Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Anh KHÔNG QUÂN cho em xin hai chữ… “Lễ Độ” !

Collapse
X

Anh KHÔNG QUÂN cho em xin hai chữ… “Lễ Độ” !

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Anh KHÔNG QUÂN cho em xin hai chữ… “Lễ Độ” !



    Anh KHÔNG QUÂN cho em xin hai chữ… “Lễ Độ” !
    Cám ơn bạn đường cho tôi chút cảm tác, ngỏ hầu tôi có thể ghi lại chuyện đời Không Quân thi vị & thân thiện, và... đầy huấn nhục!!!
    THH

    *

    Cảm tình đó lâng lâng chiều tĩnh mịch.
    Như thi sĩ yêu quan hà anh lính.
    Như họa sĩ yêu bức tranh đa tình.
    Như con người yêu tự do bay bổng.

    Như Không-quân vút cánh vào thinh không.
    Lái con tàu lả lướt người trong mộng.
    Phi đạo nối liền tình yêu không phận.
    Tình rất đẹp tôi trao đến tha nhân... (*)
    Năm 1965... Tôi mệt nhọc vác ba lô xuống bến tàu Cầu Đá. Đoàn Không-quân nhóm tôi gồm có bảy mươi bốn sinh viên sĩ quan khóa sinh, cộng với mấy trăm tân binh Không-quân. Những đoàn xe GMC vù vù chở mọi người về căn cứ 12. Hàng chữ: "Trung Tâm Huấn Luyện Không-Quân - Căn Cứ 12" đập ngay vào mắt mọi người.
    Con đường tráng nhựa khá dài, có lẽ dài đến bảy tám trăm mét, chạy quanh doanh trại. "Vòng Cộng Hoà" sừng sững giữa các bãi cỏ xanh tươi. Nơi đây chuyên dành để sinh-viên sĩ-quan đàn anh sắp ra trường, sẽ tập trung đàn em khoá sinh lại, họ tha hồ "nhồi" cho tân khoá sinh có sức khỏe, kiên cường, nhẫn nhục, có sức chịu đựng dẻo dai trong quân đội. Cạnh đấy chưng bày chiếc máy bay F8F Bear Cat, loại phi cơ một cánh quạt tấn công của Pháp. Đồng thời chiếc máy bay nầy từng dùng huấn luyện đợt phi công đầu tiên của Việt Nam.
    Câu Lạc Bộ có nhiều người đang ăn uống, nhiều người giải trí: đánh bida, pingpong. Phía trên kia là văn phòng điều hành khóa sinh, nơi làm việc của Đại-úy Trưởng-đoàn khoá-sinh. Văn phòng ông Thượng-sĩ Cơ Bản Huấn Luyện người Mỹ. Văn phòng đoàn cán-bộ sinh-viên sĩ-quan. Những khoá-sinh đi trước tôi chưa được tuyển chọn đi du học. Thường đề-bạt lên làm cán-bộ (Trung đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn. Ai càng “thâm niên... phạn xá”, hi hi hi... thì cấp chức càng… bự). Vòng nhỏ là Vòng-Khóa-Sinh. Tức là sân nhỏ giữa doanh trại. Nơi mỗi cuối tuần có đám sinh viên sĩ-quan, khóa-sinh nào bị phạt, sẽ thi hành lệnh "dã chiến" là chính tại nơi nầy. Sân rất lớn nằm ngay bên dãy nhà tiền chế. Theo kiểu ba-rắc của Mỹ, ở giữa là hai dãy nhà vệ sinh, nhà tắm công cộng. Phía trên là văn phòng để điều hành khóa sinh.
    Bạn chung khóa sinh với tôi gồm đủ mọi miền, đủ thành phần, đủ hoàn cảnh. Họ cùng quy tụ về dưới mái trường Không-quân Mẹ: Vừa thất thểu qua khỏi cổng trường, tất cả chúng tôi được tách riêng ra, xếp hàng ngay ngắn, chờ điểm danh. Tân-binh được hướng dẫn viên cho đi thẳng xuống khu nhà đằng phía xa xa kia.
    74 Khoá-sinh sinh-viên sĩ-quan Không-quân thì ghé lại trước cổng trường. Sinh viên sĩ-quan vác ba lô đi vào giữa sân. Đầu tiên, khoá sinh xếp hàng theo thứ tự cao, thấp. Những anh nào cao lêu nghêu, thì đứng trước, đứng trên. Những anh thấp đứng dưới, đứng sau. (chi lạ ha, tôi cứ tưởng là ai thấp, lùn, ốm o thì phải đứng trước, đứng trên, mình nhìn mới “thấy đường” chớ! Ai dè... lại tréo cẵng ngỗng thế! Tôi thấy một sĩ quan huấn luyện rất cao lớn, to con, gần giống như người Mỹ to cao vậy. Khi ông ta mở miệng ra, mọi khoá sinh nghe mà phát khiếp! Giọng nói ông ta tốt, sang sảng, rổn rảng, oang oang. Không phải là giọng nói, mà giống như là giọng ông ta gầm hét quá to (chả cần loa liếc gì):
    - Trong số các anh. Có ai là sinh viên đại học. Hãy bước ra khỏi hàng. Đứng qua bên phải đây.
    Trong bụng tôi mở cờ reo vui, thích thú sung sướng thầm nghĩ: "Chà! Oai nhe! Le lói nhe! Đã nhe, sung sướng, ưu đãi nhe! Chắc là đám sinh viên nầy được phè phỡn ưu tiên nhe. Khỏe re à nhe". Tôi cùng một nhóm nhỏ độ chừng bảy tám tên, vội vàng hăng hái bước ra khỏi hàng, lẹ làng đứng qua bên phải. "Ông to con" kia hất hàm cho các cán bộ Trung-đội-Trưởng dẫn đám đông còn lại bắt đầu "chào sân". Nghĩa là bắt đầu chạy quanh Vòng Cộng Hoà. Sau hết, ông ta quay sang phía bọn tôi, “hét” tiếp:
    - Các anh được cha mẹ ông bà cho ăn no, rồi vác thân tà tà ung dung đi học. Hay lắm. Tốt lắm. Giỏi lắm! Sung sướng lắm. Mà các anh không biết nương thân. Còn bày đặt tụm trăm tụm ngàn biểu tình biểu tọt, phản đối la hét chống báng nọ kia ầm ĩ. Các anh có biết: Vì các anh ưa náo động, ưa dợt le, ưa làm ta đây am tường mọi vấn đề chính trị, các anh lên mặt ta đây rành đời, thường quấy rối, quậy phá lung tung ở ngoài xã hội muốn bình an kia. Mà chúng tôi ở đây bị cắm trại liên miên không? Bây giờ, các anh đã vào đây rồi. Chúng tôi sẽ cho các anh biết: Thế nào là lễ độ. Đâu là kỷ luật sắt trong quân ngũ... nà! Nào. Chuẩn bị. Các anh hãy chạy theo tôi.
    Thế là ông ta chạy trước rõ nhanh. Các khóa sinh Không-quân tuần tự lúp xúp chạy theo sau lưng ông. Cứ thế mà chạy. Vừa chạy, ông ta vừa hét to:
    - 65...
    Các sinh viên sĩ-quan phải cố "gào lên" to hơn:
    - Khỏe.
    Cứ thế, chúng tôi bị "hành hạ, tra tấn" cho đến quá mười giờ đêm. Có hơn một nửa khóa sinh đã ngất xỉu. Họ nằm vật ra bên vệ đường. Chả có ai "ân cần" thương xót chăm sóc, giật tóc giật tai, tạt cho tí nước nôi vào người cho tỉnh, hay cho ăn uống tí gì. Họ cứ nằm lì (y như trẻ con "nằm vạ" ra đó). Khi nào ai tỉnh dậy, thì tự động bò lết về sân. Còn tôi sao khoẻ đến thế nhỉ? Mặc dù lúc đó tôi ốm nhom. Có lẽ do hồi trước ở Đà Lạt tôi phải đi bộ rã gối rã giò nhiều. Ngày ngày có ít nhất là ba bốn lần tôi đi lên đi xuống: từ trong đại học, đi ra phố, về nhà. Đi hoài, nên tôi đi bộ quen chân rồi chăng? Chả rõ. Chỉ biết là tôi nhìn vào cái lưng của thằng khóa sinh chạy trước tôi. Cứ thế mắt nhắm mắt mở, tôi cắm đầu chạy riết.
    Cho đến khi hơn hai phần ba những anh bạn kia đã "rụng rời tả tơi". Ông ta mới cho mấy anh chạy khật khưỡng lẻo khoẻo như tôi dừng lại. Tất cả về tập trung ở sân cỏ. Ông ra lệnh cho từng cặp đi qua nhà kho (kế bên dãy nhà khóa sinh). Khóa sinh phải tự túc khiêng giường, tủ, bàn, ghế. Trời đất! Chúng tôi đang đói cồn cào và mệt lả người. Tôi đi khiêng đồ dùng với Vinh. Hai người ở một phòng, chúng tôi cùng đựng áo quần trong một cái tủ sắt. Một bên là đồ dùng của tôi. Một bên kia là của Vinh. Lúc xong công việc, đã hơn nửa đêm, tôi càng mệt muốn đứt hơi thở.
    * * *
    Những hình phạt ở đây hầu hết có tác dụng của việc huấn luyện thể chất khoẻ mạnh, cường tráng như: "nhảy xổm", "hít đất", "tấn công", "đi vịt", "bò", "lăn". Cán bộ mang găng tay trắng tinh, họ tìm kiếm những chỗ ngóc-ngách mà quệt vào. Thử hỏi làm sao chả có tí bụi chớ? Cứ thế, họ lầm lì rút trong túi áo của khoá sinh ra một tờ giấy: Ghi phạt vào chiều thứ bảy. Bị phạt, thì trong vòng chừng vài giờ từ trong phòng: khoá sinh ấy chạy lên sân, các bạn "bị kỷ luật" phải thi hành bất cứ lệnh phạt nào. Nếu ai làm sai, là bị phạt hít đất. Có những lệnh trớ trêu buồn cười lắm. Như cán bộ hét:
    - Anh về phòng mặc ngược áo treillis. Mặc trái quần kaki. Một chân bên phía mặt mang botte de saut. Một chân bên trái mang giày bata. Các anh bị phạt chỉ có mười phút, để thi hành.
    Mệt ơi là mệt, nhưng rất vui. Khi ra lệnh thì cán bộ hét oang oang. Nên bạn ở trong phòng khác đều nghe rõ. Thế là sinh viên sĩ quan ở chung phòng với bạn ấy, nếu ai không bị kỷ luật, họ liền tận tình giúp người bị phạt làm thật nhanh, nghĩa là họ sắp xếp sẵn sàng đầy đủ mọi thứ. Anh bị phạt kia lo chạy về phòng, nhờ có bạn phụ giúp mặc đồ, gài nút áo, mang giày, thắt dây giày, như thế mới kịp. Thử hỏi, nếu không có sự yểm trợ của bạn đồng môn trong phòng giúp đỡ mặc áo, xỏ quần, mang giày; thì làm sao kịp chớ!? Vậy mà khi tôi chạy lên, cũng bị phạt năm mươi cái hít đất. Tôi trợn mắt hả miệng thở, mệt hộc xì bơ.
    Sau nầy tôi mới biết vì Vinh to con đẹp trai và khỏe, học giỏi. Tính tình Vinh đàng hoàng dễ thương. Cán bộ thấy nó “có uy” thế, nên ưa “ưu ái chiếu cố chăm sóc” hai chúng tôi. Họ "siêng năng" tới phòng tôi "hỏi thăm sức khỏe"! Vô tình ở chung với Vinh, tôi cũng vướng vào cái thảm hoạ bị "trù dập tả tơi, bị đì tới bến". Khi khổng khi không hai đứa vô cớ bị phạt "dã chiến" hoài. Nghĩ cũng tức bực vì sự vô lý ấy, mà đành nín khe im re chịu trận "vâng lời" là thượng sách mờ. Thì ra, trong quân trường họ cố rèn luyện cho khoá sinh lấy "đức vâng lời" làm điều tiên quyết. Bất kể "lệnh lạc" đó ra sao, có đúng hay nực cười! "Thi hành trước, khiếu nại sau" mà! Những lần sau khi bị phạt chung, toàn khóa sinh thường thì thầm bảo nhau:
    - Khi chạy qua khu sinh-viên sĩ-quan đàn anh đã ngủ. Tụi bây nhớ gào lên cho thiệt to nghe:
    - 65...
    - Khỏe.
    - Nhớ chưa?
    Cứ thế, khóa sinh Không-quân quay mặt vào cửa phòng ngủ của cán bộ, hết sức gân cổ hét la thật to. Chúng tôi ở ngoài sân nghe còn muốn điếc con ráy. Thế là có kết quả ngay. Có mấy ông cán bộ coi sinh viên sĩ quan "bự" hơn, (là Đại Niên Trưởng) đã kêu cán-bộ Đại-đội-Trưởng lên la mắng, rầy rà:
    - Có phạt tụi nó. Thì phạt ban ngày. Ban đêm để cho "ông" ngủ nha.
    Tôi không thể nào quên về thời kỳ “Huấn Nhục”, nó cay đắng mà thi vị lắm! Cũng tựa như cái sự cay của ớt, cái chua của chanh, cái mặn ngọt của tương; để làm cho tô phở ngon thêm hấp dẫn! Ới nầy! Các em gái hậu phương hỡi! Chắc các em ưa đứng “ngắm nghé” quý anh ở ngoài hàng rào của quân trường Không-quân, các em sẽ lạ lẫm với hai tiếng “Huấn Nhục” lắm, phải không các em? Tôi nghĩ lại cũng thấy mục đích cao cả và tuyệt diệu của việc nầy. Người ta đã cố tình huấn luyện cho mình hiểu: "Kỷ luật là sức mạnh của quân đội" là như thế nào! "Trên" ra lệnh, là "Dưới" răm rắp nghe và thi hành! Chứ lỡ mà khi ra trận, thì không ai có thời gian giải thích nầy nọ đâu! Họ chỉ cần thuộc cấp phải lắng nghe, tuân phục, chấp hành lệnh ban ra thôi!
    Nào, tôi kể sơ sơ như vầy là các em sẽ hiểu, mà không cần giải thích nha. Các em hãy ngồi bên nghe tôi tâm tình nè: Các em có biết không? Một ông Niên Trưởng nọ tự dưng đứng trước một chàng khoá sinh hỏi:
    - Nầy, ông cao bao nhiêu vậy ông?
    - Dạ, 1m68.
    - Thấp vậy mà cũng vô Không Quân ha. Hai mươi cái hít đất đi ông.
    Có một ông... "gian ác" khác, cầm trái ớt hỏi một khóa sinh:
    - Trái gì đây ông?
    - Dạ, trái ớt.
    - Tầm bậy! Đây là trái chuối. Mười cái nhảy xổm đi ông.
    - Ông nói lại coi, đây là trái gì?
    Anh khoá sinh ngán quá, trong bụng chửi thầm, nhưng cũng:
    - Dạ trái chuối.
    "Ngài niên trưởng" cười cười:
    - Trời đất! Nó là trái chuối à, vậy thì ông ăn hết, xem nó có ngọt không ông?
    Bắt buộc là chàng khoá sinh đứng thộn ra ăn nguyên trái ớt, không dám nhăn mặt cãi lệnh à! Đó! Các em hiểu thế nào là “Huấn Nhục” chưa? Nhiều cái tức cành hông, tức như bò đá; mà ở đây các anh không cần biết lý do; để lý giải hay lập luận gì hết!? Ba cái tự ái vặt của đời sống dân sự, sự cải lý của chàng học sinh, sinh viên, nếu khi đã vào đây rồi: là đồ bỏ, anh ta không được ngóc đầu dậy rông rống, chỉ chỏ la ó phản đối biểu tình ở trong Quân Trường. Các em à!
    Có nhiều trò “Huấn Nhục”... "quái chiêu" hơn, ác liệt hơn! Nghe mà ớn. Tôi đồng ý với quý anh em là: “cái gì vừa vừa... phải phải..., là nó rất hay”... Có mấy "cha" Niên-trưởng vô ý, hay có tâm "xà" chế ra những hình phạt: làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, hoặc gây thương tật cho sinh viên sĩ-quan, là không nên, không thể được. Về phía dã chiến (từ một ông vua dã chiến), thì tôi khoái cái trò mỏi lưng, đau đầu gối:
    - Lấy que tăm xỉa răng đi đo chu vi sân phạn xá.
    Cán bộ lại còn hù:
    - Đo cho đúng vào, nghe không. Trước anh, đã có nhiều người đo rồi. Nên tui đã có con số đo sân nầy rõ rệt. Nghe.
    - Cầm muỗng cà phê đi băng qua sân, hứng nước. Rồi trở lại băng sân, đỗ nước vào bi đông.
    - Chuyện sau nầy thì tôi càng không mấy vui: để ngón tay lên mui nap-rocket, (hình mui tháp ngang đầu gối), rồi chạy xung quanh… Mẹ kiếp! nghĩ lại còn muốn mữa!
    - Bắt khóa sinh đứng nhìn mặt trời giữa trưa nắng. Nhẹ nhàng đấy, nhưng "cha nội niên trưởng" nầy có hiểu không, chúng tôi sẽ bị “mù”: dân phi hành cần phải bảo trọng cặp mắt quý giá đến dường nào!
    - Cái trò nửa đêm mưa bắt khóa sinh vừa hít đất, vừa nhìn bóng đèn. Cũng không vui, sẽ bị hư “đôi mắt phi tiêu” như chơi.
    Anh Lương vẫn nói:
    - "Lễ độ" cái con... khỉ! Từ ngày có cái Liên Đoàn sinh viên sĩ quan, mới có người nghĩ ra "nghi thức" tiếp đón tân SVSQ ngày vào quân trường mẹ đó như thế chớ. Theo tập tục từ các quân trường lớn, lúc khóa sinh ngồi trên tàu thủy vừa hết say sóng, thì liền bị quý niên trưởng cho thử sức với bão táp quay cuồng, dồn dập, liên tục... “phờ người”, chớ chẳng phải chơi.
    Có nghe khóa sinh xì xào tâm sự nhỏ to với nhau vào những phút giây cho nghỉ xả hơi, ta mới thấy được bản lĩnh của từng người; ôi thôi: hỉ, nộ, ái, ố: có đủ cả; đứa thì lấy làm vui khi thấy thằng khác bị phạt. Đến khi tới phiên mình bị phạt, thì trong bụng không tức giận cũng ấm ức. Đứa nào có cái tướng dễ thương, bị “quay dế” ít, thì trong lòng có cảm tình với đàn anh. Đứa nào có cái mặt thấy dễ ghét, thì lại bị hành hạ liên tục, rồi sinh ra oán ghét.
    Tại sao lại… "lễ độ” cái con khỉ? Ai đời thằng nhóc con mới bận áo lính chưa được bao năm, mà dám phùng mang trợn má, ra lệnh nọ kia với một ông già như tui. Tui hơn nó cỡ chín mười tuổi đầu. Tôi mặc quân phục hơn nó cỡ chín mười năm, lãnh lương hơn nó hai ba bậc, mà tôi phải gọi nó là niên trưởng! Ôi thôi! Nói chơi vậy cho vui và hàn huyên tâm sự thôi, chớ đó là tập tục cổ truyền từ phương Tây rồi sang phương Đông, nghi thức làm nên truyền thống là phương pháp đào luyện bằng thực tiễn, là bàn tay điêu khắc ra một thế hệ hào hùng, “danh tiếng”, có lý tưởng, có tình huynh đệ chi binh mà. Nếu không có “lễ độ” trong quân ngũ, thì súng ống sẵn đó, khi tức giận lên mình tự ái không thể tự chủ, có ai nhớ gì quy củ kỷ luật trong quân trường; cứ mạnh ai nấy nổi giận làm loạn, thì còn gì là kỷ luật quân đội và gia phong quân trường mẹ nưã! Phải không qúy vị? Ngay cả tên cán bộ phạt tôi nhiều nhất, hoá ra là thằng Thanh. Cứ đêm đêm đến, nó cố tình kêu tôi ra, phạt tôi năm mươi cái hít đất.
    Thi hành xong. Tôi đứng nghiêm chào, và la to:
    - Sinh-viên sĩ-quan Lữ Phi Hành… khoá 65... Thi hành lệnh phạt xong.
    - Có biết tại sao, tôi ưa phạt anh không?
    - Thưa không.
    Thế là nó nhìn tôi cười cười, và cứ phạt tôi ra hít đất hoài. Vì cái tội "không biết". Mãi về sau, khi tôi gần đi Mỹ. Nó mới thố lộ:
    Tôi là anh họ của cô bồ nhí của anh đây. Thấy bộ dạng anh coi công tử bột, dễ ghét, đã vậy ưa biểu tình biệu tọt, còn dám yêu con nhỏ Trân Thư… Tôi thích thì cứ phạt anh chơi, vậy có được không!?
    - Trời đất.

