuyết đứng đắn của Duyên Anh chỗ nào anh phủ nhận Thượng Đế. Ngạo mạn ông ấy một tí, trong mấy cái phóng sự khôi hài láo lếu thì có. Chứ còn chân tình mà nói, thì anh vẫn tin Thượng Đế thôi. Chẳng thế mà, có một ông linh mục, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế, đã từng nói với anh: “ Tôi đi giảng đạo hai mươi năm, không bằng mấy trang tiểu thuyết của Duyên Anh ở trong Trần Thị Diễm Châu!”

        - Và chỉ cần như thế, anh tin là mình sẽ được Thượng Đế thương?

        Duyên Anh gật đầu:

        - Dĩ nhiên. Và em cũng phải biết, anh nói về đạo cũng hay lắm đấy nhé. Cứ thử mở bất cứ một trang Thánh Kinh nào ra, rồi lấy giấy bút, cho một ông linh mục, hay một ông mục sư, viết bài giảng thi với anh. Chưa chắc các ông ấy đã viết bài thuyết giảng Thánh Kinh hay hơn anh đâu…

        - Chắc chắn rồi. Vì anh là Thợ Viết mà?

        - Không phải thế. Đó là vì cách nhìn và diễn giảng Thánh Kinh của anh nó rộng, nó xa, nó thoát khỏi cái đạo. Hơn các ông ấy ở chỗ đó. Họ bị trói buộc, bị hạn chế trong hệ thống suy nghĩ của Giáo Hội. Như thế thì làm sao mà hay cho được?

        - Anh cũng áp dụng lối nhìn này trong văn học?

        - Ừ. Thì em xem hồi ở Việt Nam, các ông thầy Việt Văn hay viết mấy sách luận đề về các tác giả này nọ. Họ vẫn không sao thoát khỏi quỹ đạo của hành tinh Dương Quảng Hàm.

        - Hồi nói chuyện ở trường Thọai Ngọc Hầu, anh đã từng khuyên học sinh hãy suy nghĩ độc lập, đừng để bị ảnh hưởng mấy cuốn sách luận đề ấy. Anh còn nhớ anh đã nói về Trần Tế Xương như “ một kẻ sĩ bệ rạc trong thời buổi mất nước” không? Từ đó đến nay đã mười sáu năm rồi đó…

        - Nhớ chứ. Anh vẫn trung thành với những gì anh đã nói, đã viết. Thời gian, ngục tù có làm mình già đi đôi chút, nhưng bên trong anh, nó vẫn cứ như thế thôi. Có thằng đã nói rằng: “Lúc này, Duyên Anh đã thay đổi bút pháp, và triển khai tư tưởng”….

        - Nghĩa là anh viết không “mướt” như xưa nữa, mà dùng văn chương như một thứ võ khí. Để chiến đấu?

        Duyên Anh gật đầu:

        - Đúng. Chiến đấu; nhưng chiến đấu để kêu gọi thương yêu, không để cổ võ hận thù, chém giết. Thế mà chúng nó chửi anh “Thằng Duyên Anh không chống Cộng nữa, thằng Duyên Anh kêu goị thương yêu mấy thằng Cộng sản.” Chính các anh cũng chủ trương “Lấy Đại Nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, thế mà các anh lại chửi tôi. Đ.m, chửi ở chỗ nào? Các anh chửi Phạm Duy “ Việt Nam không đòi xương máu…. chỉ đáng vứt vào thùng rác” chỉ vì các anh đố kỵ thiên tài Phạm Duy thôi. Anh không bênh gì Phạm Duy cả. Anh viết Phạm Duy, Ai Giết Nổi Anh? cũng chỉ vì anh tin vào lẽ phải thôi. Một thằng nhà văn, một thằng cầm bút, trước lẽ phải bị chà đạp, mà không nhìn thấy, hoặc nhìn thấy mà không dám lên tiếng, thì chỉ nên quẳng bút đi thôi.

        Uống cạn ly Rémy Martin pha soda, Duyên Anh nói tiếp:

        - Như em thấy đó, vụ mặt trận HCM dối gạt đồng bào hải ngoại, ngoài anh ra, có mấy thằng cầm bút nào dám lên tiếng đâu. Vậy mà cũng chỉ có tờ Ngày Nay dám tiếp tục đăng bài của anh. Đ.m, anh nói ra điều gì, một số thằng ghét, nhưng cũng có rất nhiều thằng khoái nghe anh đấy chứ? Mẹ, chúng mày chống ông, mà thằng Xuân Thu vẫn in sách của ông; độc giả vẫn thích mua sách của ông, thì ông cóc sợ chúng mày. Mà, cho dù chúng mày cấm người Việt Nam mua sách của ông, chúng mày đâu có thể cấm độc giả Tây mua sách cuả ông?

        - Và mai mốt đây, độc giả Mỹ nữa chứ?

        - Mới có thế thôi, mà chúng nó đã ghen tức, đã điên mẹ chúng nó lên rồi. Các anh tử tế, thì tôi chơi. Không tử tế thì thôi, tôi đ. cần. Mà nói thật, các anh chưa đủ tư cách để chơi với tôi đâu. Tôi đã lên tới ngọn núi rồi. Các anh thì vẫn còn mon men, chưa tới được chân núi. Tôi đã là international rồi! Văn của tôi, bọn Tây nó in rồi. Thơ của tôi, bọn Thụy Sĩ nó in. Chừng nào thơ văn của các anh được bọn Tây, bọn Thụy Sĩ in xong, các anh hãy đến nói chuyện với tôi. Tôi chấp cả hai ngọn núi văn học Nguyên Sa Mai Thảo nữa đấy. Cả thơ với văn, tôi cũng đều hơn hai anh rồi.

        Duyên Anh cười sảng khoái:

        - Anh nói thế đấy. Đố thằng nào dám bắt bẻ, dám chửi anh nào?

        Mân mê ly rượu trên tay, Duyên Anh trầm ngâm:

        - Em phải sang Luân Đôn, làm cho BBC mới được.

        Tôi cười:

        - Thế sao anh bảo BBC đ. ra cái gì cả?

        - Đấy là anh nói cái trụ sở xập xệ, cái phương tiện èo ọt của nó thôi. Về phương diện khác, đó là chỗ cho em học hỏi kinh nghiệm, mở rộng tầm nhìn của mình ra khắp thế giới. Em chỉ cần làm với tụi nó bốn năm thôi; sau đó, làm việc khác…Hôm gặp Judy Stowe và Vĩnh Phúc ở bên ấy, biết em không sang làm, họ tiếc lắm. Nhất là Vĩnh Phúc, khi nó biết em là em của anh. Vĩnh Phúc bảo giá em sang đó, nó sẽ truyền hết kinh nghiệm nghề nghiệp cho em.

        - Anh gặp Vĩnh Phúc mấy lần?

        - Chỉ có lần ấy thôi. Nhưng mà sau đó, nói điện thoại nhiều lâàn. Có hôm, nó gọi cho anh, bảo “ Duyên Anh ơi, tôi buồn quá! Tôi đang khóc đây.” Anh nói chuyện với nó cả giờ, cu cậu mới nguôi ngoai. Thằng này tình cảm lắm. Tội nghiệp! Nó cô đơn, vì muốn làm một cây trúc giữa một bọn cỏ rác ươn hèn, xu nịnh. Nó mời anh sang chơi, anh hứa sang, rồi không sang được. Nó gọi điện thoại, trách anh: “Tưởng ông sang, tôi xin phép nghỉ mấy ngày, nằm nhà chờ ông. Rốt cuộc, phải uống rượu một mình!”

        Tôi hỏi:

        - Vì sao anh không sang chơi với Vĩnh Phúc?

        - Anh kẹt vụ ra băng thất bại, phải đi tị nạn ít hôm.

        - Anh kể đầu đuôi em nghe, được không?

        Duyên Anh chậm rãi:

        - Như đã hứa kể cho em nghe trong thư viết năm ngoái, anh được một nữ độc giả khoái nhạc của mình, đề nghị anh cứ ra băng đi, bà ta sẽ yểm trợ. Anh gọi cho Vĩnh Phúc, định mượn nó ít tiền, thuê ban nhạc chơi; bán băng xong sẽ trả. Nó bảo, “không có mượn gì cả, tôi sẽ gửi tặng ông ít tiền làm băng. Khỏi lo chuyện trả lại.” Và rồi Vĩnh Phúc gửi cho anh một nghìn đôn. Bà mạnh thường quân, dĩ nhiên, giữ lời hứa, góp vốn chung với anh thực hiện cuốn băng này. Dĩ nhiên, chuyện làm băng nhạc, anh giấu, không nói gì với bà vợ anh hết. Không ngờ, ngay trong buổi ra mắt, bà ấy xuất hiện. Thế là hỏng hết! Bà mạnh thường quân trốn ra cửa sau. Anh sợ bà vợ anh gây chuyện, nên không dám về nhà nữa. Mấy trăm cuốn băng nhạc, bà ấy tịch thu hết. Đó là lý do anh không sang Luân Đôn thăm Vĩnh Phúc như đã hứa. Về sau, anh phải viết thư, xin lỗi nó.

        - Và đó là hệ lụy kèm theo cuộc chơi âm nhạc của anh?

        Duyên Anh gật đầu, không nói gì.

        Tôi tiếp tục câu chuyện về BBC:

        - Làm với BBC, hay với VOA, mình cũng chỉ là cái loa, qua đó mình loan đi dùm họ những quan điểm, chủ trương, chính sách nào đó thôi. Chứ mình đâu có thể đưa ra quan điểm riêng của mình?

        - Dĩ nhiên. Nhưng hãy coi đó như một môi trường để mình tu luyện, mài dũa khả năng. Chuẩn bị cho công việc trong tương lai, thông tín viên cho một tờ báo quốc tế Washington Post, New York Times chẳng hạn. Ít nhất, em cũng có được cái mác Cựu Biên Tập Viên đài BBC. Anh tin em thừa sức làm việc đó. Bọn thông tín viên ngọại quốc đến Việt Nam hồi xưa có ra cái đ. gì đâu? Quốc tế gì chúng nó? Anh có dự mấy cuộc họp báo với chúng nó. Anh khinh bỉ mấy thằng phóng viên ấy. Chúng nó chỉ toàn bôi bác những gì xảy ra trên đất nước mình. Vậy mà chính phủ mình sợ chúng nó! Anh thì đ. sợ chúng nó. Có bữa, đi Huế về Saigon bằng máy bay, anh đi chung với hai thằng phóng viên Mỹ. Trên máy bay lạnh quá, thèm hút một điếu thuốc, mà anh lại hết thuốc, mới đểu chứ! Anh quay sang, hỏi xin thằng phóng viên ngồi cạnh một điếu thuốc. Đ.m nó, nó thản nhiên hút, thản nhiên lắc đầu khi nghe anh xin. Đến phi trường Tân Sơn Nhất thì đã khuya, không còn tắc xi nữa. Ra bãi đậu xe, thấy anh mở cửa chiếc xe ô tô riêng của anh, hai thằng phóng viên Mỹ chạy tới, xin đi nhờ. Đ.m. chúng nó! Anh bảo, “lúc nãy trên máy bay, ông thèm thuốc, xin mày một điếu, mày không cho. Bây giờ, ông đ. cho mày đi nhờ, thì cũng đâu có gì là quá đáng? Chúng mày ngủ lại phi trường, chờ sáng mai hãy về…”

        Một buổi tối khác, tôi hỏi:

        - Anh viết Điệu Ru Nước Mắt lần đầu tiên trên báo nào?

        - Cũng trên Xây Dựng. Hồi ấy, anh vừa kết thúc Ảo Vọng Tuổi Trẻ. Nhìn khắp các nhật báo thời đó, anh thấy trang trong toàn là tiểu thuyết đồng quê, ma quái, ái tình lẩm cẩm. Anh tự hỏi tại sao mình không viết một tiểu thuyết thật lạ, không giống bất cứ ai; cho du đãng làm nhân vật chính, biến du đãng thành thần tượng của độc giả. Bấy giờ, thiên hạ đang vinh tôn mấy thằng tướng thoán nghịch làm thần tượng. Thế thì tại sao mình không thể xây dựng những nhân vật du đãng có học, đầy ắp lương tri, thật tài hoa, nghĩa hiệp, cho chúng nó làm thần tượng chơi?

        - Anh có triết lý con gọng vó ngay từ thời ấy?

        Duyên Anh cười:

        - À, con gọng vó bơi ngược dòng nước. Ở bến sông Ray, thời tù ngục. Cũng gần giống như vậy. Nhưng vào giai đoạn 64-65, anh thích nghĩ mình là một thằng đi xe đạp ngược chiều…

        - Đi ngược chiều, chọc cho cảnh sát chặn lại phạt vi cảnh?

        - Phạt hay không, chưa cần biết. Cái chính là mình làm một việc độc đáo, không giống ai hết.

        - Như vậy, có thể nói, mà không sợ lầm, anh là nhà văn đầu tiên viết tiểu thuyết du đãng?

        - Chắc chắn là như vậy rồi.