    * * *

    (*) Thơ tìnhhoàihương

    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  • #2
    Dư Hương Kỷ Niệm Huấn Nhục Tại TTHL/KQ Nha-Trang


    Dư Hương Kỷ Niệm Huấn Nhục Tại TTHL/KQ Nha-Trang



    Nha Trang, miền cát trắng ngày… tháng… năm 19…
    Hồng Hạnh,
    cô em gái thân thương,


    Mỗi buổi bình minh khi mặt trời rạng rỡ đỏ thắm pha màu hồng tươi, quyện lẫn từng vạt mây ngà bồng bềnh trôi trong không phận Nha Trang, mây hồng lững lờ soi mình lung linh trên mặt biển lặn sóng. Mặt trời ươm nắng từ từ ngoi lên khỏi mặt biển xanh ngắt, bơi bơi vào không gian vô tận. Chim biển rộn ràng chao lượn, rối rít những âm thanh líu lo vui vẻ lạ thường. Phía núi xa xa có những mãng mây ửng hồng gom chiều về chắn che trên đỉnh, mặt trời vàng óng còn lấp ló dưới chân đồi, khiến anh tưởng chừng như có nàng sơn nữ sau khi ngâm mình trong suối mát, trên đường về nhà sàn, sơn nữ còn quay lại mỉm cười ngắm nhìn bọn anh với vẽ mặt e ấp, lưu luyến, chưa muốn xa cách; dù chỉ tia nắng nhạt mà còn hơi nóng, có khác gì ánh mắt nồng nàn của sơn nữ thay lời chào tạm biệt, trong những phút cuối mình còn thấy nhau...
    Em ơi! Chiều nay anh trai có ít giờ rãnh rỗi, nên anh viết thư gửi đến em, hầu đáp lại tấm chân tình, mà bấy lâu nay ba má anh chị em thân thiết riêng dành cho anh. Cũng như anh đáp lại cho gia đình ba má mình phần nào; về sự họ đã thắc mắc về cuộc sống mới của anh nơi quân trường. Hy vọng thư nầy đến kịp lúc, từ phương xa mọi người có thể dõi theo dấu chân anh nơi quân trường Không-Quân Nha Trang nầy. Em nhé!
    Ngày đầu tiên, khi vừa đến quân trường Không-quân Nha Trang, tụi anh được các Niên Trưởng dàn chào, làm bạn Quân sợ đến gần "té đái". Khuya đó, nó lân la tới gần bọn anh, to nhỏ rủ rê anh và Vinh:
    - Tụi mình đào ngũ. Về Sài Gòn đi. Có gì chúng ta trốn lên Đà Lạt he.
    - Ha ha! Thôi mầy. Đã vào đến đây, sao yếu vậy? Chết nhát hả? Ngủ đi mầy.
    Thế là Quân tiu nghĩu đi về phòng ngủ. Vậy mà bây giờ Quân vẫn hân hoan theo kịp bạn bè, Quân vui vẻ và kiên nhẫn chạy đua bén gót bạn, chứ có kém chi ai. Thời khóa biểu trong quân trường khá chặt chẽ. Buổi sáng sớm trường mở loa phát nhạc quân hành. Tất cả anh em ngồi bật dậy, họ vội thay bộ đồ thể thao, thường là áo thun T Shirt, quần dài treillis, quần tắm bên trong.
    Anh cùng các bạn lo chạy ra sắp hàng, điểm danh như thường lệ. Khoảng năm giờ sáng, có một ông Thượng-sĩ huấn luyện viên thể dục hướng dẫn tụi anh chạy bộ thẳng ra bờ biển, rồi tiếp tục rẽ về bên phải chạy đến Cầu Đá, xa hơn quân trường sáu km. Nhớ lại thật vui mà tức cười nữa em à; người ta nói: "gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu". Mà bọn anh là trai đôi mươi đang thời sung mãn, thì dù là gái mười bảy, gái mười tám nếu có muốn đi “đấu vật” còn phải chịu… nằm dưới; là… mà… nếu… anh chạy năm bảy kilô mét bi giờ thì nào có ra gì! Chạy có đổ mồ hôi thật, nhưng vẫn đều bước nhịp. Không một chàng nào rơi rớt… "tụt hậu" cả nghe em!
    Miệng vang vang bài hát "Không Quân Hành Khúc". Lúc tụi anh chạy ngang qua Căn cứ Hải Quân, thì câu hát: " Ta là đàn chim bay trên cao xanh. Khi nhìn qua khói những kinh thành xa. Ðôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh. Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng. Ðây đó hồn nước ơi! Không quân Việt Nam vút trên ngàn mây gió U..u… u… Ôi phi công danh tiếng muôn đời. Nhìn xa phi trường Việt Nam. Không quân ra đi cánh bay rợp trời..." được cả bọn anh không ai bảo ai, mà cùng nhau quay mặt vào quân-trường bạn, đồng thanh cất cao giọng, để "giựt nổi", để “làm le, chơi trội” chút xíu, là bọn anh cố ý chọc phá, vui chơi bay bướm với mấy chàng “Hoa Biển” lả lướt mà lỵ!
    Rồi, cả đoàn sinh viên sĩ-quan lại chạy trở về, tới khúc quanh trước khi vào cổng quân trường, lúc đó thì mọi người được huấn luyện viên cho tự do. Ai muốn hít thở không khí trong lành, đi lại trên bãi cát trắng, hoặc muốn tắm, muốn bơi, đều có quyền tự ý đùa giỡn, vẫy vùng thoải mái trên sóng biển. Mỗi lần chạy về đến cổng căn cứ Không-quân, anh nhìn lên tấm bảng ghi hàng chữ đậm: "Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu". Trong lòng ai nấy cũng cảm thấy có phần yên tâm. Sự kiên nhẫn và chịu đựng ngày càng tăng thêm. Không quản nhọc nhằn gian khổ, nên các anh em cố gắng trì chí học hành. Hy vọng sau nầy sẽ được gia nhập vào một trong những Không-Đoàn sau:
    - Không Đoàn 41 - Vùng 1.
    - Không Đoàn 62 - Vùng 2.
    - Không Đoàn 23 - Vùng 3
    - Không Đoàn 33 - Chiến Thuật tại Phi Trường Tân Sơn Nhất.
    - Không Đoàn 74 - Vùng 4… vân vân…
    Về đến sân trường, khóa sinh tập họp lại điểm danh rồi tan hàng. Mọi người chạy về phòng, ai nấy lo sắp xếp chăn màn, gối nệm cho vuông thành sắc cạnh ngay ngắn. Dưới chân giường có "chưng" đôi giày bóng lộn, ruồi đậu còn trợt té đó, Hạnh à.
    Trong tủ có cái bi đông nước và ca nhôm sáng chói. Mọi thứ từ quần áo đến đồ dùng: phải ngăn nắp sạch sẽ. Trên đầu giường khóa sinh luôn có tờ giấy trắng in sẵn tên họ, để sinh-viên đàn anh đi kiểm soát phòng. Họ sẽ rút ra ghi cho sinh viên Không-quân điểm: thưởng hay phạt! "nghiêm minh" và công bằng lắm nghe em!
    Trước mỗi tuần vào ngày thứ Bảy. Cán bộ huấn luyện sinh viên sĩ quan sẽ cho biết là: Tuần sau khoá sinh sẽ học môn gì. Họ cẩn thận niêm yết bảng "Thời Khoá Biểu" trong tuần tại phòng của khoá sinh. Lần đầu tiên, họ cho khóa sinh test để sắp lớp. Dĩ nhiên anh được vào học lớp cao nhất. Đó là lớp học từ 2.100 đến 2.500. Sáng nào bọn anh cũng học Anh-văn. Sau mỗi ngày học, anh phải vào phòng Lab thực tập làm bài, luyện giọng. Những anh kém thì vào học lớp vỡ lòng từ lớp 1.100 đến lớp 1.500. Trình độ khá hơn thì 1.600 đến 2.000. Sau khi học hết các lớp, anh thi đạt điểm cao nhất trong khoá đó! Hãnh diện nghe! Nể anh chưa?
    Các anh đi học thường mặc quần áo kaki vàng, giày soulier bas. Còn lúc học môn quân sự thì mặc treillis, giày bốt cao cổ, mũ lưỡi trai. Các môn học đủ hết từ: căn bản về đủ các môn quân sự, kể cả lết, bò, trườn, chống hai tay lên vĩ sắt nóng. Học chiến thuật tác chiến. Cơ-bản Thao Diễn. Thể thao quân sự. Vũ khí chiến lược. Nghệ thuật chỉ huy. Vân vân… Tóm lại là chương trình học có rất nhiều môn. "Thực đơn" của một tân khóa sinh cần biết: Các anh phải nắm vững mọi vấn đề, cần thiết cho một Sĩ-quan chỉ huy. Mỗi tháng các anh tân binh có tiền lương, đồng tiền tuy hạn chế, nhưng không đến nỗi nào quá eo hẹp.
    Mãi kể với em nghe tí nét nhà binh, còn chút nữa anh quên nói tiếp theo, là sau khi thể dục sáng xong về đến phòng thì... anh đi đánh răng rửa mặt. Làm vệ sinh. Thay quần áo thích hợp để đi ăn sáng và học trên lớp, hoặc ra bãi tập. Đến trưa tụi anh cũng phải xếp hàng đàng hoàng lên Phạn Xá. Các tân khóa sinh chưa được đeo Alpha trên áo, phải đứng nghiêm chào, tự xướng danh:
    - Khóa sinh tên: … và số quân…
    Anh nhớ dường như số quân bên Không-quân bắt đầu từ con số 6. Rồi bạn bè anh em mới được bỏ mũ ra, đi vào nhà ăn. Anh đi đến cái bàn nào gần nhất. Rất nhiều dãy bàn dài, cùng có những hàng ghế đóng dính liền nhau. Mỗi hàng ghế có thể cho mười sáu khoá sinh ngồi. Sinh-viên chia nhau ra thành từng "ca rê". Bốn người ngồi ăn cơm chung trong một mâm. Nhưng khoan đã... Có bài bản cả nghe em! Anh đứng nghiêm trước ghế ngồi, chờ tất cả mọi khoá sinh vào xong đâu đó rồi; khi nghe lệnh của cán bộ:
    - Tất cả khoá sinh: Ngồi!
    Cả đám khóa sinh Không-quân hô to:
    - Xuống.
    Bấy giờ mới được ăn đó nhe em! Trời ơi! Hôm nào hổng hên, anh ngồi ăn chung với vài ông bạn “vai u thịt bắp, mồ hôi dầu”. Thì kể như hôm đó coi như anh "trúng mối" to… Thua là cái chắc rồi. Vì, họ ăn uống dễ dãi, ăn rất nhanh và ăn quá khỏe. Bọn anh rù rì phụ nhĩ với nhau:
    - "Tay đó" là hung thần phạn xá đó nghe mầy!
    Thoáng một cái, là trên mâm thức ăn hết sạch. Bát canh ruồi cũng sạch từ khuya. Vài ông "chăm chỉ" còn bẻ trái chuối ra, chan cả nước trà vô cơm mà lua. Có ông ăn uống đạm bạc, rắc tí muối tiêu vào chén cơm trắng. Cứ thế họ và-và vào miệng ăn tiếp. Miễn sao họ ăn cốt no bụng là xong. Em ạ! Mấy lần đó anh đói meo, chỉ có nước là chờ giờ nghỉ giải lao mười lăm phút, anh cắm đầu cắm cổ chạy lên Câu Lạc Bộ, để mua cái gì ăn thêm, cho đỡ đói. Nếu Câu Lạc Bộ không có thức ăn theo ý thích, anh nói với ông bà chủ mua dùm. Thì hôm sau họ sẽ đem hàng về, anh "bồi dưỡng" thêm, chiều chiều về phòng có thể "chè chén" tí. Sống ở đây, như một "gia đình khoá sinh" ôn nhu trật tự nho nhỏ.
    Sau ba tháng huấn nhục trầy da tróc vảy hầu họ huấn luyện các anh chịu đựng gian khổ, nhục nhằn, cuộc sống của các anh như cái máy. Hay sắp trở thành cái máy mà chả biết. Các anh gò mình trong trật tự, có khuôn khổ, và quen dần với kỷ luật sắt. Anh không quên nói nhè nhẹ về “mấy món ăn chơi” mà trong thời gian huấn nhục, bọn anh "được" các niên trưởng chiếu cố: Nhảy xổm, hít đất vài chục cái là xoàng, như cơm bữa! Tối bị phạt chạy vòng Cộng hoà, cũng chỉ là thường tình, giúp mình ngủ thêm ngon, có ngán đâu! Nhưng anh cũng… “hơi hãi" nếu bị phạt dã chiến, em ơi! Nhờ anh có chích TAB, nên nắng gió coi như nó là bạn bè, giúp biến làn da tụi anh trở nên rám nắng, vóc dáng rắn rỏi hẳn ra mà thôi!
    Chàng nào bị dã chiến là te tua, cả phòng cũng mệt lây, vì họ lo phụ giúp anh ấy thay quần áo, khi thì quần treillis áo vàng, vác sac marin lên trình diện ông "Hành văn... Niên Trưởng" trong vòng một phút chẳng hạn.
    Rồi lấy muỗng cà phê múc nước đổ đầy biđông trong vòng năm phút.
    Nào lấy tăm xỉa răng đo chiều ngang barrac được bao nhiêu.
    Nào khoả sân cát cho phẳng giữa trưa nắng chang chang.
    Xen vào đó là những cú nhảy xổm, hai tay nắm hai lỗ tai tréo nhau, hay kiểu chân co chân duỗi như cái cày… vân vân…
    Mình phải ráng thực hành cho đúng theo mẫu sáng tạo của "Quan" sinh-viên sĩ-quan Niên Trưởng. Bởi thế tụi nầy hổng ngán mấy Ông sĩ-quan, Trung-úy, Đại-uý bằng "hãi" mấy Ông Niên Trưởng mang họ "Hành" văn đâu!
    Đó em hiểu thế nào là Huấn Nhục chưa? Nhiều cái tức cành hông mà không cần có lý do, để lý giải hay lập luận gì hết! Ba cái tự ái vặt của đời sống dân sự, sự cải lý của chàng sinh viên, học sinh, thì không được ngóc đầu dậy ở trong quân trường em à! Đây là những "chén mồ hôi" nhỏ tong tong từng giọt, từng giọt, từng giọt... Theo những bước chạy tốc hành trên bãi cát nóng, trong "Quân Trường Không-Quân Mẹ".
    * * *
    Ngày… Tháng... dần qua nhanh, và niềm vui mừng vinh quang lại đến! Đó là ngày anh và bạn hữu chính thức trở thành sinh-viên Sĩ-quan thực thụ. Khoá sinh được làm lễ gắn Alpha. Tổ chức tại sân trường Không-Quân Nha Trang. Buổi ra mắt sinh-viên sĩ-quan vô cùng nghiêm trang, chu đáo và trọng thể, với niềm xúc động đặc biệt không thể quên. Có Chỉ-huy-Trưởng Căn cứ. Chỉ-huy-trưởng Liên-đoàn sinh-viên sĩ-quan. Sinh-viên sĩ-quan. Cán-bộ. Thân nhân. Bạn hữu ai có điều kiện, hay bạn ở gần gần, đều có thể đến tham dự đông đủ.
    Từ sáng sớm, các khoá sinh ra sắp hàng chỉnh tề ở ngoài sân. Có mấy anh em len lén… vụng trộm thủ một chiếc dép nhựa, hay miếng cạc tông nhỏ xíu, để kê dưới đầu gối. Chứ quỳ hàng giờ như thế, có mà rục đầu gối ra. Nhưng anh em ấy phải hết sức thận trọng kín đáo coi chừng cán bộ thấy nhe. Chết đa. Khoá sinh quỳ gối đọc lời tuyên thệ trước khi gắn Alpha lên cầu vai.
    Ngày đầu tiên được phép xuất trại. Anh ra phố đi rong chơi tự do thoải mái, đi lung tung đến 17:00. Ngoại trừ những anh em bạn nào bị ghi thẻ phạt, thì không được đi phép xuất trại. Cán bộ niên-trưởng kiểm soát khá kỹ. Họ dặn dò sinh viên sĩ-quan đủ thứ. Trước khi xuất trại, sinh-viên phải ghi nhớ và thuộc lòng nên giữ kỷ luật, như sau:
    - Ra phố, phải có quy chế "tác phong" của sinh-viên sĩ-quan đàng hoàng.
    - Quần áo chỉnh tề. Cấm không được ăn mặc cẩu thả.
    - Không "chè chén" say sưa, làm mất thể diện phong cách.
    - Không cười đùa giễu cợt, giỡn hớt "lố lăng" ngoài phố.
    - Cấm đi xích lô. Cấm đi xe đạp.
    - Chỉ được phép đi xe vespa, xe hơi. Taxi.
    - Mỗi khi gặp tuần tra của căn cứ. Phải đứng lại nghiêm chào. Sau đó mới ung dung thong dong đi tiếp.
    - Nếu ai vi phạm bất cứ một trong những nội quy nào. Sẽ lập tức bị cán-bộ ngồi trên xe tuần tiểu nhảy xuống; thu hồi tấm giấy phạt (để trong túi áo bên phải của sinh-viên). Cán-bộ sẽ mang về căn cứ, còn khóa sinh ấy lo âu chờ xử phạt.
    Cũng nhờ có kỷ luật quân trường ban hành gắt gao, và cuộc sống có điều độ như vậy, mà anh cùng hầu hết các bạn tăng trọng lượng; khỏe mạnh cường tráng, và vui tươi hơn lúc trước nhiều. Anh nghĩ lại cũng thấy cái mục đích cao cả và tuyệt diệu của việc nầy. Người ta đã cố tình huấn luyện cho mình hiểu "Kỷ Luật là sức mạnh của Quân-đội" là như thế nào! “Trên” ra lệnh, là “Dưới” phải nghe, và thi hành răm rắp! Chứ lỡ mình khi ra trận, không ai có thời gian mà giải thích cà kê tỷ mỷ nầy nọ đâu! Họ chỉ cần thuộc cấp chấp hành thôi!
    Hình phạt "dã chiến" nầy, thật ra đó là cách tập luyện, cho khoá sinh có nhiều thể lực. Có sức khỏe. Có tinh thần nhẫn nhục. Kiên cường nhẫn nhục chịu đựng gian khố. Biết ôn nhu. Trầm tĩnh. Đắn đo. Khôn ngoan. Nhiều kinh nghiệm sống. Tháo vát hơn. Hầu có thể kiên cường, vượt qua mọi chông gai, gian nan, thử thách trên trường đời.
    Mà lạ thật em à! Đó là chặng đường của sinh-viên sĩ-quan ai cũng phải qua cầu. Và, gió cũng thổi bay đi tất cả thù oán hiềm khích với đàn anh, chỉ để lại trong lòng họ như là những dư hương kỷ niệm vui vui, không hề phai nhạt của thuở xưa nơi quân trường mẹ. Thử hỏi mấy ai đành lòng quên!
    Tạm biệt em.