        - Nguyễn Thụy Long viết Loan Mắt Nhung, Kinh Nước Đen, có lấy hứng khởi từ Điệu Ru Nước Mắt không?

        - Không biết. Nhưng chắc chắn, tiểu thuyết du đãng của Nguyễn Thụy Long xuất hiện sau mấy truyện anh viết.

        - Khi viết Điệu Ru Nước Mắt, anh có tính trước là sẽ xây dựng cốt truyện như thế nào không?

        Duyên Anh lắc đầu:

        - Hoàn toàn không. Anh chỉ xem lại những đoạn vừa viết hôm trước, rồi mới nghĩ xem phải viết gì hôm nay. Nghĩ xong, là cắm cúi viết thôi.

        - Anh vẫn tự hào mình là kẻ nghĩ nhanh viết vội?

        - Đúng rồi. Nhưng chỉ lúc viết phóng sự trên báo thôi. Với tiểu thuyết, anh viết chậm lắm.

        - Độc giả đón nhận Điệu Ru Nước Mắt ngay từ buổi đầu chứ?

        - Ừ. Thiên hạ thích lắm. Ngay ông cố đạo chủ báo cũng phải khen nữa. Điều buồn cười, ông ấy cứ tưởng trước đó, anh đã từng là du đãng! Thật ra, đích thị du đãng thứ thật phải là Nguyễn Thụy Long. Mình phải cám ơn thằng này mới được! Chính Nguyễn Thụy Long đã kể chuyện đời nó cho anh nghe. Anh dựa vào những chi tiết nó kể, tưởng tượng thêm, để xây dựng những nhân vật của anh…

        - Hình như có lần anh gặp du đãng Đại Cathay?

        - Có. Một lần thôi. Đại Cathay tưởng nhân vật Trần Đại trong tiểu thuyết là anh viết về nó. Nó hỏi anh “Sao trong đoạn ấy, đoạn ấy, anh viết về tôi, chẳng giống tôi chút nào?”. Anh trả lời nó “Tôi có viết về anh đâu. Nhân vật Trần Đại, hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra thôi.”

        - Thực ra, ngoài đời, Đại Cathay là người như thế nào?

        - Cá nhân anh không rõ về nó. Nhưng theo anh Nguyễn Mạnh Côn kể cho anh nghe, nó là cháu của Quốc Vụ Khanh Lê Văn Hoạch. Nó học trường Tây đàng hoàng. Một hôm đi chơi, bị cảnh sát hay quân cảnh đánh đập, và bắt nhốt oan uổng. Nó hận đời, bỏ học đi làm du đãng…

        - Có đứa gọi anh là nhà văn du đãng?

        - À, tụi văn nô Việt Cộng. Anh là nhà văn viết về du đãng thôi. Và viết truyện du đãng thành công nhất nước. Du đãng, trong tiểu thuyết anh, đâu có phải bọn côn đồ cướp giật, bắt nạt người lương thiện, bọn đá cá lăn dưa trộm căép ngoài chợ. Nhân vật du đãng của anh là những đứa có tâm hôàn, tha thiết muốn làm đẹp cuộc đời…

        - Và đều giống nhau ở chỗ hận đời đen bạc?

        - Không hẳn là như thế. Thực ra, anh mượn những nhân vật của anh để nói lên sự ghê tởm của anh đối với lũ tướng lãnh thoán nghịch, bọn sư hổ mang lộng quyền, lũ cố đạo tham lam hợm hĩnh, bọn trí thức giả hình xu phụ chính quyền, bọn trọc phú làm giầu trên nỗi đau khổ của dân đen…

        - Anh vừa nói bọn trí thức giả hình?

        - Ừ, tiêu biểu cho bọn này là những thằng chánh án, dự thẩm, luật sư, bác sĩ, giáo sư đại học, suốt đêm thứ bảy, chúa nhật ngồi sát phạt nhau bên bàn mạt chược; sáng thứ hai ra toà, ngồi xử những người bị bắt về tội chơi tứ sắc, xập xám, bài cào…

        - Mạt chược, tứ sắc, bài cào, xì dách, hay bầu cua cá cọp, khác gì nhau đâu? Hễ cứ chơi ăn tiền, có hơn thua sát phạt trong đó, thì đều là cờ bạc hết…

        - Đ.m chúng nó! Thế mới đáng chửi thề chứ. Bọn trí thức chó đẻ vừa kể cho rằng chúng nó chơi mạt chược là để giải trí thôi, không phải là cờ bạc. Cho nên chúng nó có quyền ngồi trên cao, xử án người khác.

        - Xã hội cho họ cái quyền đó. Họ may mắn được ngồi vào những địa vị có quyền giải thích luật pháp theo ý họ. Thế còn mấy ông linh mục, họ đã làm gì khiến anh phẫn nộ?

        - Đã nói, phải nói cho công bằng. Về phía Phật Giáo, anh không vơ đũa cả nắm, mà lên án tất cả các ông sư, bà vãi. Phật Giáo có rất nhiều vị chân tu đáng kính trọng. Anh chỉ ghét bọn trọc đầu làm tay sai cho cộng sản, bọn đối lập với tổ quốc mà thôi. TTQ là kẻ anh ghét nhất. Bên Công Giáo, anh không bao giờ dám động tới các ông cha hết lòng vì Chúa, vì con chiên. Anh chỉ không ưa mấy ông linh mục nhí nhố, dùng con chiên tạo thế chính trị cho riêng mình. Anh gọi họ là bọn quạ đen. Khi anh chửi bọn quạ đen, và bọn trọc đầu, là chửi mấy thằng khốn nạn ấy thôi, không phải chửi Công Giáo và Phật Giáo đâu.

        Tôi hỏi:

        - Dường như, anh là người đầu tiên dám dùng hai từ ngữ ấy để gọi mấy ông linh mục và thượng tọa?

        Duyên Anh lắc đầu, cười:

        - Không, em lầm rồi. Anh có phải là người đầu tiên đâu. Anh chỉ bắt chước Bà Huyện Thanh Quan thôi. Em còn nhớ bài thơ bà ấy tả cảnh chùa Trấn Quốc chứ? Trong đó, câu kết là “Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu” mà? Còn quạ đen, là do mấy ông Duy Dân dùng đầu tiên. Hồi đi theo các ông ấy lên Ban mê thuật, anh được học tập như thế này “Việt Minh là cộng sản đỏ, quạ đen là cộng sản đen.”

        ( Sau này, đọc Hơn Nửa Đời Hư của học giả Vương Hồng Sển, tôi thấy cụ Vương có dùng chữ “ quạ áo đen” để nói về một ông linh mục dạy ở Đại Học Văn Khoa Saigon, thập niên 60. Xin xem sách đã dẫn, trang 429.)

        Duyên Anh chợt nghĩ ra một chuyện kể cho tôi. Anh hỏi:

        - Em còn nhớ Tô Văn không?

        - Ông Tô Văn “ Cậu Chó” ấy hả?

        - Ừ, hôm qua, anh đến thăm ông ấy…

        - Bây giờ ông ấy đang ở đâu?

        - Ở với bà vợ. Nhà gần tiệm ăn Nam Phương…

        - Em nghe nói ông ấy đau nặng, phải ngôài xe lăn….

        - Ừ. Không nói được…Thực ra, vẫn nói, mà mình không hiểu ông ta nói gì. Phải có bà vợ thông dịch, mình mới hiểu được. Nhưng vẫn còn tỉnh táo lắm. Anh sờ đầu Tô Văn, nói “Lúc này mọc tóc rồi hả? Hết mông Thẩm Thúy Hằng rồi hả?”, ông ta cười khoái chí…

        - Như vậy là ông ấy nhận ra anh?

        - Dĩ nhiên.

        - Anh bảo mọc tóc là thế nào?

        - Ngày xưa, đầu ông ta nhẵn thín, vì thế mới có hỗn danh Mông Thẩm Thúy Hằng. Bây giờ không hiểu bác sĩ chúng nó cho ông ấy chích thuốc gì mà tóc lại thấy lún phún mọc…Ông ta bảo anh: “Bây giờ mày ở đây, mày muốn cái gì cũng có. Mày muốn đi chơi, tao bảo thằng con tao đưa mày đi chơi. Chỗ nào cũng được”…

        - Ông ấy nói đúng đấy. Con trai ông ấy là một tay chơi ngon lành lắm.

        Duyên Anh cười:

        - Ông ấy bảo “ Thằng con trai tao có một nhà nhảy đầm. Mày đến đâáy chơi với tao, muốn cái gì, nó cho mày chơi cái đó. Anh hỏi Tô Văn “ Anh còn nhớ lần anh dẫn tôi vào cái bar ở đường Hai Bà Trưng đãi tôi uống rượu, tôi nói điều gì đó phật ý anh, rồi anh đập vỡ cái ly đang cầm trên tay không?”, ông ấy gật đầu, bảo “ Nhớ chứ”. Anh hỏi” Anh còn nhớ, anh bảo trong làng báo Việt Nam, tao chẳng sợ ai, chỉ sợ một mình thằng Thương Sinh thôi, anh nhớ không?”, ông ấy cười bảo “Nhớ chứ. Tao vẫn sợ mày mà”.

        - Mấy năm trước, khi chưa bị đau, ông ấy làm tờ Thức Tỉnh, ký bút hiệu mới, dường như là Minh Đạo. Ông ấy cổ võ cho giải pháp Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng….Ông Tô Văn là một trong rất ít người hồi 81, 82, dám nêu những thắc mắc về mặt trận Hoàng Cơ Minh…

        - Dĩ nhiên. Mấy chục năm trước, ông ta đã từng là một tay sừng sỏ lắm! Anh hỏi “Anh có định viết hồi ký về thời gian anh làm quân sư cho tướng Nguyễn Sơn ở Thanh Hóa, và lúc anh làm tỉnh trưởng Hà Đông không?” ông ta chỉ cười, rồi lắc đầu thôi. Anh hỏi “Anh còn nhớ anh viết “ Cậu Chó” rồi bị thiên hạ chửi quá xá không?” ông ta gật đầu “ có, có” …

        - Cuốn “Cậu Chó” ký tên Trần Đức Lai của Tô Văn, vẫn thấy bầy bán ở các tiệm sách dưới khu Bolsa.

        Duyên Anh tiếp:

        - Bà vợ ông ta bảo” Bọn Đại Nam in lậu cuốn ấy, bán khắp thế giới; mà mình có làm gì được chúng nó đâu!” Anh nói với Tô Văn “ Anh thấy không, anh ở ngay đất Mỹ này mà chúng nó vẫn cứ ngang nhiên ăn cắp tim óc của anh. Thế thì tôi ở xa, bị chúng nó ăn cắp cũng là chuyện tự nhiên thôi! Tội nghiệp anh, viết “ Cậu Chó”, bị cả nước chửi, nay chúng nó không chịu trả cho anh đồng nào!”

        Tôi ngạc nhiên:

        - Ông ấy không dám đòi mấy nhà xuất bản ấy à?

        Duyên Anh chợt nổi giận:

        - Đòi c. gì được chúng nó? Mấy thằng khốn nạn ấy chỉ cần nói “ Tôi đ. cần biết sách của anh hay của ai. Tôi in lại sách của Saigon hồi xưa thôi” là hòa cả làng! Chẳng ai làm gì chúng nó được. Mẹ, ông Tô Văn ngày trước cũng dữ dằn lắm đấy chứ. Mà có làm đ. gì được bọn chó đẻ ấy đâu? Chẳng lẽ xách súng đi cho mỗi thằng ăn cắp ấy một viên à?

        Tôi hỏi:

        - Tên thật của Tô Văn là Bùi Bá Nhân, phải không anh?

        Duyên Anh cười dòn tan:

        - Ừ. Nhưng anh hay gọi đùa ông ấy là Bùi Bất Nhân….

        - Ông ấy không giận?

        - Giận cái chó gì. Anh còn gọi ông ấy là Ma Vương Trần Đức Lai, hỗn danh Cậu Chó nữa. Tô Văn cũng chỉ cười hề hề thôi. Mấy lần Tô Văn ứng cử nghị viên, anh đều viết phiếm, phá ông ấy. Tô Văn tức mình lắm, hỏi anh “ Sao mày cứ phá tao hoài vậy?”, anh bảo “ Ông đắc cử làm nghị viên rồi, tôi đâu còn có thể chửi bọn nghị viên được nữa? Vì thế, tôi phải phá, để ông khỏi phải đắc cử, để tôi có thể tiếp tục chửi chúng nó chứ.”

        - Anh có đọc mấy bài thơ tù cho Tô Văn nghe không?

        Duyên Anh lắc đầu:

        - Vội quá, không kịp. Với lại, thấy mình, ông ấy cảm động quá, cứ nắm tay anh hoài. Còn anh, anh cứ xoa đầu ông ấy, nói “ Bây giờ hết Mông Thẩm Thúy Hằng rồi nhé.” Cho ông ấy cười. Anh hỏi Tô Văn “ Anh còn nhớ hồi tụi mình thức suốt đêm làm báo, buổi sáng cả bọn đi uống cà phê với nhau, anh bảo “ Lúc này, tao thua chúng mày thật rồi”, anh nhớ không?, ông ấy cười, gật đầu. Anh hỏi: “ Nghe nói, hồi anh mới qua đây, không có tôi, anh môt mình một chợ, tung hoành ghê lắm phải không?”, ông ấy cười hề hề, khoái lắm. Tô Văn cũng bảo anh “ Tao biết hết những việc mày làm ở Paris”.