    Anh trai,
    Quốc Thiều


    _ * _



    Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • #3
      TÌNH CÀ LƠ Xịch Cà Đụi của chàng MẠC KÍU & nàng A Muối


      TÌNH CÀ LƠ Xịch Cà Đụi của chàng MẠC KÍU & nàng A Muối




      Trong phòng làm việc Tâm Lý Chiến có anh Mạc Kíu là người hiền lương chân thật đến mức thật thà, ngây ngô, mà rất dễ thương chịu không nỗi. Kíu thích uống nước đá thật lạnh, nhai nước đá cục rốp rốp. Trong lúc Kíu ăn cơm nóng sốt vừa thổi phù phù vừa húp canh cua rốc rột rột rột. Kíu lại uống ừng ực ly nước đá lạnh ngắt. Răng vẫu thích dừa một ngày anh nạo vài trái, nên hàm răng trên càng nhô ra thành mái hiên, khiến ảnh tức chịu không thấu, Kíu phải quay qua hỏi thăm thằng bạn “loa mồm” về chuyện “răng riết”, hắn cho nhiều ý kiến ý cò, để dựa dẫm nhau mà sống còn trong xã hội văn minh với đời.
      Quả thật bỗng dưng răng vẫu ấm ức dỗi hờn sưng vếu lên, nó xìu xìu ễn ễn lạnh lùng bỏ “chàng” mà đi. Kíu tức mình quá chừng khi thấy bộ dạng mình coi vếu váo, xấu xí, chàng hăng hái nghe lời thằng bạn loa kia đi bọc chiếc răng vàng, để trám vô ở lỗ trống. Thế là hai hàm răng cũ thấy cái răng vàng khè giàu có, lóng lánh “đẹp giai” kia, so với mình sao xa lạ quá, chúng càng bực bội dỗi hờn thêm, bèn rù rì từ từ rủ nhau xa lánh “anh răng dàng”. Chúng hè nhau a dua tiến lên a chu, khiến răng Kíu rụng gần hết cả hàm dưới. Dù “em răng vàng” cô độc giữa rừng răng sợ một phép chẳng dám lên mặt trêu ngươi! Răng hở thì môi lạnh, môi buồn, môi chán, môi đau... nên mỗi lần ăn cơm, ăn cháo, Kíu cố nhẹ nhàng cho hàm răng trên thân ái đi gặp hàm niếu dưới, ngỏ hầu thăm hỏi xã giao nhau tí chút. Nhưng chúng nó đã thất lạc trong cuộc đời “răng với riết” mất toi rùi. Một chiếc răng vàng cô đơn độc mã không hiểu nhau, thì còn răng mô mà dám cười! Hỉ!?
      Hàm răng mệt, cái mồm mệt, chàng Kíu không thể nhai thức ăn; cơ thể mệt, bộ óc của chàng cũng dần dà mệt lã theo. Thiệt là phiền toái đa! Cả hàm răng tất nhiên là có nhiều hơn “hai bờ môi tê tái”, nên “cái bè đảng răng” nó rủ nhau “xông pha biểu tình biểu tọt”... lang thang đi tìm trẻ lạc mất răng. Hàm răng bây giờ cái sún, cái bọc vàng, cái ...chỗ nào cũng lổn chổn. Thật dị hợm, khó coi, khó chịu quá chừng chừng à. Kíu không nhớ gì hơn ngoài việc lo lắng cho "cái bộ gió" của mình. Vì “cái răng cái tóc, là gốc con người” mà! Vì và... vì... Kíu còn phải lo “canh tân o bế” dợt le cho “răng với riết” thành: một hàm răng trắng trẻo cộng một hàm răng vàng le lói, để:
      Một trà, một rượu, một đàn bà,
      Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta,
      Chừa được thứ nào hay thứ ấy…
      Có chăng chừa rượu với chừa trà!