        Tôi hỏi:

        - Anh nghĩ thế nào về Tô Văn?

        Duyên Anh suy nghĩ vài giây rồi đáp:

        - Ở đời, có hai loại người mà anh thích; Chính nhân quân tử và chân tiểu nhân. Chính nhân quân tử thì khỏi phải nói rồi nhé. Còn chân tiểu nhân là thế nào? Đấy là những người vì quyền lợi, dám làm những gì người khác chê bai, không dám, hay không chịu làm. Và khi làm những điều này, các ông chân tiểu nhân làm công khai, không coi dư luận ra cái gì hết. Theo anh, Tô Văn là một chân tiểu nhân mà anh khoái. Nguyễn Tú A cũng xứng đáng là một chân tiểu nhân mà anh khoái. Nó về Việt Nam làm ăn, quay video lung tung; và dám công khai, thẳng thắn nhận việc làm này. Chỉ bọn ngụy quân tử là anh không ưa thôi…

        Tôi hỏi:

        - Anh xếp những ai vào loại này?

        Duyên Anh cười:

        - Úi giào, đ.m, nhiều lắm cơ. Nhưng kể sơ sơ thì N.S. là một thứ ngụy quân tử. V.P. cũng là một ông ngụy quân tử khác….

        - Tại sao anh không ưa N.S.? Anh đã từng cho đăng CKT, tiền thân của Nhà Tù, trên báo của ông ta mà?

        - Thì cũng chính vì vậy anh mới biết rõ ông ta.

        - Nghĩa là…?

        - Ông ta không trả nhuận bút gì cả. Chỉ gửi báo tặng thôi. Vì thế, anh không cho đăng CKT trên báo ông ta nữa.

        Tôi hỏi:

        - Còn ông V.P., ông ấy có ân oán giang hồ gì với anh đâu mà anh có vẻ không thích ông ta?

        - V.P. là một ông lý trưởng văn nghệ. Anh xếp ông ta vào loại những người làm văn chương thư lại, văn chương nhai lại, thích nằm một chỗ làm công việc xếp đặt những người văn nghệ đi sau ông ta vào chiếu trên, chiếu dưới.

        Duyên Anh đột nhiên ngưng ở đây. Tôi quên, không hỏi anh xếp những ai vào hạng chính nhân quân tử. Tuy nhiên, tôi thấy, trong một số bài viết của anh, Duyên Anh đã từng nhắc đến “người quân tử Phạm Kim Vinh”.

        *

        * *

        Một buổi tối khác, Duyên Anh lấy tập thơ làm ở Paris ra, đọc cho tôi nghe. Sau khi đọc xong bài Cuồng Ngâm, anh bắt đầu giảng cho tôi về thơ lục bát:

        - Em phải nhớ, làm thơ lục bát tưởng rằng dễ, nhưng thực ra khó lắm chứ không phải chơi đâu. Lục bát, làm không khéo, nó trở thành vè. Vì thế, muốn làm thơ lục bát cho hay, mình phải khó với chính mình.

        - Nghĩa là…

        - Phải khó trong lúc chọn chữ. Đừng dùng những từ ngữ thiên hạ dùng đã mòn teo rồi. Phải chếâ ra những từ ngữ mới, mới nhưng đừng làm dáng, đừng bí hiểm kiểu mấy anh thi sĩ “khều mặt trời” , và quái thai như cậu thi sĩ đòi “ hiếp dâm Thượng Đế, đẻ ra mặt trời”. Chữ dùng mới, nhưng cũng phải giản dị nữa…

        - Theo anh, những thi sĩ Việt nam nào sử dụng lục bát hay nhất?

        - Thứ nhất là những thi sĩ vô danh đã góp phần vào kho tàng ca dao vô giá của dân tộc mình. Tuy nhiên, họ chỉ làm được những câu ngắn thôi, chứ dài thì không hay. Người thứ hai làm thơ lục bát hay là Nguyễn Du. Nguyễn Du đưa lục bát lên mức thượng thừa, cao sang, trau chuốt. Lục bát của Nguyễn Du cho ta thấy sự khác biệt giữa thơ và vè. Vè là thế nào? Đọc Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đi, ta sẽ thấy nó rất gần với vè. Nghệ thuật lục bát trong Truyện Kiều vượt xa Lục Vân Tiên. Người thứ ba làm lục bát hay là Huy Cận. Huy Cận là kẻ đưa lục bát lên mức độ cổ điển…

        - Thế còn Nguyễn Bính?

        - Thơ Nguyễn Bính cũng hay, rất gần với ca dao. Nhưng lục bát ông ấy làm không dài hơi, chưa thể sánh với Nguyễn Du được. Nguyễn Du là người làm thơ lục bát kinh khủng lắm!

        - Cái hay của Nguyễn Bính, theo anh là gì?

        - Ông ấy làm thơ rất dễ dàng, như người dân quê nói ca dao ấy. Thơ Nguyễn Bính mang nhiều nhạc tính, ý tứ lạ lắm. Hai thứ rất cần thiết trong thi ca là chữ nghĩa và hình ảnh. Hai thứ này, Nguyễn Bính có cả. Một bài thơ hay, phải nói lên một điều gì đó. Nói xong điều đó, là đủ rồi. Đừng nên kéo cho dài thêm. Sáu câu đã là hay rồi. Ba mươi sáu câu lại càng khó hay hơn nữa. Đừng cố ép thêm vài ba câu làm gì. Làm như vậy, có khi lại hỏng bài thơ đi. Chẳng hạn như bài Cô Hàng Xóm của Nguyễn Bính đó…

        - Bài ấy hay chứ?

        - Hay lắm. Tình tứ và cảm động lắm. Nhất là hai câu Đêm qua nàng đã chết rồi, Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng. Giá mà như thế, là hay tuyệt! Ngưng ở chỗ ấy là vừa rồi. Nhưng không hiểu sao, Nguyễn Bính lại thêm vào hai câu nữa “Hồn trinh còn ở trần gian, Nhập vào bướm trắng mà sang bên này”, làm hỏng cả bài thơ đi. Anh nói lại, muốn làm thơ cho hay, mình phải khó với chính mình mới được. Bởi vì thơ là gì? Thơ chính là tinh túy của văn chương, là tổng hợp của tinh hoa văn chương, âm nhạc, và triết học. Cho nên, làm thơ dễ mà khó; khó nhưng không có nghĩa là không thể làm được. Làm thơ được hay không, là ở chỗ mình có thích làm thơ không đã. Nếu thích thì có thể làm thơ hay được. Miễn là mình phải chịu khó học hỏi, tìm tòi, suy nghĩ, và tập khó với chính mình. Thích làm thơ mà không làm thơ được, là lỗi chỉ tại mình không chịu khó thôi. Bây giờ, nếu giả dụ có ai cắt tay ông Nguyễn Du, ráp vào tay mình, mà mình không thích làm thơ, thì cũng chẳng ra nổi bài thơ nào hết đâu. Còn khi mình đã say mê làm thơ, thì một ngày nào đó, sẽ làm thơ hay được như Nguyễn Du thôi. Khi đam mê thơ ca đã đến một độ nào đó, nó sẽ phát ra ngoài thôi. Thơ sinh ra thơ. Thi sĩ dạy thi sĩ. Nghĩa là cứ làm thơ đi, rồi thơ mình sẽ hay thôi. Chẳng ai có thể dạy ai cách làm thơ hết…

        - Như vậy, nếu thích làm thơ, mình nên bắt đầu bằng thể lục bát phải không?

        - Không. Nên bắt đầu bằng loại thơ năm chữ trước. Rồi đến loại bảy chữ, tám chữ. Cho đến khi nào trong người em đầy những hình ảnh và nhạc điệu rồi, lúc ấy, em sẽ chuyển qua lục bát…

        - Nhưng lục bát có vẻ dễ gieo vần hơn mấy thứ kia?

        - Đúng vậy. Lục bát, tự nó, đã có nhạc điệu rồi. Gieo trật vần một cái, là kể như hỏng hết nhạc điệu. Cũng chỉ vì nó dễ làm như thế, nên nhiều người lầm tưởng lục bát cứ gieo vần đúng, là xong một bài thơ. Và họ đâm ra dễ dãi với chính mình. Họ không biết rằng đặt những chữ nào vào trong câu, cho nó phát ra nhạc điệu cao sang, mới là chuyện khó. Và nghệ thuật, tài năng là ở chỗ đó…

        - Anh vừa nói thi sĩ dạy thi sĩ, nghĩa là trăm hay không bằng tay quen?

        - Phải rồi. Em cứ thử đi. Cứ làm khoảng năm bảy chục bài thơ các loại đi, rồi sau đó, trở về với lục bát. Cam đoan, lục bát của em sẽ tuyệt lắm.

        Tôi nói:

        - Anh thí dụ về cách dùng chữ mới đi.

        - Này nhé, em có biết ở ngoài Bắc, khi thuyền bị mắc cạn, không đi tiếp được thì người ta gọi là gì không?

        Tôi suy nghĩ một vài giây rồi lắc đààu. Duyên Anh nói:

        - Người ta gọi là thuyền khê. Em nghe mấy câu thơ này nhé

        Mùa Riêng

        Giấc thu lay động hôn mê
        Lá từng chiếc thả, thuyền khê, sông buồn
        Cây già còn nỗi cô đơn
        Vòng tay ôm khít sợ cơn gió lùa

        Ngập ngừng mùa tiễn đưa mùa
        Bây giờ lại vẫn bao giờ quẩn quanh
        Trời xê đất dịch tuần hoàn
        Sao ta chỉ có một lần đến đi?

        Đến, ta dằng dặc não nề
        Đi, ta côi cút nẻo về hư vô
        Ôi, cây già đứng ngẩn ngơ
        Hình như ta đó, đợi mùa riêng ta.

        Tôi nhìn Duyên Anh, ngậm ngùi:

        - Tâm sự gì não nề quá vậy? Nhất là câu “ Đi, ta côi cút nẻo về hư vô”. Dường như anh muốn nói là sau khi chết, người ta sẽ về cõi hư vô, chứ không có lên Thiên Đàng hay xuống Địa Ngục gì, phải không?

        Duyên Anh nghĩ ngợi một vài giây rồi chậm rãi:

        - Thiên Đàng, Địa Ngục, Niết Bàn, hay chốn Âm Ty, nó đều hiện diện trong tâm tưởng người ta mà thôi. Nhưng mà đừng nói chuyện ấy nữa. Để anh đọc tiếp hai bài lục bát này, đều làm trong những lúc anh chán chường nhất.

        - Chán chường?

        - Ừ. Nhưng cũng chính những lúc đó, lại làm thơ được nhất. Những câu lục bát ấy giúp mình có thêm can đảm và nghị lực để vượt lên trên mọi thù hận, đố kỵ của kẻ thù.

        Bia Da

        Hồn ta căng rộng bia da
        Nghìn tên tẩm độc thối tha bắn vào
        Có sao đâu, chẳng sao đâu
        Thơ ta nghe vẫn dạt dào kiêu sa

        Duyên Anh cười khà khà sảng khoái, rồi đọc tiếp

        Trái Núi

        Núi cao, trái núi thật cao
        Không nghe giun dế lao xao điệu hèn
        Núi im, trái núi thật im
        Không nghe cú rúc, rắn gầm, sói tru
        Núi to, trái núi thật to
        Một hôm, bắt tiếng hư vô gọi mình

        Duyên Anh nói:

        - Bài này, lúc vừa làm xong, anh gửi sang Luân Đôn, tặng thằng Vĩnh Phúc.

        - Chắc Vĩnh Phúc biết ngay đây là loại thơ khẩu khí?

        - Dĩ nhiên rồi. Vài tuần sau, anh nhận được bài thơ Vĩnh Phúc làm tặng anh. Nó viết như thế này. Và Duyên Anh cất tiếng đọc

        Nhắn Núi

        Núi ơi, núi đứng đã cao
        Hãy vui gió mát trăng sao một mình
        Quạ kêu, cú rúc, cũng im
        Thị phi, núi hãy nhận chìm dưới chân
        Đổi thay mặc đám phù vân
        Ngàn năm núi vẫn hiên ngang với đời

        Tôi hỏi:

        - Anh biết Vĩnh Phúc muốn nhắn anh điều gì không?

        - Có chứ. Nó biết anh cao ngạo, tự nhận mình là một ngọn núi. Vĩnh Phúc có ý khuyên anh đừng chấp bọn lau nhau bên dưới, bọn tài năng không bằng anh, bọn văn nghệ phì nọc rắn.