      Tú Xương xa xưa có bài thơ bất hủ trên còn đào hoa thanh lịch như thế, huống hồ gì ta là trai thời thế tạo yên hùng thì phải:
      Rượu nào là rượu chẳng nồng.
      Trai nào chẳng khoái: Lan, Hồng, Cúc, Mai...
      (cd)
      Thằng bạn “loa mồm” vui tính kia còn tỏ vẻ ta đây sành đời, khuyên Kíu:
      Lấy vợ xin lấy vợ sún răng.
      Đỡ tiền nha sĩ ngại sâu ăn.
      Sáng, trưa, chiều, tối em ăn cháo.
      Khỏi phải mua bàn chải đánh răng.
      Lấy vợ xin anh lấy vợ hô.
      Lỡ sau mà có gặp côn đồ.
      Em cười, chúng tưởng Chung Vô Diệm.
      Hồn xiêu phách lạc cõi hư vô.
      (*)
      Còn Kíu thì chả dại... nghe lời hắn, trái lại chàng sâu sắc hơn, nghĩ khác xa thằng bạn thời “khố rách áo ôm, mồm loa mép dãi kia”:
      Lấy vợ nên kiêng vợ sún răng.
      Giận con lè lưỡi tựa bà chằng.
      Tiệc tùng rủi gặp bò xào giấm.
      Mắc nghẹn có ngày té ngã lăn.
      Lấy vợ nên kiêng lấy vợ hô.
      Hàm răng lởm chởm nói bô bô.
      Rủi khi bả giận ôm chồng cắn
      Ưá máu phu quân chạy thấy mồ
      (*) thì sao nà???
      *
      Một hôm được trưởng đoàn phân công, Kíu (là âm thoại viên) cùng bạn công tác tại xóm Nghĩa Hành. Bạn Bé, Châu đi nhanh quá, Kíu có phần bệ vệ vì cái bụng lỡ mang thùng nước lèo khá lớn, (so với chiều cao). Kíu ì à ì ạch leo lên dốc, chàng che tay nhìn ngang nhìn dọc, không thấy hai bạn đâu. Mất hồn mất vía, Kíu ngồi phịch xuống trên gò mối, nghỉ mệt. Đã lo sợ lạc đường, tự dưng cái bụng phệ của Kíu sôi ọc ọc... ục ục, đau bụng thấy mồ... như muốn biểu tình, phản đối giờ cơm đến trễ. Kíu lom khom đứng lên, bỗng máy PRC-25 phát tín hiệu. Kíu lại ngồi vật ra, duỗi hai chân chụp lấy máy mở tầng số liên lạc. Nghe xong, “anh ta ca”:
      - Cái lày ngộ xin lại ý dui loòng chỉ cho. À, tụi ló lại tẩy chay ngộ, dì cái pụng ngộ sôi lọc ọc, pị lau cái pụng quá chời, bạn ngộ lể cho ngộ lứng ở lây, ló li lâu mắc dồi, ló bỏ em lứng dứi gót cay phựng, ngộ li da ngoài duộng mà. Bạn ló hỗng biéc liều a. Em hỏn biéc chỗ lào lễ li dề à. Lần lầu tiên mới dề qua lay, thấy cây cối dzụng hư hại diều lắm. Em hỏn béc dớ cái lường lể đi dề qua a.
      Thọ, Đan, và Nhã phì cười. Nhã trêu chọc:
      - Em đi mau mới kịp bạn. Phải biết "giác ngộ" cho tiêu bụng mỡ chứ.
      - Ngộ béc dát ngộ mờ. Có gì ngộ ngộ, thì ngộ dát dề cho a.
      Có trời biết làm cách nào Kíu trở về an toàn, khi lưng đeo máy truyền tin, vai đeo ba lô cá nhân, vai kia thêm lưỡi cày, chả biết chàng nhặt ở đâu. Kíu nói:
      - Nó “giác ngộ” quá, thì “ngộ dát” dề a.
      Thọ vừa tức vừa vui, anh hóm hỉnh thông báo trên loa phóng thanh: ai mất lưỡi cày, xin cho biết. Phòng mang trả lại ngay.
      Lần thứ hai khi Kíu đi công tác trong thôn Sơn Hà xong, Trung úy Đan cần kiểm chứng chút việc, đã hỏi Kíu:
      - Em chỉ cho tôi nhà của ông bà Hai (mà em đã làm việc hôm kia) nhe.
      - Dạ, Trung úy đi trên đê, thì thấy nhà họ ở trong xóm.
      - Em không ghi ông Hai đó tên tộc là gì!?
      - Xin lỗi Trung úy, tại em không ngờ...
      - Nhà ở xóm ấy đông. Vã lại trong xóm có ba người: “tên thứ là Hai”.
      - Dạ... vậy sao!?
      - Em có nhớ đường tới nhà ông bà Hai không?
      - ... Ơ... Trung úy tới cái nhà có đụn rơm nhỏ xíu, có con trâu nằm đó.
      - Nhà nào cũng như thế cả. Không có số nhà, không có gì đặc sắc.
      - Nghĩa là sao!? Trung úy?
      - Tôi đến mấy nhà em tả. Con trâu ăn bó rơm mà em nói là “đụn rơm nhỏ xíu” xong, nó đã đi mất. Nầy em, đừng đứng đó vò đầu bứt tóc. Chả lẽ em sẽ đi hỏi con trâu hử!?
      Một lần khác trong phòng đang ăn cơm, thì Chỉ-Huy-trưởng gọi máy dã chiến xuống, bắt anh em nộp bảng: "Dự trù Kế Hoạch A. Tối cần".
      Kíu quên chưa cúp máy, anh ta láu táu báo trình với Đan:
      - Xin báo thựng cấp tối cần, bạng dự trù kế hạch A, chớ sáng hỏng cần.
      Ngờ đâu Chỉ-huy-trưởng đã nghe được. Trời ơi! Hậu quả ăn với nói lầm lẫn và hiểu sai nghiã. Kíu bị “an nghỉ” cả tuần trong chuồng cọp. Kíu “được” muỗi đốt thỏa thích. Chàng nằm co rúm chèo queo vỗ bụng “đau đói” bình bịch, để chờ Phòng Nhì điều tra. Toàn Phòng 5 đều gửi “thỉnh nguyện thư” lên Chỉ-huy-trưởng bảo đảm hạnh kiểm, hành vi của Kíu. Sau khi Kíu làm mọi thủ tục tường trình, chàng được tha khỏi chuồng cọp. Từ đó, chàng im re câm như hến, không dám thèo lẻo bép xép cái miệng ăn mắm, ăn muối nữa. Kíu tình nguyện “xuống cấp” để làm hoả đầu quân ở trong Sư-đoàn, cho chắc cú. Kíu nấu ăn thì ngon tuyệt, y như Tàu Hồng Kông vậy. Kíu ưa vỗ vỗ vào cái bụng phệ mà cười ha ha ha: Giàu chủ kho. No nhà bếp rồi thì… chóng chết là vì quản voi he!
      Nghe tin Lính Phòng 5 được về hậu cứ sớm hơn dự định, Kíu nổi tiếng là trùm sò, chuyên môn cho anh em "ăn mắm mút dòi". Nay chàng là người hào phóng nhất, trước tiên Kíu vác cái bụng phệ đi quăng mùng mền quần áo cá nhân. Kíu cần cho ba lô cá nhân nhẹ bớt ký xí mà. Rồi chàng lấy ly, tô, chén, son, chảo, nồi… ở trong thùng của đoàn 5 ra, trả thù tình và trả thù đời đập bể hết! Kíu xán cho bằng thích hai bàn tay mập ú. Các anh khác cũng bắt chước Kíu làm theo, họ lôi tô chén trong ba lô cá nhân ra, xán bôm bốp xuống nền gạch. Nghe “đã” thiệt ta!
      Đùng một cái Trưởng-phòng đi họp về báo tin Phòng 5 phải ở lại thêm bốn ngày. Kíu ngồi thộn ra nhăn nhúm, méo mặt như cái nồi son. Lấy gì xào nấu cho anh em ăn đây hở Trời! Thật chán mớ đời. Mấy ngày đó, anh em chịu trận giữa cơn rét rừng luồng vào tủy sống. Các anh chẳng dám mở miệng kêu than nửa lời. Ngày ngày Kíu xin phép Trung úy Đan cho ra nấu ăn nhờ ở nhà dân, chàng đi bắt ốc mò cua, đào măng, hái rau núi, hái rau sam, rau dền, rau đắng mọc hoang, luộc cho anh em ăn tạm với thịt hộp xin của đồng đội bạn đỡ lòng. Thật may vừa có lệnh trên ban hành cho anh em leo lên xe về nghỉ ở hậu cứ. Mấy anh mừng húm.
      Tất cả câu chuyện về bạn bè thân thiết, cùng hoàn cảnh, không gian và thời gian, thoáng hiện ra trong tư tưởng Đan, dưới ánh sáng màu thiên thanh kỳ diệu. Đan mỉm cười về vài mẫu chuyện vui vui tương tự như thế; hầu quên đi nỗi nhọc nhằn trong đời lính chiến phong sương. Tạm quên bao khổ đau cuộc sống đùn lên trong đời Đan và tất cả quân nhân khác.
      *
      Kíu kể chuyện tình của anh với cô bồ ruột ở Chợ Lớn, vui và cũng buồn hết biết: Kíu đã “phải lòng thật dạ” một cô trông ngồ ngộ kha khá bảnh tỏn ở gần nhà:
      Năm canh ngớ ngẩn buồn rầu.
      Nhớ người nhân nghĩa gan sầu ruột đau.
      (cd)
      Sau khi Kíu vào nha sĩ bọc thêm những chiếc răng vàng oai vệ đáng bậc “răng nhi” le lói kia xong xuôi. Thế là chàng thong thả đi la cà đó đây làm quen nàng Đào A Muối. Ai ngờ “ẻm” cũng “chịu đèn” mình quá sá cỡ thợ rèn! Thiệt là mừng húm!
      Nắm tay em tròn như ống chỉ.
      Lòng dạ anh đây phỉ chí muốn kết duyên.
      Ngày nay hỏi thiệt bạn hiền: “thương không
      !?”.
      Nàng ỏng ẹo “cừi cừi”
      Anh ăn ở có lòng, em phải gắng công.
      Một trăm năm em cũng để phòng không, đợi chờ...(
      cd)
      Thế là nhân một ngày gió sớm nhè nhẹ đong đưa lá vàng mùa thu bay bay, để kỷ niệm cách đấy một năm về cái ngày đầu tiên Anh và Em yêu nhau say đắm, hai anh chị vui vẻ hẹn hò đi ăn ở nhà hàng Arc Enciel. Kíu bảo nàng:
      - Ai đi đợi với tôi cùng.
      Tôi còn dỡ mối tơ hồng chưa xe.
      Có nghe nín lặng mà nghe.
      Những lời em nói như xe vào lòng.
      (cd)
      - Em ui, em là Ba Chệt, thì em cứ hiên ngang, can đảm vui vẻ nhận mình là Ba Chệt. Sợ gì ai mà ba má giữ rịt em ru rú ở trong nhà he? Hay em sợ mắc cỡ sẽ ló cái đuôi sam ra ha!? Em hãy mặc áo Thượng Hải, hở ngực, hở nách, xẻ hai bên đùi lên sát bắp vế, thì coi em càng khêu gợi chớ sao! Cho anh sung sướng dẫn em đi dợt le xí. Anh muốn tụi mình nên đi cà nhỏng, cà nhãnh, cà rịch, cà tàng chút xíu. Mình lên mặt làm dáng, làm dóc, làm le, làm tàng nha. Em cứ giựt nổi, chơi trội đi khoe với đời. Em không nổi như cái rốn của trung tâm vũ trụ em kià, thì đời mình mất vui, kém hạnh phúc đi. Nha cưng.
      “Ẻm” nghe chàng miệng lưỡi ngọt xớt như mía lùi, thì ai mà không mê tít thò lò chớ́. Thế là nàng trẻ người non dạ, õng ẹo đi qua đi lại trước gương soi mà ngắm nghía, và toe toét cười. Đúng là coi mình cũng ngon lành ra phết, như miếng thịt mỡ treo trước mõm mèo. Ngu sao mình không chờ thời cơ, thiếu giống gì mấy chàng trai trẻ sẽ nườm nượp liếc mắt đưa tình he! Nàng lóc chóc hí hửng thích thú mặc xiêm y, thân hình chưa phì lũ lắm, chàng trông nàng ngon lành, coi cũng đẹp hết sẫy í chớ.
      Kíu vui vẻ "phỉnh" nhẹ nàng thôi, chứ nếu chàng gallant trắng trợn, thì còn ra cái thể thống gì bậc mày râu! Kíu thì mặc bộ áo quần vía veston xám pha sọc đen hồ ủi thẳng nếp li láng cón, đầu chàng chải brillantine bóng mướt, con ruồi đậu trên tóc cũng phải té trợt cà. Kíu mang đôi giày đen nhọn mũi hoắt gót cao.
      Con cò đi uống rượu đêm
      Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao!
      Còn anh chẳng uống hụm nào ...
      Cũng say ngây ngất ngã vào lòng em
      !!! (cd)
      Chèng đét quơi! Cô nàng biết tông ti họ hàng thứ bậc từng gốc to ngọn nhỏ bề thế cuả Kíu là: hậu duệ cháu chiếc đích tôn đích tướng của ông chủ nhà hàng Nhất Dạ Đế Vương như vậy, nay chính mắt nàng nhìn thấy người hùng lý tưởng diện bộ đồ vía lên, trông chàng càng đẹp ra phết, thì nàng đã nghệch mặt ra, hết dám xí xọn, đỏng đảnh! "Anh em ta” hăng hái leo lên taxi “cho... tới luôn bác tài”.
      Hai người cười hi hí đủng đỉnh xuống xe, cầm tay nhau dung dăng dung dẽ, cười cười liếc liếc, lí lí lắc lắc… họ ung dung tà tà đi diễu dạo khắp nơi, coi “thái mái” lắm. Lúc họ bước lên cầu thang thì cái bóp đầm của nàng lủng la lủng lẳng đung đưa, có đựng hộp phấn thỏi son và vài đồng bạc lẽ, bỗng bị "bàn tay anh tài” cướp giựt mất, lẹ như chớp. Bị bất ngờ, nên nàng trợt chân té chúi nhũi, chiếc giày cao gót văng lông lốc tuốt dưới chân thang lầu. Đau quá là đau, nàng nghiến răng trèo trẹo ngồi chò hỏ nơi bậc thang, mặt tái xanh không còn chút máu. Mồ hôi hột rịn vã ra ở hai bên thái dương, "ẻm" bủn rủn tay chân, Muối thầm nghĩ:
      - "Chắc là ma nó xô cho mình bong gân, lọi giò đây. Chứ cái thằng ma-cô cướp cạn, nó ốm nhom ốm nhách: như đồ xì ke, đuổi ruồi còn không thèm bay. Làm gì xô mình lọi giò được ha?". Nàng mơ màng nghĩ đến vần thơ:
      Em xa mình hổng chết cũng đau.
      Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền.
      Thương anh nên mới đi đêm.
      Té xuống bờ ruộng đất mềm hổng đau.
      May đất mềm nên mới hổng đau.
      Phải mà đất cứng, ắt xa nhau phen này.
      (cd)
      Vô tình nàng "để quên sự đời em ra". Thây kệ mặc khách tao nhân, đi lên, đi xuống cầu thang, họ cứ quay lại liếc liếc nhìn nhìn, cười hi hí, và ngó sững "chỗ nớ" đã đời. Chàng thanh niên choai choai dé dé non đời lóc chóc đã nén giận, Kíu cắn môi chạy xuống chân cầu thang lượm giúp nàng chiếc giày. Kíu đứng xớ rớ dưới chân thang chờ mặc khách tao nhân đã choáng hết lối đi, họ cứ đứng ù lì chen lấn đi lại đông đúc ở cuối bậc thang. Chàng vô tình nhìn lên. Bỗng Kíu thấy “em thân yêu” oăặn… oằn vặn vẹo cả thân người, và “chỗ nớ” hớ hênh chìa ra coi tổn hổn, tển hển, rõ mồn một. Kíu giật thót mình, trái tim co xiết túi bụi, mặt đanh lại đỏ tía, tai nóng rần rần như bị ong chích, rắn cắn, hai bên thái dương chàng giật tưng tưng. Kíu mắc cỡ xấu hổ muốn độn thổ, Kíu cầm chiếc giày cao gót sút đế, vụt xô mấy ông vạm vỡ giạt qua một bên, chàng nhảy lên một lần hai ba bậc cấp. Kíu ném chiếc giày vào bụng nàng, kêu cái "biịcch"… Chàng trợn mắt nghiến răng trèo trẹo, kéo giật cánh tay nàng, cằn nhằn:
      - Đứng lên mau! Con gái, con nai gì không có ý tứ, lại mặc cái "xì níp" rách háng coi trơ trẽn quá. Có thấy thiên hạ đang dòm ngó em không? Hứ! Lại còn ngồi thộn ra… xí xọn, nhí nha nhí nhảnh cừi cừi. Ghê quá ta.
      Nàng sửng sốt tức giận lên cực điểm, đến tím mặt bầm gan. Đã không dỗ dành khi người ta đau điếng, thì thôi. Còn lên mặt la mắng tui cái nỗi gì giữa chỗ ba quân hử? Nàng nghiến răng trèo trẹo, liền xổ một tràng tiếng "Háng" văng cả nước bọt khiếm nhã ra:
      - Ai biểu... tại vì lị lói mí ngộ: là lị thít ngộ đem li phe ra le lói với đời mờ. Ngộ không bét. Ba trợn á. Ay da dà! Cái đồ tồi, dóc tổ a... Oái! cái cẵng chân của lị ló dzụng mất toi dồi. Tô chè a. Xiía...
      Tự ái dồn dập mà! Tuy nhiên, chàng thấy nàng tái tím xù ra như lông nhím thật sự, Kíu cũng biết điều, lòng chàng dịu hẳn xuống, Kíu nâng cánh tay nàng lên, chàng liền hạ mình hạ giọng, năn nỉ ỉ ôi. Nàng được trớn, càng lên mặt vênh váo, lì lợm, làm le, làm dóc, làm tới, làm tàng, làm liền… không thèm hòa. Nàng xù bộ mặt rất ư dễ ghét coi cà chớn quá ta. Xách chiếc giày sút đế lủng lẳng, nàng vung cùi chỏ thoi vô hông chàng kêu cái “ự” . Nàng chưa đã nư bồi thêm cú chưởng “độc thủ” hất mạnh tay “người iêu”. Nàng cà niễng cà giật cà thọt một chân cao chân thấp, nàng nhoi nhoi cái đít vịt đi điệu bì bộp, xô-lô-rốc chấm phẩy. “Ẻm” nguýt xéo chàng một cái thiệt dài, đôi môi cong cớn trề ra như mỏm con dê, mà leo lên taxi... cho tới luôn bác tài. Bác ta rồ máy chạy cái vù giữa đám thị dân đang kinh ngạc nhìn theo.
      Chàng mới té ngửa ra là nàng chẳng phải là thứ vừa, thứ dễ bảo mô nà, trông nàng bây chừ thiệt ngứa mắt quá chừng chừng! Đúng là “thứ Tình Cà”
      Thế là Mạc Kíu nổi máu anh hùng lên: bỏ đi một nước, giang hồ biệt tích. Kíu leo lên xe “đi quân dịch là thương nòi giống”:
      Năm xưa em bảo đợi chờ.
      Năm nay em lại hững hờ với anh
      (cd)
      Thời gian trôi qua, chàng dần dần nguôi ngoai nỗi “sầu đời”, Kíu đã vui vẻ hát điệu… tẩu mã rất linh hoạt của dân ca Huế.
      Bây giờ tình nghĩa làm sao.
      Cho chuông chẳng bén bồ lao chẳng bền?!
      (cd)
      Thôi! Hãy thả tình trôi theo giòng thời gian... Chả còn gì cho “Anh và Em”. Thật chả còn gì cho mối tình mà chàng nghĩ từ nay đúng là: Thứ cà tửng, cà tàng, cà khịa, cà ná, cà chớn, cà pháo, cà chua... cà dái dê... Khi nàng ù té chạy làng, lê bước chân què để leo lên con đò, ca bài “Sang Ngang” của Đỗ Lễ, cho mối tình xưa đi đứt theo đuôi con nòng nọc, mất toi.
      Năm nay em phải lấy chồng.
      Không vui thì cũng bằng lòng mẹ cha.
      (cd)
      Ba Tàu style Mạc Kíu đã chạy tới thằng bạn “loa mồm” thở than:
      Nếu piết rằng lị đã có chồng.
      Ngộ về ngộ pán nốt Hồng Kông
      Mang tiền ngộ đổ vào Chợ Lớn
      Lời vốn đầu tư ngộ mát lòng!
      (*)
      Kíu dứt khoát mọi điều khẳng định là “ngộ” phải quên “lị”. Như đinh đóng cột vào vách. Như ngôi nhà quay mặt về núi. Muôn đời không thèm đối diện với biển cả. Chàng rung đùi, dùng rượu đổ vào cái bụng phệ:
      Nếu biết rằng em sắp lấy chồng.
      Anh về bắt vịt nhổ sạch lông.
      Tiết canh làm được vài ba đĩa.
      Mượn rượu cho nguôi vết thương lòng.
      (*)
      Dù chàng là “ba Tàu” chính cống thứ thiệt, nhưng mình chả phải là thứ tay vừa trong mục “Thơ Tình Cà Tửng Cà Khiạ cuả chàng và nàng”: Em hãy nghe nè Muối:
      Anh cà ghim sáng tối uống cà phê.
      Tình cà nhỏng vi vu hết chỗ chê.
      Củ cà nông thất nghiệp không cà pháo.
      Thấy cà dại sao giống cà dái dê.

      Tình cà rem le lưỡi liếm cà rề!
      Đời cà gai chàng ràng anh cà tong.
      Khuya cà giựt cà lơ xịch cà đụi.
      Em cà ri nị chê anh cà khỏng.

      Ôi tình cà tàng cà kê dê ngỗng!
      Em lù đù cà lơ thân cà cuống!
      Chân cà thọt anh lên xe cà xóc.
      Em đòi đeo cà rá coi cà tửng

      Anh cà chớn như mấy con cà cưỡng!
      Em cà khổ không biết anh cà rỡn.
      Tình cà khịa mình giận nhau từ đó.
      Bỏ cà mèn anh len lén húp phở.

      Em cà rốt ngó anh đi cà nhắc.
      Đau cổ họng anh cà lăm cà lắp.
      Khêu đủ chuyện kể cà riềng cà tỏi.
      Em cà chớn cà dừa đi Cà Mau

      Anh quá sợ mũi em giống cà chua.
      Về Cà Ná vất cà vạt vô chùa.
      Ăn cà bát cà chua lẫn cà tím.
      Củ cà rốt teo dần… cứ mặc ta!

      Anh hận tình lên núi choàng cà sa.
      Chân cà niễng anh y đúc cà kheo!
      Em cà rề cà tang nằm chèo queo.
      Kể từ đó đôi ta đã... cà dẹo…

      Mắt em cay vì có anh cà cuống
      Bởi thế cho nên tình ta nở muộn.
      Thành cà tửng tình cà chớn sớm khuya
      Hạnh phúc mất lúc đời ta cà tàn!
      (**)

      *

      Cd = ca dao
      (*) Thơ sưu tầm, lượm lặt đó đây.
      (**) Thơ Vui Tình Hoài Hương


      _ * _



      Tình Hoài Hương
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • #4
        Đẫm Hương Xưa


        Đẫm Hương Xưa






        Sau khi tốt nghiệp khoá quân sự, tôi được bổ nhiệm về làm Tiểu-đoàn Trưởng, Tiểu-đoàn Tân Binh (khu nhà Sắt). Thế là phải dọn qua bên đó ở, tôi chỉ huy hơn một trăm tân binh Không-quân. Thỉnh thoảng tôi được đi phép về Sài Gòn (ba lần), nhờ quen với Thiếu úy Nghĩa rất dễ thương. Anh Nghĩa đã tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt. Nhờ anh Nghĩa nên tôi biết cách làm đơn xin đi phép. Khi đi ra ngoài trạm tiếp liên, tôi liên lạc với một anh phi công Hoa Kỳ, xin đi ké phi cơ của USAF. Có một lần đang học ở Nha Trang, tôi đi phép về Sài Gòn. vì còn là sinh-viên sĩ-quan Không-quân, tôi không được phép bay cùng pilot, nên anh Nghĩa đã cho tôi mượn áo quần bay của ảnh, để tôi mặc vào mà che dấu “cái tôi”. Chuyến phi cơ quân sự đó họ ghé tạt qua Đà Lạt, và từ phi trường Cam Ly họ thả người xuống cho dạo phố vài giờ. Tài xế chở anh em Không quân từ Cam Ly chạy lên dốc đại lộ Yersin, rồi xe vòng xuống hồ Xuân Hương, lại vòng lên dốc Lê Đại Hành. Tôi đứng lố nhố trên chiếc Dogde không mui với gần chục mạng pilot khác. Lúc xe chạy lên dốc Lê Đại Hành, thì tôi nhìn thấy "nàng H" đi trên phố trước mặt rạp ciné Hoà Bình cùng bốn cô bạn. Mừng quá, tôi vừa vẫy tay lia lịa, vừa hớn hở gọi to tên nàng, tôi xôn xao cuống quít chồm người ra ngoắt lia lịa. Rõ ràng nàng đã đứng khựng lại, ngơ ngác nhìn quanh. Rồi nàng bình thản quay đi với bạn.
        Khi xe Dogde tấp vào bên hông khu Hoà Bình, bên cạnh tiệm ảnh Hồng Châu, tôi vội vàng nhảy xuống xe, liền tất tả chạy ngược trở lại tìm nàng. Tôi dáo dác nhìn quanh chạy ngược chạy xuôi. Tôi tìm nàng khắp vùng nàng vừa dẫm chân lên đó, nơi "em yêu" cùng các bạn vừa đi qua. Không hiểu các em rẽ đi lối nào, mà lẹ quá chừng trong làn sóng người đua nhau trẫy hội trên phố chiều thứ Bảy vậy!? Vì tôi nghĩ có lẽ nàng đã hết giận tôi rồi. Nhưng định mệnh quái ác, đã tàn nhẫn xô hai người đi hai ngả tách bạch. Không cho "anh và em" gặp nhau. Dù chỉ thoáng hơi thở cuả không gian và tích tắt thời gian gần thật gần trong tầm tay. Dù chúng tôi đang ở chung một thời điểm – đi chung trong thành phố nhỏ bé và thơ mộng nầy. Thế mà... chúng tôi không thể nhìn thấy nhau, để rồi ân cần vồn vã hỏi thăm nhau sao, hở Trời!? Rồi mai đây, khi tôi sẽ phải rời xa quê hương, sẽ ngăn chia biết bao sông, cách biết bao dặm trường dọc ngang xuôi ngược. Núi non hùng vĩ và hiểm trở trùng trùng vây bủa. Biển cả mênh mông cuồng phong gió táp mưa gào, xa diệu vợi muôn trùng hải lý. Có nằm mơ, tôi cũng không thể bơi trong giấc mơ mà về thăm nàng. Chắc chắn nơi ấy chẳng thể có giang thuyền nối nhịp, tôi không có đôi cánh, hai chân tôi sẽ chùng bước ngập ngừng. Tôi không có gì, chẳng còn gì tất cả. Làm sao tôi có thể chắp nỗi đôi cánh bằng lướt gió tung mây trở về cố hương… hầu tìm chút hoài hương xưa đã vụt bay ra khỏi tầm tay mình?! Vì, có thể nàng đã bay hút ra khỏi đời tôi!? Thế là kể từ hôm đó, từ đáy lòng tôi lại bừng thức dậy nỗi tức tưởi, nghẹn ngào, xót xa, cay đắng nỗi thương đau vùi trong biển tình còn dấu trong tim thắm thiết, âm thầm mà sâu lắng. Tôi lặng lẽ tìm về chút "mùi của hoài hương xưa"; tôi luôn luôn mơ thấy nàng tươi vui, ngọt ngào đằm thắm, ân cần, dịu dàng mà lặng lẽ đến thăm tôi.
        Bừng giấc chiêm bao, tôi lại mơ màng ước mong mình hoá thành chú bướm, để có thể nhởn nhơ bay về đậu bên ngoài khung cửa sổ phòng nàng. Tôi sẽ mỉm cười lẵng lặng nhìn nàng uyển chuyển đi ra thẩn thờ, buồn xo đi vào. Tôi nhìn tháng ngày dần chết lịm trong đời tôi. Tôi sẽ ru nàng ngủ, nhìn nàng êm đềm say sưa đi vào giấc mộng đẹp không vướng chút muộn phiền. Trong đó, tôi mơ mình sẽ về trùng phùng bên nàng. Vì, nàng đã thôi giận hờn tôi, và nàng bao dung từ bi tha thứ cho tôi mọi điều.
        Sự nghẹn ngào tức tưởi, luôn dày vò tâm thức tôi. Sau khi xa nàng, dư âm nầy luôn quanh quất đâu đây canh cánh ràng buộc bên mình. Khiến tôi nhũn chí cầm lòng trong tiếng nấc: Có biết không em? Cõi lòng anh đang dày vò, ray rứt, tan nát. Mà, chỉ khi nào còn lại một mình anh. Lúc anh sống cho riêng anh, thì tình cảm thiêng liêng trân qúy ấy nó lại chợt hiện đến. Thật đầm ấm ngọt ngào nhưng xa xăm; diệu vợi... và muôn trùng vắng lặng. Em ơi!
        Tôi thì thầm nguyện cầu:
        - Chúng ta sẽ vĩnh viễn yêu nhau, bên nhau. Nhé em H yêu.
        * * *
        Đến tháng 9 năm 1965, tôi được lệnh đi khám sức khoẻ, do USAF khám. Sau đó, họ điều tôi về Sài Gòn đi làm thủ tục an ninh. Thủ tục xuất cảnh. Trên giấy thông hành ghi: "đi du học", trong thời gian là tám mươi (80) tuần lễ. Ôi cha ơi! Lâu quá đi thôi. Ngao ngán biết chừng nào! Tôi cùng các bạn may quần áo lạnh chuẩn bị đi Mỹ.
        Khoảng thời gian nhàn hạ và chờ đợi nầy tôi lấy xe hơi của ba, đến đón Nghĩa cùng đám bạn hữu của cô bồ. Chúng tôi cùng nhau đi ăn, đi chơi, đi cắm trại. Trước đó, cô ta có gửi thư cho tôi, cô nói là có bốn bạn gái cùng lớp, muốn kết thân với "tụi anh". Tôi hỏi đám bạn, thì có bốn tên "tình nguyện". Tôi tụ tập họ lại, viết tên bốn cô gái, rồi bỏ vào cái mũ lưỡi trai. Xóc đều cho bốn thằng "bốc thăm" (về sau đó, có hai cặp thành vợ chồng). Chúng tôi moi đủ thứ chuyện tiếu lâm sưu tầm lượm lặt khắp đó đây, để tha hồ “làm le” với các nàng, chọc cho họ cười và tự nhiên hơn trong buổi sơ giao trước:
        Hiên kể chuyện thứ nhất:
        Người ta đã thống kê được rằng, cuộc đời một người đàn ông hầu hết gắn bó với chữ “ăn”. Khi còn bé thì “ăn học”. Lớn thêm chút nữa thì “ăn chơi”. Lúc có bạn gái thì chăm chăm tìm cách “ăn thịt”… Ăn thịt xong thì phải “ăn hỏi” rồi “ăn cưới”. Cưới về phải tiến hành “ăn nằm”. Khi vợ đến kỳ nguyệt san đành phải “ăn chay” hoặc “ăn vụng”, sau khi vợ sinh em bé thì phải “ăn kiêng”, về già rụng răng phải “ăn cháo”, xa thêm tí nữa thì theo các cụ mà “ăn xôi”…
        Một hôm vào ngày Thứ Sáu, tôi và cô bồ Trân Thư đi ăn, đi chơi vui vẻ nguyên ngày. Cuối cùng cả hai đứa vào nghỉ ở nhà của Trung. Dù tôi và cô ta chỉ quen nhau vài tháng ngắn ngủi, nhưng nói với nhau nhiều lời hứa hẹn sắt son. Thề hứa suốt đời sống bên nhau, đến khi răng long tóc bạc. Tôi và cô ta đều bạo dạn “mết nhau” say đắm, có những giờ phút thắm thiết mặn mà. Nồng nhiệt cuồng mê. Quấn quít. Cô bồ sẵn sàng hiến dâng cho tôi đời con gái.
        Nhưng không hiểu tại sao, tự dưng khi đó đột nhiên hình ảnh của “nàng” lại xuất hiện: Rất ngây thơ. Dịu dàng. Khả ái. Đằm thắm. Tươi mát. Duyên dáng. Hồn nhiên và trong sáng xiết đỗi. Bởi vì tôi và nàng H yêu nhau rất đàng hoàng, vô cùng trong sáng. Hình bóng nàng tuyệt vời ngây thơ và thánh thiện đã hiện lên trước mắt tôi quá rõ nét. Thật hết sức bất ngờ! Tôi kịp thời ngừng lại những động tác vụng về.
        Bàng hoàng mở mắt ra, tôi bồn chồn, buồn thiu dáo dác nhìn quanh, ngơ ngác nhìn cô bồ đang loã lồ kế bên mình. Tôi buông tiếng thở dài thì thầm nói cô bồ hãy mặc quần áo vào đi. Tôi lặng lẽ phiền muộn nằm vật xuống, vắt tay lên trán nhăn mày nhiú mặt suy nghĩ miên man. Còn cô bồ Thư kia thì sượng sùng và chưng hửng! Thật là chả ra cái thể thống gì! Mất hết ý nghiã cuả một cuộc làm tình chưa trọn! Để bớt ngượng tôi đã kể cho cô bồ nhiều chuyện tiếu lâm mà tôi đã đọc hoặc sưu tầm trên báo:
        Hai người bạn gái gặp và hỏi chuyện nhau:
        - Chuyện mầy và anh chàng mới quen tới đâu hở... ?
        - Chia tay rồi.
        - Sao vậy!? Tao thấy tối qua hai người còn đi xem phim mà...
        - Tối đó, trong rạp điện cúp mà chân anh ta cứ…
        - Thế !!! Anh ta sàm sỡ với mầy à???
        - Được như vậy thì còn khá... Đằng này chân anh ta cứ sờ soạng...
        - Sờ soạng chân mầy không thú vị à!?
        - Không. Hắn sợ mất dép cuả hắn í chứ!
        - Rõ khổ!?

        Cô bồ cuả tôi cười gượng gạo. Tôi e dè kể chuyện thứ hai:
        - Bà kia vẻ mặt đầy lo lắng, nói với lão thầy bói:
        - Thưa thầy, chồng của con thường đi làm về rất muộn. Có nhiều hôm, ảnh đi tới 11, 12 giờ khuya mới về đến nhà. Con nghi ảnh mê đứa nào rồi. Nhờ thầy xem giùm cho con đường phu thê, gia sự.
        Thầy bói đĩnh đạc gieo quẻ rồi phán:
        - Chồng của thân chủ là người trăng hoa, phong tình, quan hệ bồ bịch tứ tung. Thân chủ muốn giữ được chồng, phải thường xuyên bỏ công theo sát anh ấy mỗi khi ảnh bước chân ra khỏi nhà!
        - Thưa thầy, con không thể nào bám theo chân ảnh như vậy được!
        - Vì sao thế?
        - Chồng con là phi công!

        Vẫn thấy nàng lấm lét nhìn, cúi mặt. Lại chuyện thứ ba, rồi thứ tư:
        - Khi yêu nhau thì người ta thề sống chết có nhau, còn khi ghét nhau rồi, thì người ta thường thề sẽ sống chết với nhau. Chết cho người phụ nữ mình yêu, vẫn dễ hơn là phải sống chung với họ.
        - Một thầy tu trẻ đi khất thực qua làng nọ, trời hanh khô mà thầy tu ấy lại đi đường đã khá lâu nên thầy thấy khát nước, bèn rẽ vào nhà nọ xin nước uống. Trong nhà chỉ có một cô gái trẻ. Cô gái nghe thầy tu hỏi xin nước thì đặt một chai nước xuống hiên nhà, rồi quay vào trong định lấy cốc. Thầy tu tưởng cô đi vào luôn, nên mở nắp chai định tu một hơi cho đã cơn khát.
        Vừa lúc đó cô gái đi ra, thấy vậy cô kêu lên:
        - “Thầy đừng tu, để em lấy…”
        Nhà sư trẻ tuổi hoảng hốt ngắt lời:
        - “Xin cô đừng lấy, để tôi tu!”

        Dù tôi cố moi óc ra kiếm nhiều chuyện tiếu lâm sưu tầm lượm lặt đó đạy để kể cho cô bồ Trân Thư nghe, ngỏ hầu mong tạo không khí dễ chịu bớt tẻ nhạt đôi chút, và ít trơ trẽn ngượng ngùng. Nhưng có nói gì, có pha trò hề gì, thì… “cả hai anh chị” cũng không thể nở nụ cười hồn nhiên! Thôi thì đành:
        Đôi ta thật sự ước vuông tròn
        Em tuổi đôi mươi gót bước son
        Lí lắc hay cười. Anh lặng lẽ
        Sân trường phượng đỏ cánh chim non.

        Chẳng biết tình em, anh có hay?
        Thở dài anh ngắm đám mây bay
        Nhìn em tay ngắt cành hoa trắng
        Hái trái ân tình trĩu nặng vai.

        Thế rồi anh bảo một chiều đông
        Dẫu quyết cùng nhau vẹn chữ đồng
        Lửa khói lan tràn trên đất mẹ
        Thân trai phải trả nợ non sông.

        Anh đã ra đi tựa bóng mây
        Xẻ đôi chén nhớ uống càng say
        Vầng trăng ai nỡ chia hai mảnh
        Em vẫn chờ anh phố cũ này.
        (*)
        Nhưng chính từ trong thâm tâm tôi… thì than ôi! Chính nhờ "mùi của hoài hương xưa" rất vô tình thoảng đến, nhẹ nhàng êm ái hương xuân vô cùng trân quý, mà "em yêu" đã đến bên tôi kịp lúc. Em lặng lẽ, thân ái, và trìu mến, đã cứu thoát nhiều đời người con gái con nhà lành khác. Em biết không, em yêu của anh nào có hay biết gì không hở em!?
        Sáng Thứ Bảy, gia đình ba má, các chị, em, cô bồ, họ đi tiễn đưa tôi trên phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi và cô ta còn lưu luyến, bịn rịn. Đứng riêng ra một góc vắng hôn nhau. Như còn vướng cơn thèm khát cháy lòng hôm qua, hai người xoắn xuýt lấy nhau suốt. Khi gần hết giờ tâm tình phải chia tay, tôi thì thầm bên tai cô ta:
        - Hãy trao cho anh kỷ vật nào thân thiết nhất của em.
        Cô bồ vội vàng vào toilet ở phi trường. Lát sau, cô ta trở ra nhét vào túi quần tôi. Kỷ vật cô bồ trao lúc bấy giờ là chiếc quần xịp, kèm vài sợi... (theo lời tôi đề nghị). "Cuộc tình đau muốn bứt da" chảy nước mắt vì đau. Biết đâu, ngày mai... sẽ đau hơn thế nữa vì xa biệt nghìn trùng!
        Họ đã ra về hết. Khoảng chừng 11:45' trưa, tôi và các bạn hào hứng, mạnh dạn, vui vẻ huýt gió tưng bừng, bước lên phi cơ. Vài phút sau, phi cơ lăn bánh trên phi đạo. Càng lúc càng nhanh. Sau cùng mặt đất tách rời ra. Tôi nhìn xuống đất nước Việt Nam. Xóm làng thương yêu. Cha mẹ. Chị em. Họ hàng thân quyến. Bạn hữu. Cô bồ nho nhỏ xa dần. Xa dần và mất hút tầm nhìn.
        Phi cơ lao vút vào không gian, mang tôi và bạn bè cùng trang lứa ra đi xây mộng hãi hồ. Nơi có từng tảng mây xôm xốp bồng bềnh trôi dưới đáy phi cơ. Để lại vùng trời trắng xoá ươm vàng chói sáng. Mịt mùng. Mênh mông…
        Phi cơ của Continental Airlines loại 707, bay từ Việt Nam sang Manila. Ghé lại trạm tiếp tế nhiên liệu. Rồi bay sang đảo Guam. Wake. Sau cùng đến Honolulu.



        (*) Thơ tìnhhoàihương)

        *

        Tình Hoài Hương
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • #5
          Vòng Couronne Mortuaire Cườm Đen Băng Tím