        Duyên Anh cười buồn:

        - Đ.m, nhiều lúc chán lắm cơ! Sống, mà cứ phải nghĩ cách đối phó với bọn rắn rết hèn mọn, thì chán lắm. Chán đến nỗi chỉ muốn tự tử cho rồi! Nhưng mà khoan đã, phải in xong một tập thơ nữa rồi hãy tính.

        Tôi bàn với anh về sự khác nhau giữa hai chữ hèn mọn và hèn hạ. Theo tôi, hai chữ này hoàn toàn khác nhau. Một người có thể tự xưng mình là kẻ hèn mọn, nhưng người đó rất có thể không hèn hạ chút nào. Duyên Anh không đồng ý. Theo anh, hèn mọn và hèn hạ chung một nghĩa, và đều có nghĩa xấu, tuy rằng hèn mọn không đến nỗi tệ như hèn hạ.

        Tôi hỏi anh:

        - Trong những bài viết của anh Phạm Kim Vinh, anh ấy dùng mấy chữ kẻ hèn mọn này để nói về mình, như vậy không được sao?

        Duyên Anh chắc nịch:

        - Người ta thường nói kẻ hèn này, chứ không nói kẻ hèn mọn này. Hoa hèn, chứ không phải hoa hèn mọn.

        Duyên Anh rất tự ái mỗi khi nghe ai góp ý phê bình những gì anh viết. Khi được anh nhờ xem lại bản đánh máy Trại Tập Trung trước khi đưa cho Nhà Xuân Thu in, tôi góp ý với Duyên Anh về việc anh cứ nhắc đi nhắc lại những chuyện Tạ Tỵ làm ở nhà bếp, và coi đó như những điều xấu xa.

        Tôi nói:

        - Em nghĩ, Tạ Tỵ kể lại mấy chuyện đó một cách chân thành như vậy, như một cách lên án chế độ lao tù dã man của Việt Cộng. Có lẽ, anh không nên dùng những chi tiết ấy để đánh lại ông ta thì hay hơn.

        Duyên Anh nghe tôi nói, chỉ yên lặng. Chắc chắn, vào thời điểm đó, anh còn hận mấy bài viết của Tạ Tỵ, và chưa sẵn sàng bỏ qua.

        Sau một lúc im lặng, Duyên Anh nói:

        - Anh dự tính cho Nhà Xuân Thu in một tập nhạc và một tuyển tập thơ của anh. Tập thơ gồm tám bài sáng tác ở Saigon, trước tháng tư năm 75, một bài làm trong trại tập trung, ba bài sáng tác sau khi đi tù về. Còn lại, là những bài anh làm ở Paris từ tháng 10 năm 83, cho tới tháng 10 năm 87.

        Tôi hỏi:

        - Anh làm nhiều thơ nhất vào thời gian nào?

        - Tháng 6, năm 87. Đó là thời gian anh gặp lại Hà Huyền Chi, sau mười hai năm xa cách. Đêm cuối cùng, ngồi uống rượu với Hà Huyền Chi, nó làm một bài thơ tặng anh. Bài thơ tên là Duyên Anh Ở Lại. Anh xúc động lắm, làm luôn một bài tiễn nó. Để anh lấy cho em xem.

        Duyên Anh rút trong phong bì vàng ra một bản photocopy, đưa cho tôi:

        - Em giữ làm kỷ niệm.

        Hai bài thơ của Hà Huyền Chi và Duyên Anh được chụp lại trên một tờ giấy. Theo tôi, một kẻ không sành thơ, cái hay của hai bài này là ở chỗ chúng đã thành hình ngay trong xúc cảm của cả hai thi sĩ; người này hiểu rõ tâm sự và hoài bão của người kia.

        Duyên Anh Ở Lại

        Ta trên núi hận mù sương
        Vết đau vỡ đá nỗi buồn xanh cây
        Vỡ trong ta nỗi đọa đầy
        Mất quê thiếu bạn từ ngày xa quê

        Ngươi trong tù ngục ê chề
        Oan khiên đội đá trở về nhân gian
        Thế nhân tim sắt mạ vàng
        Mũi tên đố kỵ bẽ bàng văn chương

        Ta mang kiếm gẫy lên đường
        Chia ngươi ngàn nỗi đoạn trường hôm nay
        Thả đời vào một cơn say
        Đạp trên sóng cả bão đầy mà đi

        Ta về hồn ở Pa-ri
        Ta về ngươi cũng hồn chia nỗi mừng
        Mai kia lở núi tan rừng
        Vẫn trong nỗi nhớ chập chùng hôm nay.

        HÀ HUYỀN CHI

        Tiễn Hà Huyền Chi

        Mai ngươi trở gót phiêu bồng
        Biết bao giờ mới dậy lòng viễn du?
        Chửa hè đã ngỡ vàng thu
        Chập chùng lá rụng mơ hồ sương rây

        Mười năm tưởng vụng cuộc say
        Tháng ngày tình ủ tháng ngày rượu ngon
        Gặp ngươi tâm điểm vuông tròn
        Biển dâu dâu biển chỉ buồn phồn hoa

        Vẫn còn ta, mãi còn ta
        Cái hôm nay sẽ lại là ngàn sau
        Ngươi về đâu, ta ở đâu?
        Về hay ở cũng chiêm bao gọi chiều

        Ngựa đi nhạc tủi chân đèo
        Vó hồi rã rượi hắt hiu cuối rừng
        Thôi ngươi trở gót phiêu bồng
        Dễ gì vụt thức dậy lòng viễn du?

        Duyên Anh

        (Rất tiếc, đầu tháng 5, 1988, sau ngày Duyên Anh bị nạn, Hà Huyền Chi viết một bài báo ngắn, chẳng những không bênh vực Duyên Anh mà còn thòng thêm một câu, nếu tôi nhớ không lầm, “Tao với mày không phải là bạn thân”. Qua bài báo này, người đọc thấy rõ ràng, Hà Huyền Chi quyết định tách mình thật xa khỏi Duyên Anh, có thể, để tránh bị liên lụy.

        Từ khi Duyên Anh hồi phục, cho đến ngày anh qua đời, theo tôi biết, anh không còn liên lạc với Hà Huyền Chi nữa.)

        Duyên Anh cũng cho tôi bản photocopy bài báo anh viết bằng tiếng Pháp, về trường hợp nhà văn Doãn Quốc Sĩ, đăng trên báo LA CROIX, tháng 11, 1987, trong đó anh giới thiệu Doãn Quốc Sĩ như một trong mười tên biệt kích văn nghệ, một người quốc gia chống cả cộng sản lẫn tư bản, bị Việt cộng bắt giam từ 1976 đến 1979, được thả, rồi lại bị bắt lại năm 1984, vì nhà cầm quyền tố cáo ông làm gián điệp. Duyên Anh mô tả cách giam giữ và đối xử tàn tệ của chế độ đối với nhà văn Doãn Quốc Sĩ, và kết luận bằng cách đặt câu hỏi trước lương tri những người yêu chuộng tự do “Không một tiếng kêu thống khổ nào có thể thoát ra khỏi nhà tù cộng sản được. Liệu chúng ta có để cho Doãn Quốc Sĩ chết mòn trong quên lãng chăng?”

        Tôi hỏi:

        - Dường như Nhà Nam Á đã có in tập Thơ Tù của anh rồi mà?

        - Đúng rồi. Đó là hồi năm 84. Bây giờ, trong tập thơ sắp in này, chỉ in lại bài Saigon Trường Ca đã in trong cuốn Thơ Tù, nhưng bài này anh sửa một số câu; còn lại toàn là thơ chưa in ở đâu thôi. Khoảng năm chục bài gì đó.

        - Còn nhạc thì sao?

        - Xuân Thu cũng sẽ in một tuyển tập nhạc gồm sáu mươi bài của anh. Tập nhạc mang tên Nhan Sắc.

        Sau buổi nói chuyện với tôi, không biết vì lý do gì, Duyên Anh đưa tuyển tập thơ Em Tôi, Saigon và Paris cho nhà Người Dân ấn hành. Còn tập nhạc sáu mươi bài của Duyên Anh, mang tên Nhan Sắc, tôi không biết Duyên Anh có đưa tập nhạc này cho Xuân Thu hay chưa. Bởi vì, cho tới nay, chỉ thấy có Nam Á in tuyển tập ca khúc Hôn Em Kỷ Niệm, gồm ba mươi sáu bản nhạc của Duyên Anh mà thôi.

        Rất tiếc, tôi không có khiếu thơ ca, nên từ buổi nói chuyện với Duyên Anh, tôi vẫn chưa làm được bài thơ nào cho anh xem cả.

        Comment


        • #5
          Em, Anh đã đến Paris

          Em,
          Anh đã đến Paris
          Mùa thu đầy xác lá
          Như lòng anh buồn bã thuyền nhân
          Sài Gòn tuy xa nhưng vẫn rất gần
          Paris trước mắt mà trăm năm hiu quạnh
          Cái gì lửng lơ trên miếng đời mỏng dính
          Ðó hồn anh giá lạnh quê người
          Anh đi giữa trưa thương nhớ mặt trời
          Anh đi giữa đường tương tư cơn gió
          Mặt trời ấm vừa má em hây đỏ
          Cơn gió hiền đủ sợi tóc em bay
          Anh đi giữa người thương nhớ ai đây
          Anh đi giữa đời cát mù sa mạc
          Anh đi tội tình lưu vong ngơ ngác
          Anh đi dại khờ trẻ lạc quê hương
          ........
          Em,
          Anh đã đến Paris
          Mùa thu đầy xác lá
          Xác lá mùa thu, xác lá duyên anh
          (1983)



          Tiếng hát Tấn Phát

          Comment


          • #6
            Chương 4

            Khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4, 1988, Julie và Trần Đình Thục mời anh chị Duyên Anh đến ở chơi nhà hai người. Thỉnh thoảng, tôi ghé chơi thăm Duyên Anh; Julie kho thịt, nấu canh cà chua, mấy anh em cùng ăn; còn Trần Đình Thục hay làm món Tây, đãi chúng tôi với rượu vang.

            Thời gian này, Julie đang sống với Trần Đình Thục ở căn nhà xinh xắn trên đường Edwards, thành phố Westminster; vườn hoa sau nhà có một hồ nhỏ nuôi cá vàng.

            Trần Đình Thục là một nghệ sĩ có thực tài. Nhiều người biết anh qua nghệ thuật nhiếp ảnh, trình bày bìa sách, poster, và bìa băng nhạc. Có lẽ, ít người biết anh vốn là một kiến trúc sư, tốt nghiệp Đại Học Kiến Trúc Saigon, một họa sĩ chuyên vẽ truyện bằng tranh tiếng Pháp, và từng cộng tác với các nhà xuất bản bên Âu Châu. Tôi được xem một số họa phẩm của Trần Đình Thục; và thật sự khâm phục cái tài hoa trong nét vẽ độc đáo của anh.

            Julie, mà tên tuổi gắn liền với Mùa Thu Chết của Phạm Duy, đã gặp gỡ và thân thiết với Duyên Anh từ mấy năm trước tại Paris. Trần Đình Thục biết Duyên Anh, qua Bùi Bỉnh Bân. Cả Trần Đình Thục và Julie đều coi Duyên Anh như người anh lớn trong nhà. Họ dành cho anh chị Duyên Anh một phòng riêng.

            Một buổi tối, khoảng hơn 10 giờ, tôi đã lên giường, sắp sửa ngủ; chuông điện thoại chợt vang lên. Tôi nhấc máy. Đầu giây bên kia, tiếng Duyên Anh:

            - Em xuống đây, đón anh ngay về Pasadena đi.

            Tôi hỏi:

            - Có chuyện gì vậy anh?

            Duyên Anh có vẻ gay gắt:

            - Cứ xuống đây ngay đi. Rồi anh sẽ kể cho nghe.

            Tôi mặc vội quần áo, phóng xe xuống đến nơi, đã thấy Duyên Anh ngồi trước cửa, chiếc va li nhỏ đặt bên cạnh.

            Vừa thấy tôi, anh xách va li, bước vội ra. Tôi vòng tay, mở cửa sau cho anh bỏ va li vào. Duyên Anh vừa vào ngồi phía trước, đã nói ngay:

            - Mẹ nó, bực mình quá!

            Tôi sang số, quay qua hỏi:

            - Chị đâu rồi anh?

            Vừa lúc đó, chị Duyên Anh từ trong nhà chạy ra, đưa tay vẫy, như muốn ra dấu cho xe ngừng lại. Nhưng Duyên Anh đã giục tôi:

            - Phóng luôn đi!

            Tôi rồ ga, cho xe vòng ngược ra đại lộ Westminster, hướng về Freeway 405. Duyên Anh nói:

            - Vừa mới cãi nhau một trận kịch liệt.

            Tôi hỏi:

            - Đầu đuôi như thế nào?

            - Bà ấy nhất định cho là anh ngủ với con Julie.

            Tôi thăéc mắc:

            - Nhưng cái gì khiến cho chị ấy nghĩ như thế?

            - Buổi chiều thu dọn phòng, bà ấy thấy có chiếc bít tất trẻ con ở cuối chân giường. Rồi nhất định bảo đó là bít tất của Julie.

            - Sự thật bít tất ấy của ai?