          ­
          Vòng Couronne Mortuaire Cườm Đen Băng Tím





          Từ nay đã thiếu vắng anh Lê Văn Trọng!
          Trọng đã đi qua rồi. Xong rồi! Hết rồi tận cùng kinh hoảng! Trọng dọt lẹ quá! Bây giờ anh thật sự vô cùng đơn độc. Đơn độc kinh khủng đúng với nghiã của nó! Chiến sĩ ấy lạnh lùng hững hờ quay lưng, xoá bỏ tất cả mọi thứ trên bàn cờ (khi cuộc chơi chưa kết thúc). Trong binh thư không dạy anh buông súng gác mũ, vì đấy là người bạn đời thân thiết nâng niu ấp yêu bất khả ly thân của Lính. Thế sao Trọng đành vứt mũ sắt, buông súng bỏ cuộc? Không đầy bước chân, anh đã vụt nhảy qua bên kia bờ vực thẳm, trở về cát bụi phù dung trong lòng đất mẹ. Anh ra đi mang theo vết dạn xuyên thù vùi xuống dưới vùng cỏ non! Trọng đã từ giã bạn bè ra đi giữa hai lằn đạn, chẳng thèm thấy bụi lau sậy lô xô bông xoay xoay bay trắng đồng quê. Trọng không còn thấy tre la ngà sọc xanh da vàng rì rào mọc bên suối. Suối nước uốn quanh róc rách chảy xuôi đập vào mô đá rêu rong, tạo thành những bọt nước trắng xoá, òa vỡ rồi chìm khuất. Anh không nghe cây cối bực bội cựa mình lao xao suốt tháng năm rồi!
          Trọng như chiếc lá xanh tươi mơn mởn, đột ngột bị bứt ra khỏi cành, biến đổi Trọng từ trạng thái sinh tồn sang trạng thái tử quy lạnh giá đau buốt. Anh đã bị chiến tranh lừa mình hụp xuống con đường tử tuyệt sâu hun hút. Không có lối lên. Trọng gửi xác thân trên quê cha đất tổ, mặc triền cỏ ướt sũng phủ đầy nước sương, nước mưa, nước mắt tình nhớ, tình bạn, tình quê đan quyện bện chặt vào nhau mỗi lần họ ghé qua mồ Trọng, họ nghẹn ngào tiếc nhớ, nức nở khẽ khàng đặt lên nấm mộ anh bó hoa tươi. Anh không thấy bao vòng couronne mortuaire cườm đen băng tím có những hàng chữ phân ưu: “Vô cùng thương tiếc”… “Thành kính phân ưu”… hoặc “Chúng tôi vô cùng đớn đau” làm tâm hồn bạn bè ngậm ngùi, đau đau mà tột độ nhức nhối, xúc động mãnh liệt?
          Trúc phẫn nộ suy nghĩ miên man. Trọng biết yêu nồng nàn tha thiết từ tấc lòng: yêu gia đình cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè đằm thắm cơ mà! Nơi quê hương nầy cách đây hơn hai mươi sáu năm, Trọng đã sinh ra, lớn khôn từ bầu sữa mẹ ngọt ngào. Cha mẹ anh chắt chiu từng vồng sắn, vườn rau, ao bèo, hồ nước, khúc sông bên bồi bên lở, con đò xuôi ngược lên xuống qua dòng lưu thủy luân lưu xuyên khắp mọi mạch nguồn chảy ngầm trong lòng đất. Trước cuộc tương tàn đẫm máu quyết liệt, anh không nở ra tay giết hại một ai. Cho dù Trọng đã biết rất rõ, (kể cả người chú tên Linh tự là Sáu cùng chung huyết thống với mình. Tất nhiên Trọng đã mất mạng. Trọng là chứng nhân dòng họ đối nghịch đang bôi nhọ từng trang sử tương tàn trong cảnh nồi da xáo thịt).
          Trọng yêu luống khoai vồng sắn, luôn giữ gìn từng tấc đất ông cha truyền lại từ ngàn xưa. Trong năm điều: Nhân. Lễ. Nghĩa. Trí. Tín, thì Trọng giữ chữ Nhân đứng ở hàng đầu. Nào có phải anh là người bội bạc, dã man tàn ác muốn cầm súng đi xâm lăng kẻ khác đâu! Khốn thay điều ước nguyện duy nhất của Trọng: "Thiết tha mong đợi ngày an bình, ấm no hạnh phúc thực sự, mang canh cánh bên lòng niềm khát vọng kỳ phùng, để tàn chiến chinh anh có thể trở về sống trong mái nhà ấm áp xưa. Anh sẽ ngồi dưới giàn hoa thiên lý cùng ba mẹ, anh chị em, bạn bè tri kỷ, và có thể có thêm một cô nàng be bé xinh xinh; hầu mọi người hàn huyên tâm sự… cho vơi những ngày thương nhớ”.
          Thật, chẳng bao giờ Trọng muốn bất hiếu với ba mẹ, khi anh đột ngột lìa đời thế nầy. Trọng không ưa rứt ruột chít vành sô tang trên mái tóc xanh, mặc áo quần đại tang phục sô gai may bằng tay, khi mẹ cha ngoài trăm tuổi. Trọng sẽ không thích đội mũ cuộn bằng rơm, lưng thắt dây làm bằng bẹ chuối khô. Nếu ngày cha lìa đời, anh sẽ phải cong người chống gậy tre. Mẹ mất, anh chống gậy gỗ vuông. Em gái sẽ mặc vải sô gai buông gấu, đội vải sô gai phủ mặt. Hàng bậc cháu thì chít khăn tang đỏ. Hàng chắt là chít khăn vàng. Hàng chút quấn khăn xanh. Trước di ảnh cha mẹ già tóc bạc răng long, Trọng sẽ đặt bát nhang trầm nghi ngút khói. Hướng đông bình hoa, hướng tây đĩa trái cây. Trọng sẽ vái hai vái tượng trưng cho âm dương nhị khí. Hai hàng nước mắt tuôn trào, tay anh sẽ run run rót ly rượu tăm, lạy tạ công ơn sinh thành dưỡng dục, kính thờ cha mẹ trước khi anh nhắm mắt xuôi tay, Trọng khẽ nói câu của Léoparde:
          - "Ôi! Đất Mẹ êm ái. Nguồn sống đã cung cấp cho con. Nầy đây con xin trả lại".
          Có phải giờ đây anh tột cùng đau xót nghẹn ngào câm nín ngồi trước trên bàn thờ, Trọng muốn nói như thế hết sức? Phải không hở anh?
          Anh nằm xuống vĩnh viễn quên đi quá khứ, quên hiện tại và tương lai quê hương điêu linh, buồn đau. Không trách nhiệm. Không đùm bọc. Không yêu thương. Đầy thù oán. Chém giết. Khổ đau. Lỡ lầm trách nhiệm. Lỗi lầm trong cuộc: Giữ Nước và Giành Nước tột cùng kinh khủng! Có điều gì vượt quá sức con người. Nó hút Trọng vào điệu quay chóng mặt, tận diệt niềm khát vọng tái tê. Sự căm thù ác độc hung hăng giữa - Người với Người hiện ra rõ rệt. Lòng Trọng bừng bừng ngọn lửa mến yêu quê hương xứ sở, thân nhân, tha nhân, và năm điều "từ Nhân đến Tín" kia. Khi kẻ khác lòng hừng hực cuồng quay ngọn lửa xâm lăng quyết không buông.
          Thì ra tử thần thật chí công vô tư. Không thiên vị anh hùng kiện tướng. Không nể mặt ai! Quê hương hiền hòa, nay buồn thảm, lặng thinh, nhận thêm một nấm mồ chưa xanh cỏ. Chính Trọng, người chiến binh hiền lành, oai dũng, trẻ trung, dĩnh ngộ tự tin, tự trọng, mưu cầu nghệ thuật vị nhân sinh, dạt dào tình cảm, không thích súng ống đạn dược. Trung thành nồng nhiệt với chiến hữu không ngần ngại chung vai góp sức cống hiến tuổi xanh, dâng tình yêu cho nước, vì quê hương xứ sở anh đã sống quên mình. Đời Trọng dầm mình trong chiến tranh, cuối cùng chấm dứt cuộc sống thảm thiết. Sinh nghề tử nghiệp chưa đúng, thật ấm ức hậm hực khi tên anh đã ghi vào danh bạ quân tử. Đau đớn thay! Nơi Trọng vùi tấm thân xuống dưới ba tấc đất, trong chiếc quan tài kẽm phủ kín, có lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ đậy lên. Có tấm thẻ bài ghi tên: Lê Văn Trọng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, kèm Anh Dũng Bội Tinh và Nhành Dương Liễu, cấp bậc cố Đại Úy; đã có dấu đạn xuyên thù trên chiếc nón sắt vấy máu, vẫn hằn sâu dấu tích những viên đạn diệt nhân lỗ chỗ. Chiếc nón sắt thân thương bây giờ đã lìa xa trên đầu Trọng, bị đặt úp nơi bàn thờ nghi ngút khói hương. Cho dù có nước mắt bao người thân tuông chảy, vẫn không bao giờ kỳ cọ gội rửa sạch dấu ấn lỗ thủng hờn căm rỉ máu triền miên.
          ***
          Mộ chí chôn người thân chưa kín cỏ. Bỗng một hôm thêm một lần pháo đạn nhẫn tâm cày xới nấm mồ của Trọng tanh bành, tả tơi. Trọng bị móc thây ma lên. Thối um! Họ hàng thân quyến lò mò nhặt từng món, từng món… để ráp nối hình hài. Thân thể anh thiếu sót thô vụng, cái mất cái còn, không toàn vẹn chi chi hết. Thây tàn nầy càng sình thối, trương phình, đụng vào thì rửa nát bầy nhầy, chân một nơi, tay một ngã, đầu một góc. Trọng nào có biết cha mẹ, đàn em nhỏ khóc đỏ máu mắt, vẫn chối bỏ sự thật cay nghiệt phũ phàng. Họ không thể đối diện sự hủy diệt thân thể anh lần cuối cùng đầy bất nhân. Anh ôi! Họ tưởng nếu Trọng có sống khôn thác thiêng, anh nên kéo cha mẹ và đàn em xuống mồ sâu bít kín tối tăm, không cho họ trông thấy điều tàn nhẫn thêm. Hơn là để họ sống lụi hụi, lù đù, buồn xo dúm dó hậm hực ấm ức trên thế gian, mà chứng kiến cảnh đau đớn xé lòng; khi nhìn thấy thây Trọng thêm một lần nữa tan nát tả tơi nơi cõi đời ô trọc như ri. Có đâu cảnh cha mẹ già khóc con trẻ bội bạc “lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống Trời ơi là Trời”!!!
          Trọng nỡ lòng nào từ bỏ cha mẹ, lạnh lùng đơn độc ra đi. Mà lại ra đi biền biệt vào vùng cỏ non thế không biết!? Bởi vì cha mẹ đã phổ tình yêu tuyệt đỉnh vào từng thớ tí nhau, tạo thành một Trọng đẹp như vị thiên thần, anh dần dà lớn lên thì hào hoa, thanh cao, trí thức, thông minh, có đời sống tràn đầy sinh khí, dồi dào sức sống. Anh tao nhã thanh lịch, khả ái khi còn sống, và lưu danh thơm sau khi lìa đời. "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng" mà. Chứ họ nào dám chứng kiến anh đã một lần oan khiên dẫy chết rồi. Cay đắng xiết bao! Họ không dám nghĩ tới ngó anh lần thứ hai, chỉ đứng ù lì như trời trồng trơ mắt chứng kiến đống xương thịt bầy nhầy, tanh hôi ruồi bu kiến đậu, bọ rúc trương sình kia: chính là đứa con ruột ngoài hai mươi sáu tuổi: đã có nhiều lần cha mẹ bịn rịn lưu luyến tiễn đưa con hăng hái ra chiến trận, con hiên ngang đi thi hành bổn phận nghĩa vụ làm trai. Và mỗi lần nơi biên thùy xa xôi Trọng hân hoan về phép vui vẻ thăm nhà.
          “Xin cha mẹ tha lỗi cho con sự bất hiếu trót lỡ lầm qua mặt ra đi trước cha mẹ, để cha mẹ đau đớn cúi đầu, gục mặt rơi nước mắt vì con trẻ hoài mãi thế nầy”! Có phải anh muốn nói như thế lắm không? Phải không anh? Câu: "Ce dernier soupir de ma vie, je le garde pour aimer", (Lamartine) hoặc câu: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng"; với Trọng giờ phút nầy hoàn toàn rỗng tuếch. Vô nghĩa. Dù hiện tại buốt tê, lạnh lẽo, hoặc an lành đang nghiêng mình trên dĩ vãng, hiện tại đầy cay đắng, đau khổ? Trọng thật sự vĩnh viễn ra đi, như con đò khuất dạng sau đám cỏ lau sình lún; như con tàu suốt biến vào vùng dĩ vãng, khuất xa góc trời tao loạn mù mịt khói súng mất rồi.
          ***

          Trọng vĩnh viễn một mình nằm xuống, soãi đôi tay ôm trọn đất quê hương trong lòng; khi bạn bè còn oai dũng chiến đấu bên nhau thế nầy? Hỡi anh ôi?! Hoá ra… Trông điệu bộ Trung-úy Đức có mái tóc bạc phếch bụi phong trần, mặc áo field jacket xệ vai giả vờ khậc khưởng làm người say, nách anh cặp vỏ chai rượu Martel, mơ màng ngâm mấy câu thơ tình. Các bạn không thể nhịn cười vì lối diễu ra trò ấy. Sự quyến rũ tuyệt vời nầy làm các bạn mê anh. Thế mới chết. Bạn bè sửng sốt bừng bừng mặt tím, xôn xao bàn tán về cái chết đột ngột cuả Trọng, rồi cay cay uống từng men đời say túy lúy. Đã có nhiều lần bạn với Trọng chuyền tay nhau từng điếu thuốc dỡ ngọn!? Bao lần sau tác chiến sống sót an toàn trở về đơn vị, họ vui mừng nâng ly rượu trên tay chúc tụng nhau rồi!? Hay là có lần đầu mà chẳng còn lần cuối!? Tên gọi thân mến cuả những người lính dần dà mất lần lần đi đâu hết? Mất lần theo bóng tối kinh hoàng, chìm sâu vào miên viễn rồi ư!? Cái chết giữa hai lằn đạn sát đầu tơ kẽ tóc. Thì thỉnh thoảng họ có họp mặt, để “dzăn nghệ dzăn gừng” ti tí, cho đời lên hương chút xíu. Vậy, điều tôi muốn nói: Xin Đời rộng lượng bao dung, đức độ, nhân ái và vị tha cho người Lính Thiên Lương (nếu họ có sơ sót, có sai phạm tí lỗi lầm, bởi nhân vô thập toàn mà)! Xin hãy mến yêu Lính. Hãy thương Lính. Họ là những công cụ, là sản phẩm của chiến tranh. Trong cơn đau buồn tột độ nào đó… họ có quậy phá tưng trời do đôi khi men nồng lên, khi cuộc vui lụi tàn, để lại trong lòng họ dư âm trống vắng xót xa phiền não vô tận. Có thể nay mai sự bất hạnh đến, thì đấy không là điều thất trách, thất thố cuồng loạn lắm đâu.
          Trong tiệm ăn vẳng tiếng đàn hạ uy cầm tha thiết đẩy nỗi buồn phiền, băn khoăn, tiếc thương những người bạn xấu số đã ra đi chợt dấy lên trong lòng bạn bồn chồn ray rứt. Bạn bè dùng rượu đè nén bi thương nội tâm xuống, họ dùng rượu khơi dậy lòng tiếc thương vô vàn, mãi mãi là niềm tiếc thương sâu thẳm, ngút ngàn dâng cao! Đồng thời, họ dùng rượu hầu đốt lên niềm vui mừng may mắn còn ngồi bên nhau, lúc chiến tranh tàn khốc vờn quanh con người và ngang nhiên đi giữa cuộc sống, lửa bạo tàn đang đe dọa từng nhân mạng. Mấy bạn ngồi bên nhau trong bàn tiệc nhỏ, họ từ nhiều vùng đất xa xôi khác nhau, có phong tục tập quán khác nhau, suy tư và tình yêu chẳng giống nhau. Nhiều giọng nói trầm ấm, ngọt ngào, hồn nhiên, cũng không ít giọng nói gắt gỏng, hoặc sảng khoái mang dấu tích Mẹ Quê Hương Việt Nam ba miền: Trung. Nam. Bắc rì rào giọng nói súc tích, thân thương đầy âm giai tuyệt diệu, pha hương sắc đặc biệt trìu mến riêng của mọi miền. Họ hoàn toàn riêng lẽ, ánh mắt ngời sáng vui vẻ không ngừng ánh lên nỗi ngạc nhiên, qua câu chuyện vui buồn, trầm lắng, lịch duyệt, dí dỏm, hóm hỉnh không ngờ. Nụ cười họ nở trên khuôn mặt nhuộm nắng gió khuya chiều sâu lắng nỗi niềm ưu tư âu lo chung. Họ không có gì hơn là: gieo tiếng cười, pha nước mắt ân tình, làm quà tặng chân tín trao nhau, ngỏ hầu san sẻ niềm đau quặn thắt dại tê trong thời chinh chiến, chia nhau ly rượu nồng, tách cafe đắng, hay điếu thuốc Quân Tiếp Vụ. Và, trìu mến gửi tiếng lòng thì thầm gọi mời nhau, trầm lắng ngậm ngùi rung lên từng đợt nấc cuồng quay bên mỗi phím loan.


          *

          Tình Hoài Hương
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • #6
            Phút Định Mệnh Trớ Trêu Trong Bốn Mắt