            - Của con thằng Joe Marcel. Vợ nó bế con vào phòng của anh và bà ấy, thay tã cho đứa bé. Sáng nay, vợ chồng Joe Marcel đến chơi mà. Một chiếc vớ của đứa bé tụt ra hồi nào, chúng nó đâu có để ý?

            Tôi thắc mắc:

            - Sao anh không giải thích cho chị ấy hiểu như thế?

            Duyên Anh “hừ” một tiếng:

            - Bà ấy có chịu nghe anh nói đâu!

            - Nếu không nghe, sao anh không nhờ vợ chồng Joe Marcel gọi lại, kể rõ đầu đuôi. Hoặc họ đem chiếc vớ kia tới. Hai chiếc vừa một đôi là coi như anh được giải oan thôi.

            Duyên Anh chép miệng:

            - Nghĩ được như em thì làm gì có chuyện!

            Yên lặng một lúc, anh nói:

            - Thằng Thục nó như em của anh. Anh đâu có thể làm những chuyện để nó coi thường anh được.

            Tôi không hỏi gì thêm, lặng lẽ lái xe đưa anh về Pasadena. Hôm sau, chị Duyên Anh gọi điện thoại lên, nhưng anh còn giận chị, không nói chuyện. Chị Duyên Anh lên Rowland Heights, ở nhà một người bạn mấy ngày, trước khi trở về Pháp.

            Về phần Duyên Anh, cuốn hồi ký văn nghệ Nhìn Lại Những Bến Bơø đã xong. Trong mấy hôm sau đó ở nhà tôi, anh quay sang làm thơ. Chiều nào tôi đi làm về, anh cũng gọi tôi vào, đọc cho tôi nghe những bài thơ anh mới làm xong trong ngày. Ý tứ và ngôn ngữ trong những bài thơ này rất lạ:

            Đôi Mắt Ấy

            Nó nhìn chim họa mi đậu trên cành véo von hót, tưởng rằng kên kên rỉa xác
            Nó nhìn chim én bay về dựng mùa Xuân, tưởng rằng phi cơ vận tải đạn bom
            Nó nhìn dòng sông phù sa mầu mỡ, tưởng rằng đại dương mênh mông máu đỏ
            Nó nhìn ruộng nương xanh ngát hiền hòa, tưởng rằng mộ bia chi chít tha ma
            Nó nhìn núi rừng thơ mộng, tưởng rằng xương khô chất đống
            Nó nhìn em bé nô đùa, tưởng rằng quỷ sứ hò hét tung hô
            Nó nhìn cuộc đời, tưởng rằng hắt hiu tàn tạ
            Nó nhìn con người, tưởng rằng chết queo mục rã
            Tưởng rằng nước mắt không rơi, tưởng rằng đã hủy diệt nụ cười
            Nó nhìn em sảng khoái, nó nhìn anh, nhìn nhân loại
            Nó nhìn xa không thấy
            Ta tội nghiệp hận thù

            Mơ Ước

            Cho tôi một thế giới loài người hữu nghị bằng trái tim của đôi trai gái si tình
            Cho tôi một thế giới không thép gai chủ nghĩa rào lấp biên thùy
            Không giấy thông hành xét hỏi đến đi
            Cho tôi một thế giới đạn nổ thành áo cơm, bom nổ thành hạnh phúc khôn cùng
            Cho tôi một thế giới phản lực cơ chiến lược chở tình thương, tiềm thủy đĩnh nguyên tử thám hiểm đáy biển mộng mơ
            Cho tôi một thế giới không ai còn thèm nghĩ cách giết nhau, không còn ai sống chết đớn đau
            Cho tôi một thế giới không còn nhà lao, trại tập trung, kẻng tù, xà lim, cachot, song sắt, xích còng
            Cho tôi một thế giới trò chơi con nít thay chiến tranh, thù hận tiên phong giăng biểu ngữ hòa bình
            Cho tôi một thế giới loài người gặp nhau nói chuyện thật nhiều

            Tình yêu

            Di Chúc Của Một Lãnh Tụ

            Ông ta đứng giữa trái đất hò hét “ Hãy diệt nhân loại theo lệnh ta
            Nhân danh chủ nghĩa tinh hoa, nhân danh giáo điều kỳ bí, nhân danh ý thức hệ, nhân danh bá chủ hoàn cầu
            Hãy hận thù, hận thù là lý tưởng
            Hãy hủy diệt hạnh phúc, hãy thắt cổ ước mơ
            Hãy xây dựng trại tập trung, nhà tù, hãy rào vây biên giới”
            Ngày kia lãnh tụ mệt mỏi, chủ nghĩa âm binh rã rượi, chém giết đã chán chường
            Lãnh tụ ung thư óc, nằm trên giường
            Phút lâm chung, nói những lời rất thực:

            “ Hãy ước mơ, vì ta chưa hề biết mơ ước
            Hãy yêu thương, vì ta chưa hề biết thương yêu, cứ mải hận thù
            Cái vĩ đại bé tí teo
            Nhân danh hạnh phúc, hãy xây dựng lại con người
            Khắp nơi trên trái đất
            Chủ nghĩa, căm hờn, đao binh, lãnh tụ muôn năm
            Ném vào thùng rác.”

            Cứ mỗi lần đọc xong một câu thơ, một bài thơ ưng ý, Duyên Anh lại cất tiếng cười sảng khoái. Chắc chắn, không bao giờ tôi quên được giọng cười hồn nhiên, dòn tan và khuôn mặt rạng rỡ của Duyên Anh khi đọc thơ và những đoạn văn vừa viết cho tôi nghe. Đôi khi, tôi chân thành góp ý với anh. Những điều tôi nói, có khi anh nghe, có khi anh nhất định bảo thủ ý kiến của mình.

            Một lần, sau khi nghe Duyên Anh đọc Bài Lưu Đầy anh viết tặng Kiều Vĩnh Phúc năm 1987, tôi góp ý với anh về hai câu

            Cá sấu chưa cười rung tiệc máu
            Diều hâu vẫn khóc rỉa moi thây

            Tôi nói:

            - Em đề nghị anh thay chữ diều hâu bằng kên kên thì hay hơn. Vì em nghĩ, chỉ kên kên mới moi rỉa xác chết, chứ diều hâu không có thói quen đó.

            Anh nói ngay:

            - Ừ, để khi nào in, anh sẽ sửa lại như em bảo.

            Duyên Anh ở nhà tôi hơn một tuần, rồi Julie và Trần Đình Thục lại mời anh về đường Edwards ở chung với hai người.

            Lúc ấy là tuần lễ cuối cùng của tháng 4, 1988. Tuần lễ định mệnh của Duyên Anh.

            *

            * *

            Chiều 30 tháng tư, 1988, Trần Đình Thục gọi điện thoại cho tôi. Giọng anh có vẻ hoảng hốt:

            - Anh Hiền, anh biết tin gì chưa?

            - Tin gì vậy anh Thục?

            - Anh Duyên Anh bị hành hung. Đang hôn mê. Hiện ở bệnh viện Humana.

            Bàng hoàng, tôi hỏi Trần Đình Thục đường đến bệnh viện, và phóng xe xuống Westminster. Gặp Thục ở bên ngoài khu cứu cấp, anh nói:

            - Để tôi đưa anh vào. Nhà thương họ chỉ cho thân nhân anh ấy vào thôi. Lý do an ninh.

            Tôi và Thục vào bên trong. Tôi giơ tấm thẻ có dán ảnh, nơi làm việc cấp, nói với người y tá trực “Tôi là em của nạn nhân vừa được đưa vào đây ban nãy.”

            Nhìn thấy tên tôi, cũng họ Vũ, và nhất là thấy Trần Đình Thục, người đưa Duyên Anh đến bệnh viện, bà y tá cho vào.

            Duyên Anh nằm một mình trong phòng, đôi mắt nhắm nghiền. Tấm khăn trải giường đắp từ ngực trở xuống. Tôi quay sang hỏi Trần Đình Thục. Anh kể:

            - Trưa hôm nay, anh Duyên Anh đi với anh Lê Quý An, tôi và em tôi đến khu Bolsa Mini Mall, định ăn trưa ở quán Ngân Đình. Chúng tôi gặp Mai Thảo, bác sĩ NM và bác sĩ NTV ở trước cửa quán. Duyên Anh dừng lại nói chuyện với họ chừng mươi, mười lăm phút. Ăn trưa xong, khoảng 1 giờ, chúng tôi đang đi bộ về phía đường Bolsa, thì bốn tên từ phía sau trờ tới. Một tên vỗ vai Duyên Anh. Ngay khi anh vừa quay lại, nó đánh thật mạnh vào thái dương bên trái, rồi bồi thêm một cú móc ở dưới cằm. Duyên Anh ngã quỵ xuống. Sự việc xảy ra thật đột ngột, không ai kịp phản ứng. Anh Lê Quý An la lên ầm ĩ “Tại sao các cậu lại đánh người ta?” Tên đánh Duyên Anh bỏ chạy về phiá đường Bushard. Tôi chỉ kịp giơ máy ảnh chụp được phía sau lưng nó. Chúng tôi xốc Duyên Anh, dìu anh đến ngồi trước bậc thềm, bên ngoài phòng chụp quang tuyến của bác sĩ NM.

            Tôi hỏi:

            - Các anh có gọi cấp cứu ngay không?

            - Có chứ. Ngay sau khi chúng tôi đặt DuyênAnh ngồi xuống, tôi để anh Lê Quý An và chú em tôi coi chừng anh ấy, còn tôi chạy vào phòng quang tuyến, xin bác sĩ NM làm ơn ra coi cho Duyên Anh. Có cả bác sĩ NTV cũng đang ngồi trong đó nữa.

            - Các ông ấy ra ngay chứ?

            - Không có ai ra cả. Bác sĩ M bảo tôi, ông ta không khám bệnh, chỉ chụp quang tuyến thôi.

            - Như vậy, ai gọi 911?

            - Lúc tôi ra ngoài, anh Lê Quý An đang xin nhân viên ở đó gọi dùm.

            - Bao lâu thì xe cứu thương mới tới?

            - Khoảng hai mươi phút sau.

            - Suốt trong thời gian đó, không ai ngó ngàng gì đến Duyên Anh?

            - Không có ai cả. Tôi lấy làm lạ, vì sao hai ông bác sĩ đó không thể bước ra ngoài nhìn Duyên Anh một chút, dù trước đó một tiếng, họ đã bắt tay, và nói chuyện với anh ấy.

            Tôi nói:

            - Anh không biết là bất cứ trong nghề gì cũng có những người đầy ắp lương tâm chức nghiệp, và một thiểu số hèn mạt, đánh mất nhân tính rồi hay sao?

            Trần Đình Thục không trả lời tôi, chỉ buồn bã than:

            - Tôi đã cố tránh, không muốn để anh ấy đi ra ngoài nhiều…!

            Tôi nói:

            - Chúng ta đều lo lắng cho anh ấy cả. Anh ấy có nhiều kẻ thù quá.

            Tôi xót xa nhìn Duyên Anh đang nằm thiêm thiếp. Bên tai tôi, văng vẳng lời bác sĩ Hoàng Văn Đức, khi hai chúng tôi đi cạnh Duyên Anh, hôm ra đón anh ở phi trường Los Angeles: “Chú thấy không, những chiến sĩ chống cộng có tầm vóc như Duyên Anh ở hải ngoại, không còn mấy người đâu. Mình phải bảo vệ chú ấy mới được.”

            Chúng tôi, những người yêu mến Duyên Anh, đã không thể làm gì hơn để bảo vệ anh cho đúng mức được. Làm sao có thể giữ anh ở mãi trong nhà? Đôi khi, nghe anh em nào khuyên anh nên thận trọng lúc ra đường, ghé chỗ nọ, chỗ kia, Duyên Anh thường cười lớn: “Tao cóc sợ gì chúng nó. Duyên Anh này đang thèm được chết đây!”

            Tôi đau đớn nhìn Duyên Anh nằm bất động, chơi vơi giữa biên giới của sống và chết. Căn phòng thật yên tĩnh. Chỉ có tiếng máy lạnh rì rì, tiếng thở dồn dập của một Duyên Anh đôi môi khô nứt nẻ, ống thở qua mũi và giây nhợ chằng chịt nối với các màn ảnh.

            Tôi tiến lại sát giường, đặt nhẹ tay lên ngực Duyên Anh. Anh bỗng mở mắt nhìn tôi, khe khẽ gật đầu. Anh muốn nói với tôi điều gì đó, nhưng đôi môi chỉ hơi mấp máy, và cổ họng anh phát ra những âm thanh gờ gờ, tôi không hiểu được. Rồi cơn nấc liên tục tràn tới, mỗi tiếng nấc kèm theo một co giật, khiến anh oằn người lại; nét đau đớn hiện rõ trên khuôn mặt anh. Những giọt nước mắt trào ra từ khóe mắt anh.

            Nước mắt tôi cũng rơi, không biết tự bao giờ…

            Từ hôm đó, cứ vài ba ngày, tôi lại xuống thăm anh một lần. Vì có tên trong danh sách sáu người nhà thương đã biết, tôi vào thăm anh dễ dàng. Trong thời gian Duyên Anh nằm nhà thương, Đặng Xuân Côn và Thiên Chương, trưởng nam của Duyên Anh, hầu như ở suốt ngày trong đó với anh.
            Sáng thứ bảy của tuần lễ thứ ba, sau ngày Duyên Anh vào nhà thương Humana, tôi đến thăm anh, như thường lệ. Lên thang máy, vào khu vực quen thuộc, tôi gặp cô y tá hàng ngày thường săn sóc Duyên Anh. Vừa thấy tôi, cô ta nói ngay:

            - Ông ấy rời bệnh viện rồi.

            Tôi ngạc nhiên, hỏi dồn:

            - Hồi nào? Ai đưa ông ấy đi?

            - Đêm hôm qua. Thân nhân ông ấy.

            - Cô có biết họ đưa ông ấy đi về đâu không?

            - Tôi không biết. Nhưng có thể đến một cơ sở phục hồi nào đó.

            Tôi cám ơn cô y tá và xuống cầu thang, lại máy điện thoại công cộng, gọi

            cho CTB:

            - Thưa anh, tôi đang ở bệnh viện Humana. Anh Duyên Anh rời khỏi đây rồi. Anh có biết anh ấy ở đâu không?

            - Không, anh ạ. Chiều hôm qua, lúc 6 giờ 10 phút, anh Côn gọi điện thoại cho tôi. Anh Côn bảo “Tao đưa nó ra máy bay đây. Mày lên không kịp đâu.” Từ hôm qua đến giờ, tôi chờ điện thoại anh Côn, chưa thấy anh ấy gọi lại.

            Tôi cám ơn CTB, và nhờ anh gọi cho tôi, khi anh biết chỗ mới

            của Duyên Anh.

            *

            * *

            Sau khi Duyên Anh rời bệnh viện, không biết được chở đi đâu, đã có rất nhiều giả thuyết, phỏng đoán, và tin đồn liên quan đến anh.

            Tin đồn thứ nhất: Hung thủ tấn công Duyên Anh là một thanh niên mắc bệnh tâm trí, có hồ sơ bệnh lý đàng hoàng. Thanh niên này đã ra tự thú với cảnh sát Westminster.

            Tin thứ nhì: Chính phủ Pháp đưa nguyên một phi cơ sang đón Duyên Anh. Anh được trực thăng chở thẳng từ bệnh viện ra phi trường.

            Tin thứ ba: Anh Đặng Xuân Côn đang săn sóc Duyên Anh ở một motel nào đó. Duyên Anh vẫn còn ở quận Cam, chưa về Pháp.

            Hai hôm sau, tôi gọi điện thoại sang nhà anh Côn bên Texas. Các con anh nói anh không có nhà. Gọi sang Paris cho chị Duyên Anh, chị nói anh vẫn chưa về đến nơi. Tôi gọi cho CTB một lần nữa. Anh nói không biết Duyên Anh đang ở đâu, nhưng hứa nếu biết tin gì về Duyên Anh, anh sẽ gọi cho tôi. Tôi hỏi CTB:

            - Thưa anh, mấy hôm nay, anh Côn có liên lạc với anh không? Vì tôi vừa gọi sang Texas, các cháu con anh Côn bảo anh ấy vẫn còn ở Cali.

            CTB đáp tỉnh bơ:

            - À, vậy thì có lẽ anh Côn với cháu Chương ở lại lo việc bán sách hay băng nhạc của Duyên Anh gì đó, để gửi tiền sang Pháp. Chứ anh Côn, từ thứ sáu tuần rồi, không gặp tôi, và cũng không gọi điện thoại gì cả

            - Thưa anh, còn tin chính phủ Pháp đưa máy bay sang đón Duyên Anh về, tin này có được xác nhận chưa?

            - Hôm thứ sáu, anh Côn chỉ bảo tôi “Tao đưa thằng Duyên Anh về Pháp ngay bây giờ đây. Mày lên không kịp đâu.” Thế là biệt vô âm tín luôn….

            - Thưa anh, như vậy tức là anh Côn cũng phải lên máy bay về Pháp cùng với Duyên Anh luôn?

            - Tôi không biết nữa, anh ạ. Từ hôm đó đến nay, tôi không liên lạc được với anh Côn. Tôi chỉ nhớ là mấy tuần trước, tôi có nói chuyện với anh Côn, thì anh Côn bảo là chuyện sách vở, băng nhạc của Duyên Anh còn giây cà, giây muống ở bên Cali này nhiều lắm. Nên có lẽ anh Côn còn phải ở lại đây, liên lạc với Xuân Thu và mấy chỗ phát hành băng nhạc để nhận tiền dùm Duyên Anh. Chứ anh bảo, không có tiền, ở bên Pháp lấy gì cho gia đình Duyên Anh chi dùng?

            - Nhưng nếu Duyên Anh đã về Pháp từ thứ sáu tuần trước, sao đến hôm nay, chị Duyên Anh nói anh ấy vẫn chưa về đến nhà?

            CTB ngập ngừng vài giây, rồi đáp rất tự nhiên:

            - Có lẽ chính phủ Pháp phải giữ Duyên Anh ở một bệnh viện nào đó, để bảo vệ an ninh cho anh ấy.

            - Điều tôi lấy làm lạ, là các cháu con anh Côn nói, bố chúng nó và anh Chương từ chiều thứ sáu tuần rồi vẫn còn ở Cali, và không gọi về nhà gì cả, nên chúng không biết hai người này đang ở đâu…

            CTB cười:

            - À, chuyện đó thì tôi cũng chịu thua thôi. Dạ…

            Tôi biết chữ “Dạ” này là dấu hiệu người ở đầu giây bên kia không muốn tiếp tục câu chuyện nữa. Tôi cám ơn CTB, và như thường lệ, xin ông ta gọi cho tôi nếu có tin tức gì về Duyên Anh.

            Buổi trưa, tôi gọi Nguyễn Đức An (một người em văn nghệ của DA ở Westminster, không phải bs Nguyễn Đức An ở miền Đông Hoa Kỳ):

            - Hôm qua, anh gọi cho An hai lần, lần đầu lúc 10 giờ, người ta bảo An đi chưa về. Gần 11 giờ gọi lại, chủ nhà bảo cậu ngủ rồi, ngủ mệt quá, họ không dám đánh thức…

            - Em đi uống với mấy thằng bạn. Say quá, về tới nhà là ngủ luôn…

            - An có tin gì lạ không?

            - Có. Hồi sáng, em gọi cho HHC…

            - Anh ấy đang ở San José chữa bệnh hay đã về Washington?

            - Về lại Washington rồi. Anh HHC kể với em, anh ấy gọi sang Pháp, nói chuyện với con rể Duyên Anh…

            - À, thằng David. Nó nói tiếng Việt giỏi lắm…

            Nguyễn Đức An kể tiếp:

            - David nói với HHC “Bố cháu sắp về. Ở nhà đang chuẩn bị ra phi trường đón bố cháu với anh Chương và bác Côn”. Mà cũng lạ lắm; ở dưới này, báo của Du Tử Lê đăng tin Duyên Anh rời bệnh viện bằng trực thăng, và tin ba nhà mạnh thường quân ở quận Cam bằng lòng thanh toán các chi phí chữa trị ở nhà thương Humana cho Duyên Anh…. Ông HHC ông ấy hay lắm, anh ạ! Chuyện ở dưới này, ông ấy biết hết. Ông ấy bảo chính phủ Pháp dàn xếp với Tổng Thống Reagan đưa Duyên Anh về Paris. Không biết ông ấy căn cứ vào nguồn tin nào.

            - An có hỏi ông ấy nghe tin ấy ở đâu không?

            - Có. Nhưng mà ông ấy bảo “Nếu tôi không có nguồn tin chính xác, tôi đã không dám nói với cậu là chính FBI đã phối hợp với an ninh Pháp để tiến hành cuộc điều tra vụ hành hung Duyên Anh “….

            Buổi tối, L. gọi cho tôi:

            - Này, chỗ anh em, anh nói riêng cái này cho Hiền biết nhé….

            Tôi nôn nóng:

            - Cái gì vậy?

            L. chậm rãi:

            - Cái vụ này, có lẽ là người quốc gia chơi người quốc gia thôi…

            - Nghĩa là thế nào?

            - Thôi, không nói được đâu….

            - Tại sao?

            - Vì nói ra, có thể nó nguy hiểm đến tính mạng của mình….

            Tôi bật cười :

            - Dân giang hồ tứ chiếng như anh mà cũng sợ “nguy hiểm đến tính mạng” à?

            - Chứ sao? Chết vì đạn của Việt Cộng thì anh cóc sợ. Nhưng mà bị anh em trong nhà thanh toán thì đau lắm….

            - Nghĩa là, anh nghe đồn Duyên Anh bị phe nào hành hung?

            - Không rõ phe nào. Chỉ nghe anh em dưới này nói Duyên Anh làm mất lòng nhiều người lắm….Có người cũng nhắn anh khuyên Hiền là đừng đi gần với Duyên Anh nhiều quá, tai bay vạ gió chẳng biết sao mà lường trước được…

            - Nhưng mà chuyện em thân thiết với Duyên Anh có liên quan gì đến những tin đồn mà anh nghe được? Kể lại cho em thì cũng chỉ là tin đồn thôi. Đâu có phải ý kiến riêng của anh đâu mà anh phải ngại?

            - Có chứ. Đi gần với Duyên Anh là thế nào cũng gặp rắc rối, không nhiều thì ít. Cũng vì thế mà XT nó cũng sợ, tìm cách lảng ra từ từ rồi. Từ ngày Duyên Anh gặp nạn, có bao giờ nó dám đến nhà thương thăm Duyên Anh đâu?

            - Riêng em, thì chỉ khi nào Duyên Anh đi theo Việt Cộng, và làm việc cho Việt Cộng thì em mới bỏ anh ấy thôi. Mà điều này thì em biết chắc chắn, không bao giờ có. Bởi vì, Duyên Anh đã từng nói, và viết nữa, rằng khi nào anh ấy quyết định làm việc với Việt Cộng, anh ấy sẽ công khai cho mọi người biết chuyện đó… Nhưng mà chuyện anh định nói, có gần giống như vậy không?

            - Không phải như vậy…Duyên Anh bị hành hung, chỉ vì chửi anh em nhiều quá thôi.

            - Nhưng anh em đây là ai?

            - Những người quốc gia, văn nghệ sĩ miền Nam, các tướng tá Việt Nam Cộng Hòa. Ông Kỳ ông ấy cũng bực Duyên Anh lắm….

            - Ông ấy bực cũng phải thôi. Trên tờ Ngày Nay của Lê Hồng Long và Quan Điểm của Phạm Kim Vinh, Duyên Anh phạng ông ta hơi kỹ…

            - Phạng như thế nào?

            - Duyên Anh làm thơ, nhắc lại chuyện ông Kỳ mê xem đá gà ở Long Xuyên, bắt lính đóng chốt chung quanh bảo vệ an ninh cho mình, chuyện ông ta đứng ở Tân Sa Châu, thề không đi Mỹ…

            - Mấy tháng trước, ông Lai, chủ nhân của Thúy Nga đem băng video Nước Mắt Việt Nam hay là Giã Biệt Saigon gì đó, đến biếu ông Kỳ. Ông Kỳ thấy tên Duyên Anh trên cuốn băng, nói ngay với ông Lai “Anh về, bảo thằng Duyên Anh nó câm cái miệng của nó lại”…

            - Nhưng rồi ông ấy có nhận cuốn băng ấy không?

            - Nhận hay không, anh không biết. Nhưng mà nhiều người quen của anh đều bảo Duyên Anh chửi ông Kỳ nặng quá…

            - Vấn đề chính, là ông Kỳ có làm những chuyện đó hay không. Nhưng mà đâu có phải Duyên Anh chỉ toàn công kích ông Kỳ. Năm 1966, hồi ông ta làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, Duyên Anh dự cuộc họp báo của ông Kỳ, rồi về viết bài khen tài hùng biện và ăn nói bay bướm của ông ta. Duyên Anh còn bênh ông Kỳ, khi ông ta bị sinh viên kết án thiếu công bằng nữa…

            - Chuyện đó, anh chưa được biết. Chỉ thâáy, trong thời gian gần đây, Duyên Anh chửi ông Kỳ nhiều quá thôi…

            Sau khi L. cúp máy, tôi gọi điện thoại cho Trần Đình Thục. Thục nói:

            - Khổ quá, tại sao họ cứ muốn dấu mình. Tôi lo cho anh Duyên Anh quá, anh Hiền ạ. Anh có tin tức gì mới không?

            - Không, anh Thục. Tôi vừa gọi Texas. Hỏi cháu Chương. Con anh Côn bảo Chương không có ở đấy. Chúng cũng không biết Chương đang ở đâu.