            Phút Định Mệnh Trớ Trêu Trong Bốn Mắt




            Dĩ vãng đằm thắm êm đềm không kém thi vị thuở vàng son trước kia của tôi đã xao động, và sẻ sàng cướp đi những mộng mơ lãng mạn mất rồi! Điền vào đó là bao nỗi sầu đắng của con người trước cuộc sống xô bồ; nhưng vô cùng thực tế như chiếc lá úa thay mùa vùn vụt bay theo cơn gió chớm đông ùa về gờn gợn sống lưng và gây gây tê tê lạnh.
            Thật ra khi đi chợ Đà Lạt, tôi lo chen chân với hàng hàng lớp lớp người người ồn ào lo mua sắm. Hầu ăn mừng ngày lễ các thánh đã ở trên trời, và các vị mới toanh vừa đưa họ tót lên chầu trời). Tôi không hề để ý đến hai chàng sinh viên sĩ quan đã lẽo đẽo theo sau lưng mấy dì cháu tôi. Tôi dặn dò các cháu: Bảo, Quốc, Toàn, Thịnh, Tí, Phượng đứng chờ tôi ngoài hàng hoa. Tôi len vào trong lòng chợ mua thịt, cá, rau, vân vân... Mua xong những thứ cần thiết, xách hai tay hai giỏ nặng, tôi quay lại chỗ hẹn cũ nơi các cháu đã đứng xớ rớ tại góc quầy hàng bán hoa. Tôi thấy các cháu đang trò chuyện với hai anh sinh viên sĩ quan Võ Bị. Tôi đứng xa xa trên thềm chợ, lớn tiếng gọi các cháu lên xe lam về nhà.
            Chị Tư cùng tôi và người làm lo chuẩn bị buổi ăn tối. Chị tôi nấu bún bò giò heo, tôi cuốn và chiên chả giò. Thế rồi cả nhà ăn uống mừng ngày lễ no nê và vui vẻ. Xong xuôi tôi cùng các cháu lên phòng học. Các cháu học bài, làm bài tập. Riêng tôi ngồi dưới ánh đèn néon thoăn thoắt đan áo lạnh. Phụ nữ sống ở miền lạnh thì đa số biết đan áo lạnh, đan nhiểu kiểu áo rất đẹp, thành thạo khéo tay, cần cù, và khá đan nhanh.
            Bỗng chó sủa vang. Người làm ra mở cổng và mấy dì cháu được một phen ngạc nhiên khi hai chàng sinh viên sĩ quan Võ Bị lúc chiều ở ngoài chợ Đà Lạt đang hiện diện nơi phòng khách. À thì ra bây giờ tôi mới biết các cậu cháu nhỏ nhà mình bùi tai nhẹ dạ nghe lời “đường mật” cuả mấy “anh chàng dễ ghét” khôn khéo kia; nên cháu Bảo đã cho họ biết địa chỉ ấy mà. Mấy cháu không ai chịu ra tiếp họ, mà chỉ rúc ở trong phòng học tắt hết điện đóm, rồi chen lấn nhau nhìn lén qua khe vách, để dòm ngó hai chàng Võ Bị. Các cháu trai cuả tôi rất “mê” những anh chàng Võ Bị thần tượng. Các cháu xô đẩy nhau chỉ chỏ dòm ngó qua khe hở, thì thầm nói cười rúc rích với nhau. Tôi cũng tò mò nôn nao nhìn qua khe hở trong phòng học xuyên qua kẽ hở phòng khách. Tôi muốn nhìn cho biết mặt hai chàng ấy là ai mà dám bạo gan bạo phổi, ngang nhiên vào nhà người lạ? Họ không biết ở đây có “bà chằng Tư dữ như tinh” rồi. Chúng tôi nghe rõ họ tự giới thiệu với chị Tư:
            - Dạ, ... em là Cảnh. Bạn em là Châu.
            - Mời các cậu ngồi chơi.
            Hai chàng xin phép chị, tuần tự ngồi xuống sofa. Người làm bưng nước lên mời. Chị Tư nhìn hai chàng Võ Bị, cười cười mở lời:
            - Các cậu hỏi thăm ai rứa hỉ?
            - Dạ… dạ ...
            - Quen với ai ở nhà nầy nào?
            - Dạ… Hồi chiều em gặp Bảo, Quốc, ở ngoài chợ í chị.
            - Vậy là mới biết, chớ chưa quen thân ha.
            - Dạ.
            Họ ngồi đối diện với chị Tư nói chuyện trên trời dưới đất nhạt nhẽo thêm mươi lăm phút gì đó. Thế rồi hai chàng trai “ngố ngáo” lúng ta lúng túng xin kiếu từ “bà chị khíu chọ”, chắc họ cũng muốn chuồn lẹ lẹ đi cho khuất mắt “cái bà già” mà ban đầu Châu đã lỡ gọi là “bác”, vì chàng ngỡ chị Tư là mẹ cuả tôi, thì phải.
            * * *
            Thời gian qua đi, tôi cũng quên mất một buổi tối hai chàng trai sinh viên sĩ quan mà tôi chẳng hề chuyện trò, không quen biết ấy. Ba tuần lễ trôi qua, tôi cùng các cháu đi xem lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ “con Gà” (dạo nầy, cứ sau một tuần đi học trên đại học, đi làm việc ngoài văn phòng khu phố I, tôi ưa xuống nhà thăm anh chị Tư và các cháu, tôi ở chơi suốt buổi. Mỗi khi đi đâu, tôi chỉ biết đi với các cháu). Khi tan lễ, tôi ra phòng đọc sách Hội-quán của nhà thờ chính toà, nơi tụ điểm hẹn gặp nhau, rồi đi ăn sáng xong, thì dì cháu tôi sẽ lên Hotel Palace ngâm mình trong barthtup tắm nước nóng cho đã đời. Nói ra thì mắc cỡ chứ do khí Trời Đà Lạt khá lạnh, nên chúng tôi ít tắm ở nhà, mỗi buổi tối chỉ rưả ráy kỳ cọ sạch sẽ, một tuần tắm vài lần là cao. Thì thì… người Thượng sống trên núi chỉ thích tạt nước suối vô người nhau thôi, ngồi phơi nắng, phơi nắng đến nỗi cả người cháy khét nắng, “mùi” cuả họ rất lạ là gì!
            Chợt tôi thấy Cảnh đang chuyện trò vui vẻ với đám con gái, em gái, hay bạn gái… gì gì đấy. Mấy cô đứng lố nhố bên quầy sách và tíu ta tíu tít, ríu ra ríu rít bu lại bên ba anh Võ Bị vui cười hớn hở. Tôi thấy có mấy cô nhỏ nhảy tưng tưng bá vai vít cổ Cảnh, để vòi vĩnh eo xèo điều gì đó. Cảnh vô tình nhìn ra cửa lớn thì anh khựng lại giây lát, Cảnh khá ngỡ ngàng, ngẩn ngơ nhìn tôi đăm đăm. Hình như anh cố nặn óc ra để nhớ thử xem anh đã gặp tôi ở nơi nào chăng!? Anh ngạc nhiên lắm thì phải! Cảnh là một sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Tên trường oai hùng, lừng danh, nổi tiếng ngang hàng như trường Võ Bị West Point ở Mỹ. Hoặc giống Saint Cyr ở Pháp vậy! Qua bộ quân phục đẹp với hàng nút đồng lóng lánh nhũ kim trong buổi hoàng hôn. Mấy cánh Alpha chói sáng trên cổ áo hồ cứng thẳng nếp. Gù vai lủng lẳng hàng dây chiến thắng đỏ rực hào quang, anh ấy càng tăng thêm vẽ kiêu hùng, đỉnh đạt, oai phong làm sao ấy! Phần tôi, tôi còn nhớ và biết anh vào một buổi chiều tháng Mười Một nhạt nắng ở ngoài chợ, và tối ấy nơi nhà chị Tư.
            Cảnh vội vã rời xa đám tình hờ, bạn gái, em gái chi chi đó, mặc cho mấy ẻm hậm hực, bực bội, phụng phịu tức tối nhìn theo, hoặc có em còn chạy theo lôi kéo cánh tay anh ta. Trong số bọn ấy tôi thấy có con Lộc lé ở bên đường Bá Đa Lộc, con Xuân ở gần khu Mã Thánh Tây, phiá sau nhà thờ con gà, nó có biệt danh khùng mát mặt đen đen, thân thể gầy nhom, nó nổi tiếng hung ác, bặm trợn, đanh đá. Cảnh nhận ra tôi là do anh nhìn thấy đám cháu trai láu lỉnh trẻ trung vui nhộn cuả tôi. Anh vội đến bên các cháu vui vẻ nói chuyện như lần trước. Sau một hồi lâu tần ngần bàn tính, các cháu không chịu đi tắm nữa, mà ngỏ ý với tôi là cháu muốn rũ Cảnh về nhà ăn bánh khọt, bánh bèo.
            Tôi hơi khựng lại, hết e dè bối rối nhìn Cảnh, rồi quay qua trừng mắt lắc đầu nhìn các cháu, tôi ngập ngừng lúng túng, chưa biết trả lời ra sao cho phải phép xã giao. Thật ra tự trong thâm tâm tôi lúc bây giờ nửa muốn “làm quen” chàng trai Võ Bị cho le lói với đời! Nhưng tôi rất sợ chị Tư la mắng. Vì chị là chủ nhà nầy, không phải là nhà cuả tôi đang ở, mà tôi dám tự đắt có quyền muốn mời ai tới ai lui, thì mời đâu.
            Chưa kịp phản ứng thì Cảnh vui vẻ đồng ý ngay. Hầu như “mấy cu cậu tí hon nhà ta” thì rất có cảm tình, kính trọng, nể vì, và ngưỡng phục các anh chàng sinh viên sĩ quan Võ Bị (chứ chả phải riêng Cảnh) họ là thần tượng bảnh bao hào hùng. Các cháu có cảm tình dễ dàng thân thiện và mến thích Cảnh tự buổi đầu tiên gặp gỡ. Giữa Cảnh và các cháu hoà đồng với nhau như muối hay đường hoà tan dễ dàng trong nước. Anh thân thiện đi bên các cháu nói chuyện hân hoan vui vẻ.
            Thỉnh thoảng Cảnh hỏi tôi vài câu rặt giọng Nam (cuả sông Đồng Nai), nhưng khá hỏm hỉnh, dí dỏm thật có duyên. Trai miền Nam hồn nhiên mà “thẳng như ruột ngựa” không cần “đĩ miệng” rào đón đong đưa làm quen. Hoặc yêu cầu người đối diện có nhận lời không -một cách hợp lý- Khiến tôi liếc nhìn anh mà phải ỏn ẻn bật cười thành tiếng. Ơ! Làm như giữa anh và tôi đã thân quen nhau từ tiền kiếp hay sao ấy. Bây giờ giưã trời đất bao la nầy hai chúng tôi mặc nhiên công nhận tình bạn đó, tình cảm đó là hữu lý! Cả bọn chúng tôi thủng thỉnh đi trên đại lộ Yersin trò chuyện, có thể nói chúng tôi khá hợp nhau qua văn thơ cùng hoài bão (dù chỉ trong tích tắt thời gian ngắn ngủi) hoạ thơ, làm thơ, đọc cho nhau nghe những vần thơ tình. Hồn Thơ Vui bỗng nhiên lai láng ào ào trong hai chúng tôi qua vần B: (do trước tiên là chúng tôi cố ý chọc ghẹo cháu Bảo mà xuất khẩu thành Thơ vui):
            Bà Bùi bèn bẹt bều bệu
            Bà Bảng: bán bơ, bánh bèo, bí beng
            Bủng bẻo bãi bỏ bán bông
            Bốn bề bắt bớ: bắn bổng, bó, băng

            Bị bại, buồn, buốt bụng, bừng…
            Bị bể, bập bà bập bùng bay biến
            Bà Bảo buồn, biểu bà Biên:
            “Buôn bán bõ bèn, bắt, bệnh: bỏ bà

            Bầu, bí, bắp. Bia bọt, bao”.
            Bó buộc, buồn bực: bài bạc bối bê
            Bốn bà bị bêu, bắt bẻ
            Bỏm bẻm bôn ba bốn bể biền biệt

            Bươn bả bồng bế… bờ biên
            Bập bõm ba bề bảy bến bơi bướm!
            Bện bìm bìm bụng bết bùn
            Bồng bềnh… bái biệt biển bung bến bờ

            Bu bờ. Bộ binh bốc bãi
            Bồi bếp bồi bàn bàn bạc bầu ban
            Bị bào bọt bởi bồng bềnh.
            Bóng bay. Bộ binh bắn bông bừng bừng…
            (*)
            Rồi khoái tỳ nhảy qua làm thơ vần C để chọc ghẹo Cảnh:
            Cha chẳng chịu chọn Cúc cho…
            Cảnh coi chuyện chưởng chơi cờ chán chưa!
            Có chút cà-chớn cà chua,
            Chôm chỉa cá cơm… chẳng chừa chuyện chi

            Cúc còn chè chén, cãi chày
            cãi cối. Con chó chỗ chuà cắn chân.
            Cảnh cắc-cớ chỉ chơi chuyền
            Chôm chiả chia chác cái chuyện: “chửa chồng

            Chúm chím cục cưng cùng chàng!
            Cúc Cảnh có con chung chăn chung chiếu”
            Có con, Cúc càng cà cháo.
            Chàng cùng “các chảnh” choai choai cạnh Chùa

            Cố chấp cau-có, chán chưa!
            Cúc cương cấm cản chồng chừa chảnh chơi.
            Cảnh chỉ cợt cợt cười cười.
            Cô cảnh-cáo chồng: “coi chừng chém cha”!

            Cúc cầm cục cân cất cao
            Cô chửi cha Cảnh: choảng, cào, cấu, cưa.
            Cúc càng chanh chua cắn cấu
            Chì chiết chát chúa: “chồng chừa chảnh chưa”?
            (*)
            Thế là vô tình hân hoan vui vẻ thành thật và hãnh diện lết lết lại gần nhau tự lúc nào, chả rõ! Tình cảm đơn sơ chân thật đó rộ nở ra dưới ngôi nhà xinh xinh bên triền dốc đường Đào Duy Từ (mà cư dân địa phương ưa nói là Dốc Nhà Bò). Cũng may nhờ hôm nay chị Tư có biểu tôi đến nhà chị, để tổ chức đổ bánh xèo, bánh căn, cho các con cuả chị ăn uống vui vẻ. Vì buổi trưa chị Tư bận đi lễ, sau đó chị sẽ đi họp hội Dòng Ba, đến tối mịt chị mới về. Chị muốn nhờ tôi “chăn” bọn trẻ xí. Nên “bọn trẻ chúng tôi” ở đây “vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”, tha hồ quậy tưng trời, mà không sợ có con mắt ốc nhồi giám sát của bà chị khó tính khó nết.
            Cảnh ngồi bên các cháu ở dưới phòng ăn, anh xem người giúp việc và tôi thoăn thoắt làm công việc nội trợ. Có khi Cảnh ra vườn cùng mấy cháu tìm bắt dế. Bảo thích nhất con dế lửa cánh màu nâu đỏ sậm, đá hăng, càng to. Quốc đem nhốt dế trong hộp diêm quẹt, (hay hộp giấy cứng có đục sẵn mấy lỗ thông hơi). Bên trên nắp hộp, cháu đặt chú dế ấy một cái tên riêng. Cháu bỏ vào đấy mấy cọng cỏ tươi, vài hột cơm, hay chút bánh mì. Khi cháu muốn cho bầy dế đi làm “cách mạng, lâm chiến”, thì Bảo, Quốc, Toàn, bắt hai chú dế ở hai hộp khác nhau ra. Cháu nhổ vài sợi tóc dài trên đầu tôi quấn qua cổ con dế, rồi quay con dế năm bảy vòng. Chú dế xiễng liễng, chóng mặt chóng mày, tối tăm mặt mũi. Sau đó cháu thả con dế xuống trên một cái hộp rộng. Hai con dế cứ thế giương hai càng, khật khừ khật khưỡng dạng cẵng ra hăng máu tỉ thí với nhau, chúng cắm đầu húc bừa vào đối phương. Con dế lửa hăng tiết vịt say sưa “đấu đá”; làm chú dế than “rét” quá chạy té re… chạy có cờ. Toàn bốc con dế than lên, cháu bụm dế vào hai lòng bàn tay, chúm miệng thổi phù phù mấy hơi. Có lúc cháu lấy ngón tay trỏ thấm nước bọt, hay để con dế uống xí nước cho đỡ mệt. Rồi cháu lại thả dế vào nghinh chiến.
            Anh tâm sự với dì cháu chúng tôi: gia đình Cảnh trước năm 1960 còn phong lưu khá giả. Sau đó, cha mẹ anh làm ăn thất bại. Ba Cảnh lo buồn và mắc chứng trầm cảm luôn, thành thử không giúp ích gì. Mẹ anh một mình ên buôn bán, lo cho đàn con ăn học đến nơi đến chốn. Cảnh đi học về, phải phụ mẹ trông coi tiệm phở. Tuy tiệm không ế ẩm, không đắt khách, chỉ đủ nuôi sống gia đình đạm bạc qua ngày. Họ không nghèo, không bảnh bao, không vinh sang, nhưng vẫn ung dung vui vẻ nhiệt tâm hí hửng dắt nhau đi “dìa” thăm quê mỗi năm, để phóng khoáng lì xì họ hàng nội ngoại đôi bên khá hậu hỉ.
            Thật không thể ngờ trong số mạng của mình... kể từ giờ phút bốn mắt bất ngờ thơ thẩn “giao tình” ấy, đã là phút định mệnh trớ trêu cúi xuống nhìn ngó chúng tôi; mà cả hai người đều không thể ngờ tới. Và tôi nữa… Dưới vòm trời Cao Nguyên Lâm Viên, cảm tình nầy có báo hiệu bình yên, an hoà, ấm áp? Hay sẽ bao phủ giông tố bão bùng nơi xứ lạnh sương mù quanh năm vây kín núi đồi? Nào ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Tôi lặng lẽ đón nhận tình bạn rất tình cờ biết anh là “Lính”… do Cảnh trao đến tôi êm ái, đằm thắm, nhẹ nhàng từ từ... vươn lên. Tuần tự theo thời gian trôi đi, bước từng bước một lên từng bậc thang dài và cao vút. Chúng tôi bình dị, thẳng thắng đến trao nhau nụ cười, kể với nhau nhiều chuyện vui, đến với với nhau chân tình thẳng thắng không điều kiện, vô vụ lợi, lả lướt bay lượng trong khoảng tơ trời xanh thẳm, cao ngất, ngút ngàn, mênh mông… Tự nhiên tôi lại nghĩ đến những câu thơ Vẹn:
            Có con nhỏ dế,
            Tấu khúc bên tê.
            Chiều tà ngả bóng.
            Tình ca nhớ quê.

            Rung rinh ngấn lệ.
            Khóc đời dâu bể.
            Đôi hàng lệ rơi.
            Trên mi ai thế?

            Bao năm xa quê.
            Bọt sóng u mê.
            Hương xưa thấm đẫm.
            Kết nối duyên thề.

            Khóc mừng anh về.
            Giọng cười vui ghê.
            Tíu ta tíu tít...
            Trọn nghĩa phu thê.

            Sương rơi cỏ mềm.
            Ấp ủ tình em.
            Bóng trăng tỏa sáng.
            Lời xưa nhớ thêm.