            - Tôi nghĩ, vấn đề ưu tiên bây giờ là việc chữa trị cho anh Duyên Anh. Nếu anh ấy về Pháp sớm thì tốt hơn. Hệ thống xã hội của Pháp tốt và nhân đạo hơn bên Mỹ nhiều. Hơn nữa, về bên ấy còn có chị Duyên Anh và hai cháu săn sóc anh.

            - Tôi lấy làm lạ về thái độ của anh Côn đối với tụi mình. Anh và tôi ở trong số những người thân nhất với Duyên Anh. Vậy mà có vẻ như anh ấy không tin cả anh lẫn tôi rồi.

            Thục nói:

            - Giữ Duyên Anh ở lại quận Cam, làm sao anh Côn có đủ phương tiện lo cho anh ấy. Còn nếu đã đưa Duyên Anh về Dallas, lẽ ra anh Côn nên gọi cho chúng mình một tiếng chứ. Mình là người đã ở sát với Duyên Anh trong những lúc nguy ngập nhất mà?

            - Riêng tôi, tôi cảm thấy hơi tủi thân một chút.

            - Vâng, tôi cũng cảm thấy như vậy. Có lẽ, tôi sẽ chờ chừng một vài tuần nữa mới gọi cho anh Côn. Tôi kính trọng tinh thần xả thân của anh ấy đối với Duyên Anh. Chắc anh ấy đang trải qua một hoàn cảnh khó khăn hay đau khổ nào đó mà chưa thể giải quyết được, nên chưa tiện nói với chúng mình đó thôi.

            - Tôi suy nghĩ nhiều, càng nghĩ càng thấy khó hiểu….Có cảm tưởng như anh Côn muốn đóng cửa rút cầu với anh em mình rồi…

            Trần Đình Thục không nói gì thêm, sau khi dặn tôi có tin tức mới, báo cho anh biết…

            Buổi tối, ông C. gọi cho tôi. Ông vốn là đồng nghiệp với anh cả tôi, khi hai người dạy ở một trường trung học tại Vĩnh Long. Do đó, tôi gọi ông là anh, còn ông gọi tôi là chú. Sau khi tôi kể cho ông C. nghe những gì tôi đã thu thập được, ông nói:

            - Như vậy, chắc cũng không sao đâu. Ông dân biểu Dornan đã lo mấy việc này rồi. Chú cứ yên tâm về Duyên Anh đi.

            - Anh bảo ông Dornan lo những việc gì?

            - Trước hết, cách đây bốn năm hôm, ông ấy bảo đã liên lạc với Tòa Bạch Ốc, xin máy bay quân sự Mỹ đưa Duyên Anh về Pháp. Thứ nhì, ông ấy đã yêu cầu FBI tiến hành điều tra vụ này. Bởi vì Duyên Anh bị hành hung ở ngay đơn vị ông ấy đại diện. Nó có thể sẽ ảnh hưởng đến vụ tái tranh cử của ông ấy. Chuyện này, nó sensible (Ông C. vốn là giáo sư Pháp Văn) lắm. Có lẽ mình phải chờ một thời gian mới biết rõ được…

            Ông C. nhờ tôi gửi lời thăm ông anh cả, và hứa biết tin gì mới, sẽ thông báo cho tôi.

            Tôi gọi điện thoại, nói chuyện với anh Phạm Kim Vinh. Trước đó vài hôm, anh Vinh cho biết anh và một số thân hữu của Duyên Anh sẽ viết bài bênh vực Duyên Anh, và lên án những kẻ chủ mưu vụ hành hung. Tôi nói:

            - Anh có nghe tin là đứa hành hung Duyên Anh đã ra tự thú rồi không?

            Phạm Kim Vinh hỏi:

            - Em nghe tin này ở đâu?

            - DT gọi cho em. Tin từ ĐTB, ở San Diego.

            - Em có thể kiểm chứng tin này được không?

            - Nếu nó tự thú ở khu Westminster, thì có thể hỏi được. Nhưng nếu nguồn tin này phát xuất từ San Diego thì….

            - Thôi được, để anh nhờ LTĐ hỏi dướùi đó xem sao.

            - Anh LTĐ có bằng lòng viết không?

            Anh Vinh có vẻ không thích câu hỏi của tôi. Anh nói:

            - Em đừng nói chuyện bằng lòng hay không bằng lòng. Anh phải nói ngay với em điều này. Em đừng nên kỳ vọng ai cũng phải tha thiết với Duyên Anh như anh em mình đâu. Mình không cần phải năn nỉ ai cả. Năn nỉ hay nài ép người ta, chính nghiã của mình sẽ tiêu tan ngay. Anh và em cứ viết. Mình sẽ đăng trên tờ Quan Điểm của anh và tờ Ngày Nay của anh Lê Hồng Long. Bây giờ là lúc để cho mình đo lường cái can đảm của những người cầm bút hải ngoại. Theo anh để ý trong mấy tuần nay, bọn cầm bút ở cái vùng Orange County này, đa số chỉ là một lũ hèn nhát. Chúng nó đều cúi mặt, ngậm miệng. Không đứa nào dám lên tiếng cả…Thật là tởm!

            - Không phải hèn nhát đâu. Đố kỵ, có lẽ đúng hơn. Duyên Anh bị một số người ghen ghét. Nhân dịp này, có thể là họ hả hê lắm. Làm sao viết bài bênh vực anh ấy cho được?

            - Nhưng mà dưới San Diego, ít nhất cũng còn nhóm VNHN của ông ĐTB. Ông ấy bảo, sẽ dành nguyên một số báo để bênh vực Duyên Anh…

            - Anh có đóng góp cho số báo ấy không?

            - Có chứ. Họ cho anh là người hiểu việc làm của Duyên Anh nhiều nhất. Họ sẽ cho người đến nhà anh trưa mai. Anh còn giữ được copy bài anh viết về Duyên Anh sắp đăng trên Quan Điểm.

            - Sao anh không gửi copy ấy cho họ?

            - Không. Anh muốn họ đọc ngay tại chỗ. Đăng được hay không, cho anh biết ngay.

            - Anh sợ họ không đăng nguyên văn?

            - Không phải là sợ. Anh không thích bất cứ ai thêm bớt, sửa chữa những gì anh đã viết. Ông ĐTB hoạt động theo tinh thần của toàn nhóm ông ấy. Có thể, bài anh viết sẽ đụng chạm một vài cá nhân trong nhóm thân hữu của ông ấy. Sợ đụng chạm thì không viết. Ngại đụng chạm thì đừng đăng. Có vậy thôi.

            - Nhưng em nghĩ, ĐTB cũng là một tay sừng sỏ, đâu biết sợ gì ai. Theo anh, vì sao ông ta cho VNHN nhập cuộc?

            - Nhóm này cho việc đánh trọng thương Duyên Anh là nằm trong âm mưu đưa Nguyễn Văn Thiệu trở lại chính trường. Như em biết, Duyên Anh là một trong những nhà văn chống Thiệu mạnh bạo nhất trước 75. Cho nên, phải bịt miệng những thành phần này, trước khi hắn chường mặt ra.

            - Điều anh vừa nói làm em nhớ lại hôm qua, DT bảo, anh ta nghe nói tên đánh Duyên Anh là người của TST…

            - Không thể biết được, em ạ. Có thể bọn chủ mưu là cộng sản, hoặc là người của Thiệu, không thể kết luận ngay bây giờ được.

            Tôi hỏi:

            - Như vậy, ngoài anh em mình, anh Lê Hồng Long, và nhóm của ông ĐTB, không còn ai lên tiếng vụ này nữa phải không?

            - Như thế cũng đủ rồi. Em tin anh đi, nếu bây giờ mà Vũ Trung Hiền cứ gọi đi hết báo này đến báo kia, nhờ chúng nó lên tiếng vụ Duyên Anh, chắc chắn chúng nó sẽ coi thường em ngay…

            - Đời nào em làm chuyện năn nỉ đó…

            - Ngay cả với LTĐ và những anh khác cũng thế. Anh đều bảo với họ rằng “Nếu các anh thấy đó là việc phải, cần lên tiếng thì lên tiếng. Chứ không ai có thể ép các anh lên tiếng được.”

            - Em nghĩ, mình là những người gần gũi với Duyên Anh nhất, thì mình lên tiếng trước cũng là chuyện đương nhiên thôi. Mai mốt, khi các thân hữu khác của Duyên Anh biết được thêm chi tiết về vụ này, chắc hẳn họ sẽ dự phần vào việc bênh vực anh ấy.

            - Anh vừa nói với anh Lê Hồng Long, rằng anh không hiểu tại sao ngay cả đối với em, là người thân cận nhất với Duyên Anh, mà người nhà anh ấy cũng không cho em biết sự thật….

            - Em thì cứ cho là thế này: Họ lo ngại cho sự an toàn của Duyên Anh. Có lẽ, mình chưa ở trong hoàn cảnh của gia đình nạn nhân, mình không thông cảm được những nỗi khó khăn, đau khổ mà họ đã trải qua đâu. Đến một lúc nào đó, gia đình anh ấy thấy có thể cho mình biết sự thật thì họ sẽ liên lạc với mình thôi.

            - Ừ, thôi, mình cứ nghĩ tốt về họ như thế đi. Cho tâm hồn mình được thư thái.

            - Lần chót anh Đặng Xuân Côn gọi cho anh là lúc nào?

            - Thứ tư tuần trước. Anh ấy bảo thứ sáu, bác sĩ cho Duyên Anh xuất viện. Nhưng anh Côn xin họ cho ở thêm hai ngày nữa, chúa nhật mới ra. Anh Côn bảo là sẽ thuê một phòng ở motel gần nhà thương Humana để y tá ở đó dễ dàng qua, giúp Duyên Anh mau chóng phục hồi.

            Tôi cũng cho Phạm Kim Vinh biết, Đỗ Tiến Đức và nhóm Quốc Gia Hành Chánh sẽ tổ chức một buổi họp, để cựu sinh viên trường này, Phó Quận Trưởng Nguyễn Đình Đức, một cựu tù cải tạo từng ở tù chung đội với Duyên Anh và Nguyễn Mạnh Côn, kể lại sự thật về cái chết của Nguyễn Mạnh Côn. Mục đích của buổi họp mặt này là minh oan cho Duyên Anh

            về những lời đồn đại Nguyễn Mạnh Côn chết vì Duyên Anh làm ăng ten tố cáo tác giả Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn. Cũng theo Đỗ Tiến Đức, Phó Quận Nguyễn Đình Đức sẽ thách thức những ai đã từng ở chung trại Xuyên Mộc đưa ra bằng cớ Duyên Anh làm việc cho Việt Cộng. Nguyễn Đình Đức sẵn sàng đối chất với những người đó.

            Tối hôm sau, DT gọi điện thoại, cho tôi biết, người đánh Duyên Anh có hồ sơ bệnh lý, xác nhận anh ta bị bệnh tâm thần, mất trí gì đó, để nếu có bị truy tố, thì cũng được giảm khinh. Nghĩa là những người chủ mưu đã chuẩn bị từ trước, khủng bố những người đã từng công kích cựu tổng thống Thiệu, để khi ông này xuất hiện, sẽ không ai dám chống đối nữa.

            Tôi cho DT biết chuyện nhóm Quốc Gia Hành Chánh dự tính làm cho

            Duyên Anh. DT nói:

            - Hôm Duyên Anh nói chuyện ở trên này, cũng có một người xưng tên Đỗ Kim. Anh ta bảo là đã ở trại Xuyên Mộc với Duyên Anh. Nhưng khi bị vặn hỏi ở tổ nào, nằm gần những ai, ăn cơm chung với ai, thì cu cậu ú ớ ngay..

            - Nguyễn Đình Đức cũng sẽ làm như vậy đó. Trước hết, anh ta sẽ hỏi xem có thật sự là người tố cáo Duyên Anh đã từng ở trại đó không đã. Sau đó, anh ta sẽ kể ra những bằng cớ chứng tỏ trong thời gian ở Xuyên Mộc, Duyên Anh đã chống đối Cộng Sản và đứng về phía các bạn đồng tù như thế nào.

            - Trường hợp Duyên Anh cũng oan uổng như Vũ Thành An vậy. Trước đây, mình cũng nghe nói anh ta làm ăng ten, hại anh em này nọ. Đùng một cái, đọc hồi ký Vùng Đất Ngục Tù của Nguyễn Vạn Hùng, mới biết Vũ Thành An chỉ là một con người hiền lành, nạn nhận của tin đồn thôi. Lời nói của con người ta nguy hiểm lắm, Hiền ạ. Giết người như chơi thôi.

            Tôi hỏi:

            - Anh nhớ chuyện Thầy Tăng Sâm giết người chứ?

            - Nhớ. Mấy năm trước, hồi tôi còn ở trại tị nạn, có một tay dám nói trước mặt tôi là chính mắt anh ta thấy Duyên Anh chết ở trong tù rồi. Anh ta còn bảo trước đây, anh ta làm chung tờ Tuổi Ngọc với Duyên Anh nữa chứ! Tôi tức mình quá, mới bảo anh ta: Anh chỉ nói phét thôi! Tôi là bạn thân của Duyên Anh đây này. Hiền thấy không, tôi quý mến Duyên Anh như thế đó. Vậy mà anh ấy nghe lời bà vợ, hiểu lầm tôi…

            - Anh muốn nói vụ Duyên Anh xuất hiện ở trường đại học San Francisco, mấy tháng trước?

            - Ờ, tôi mời anh chị Duyên Anh lên ở chơi nhà tôi. Anh ấy muốn tiếp xúc với thân hữu và độc giả, nên tôi tổ chức một buổi để Duyên Anh nói chuyện tại trường đại học ở đây. Chiều hôm ấy, có người lên hỏi móc Duyên Anh một câu. Anh ấy nóng lên, thế là hỏng hết! Ngay hôm sau, anh TVA và tôi dàn xếp để anh ấy xuất hiện trên mấy chương trình TV…

            - Xuất hiện để làm gì?

            - Để Duyên Anh có dịp giải độc những hiểu lầm và xuyên tạc trong buổi chiều hôm trước..

            - Thế rồi sao?

            - Anh ấy bằng lòng. Người ta đã chuẩn bị xe cộ đón anh ấy lên đài. Nhưng rồi, bà ấy không cho Duyên Anh đi. Bà ấy còn cho là tôi âm mưu bắt cóc Duyên Anh, và hai người đã phải trốn khỏi nhà tôi nữa.

            DT chép miệng, nói tiếp:

            - Buồn quá, Hiền ạ. Phe quốc gia mình cứ đánh lẫn nhau vậy thôi! Cộng Sản nó chẳng cần đánh mình gì hết. Nó chỉ cần đứng ngoài, xúi giục, khích bác để cho chúng mình đánh giết nhau. Và nó hưởng lợi. Mà thôi, bây giờ cốt sao cho Duyên Anh bình phục. Nhất là phần trí não của anh ấy. Biết đâu một phần cơ thể của anh ấy bị liệt, lại chẳng tốt hơn cho những phần kia?

            - Nghĩa là năng lực không dùng được ở tay chân, sẽ được chuyển lên trên óc, và óc anh ấy sẽ phát triển mạnh hơn?

            - Có thể như vậy lắm. Hiền biết những người mù, thì thính giác và xúc giác của họ phát triển mạnh hơn chứ?

            - Vâng, biết đâu sau vụ này, anh ấy lại chẳng viết hay hơn trước?..

            Suốt hai tuần lễ chờ đợi tin Duyên Anh, điện thoại nhà tôi reo liên tục, gần như mỗi ngày. Những thân hữu của Duyên Anh xa gần, gọi tới hỏi thăm. Mãi tới thứ sáu, hai tuần sau ngày Duyên Anh rời bệnh viện, tôi mới biết Duyên Anh ở đâu.

            Người gọi là Nguyễn Đức An. An cho tôi biết anh Đặng Xuân Côn mới từ Pháp về Texas, sau khi đưa Duyên Anh trở lại Paris. Anh Côn nói Duyên Anh còn ở bệnh viện, đã khá hơn, đang tập đi. Khi Nguyễn Đức An hỏi Duyên Anh về Pháp bằng phương tiện gì, máy bay quân sự hay dân sự, anh Côn không trả lời. Sau cùng, theo Nguyễn Đức An, anh Côn còn nói:

            - Duyên Anh chưa chết đâu. Phải ba mươi năm nữa, Duyên Anh mới chết.

            Nguyễn Đức An than thở:

            - Em thấy anh Côn có vẻ hằn học với em. Anh ấy làm như em là kẻ thù của Duyên Anh vậy!

            Tôi nói:

            - An đừng buồn. Có lẽ gánh nặng lo cho Duyên Anh chất đầy vai anh Côn, nên anh ấy mệt đấy thôi. Anh Côn không nghĩ về anh em mình như vậy đâu…

            (Về sau, tôi được biết, ngay khi hay tin Duyên Anh bị nạn, nhà văn Vĩnh Phúc đã từ Luân Đôn, liên lạc với nhà thương Humana, yêu cầu họ tích cực chữa trị cho Duyên Anh. Anh cũng gọi cho đại diện BBC tại Mỹ, và các thành viên của tổ chức Ân Xá Quốc Tế, Văn Bút Quốc Tế, yêu cầu những người này gọi về bệnh viện. Có lẽ nhờ vậy mà nhà thương Humana, và chính quyền Westminster, đã bảo vệ an ninh chặt chẽ trong thời gian Duyên Anh nằm tại đó.

            Chiều thứ sáu, khi Duyên Anh rời bệnh viện, anh được chở thẳng về nhà Bùi Bỉnh Bân, nghỉ ngơi tại đó, trong lúc chờ chuyến bay về Pháp. Hồng Thập Tự Pháp mua tặng hai vé, để Duyên Anh có thể nằm nghỉ trên phi cơ.

            Vì muốn bảo vệ Duyên Anh thật chu đáo, Đặng Xuân Côn, người bạn thân nhất của Duyên Anh, phải tung tin anh đã ra phi trường về Pháp ngay buổi chiều hôm đó.)

            Cùng ngày Nguyễn Đức An gọi, tôi nhận điện thoại của Julie. Tôi hỏi:

            - Julie vừa đi đâu về vậy?

            - Em vừa ở Úc về. Anh được tin gì của anh Duyên Anh không?

            - Anh ấy về Paris rồi. Đã khá hơn. Nhưng vẫn còn ở nhà thương.

            Julie nói:

            - Em lo cho anh Duyên Anh quá. Hôm nghe anh ấy bị nạn, em nôn nóng định về ngay. Nhưng gọi điện thoại cho anh Thục, anh ấy nói em về cũng không giúp được gì cho anh Duyên Anh đâu.

            Tôi hỏi:

            - Khi nghe tin Duyên Anh bị hành hung, Julie đang ở đâu?

            - Em vừa mới đến Úc được vài ngày. Từ hôm đó đến nay, em ăn chay liên tiếp để cầu nguyện cho anh ấy đó. Phải chi bữa đó em ở nhà, thì đâu có đến nỗi!

            Tới đây, tôi thấy rất cần thiết phải mở một dấu ngoặc thật đậm, để nhắc lại việc này: Sau ngày chị Duyên Anh về Pháp, Julie và Trần Đình Thục mời Duyên Anh trở lại căn nhà đường Edwards, sống với hai người. Theo tôi nghĩ, đây là một chi tiết rất quan trọng.

            Chỉ nội chi tiết này thôi, cũng đủ đánh tan mọi tin đồn nhảm về liên hệ giữa Duyên Anh và Julie.

            Tôi thắc mắc:

            - Nghĩa là….

            - Em đã không cho anh Thục đưa anh Duyên Anh đi đâu hết. Em đã nói với anh Duyên Anh là đừng ra khu Bolsa làm gì. Ngoài đó, một số người không ưa anh ấy. Em ghét nhất là đi ăn ở ngoài đó. Em nói anh Duyên Anh cứ ở nhà với tụi em. Ăn uống gì, em nấu cho anh Thục với anh ấy, ba anh em ăn uống với nhau vui hơn. ..

            - Thôi, thì lỡ như vậy rồi. Biết làm sao được!

            Julie nói:

            - Anh biết không, hôm anh Duyên Anh bị nạn, em nóng ruột, bồn chồn cả ngày. Dường như em có cái giác quan lạ lắm cơ. Em sentir (cảm thấy) trước được hiểm nguy xảy đến cho người thân mình. Mấy bữa trước, em vui lắm, đùa giỡn với mấy đứa đi hát chung với em, có cả Khánh Hà nữa. Vậy mà hôm đó, em ngồi buồn thiu. Tụi nó thấy em buồn, cố chọc cho em cười. Mà em vui không nổi đó anh…

            Thấy Julie dùng tiếng Pháp, tôi đưa đẩy:

            - Cái hiện tượng ấy, Tây nó gọi là télépathie đó…

            Julie kể tiếp:

            - Anh biết không, rồi bữa sau, có một ông chủ báo mời em đi hát. Em đi ăn cơm rồi ghé thăm tòa soạn của ông ấy. Em nghe ông ấy hỏi một ông nhà báo “vụ tụi nó đánh Duyên Anh đi tới đâu rồi”, em bực mình quá, đã tính mắng ông ta nói bậy bạ rồi đó. Mãi đến lúc ấy, em mới hay tin anh Duyên Anh bị nạn. Em gọi ngay về cho anh Thục. Lúc đầu, anh Thục tính giấu em. Anh ấy bảo không có gì hết. Em bảo phải cho em biết sự thật đi. Bên Úc, người ta nhận được bản tin của Chử Bá Anh mà. Mãi, anh Thục mới cho em biết. Nhưng anh ấy nói anh Duyên Anh chỉ bị xây xát thường thôi, và cảnh sát phải giữ anh ấy trong bệnh viện để bảo vệ an ninh cho anh ấy. Anh Thục nói vậy cốt để trấn an em thôi mà.

            Tôi hỏi:

            - Hôm ấy là ngày mùng mấy?

            - Mùng hai, tháng năm.

            - Lúc ấy, Duyên Anh còn đang hôn mê…

            - Anh còn nhớ, bữa Kim Ngân bạn em bị đánh không? Bữa đó, Duyên Anh đang ở với tụi em. Anh ấy viết bài bênh vực Kim Ngân ngay. Em thì vốn tin tử vi, và cũng hơi đồng bóng chút xíu. Nên em mở cuốn lịch tử vi ra, coi cho mấy người thân. À, anh Duyên Anh tuổi gì vậy anh, Thân hay Hợi?

            - Anh ấy tuổi Hợi.

            - Tuổi em khắc tuổi Hợi đó anh. Rồi em coi trong cuốn lịch. Người ta nói tuổi Thân và tuổi Hợi trong tháng tư xui lắm. Mấy ngày ở Úc, nóng ruột quá, em cứ nghĩ là sẽ có tai nạn gì xảy đến cho mấy đứa con em bên Pháp. Em gọi điện thoại cho tụi nó, nói “mấy con có thương mẹ, thì đừng đi đâu chơi hết.” Em đâu có ngờ tai nạn lại xảy đến cho anh Duyên Anh.

            - Như vậy, chuyện thần giao cách cảm kể cũng lạ đấy chứ?

            - Anh biết không, em vốn đạo Công Giáo mà, tuy cũng hơi lạc đạo rồi. Nhưng mà từ hôm nghe tin anh ấy bị nạn, em cứ cầu xin hoài đó….

            - Julie cầu Chúa hay cầu Đức Mẹ?

            - Em cầu cả hai, cầu đủ thứ hết…

            - Đủ thứ là làm sao?

            - Nghĩa là em cầu xin sao cho em chia bớt được cái khổ đau anh ấy đang phải chịu. Nếu có phải hy sinh phần em, làm sao em cũng chịu được hết.

            - Julie cầu Chúa hay cầu Đức Mẹ?

            - Em cầu cả hai, cầu đủ thứ hết…

            - Đủ thứ là làm sao?

            - Nghĩa là em cầu xin sao cho em chia bớt được cái khổ đau anh ấy đang phải chịu. Nếu có phải hy sinh phần em, làm sao em cũng chịu được hết.

            - Duyên Anh mà biết được Julie nghĩ về anh ấy như vậy, chắc anh ấy cảm động lắm đấy.

            - Mà cũng lạ lắm, anh ạ. Em vừa khấn vái đêm hôm trước, thì sáng hôm sau, nguyên cả chân phải của em bị tê luôn. Tê đến nỗi em nhấc chân không nổi nữa!

            - Cũng lạ đó! Vì Duyên Anh bị liệt cả tay phải lẫn chân phải.

            - Mấy hôm trước khi anh Duyên Anh xuất viện, anh có đi thăm anh ấy không?

            - Có chứ. Thường xuyên lắm.

            - Anh ấy đỡ nhiều chưa?

            - Kể như đỡ nhiều. Anh ấy có thể nói được một số câu. Đưa một cuốn sách cho anh ấy xem, anh ấy đọc được. Nhưng bập bẹ như con nít ấy. Có khi anh ấy đọc thơ, nhưng là những câu thơ không đầu không đuôi gì cả. Tóm lại, so với hôm mới bị nạn, anh ấy khá hơn. Nhưng trí nhớ thì chưa được bình thường trở laị.

            Tôi hỏi:

            - Julie định làm gì trong mấy tháng tới?

            - Sáng mai, em đem mười bản nhạc Duyên Anh đi cho người ta hòa âm. Em định làm một cuốn băng nhạc Duyên Anh, để khi anh ấy hồi phục, đem tặng anh ấy.

            - Băng này, ngoài Julie, còn có ai khác hát không?

            - Không. Chỉ một mình em hát thôi.

            Tôi chợt nhớ đến thùng băng nhạc Duyên Anh đem từ Texas qua, tháng 4

            khi tôi tới, vẫn thấy để ở nhà Julie:

            - Julie có nhìn thấy thùng băng Còn Thoáng Chiêm Bao, nhạc Duyên Anh, Quỳnh Giao hát không?

            - Không. Anh Côn và con anh Duyên Anh đem đi rồi …

            Comment



            Hội Quán Phi Dũng ©
            Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




            website hit counter

            Working...
            X