            Duyên mình đã vẹn.
            Trên đỉnh bình yên.
            Tình chung dạ khúc.
            Mừng ngày đoàn viên.
            (*)


            * *

            (*) thơ Tình Hoài Hương
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • #7
              Ấp Ủ Hương Tình Ngây Ngất Lòng Nhau


              Ấp Ủ Hương Tình Ngây Ngất Lòng Nhau




              Nhiều cuộn mây trắng lững lờ gợn trên lưng trời sáng bạc thêm óng ánh, mây là đà in bóng trên mặt hồ Than Thở, thoáng chốc mây trôi về chân núi Lâm Viên, khi nắng ươm hồng những cành hoa anh đào lả lơi chúm chím nụ hồng xinh xinh. Cánh lá nhung lam mông mốc mươn mướt, rung rinh từng chùm phấn mimosa vàng lác đác e ấp run run theo gió, hoa mimosa tỏa mùi hương thoảng nhè nhẹ là lạ, (vì mùi hoa hơi hăng hắc). Từng đàn chim én thoăn thoắt chao liệng trên không trung, chúng bay bướm vẽ những đường cong khá lả lướt, ngoạn mục. Bao tiếng chim ríu rít rủ gọi nhau về mở hội ngày đầu năm mới ở hiên ngoài.
              Lúc ấy Cảnh đến thăm tôi vào một ngày chủ nhật đầu năm mới. Cảnh: Dáng người to to, cao cao, mái tóc quăn quăn gợn sóng cắt ngắn ép sát vào gáy, dưới vầng trán rộng và cao là cặp lông mày rậm nhưng không dữ dằn, đôi mắt hai mí to và đẹp, hàng mi cong cong, miệng rộng, nụ cười tươi với hàm răng trắng bóng khá đều, mũi lân to bè khoan khoái, làn da Cảnh ngăm ngăm nhuốm ít phong trần. Nói chung chung gương mặt Cảnh và thân thể chàng tạo thêm phần hiên ngang, đỉnh đạt, an hoà, toát lên một vẽ gì độ lượng, mực thước, chững chạc hiền hậu, ân cần mời gọi, mà lại thẳng thắng oai dũng trang nghiêm, làm cộm lên trong lòng tôi niềm thương thương, dạt dào trìu mến, hay hay sao sao ấy. Cảnh là chàng trai sinh trưởng ở miền Sông Hậu. Ba của anh ấy ở miệt Cầu Kè (Trà Vinh) quê mẹ anh ấy ở Sóc Trăng (Long Phú). Nên Cảnh hấp thụ lối sống hồn nhiên, chân thật, vui tính, bộc trực, ăn nói thẳng thắng, thành thật. Cảnh không khách sáo, không ngại ngùng tự nhiên gỏ cửa phòng riêng, khi ngày Chủ Nhật tôi cần nghỉ ngơi, đang chập chờn trong giấc ngủ trưa.
              Cảnh cởi tấm áo quân-phục sinh-viên sĩ quan Võ Bị đã mặc ra, chàng máng chiếc áo có cầu vai đỏ lủng lẳng dây biểu chương lên lưng ghế dựa. Cảnh cởi bỏ cà vạt đen lủng lẵng trước ngực áo sơ mi trắng ngần, áo quần thẳng nếp ly hồ ủi cẩn thận. Chàng chỉ mặc áo thun trắng và mặc quần tây, chân mang đôi giày đen bóng loáng. Có một lần đến thăm tôi Cảnh đã cởi đôi giày ra, chàng nhìn lui nhìn tới ở trong phòng (phòng phụ nữ độc thân thì làm gì có đôi dép loại đàn ông nào). Cảnh muốn đi chân không cho thoải mái, mát mẻ nhẹ nhàng xí. Tôi hiểu ý và tinh nghịch cầm đôi dép cao gót của mình giơ ra trước chân chàng. Cảnh tủm tỉm cười ung dung xỏ ba ngón chân vào chiếc dép, còn ngón kế và ngón út thì chìa ra ngoài cọ quệt xuống nền gạch. Rồi Cảnh hóm hỉnh đứng lên đi ưỡn ẹo, nhoi nhoi cái đít như… như đít vịt, ì ạch uốn éo vặn vẹo thân hình, Cảnh đủng đỉnh đi lui đi tới, hai tay đánh đằng xa giống mấy cô người mẫu điệu hạnh. Cho tới lúc đôi dép không chịu nỗi sức mạnh “trăm cân”, đã xẹo qua một bên, khiến Cảnh chổng cù đơ ngả lăn cù cù.
              Chúng tôi cùng cười rộ. Bốn mắt đã âu yếm lắng đọng say sưa niềm khát vọng yêu thương trong bể tình. Tôi cảm thấy xôn xao niềm vui thích, tự tay mở rộng cánh cửa đón nhận một hình ảnh tin yêu, nung nấu cồn cào “chất đam mê” đang âm ỉ cháy rực trong lòng. Gợn tình hây hây phơi phới mang nhiều luyến thương dĩ vãng mờ phai đã xốc đứng tôi dậy. Hiện tại khẽ khàng ỏn ẻn và líu ríu nhí nhảnh đọng lại ở giếng mắt tôi; kể từ khi chúng tôi tíu ta tíu tít rón rén nhón gót… nhè nhẹ lâng lâng ríu rít thầm hẹn rủ rê nhau đi vào đời.
              Cảnh nheo nheo mắt, cười cười:
              - Hồi tối đi ăn trộm ở đâu, mà bi giờ ngủ say quá vậy. Em?
              Vào phòng rửa mặt, tôi khúc khích cười nói vọng ra:
              - Ấy! Em “dừa dô” trong “Dõ” Bị, “ginh” anh “dìa” nè. Anh hổng thấy sao!
              - Khỏi cần rinh anh. Anh cũng phải đến. Vì Ngân Thụy đó.
              - Anh nhớ ai ...mà ưa gọi em là “Ngân” Thụy há!?
              - Ừa. Vì đôi mắt em long lanh như “ngấn thụy… tinh”.
              - Ơ! ...Em?
              - Chúc mừng ngày đầu năm mới và… happy birthday em mười chín tuổi, nửa tháng và ba ngày lẽ.
              - Trời! Anh còn tính kỹ hơn cả em nữa.
              - Có những điều… chính mình chưa nghĩ đến. Thì có thể người khác đã nghĩ thay cho rồi.
              Cảnh đến bên cạnh nâng tay tôi lên, chàng đặt gói quà to tướng vào lòng bàn tay tôi mát lạnh. Tôi ngỏ lời cảm ơn anh, khệ nệ bưng tới bàn rộng, và từ tốn mở ra. Quyển “Đắc Nhân Tâm” của Dale Canergie. “Cách Mạng Con Người” của Kirishnamuti. “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” của Alexandre Dumas. Mấy quyển sách nầy là do Cảnh mua vào trường, để đọc, nay chàng mang ra cho tôi. Có hộp kẹo dâu nhỏ thơm ngon. Nhưng còn bức tranh lụa của Tạ Tỵ, như gợi lên lòng tôi bao nhớ nhung.
              Mỉm cười chỉ bức tranh, tôi hỏi:
              - Anh thích bức tranh nầy?
              - Hôm trước đi xem triển lãm, anh thấy em đứng ngẩn người, biến thân vào cả cái nhìn. Anh cho rằng: em thích bức tranh hoàng hôn bên suối, mà hoạ sĩ đã ghi lại rất thần bút. Phải không nào!?
              Quả thật bức tranh sinh động, tuyệt vời phong cảnh hoàng hôn chiếu trên bãi cát ươm vàng bên suối, thật mơ màng, trông rất đẹp. Trải tranh lên bàn rộng, thuận tay Cảnh ghi lại hai câu thơ của V.S. Yeats:
              Dưới chân nhau, ước mơ ta dàn trải
              Hãy êm đềm nhẹ bước, kẽo mơ phai
              ”.
              Cảnh tự động xuống lầu lấy đinh búa ở dưới garage lên, chàng lúi húi đóng đinh, rồi treo bức tranh trên tường gạch:
              - Treo thêm bức tranh nầy, trong phòng coi sinh động lên đôi chút. Chớ không thì… căn phòng của em quả là buồn. Ha em.
              - Anh chu đáo lắm. Cảm ơn anh.
              Cười khà khà, Cảnh ngồi lên mép chiếc bàn vừa trải tấm tranh lúc nãy, chân phải gác lên ghế dựa, một tay chống ngang hông, tay kia có hai ngón kẹp điếu thuốc lá. Chỉ khung ảnh bỏ trống và lọ hoa hồng héo tàn từ lâu quá lâu, Cảnh nheo nheo mắt… kịch kịch. Chàng nhướng cao cặp lông mày nhúc nhích lên xuống, tỏ ý trêu ghẹo và ngạc nhiên nhìn tôi dò hỏi:
              - Hư vô trong khung ảnh nầy ha!?
              - Vô duyên như Thụy, thì làm gì có ảnh đối diện chứ.
              - “Ảnh” có hai nghĩa chính: “ảnh” có nghĩa là tấm hình, tấm ảnh. Còn có nghĩa nữa là “anh ấy”. “Nhà tôi” hay “ông xã” đó Thụy à. Còn khung ảnh ở trên bàn nầy chưa có hình ai: có nghĩa là em chưa chọn một “ảnh” tâm đầu ý hợp, để lộng kiến ngắm nhìn. Phải không em?
              - Dạ... Anh muốn hiểu sao thì hiểu.
              Sau cơn bão lòng hấp hối gần kề vực sâu, tôi thường có trạng thái vật vờ trôi từ hiện tại về quá khứ, rồi lơ lửng bay vào hư vô. Tôi đã im lặng đóng khung đời mình mấy chục tháng câm nín hờn giận không cùng rồi!? Vết rạn lớn nhất về tình đầu tiên ấy làm hỏng tin yêu, đó là: đam mê duy nhất một mối tình rất trong sáng. Tôi tôn “người ấy” lên hàng siêu đẵng, thần tượng, lý tưởng cao vời. Nhưng khi biết ra thì tôi và "hoàng tử ấy" quá khác biệt, “cố nhân” đa tình bay bướm... lẽo lự lừa dối. Trái ngược tôi và thực chất tình cảm ấy giống cục đá, giống như con heo đất, nếu có mỹ cảm chăng, thì chỉ đáng đồng bạc nằm ngửa trên đất. Thật quá thất vọng!
              - Thụy có nghĩ rằng: Nếu em có vài tấm ảnh của “chàng trai tập sự làm Lính” ở trường Võ Bị trong tập album của em, ấy là thời trang mỗi thiếu nữ, sẽ tăng phần thi vị hoá cho cuộc sống hiện tại không? Em?!
              - Anh có ý tưởng ngộ nghĩnh ghê à nha.
              - Nếu anh có nhã ý tặng em…
              - Em nghiêng đầu nói: Rất hân hạnh.
              - Không khách sáo chớ.
              - Cũng tùy.
              - “Ong độc là ở cây kim.
              Độc nhất vẫn là con tim đàn bà…”
              - Hứ! Nè anh, em là cô gái chưa phải... núi Bà Nà!
              - “Em là cô gái anh yêu.
              Nhớ em khôn tả sớm chiều bâng khuâng
              ”.
              - Anh xuất khẩu thành thơ đó à.
              Cảnh tủm tỉm cười, dí dỏm và hồn nhiên tự tiện lồng tấm ảnh của chàng vào trong khung hình trống để trên bàn. Rồi ra vườn tự tay chàng cắt mấy đoá hồng nhung, Cảnh đem vô cắm vào cái lọ, (vừa rửa sạch và thay nước mới). Cảnh đến gần bên tôi, tự nhiên đến nỗi… tôi cảm thấy như việc Cảnh quen biết tôi… cứ coi như thân thiết từ lâu lắm ở kiếp nào rồi. Cảnh nhìn tôi mỉm cười, nhẹ đá hàng lông mi dài cong cong, chàng tình tứ cười cười quàng tay qua vai tôi. Tay kia chàng chỉ bức ảnh và lọ hoa:
              - Em thấy sao?
              - Thanh lịch lắm. Anh biết cách cắm hoa.
              - Không. Em hãy quan sát anh ấy chớ. Em thấy anh ra sao kìa?
              - À. Lính oai hùng và khá dễ coi.
              - Dễ thương không?
              - Không biết nữa.
              - Không biết là phải.
              - Sao cơ?
              - Vì… khi anh đã yêu, thì “Lính Võ Bị” rất dễ thương.
              - À ra vậy.
              - Anh xin em cho “Lính ấy” ở mãi trong ngôi nhà nầy. Em chịu không?
              - Anh không sợ chứ.
              - Không có gì cản được, khi tình yêu chân thật đến.
              - Anh tin như vậy à?
              - Hẳn nhiên rồi.
              Mém chút nữa thì tôi ...thì tôi ôm chầm cánh tay chàng. Và cũng xém chút nữa tôi ngâm những câu ca dao:
              Thân tui thui thủi một mình.
              Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang.
              Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng.
              Tôi xin được dạo cung đàn tình chung
              .
              * * *
              Câu chuyện “tình Lính Võ Bị” chợt đến, làm ngây ngất lòng nhau từ hai phía chúng tôi đã dừng lại ở đấy. Không thân thiết hơn qua vòng tay Cảnh buông hờ trên bờ vai áo len mầu tím hoa sim. Cũng là lần đầu tiên Cảnh mời tôi đi ăn tối ngoài tiệm; trước khi tôi tiễn chàng lên xe taxi, để Cảnh trở vào quân trường. Nơi mà ngày thường Cảnh sẽ mặc quần áo kaki vàng, đội mũ nhựa, hoặc nhiều lần chàng kể cho tôi nghe:
              - Anh ẵm vợ con giơ lên đầu, chạy quanh cột cờ, có khi anh bị hít đất lia chia, mệt bá thở.
              - Ố! Anh nói sao? Dám ẵm vợ anh à!?
              - Ah ha! Có nghĩa: súng là vợ, đạn là những thằng nhóc con. Úi! Nặng kinh khủng em à. Các anh phải cặp súng đạn ở sát bên mình như… đầu gối tay ấp vợ vậy mờ!
              - Em ghét nhất là cái tướng cứng cỏi khi anh… ăn cơm.
              - Em không rõ, chớ đó là một “đặc thù” rất lịch sự của con nhà tướng. Em à! Trước khi vào “phạn xá” tân sinh viên áo quần thẳng tưng, không sổng sểnh, ngực ưỡn ra, “ta” đứng trước cửa đọc thuộc lòng quân số của mình, đọc thật to, không vấp váp, không ấp úng. Sau đó mới ngồi vào bàn ăn. Anh kéo ghế ra, nhẹ nhàng thôi, không gây tiếng động sồn sột à nha. Ngồi lưng thẳng đứng.
              - Coi giống người máy thấy mồ!
              - … Tay bưng chén cơm giơ lên ngang miệng, và-cơm ăn nhanh, lịch sự không húp rột rột, không hả miệng nhai ngồm ngoàm, hay cười nói ba láp khi còn thức ăn ở trong miệng nghe.
              - Hứ. Ai… mà chẳng như vậy!
              - Đôi khi cũng có người quên, vì đói, vội vã ăn, nên ưa rớt đài, bị phạt hoài đó chớ!
              - Ui xà…
              Tôi đi dạo phố bên Cảnh kèm theo nhiều vui thích và cảm thấy thật hãnh diện, đôi má ửng hồng, tôi e lệ nép hờ bên cánh tay chàng. Tôi liếc nhìn thấy người người đang lượn phố, hầu như ai ai cũng quay đầu nhìn lại một kiều nữ thẹn thùng, ăn mặc model, đã sánh bước cùng một sinh viên sĩ quan Võ Bị tốt tướng. Họ không ngại trầm trồ xuýt xoa khen chúng tôi đẹp đôi. Từ nay như đã ước hẹn, thỉnh thoảng bất đắc dĩ thì Cảnh mới vào nhà anh chị Tuế. Lúc nào bất ngờ Cảnh có phép xuất trại, không thể hẹn trước với tôi, vì nhà nầy không có đường phone (khuôn viên khu đất ngôi biệt thự nầy nằm ngay ở đầu góc hai đại lộ: Yersin và Pasteur; từ trong nhà ra ngoài sân quá rộng, khá xa. Người ở trong nhà không thể nào nghe tiếng gọi, nếu họ không bấm chuông ở ngoài cổng lớn). Ngoài ra, khi Cảnh thấy cửa sổ (phòng riêng của tôi trên lầu) mở; ấy là lúc tôi có ở nhà. Cảnh sẽ dùng cái còi tu huýt hướng đạo thổi lên hai tiếng ngắn và một tiếng dài lê thê, để báo hiệu. Nghe “tiếng tu huýt gợi tình xuân”, tôi sẽ hiện ra bên khung cửa vui vẻ vẫy chào chàng. Nhìn thấy nhau rồi, Cảnh sẽ tà tà đi xuống đường Phạm Phú Thứ, chàng đi lui đi tới chờ đợi tôi nơi đó. Cái trò chơi cút bắt nầy khiến tôi thích thích, vui vui hẳn lên.
              Thật ra tôi đã lớn khôn, sắp ra trường và đang đi làm việc, tôi có chút tự do, độc lập cho chính thân hoặc quyết định tình yêu đời mình. Ấy vậy mà… khi sống chung dưới mái nhà anh chị Tuế, tôi không muốn Cảnh đến nhà nầy nhiều, dù anh chị Tuế ưa hoặc không ưa ai, thì có mắc mớ gì! Họ không hề tìm hiểu về tâm tư, tình cảm hay lối sống của người tôi quen biết ra sao. Nhưng chúng tôi e ngại anh chị Tuế la. Vã lại, cá tính anh rể buồn vui bất chợt. Có khi anh rể vui vẻ nồng nhiệt chào hỏi bạn của tôi. Và, khi nào “trái gió trở trời” ủ dột, giông tố, anh Tuế bốc đồng trở chứng nổi cơn tam bành lục tặc lên. Thì nếu ai đến nhà có là quan, là tướng tá đi chăng nữa, anh rể cũng la, cũng mắng và xua đuổi, anh rể bất lịch sự chửi như tát nước vô mặt khách. Thì tôi quê xệ và người bạn ê mặt quá chừng. Thật xấu hổ!
              Còn ý của tôi ngày nay đã nghiêng về Cảnh hơn vài ba bạn trai khác (bạn đúng nguyên nghĩa). Một cảm tình riêng tôi dành cho Cảnh khá đặc biệt, sâu thẳm từ từ vươn lên trong tâm hồn. Quả thật tình nhẹ như mây, đằm thắm như tơ trời vương trên đỉnh Lâm Viên… Cũng nhờ tiếng còi tu huýt thay tiếng chim cất giọng ngân vang réo gọi mời chào! Và, Cảnh là người con trai “dễ thương nhất” mà tôi muốn chọn, để bầu bạn. Tâm sự. Chia sẻ; hầu xoa dịu nỗi niềm. Đi bên nhau giữa khung trời thơ mộng, thoáng mát, từng giọt sương mọng rung rinh trên ngọn lá anh đào, rồi tí tách rơi xuống đám cỏ bồng bên vệ đường; Cảnh đã nói cho tôi nghe mấy câu sau:
              I have been waiting for you to return.
              To this home of yours and hear the enchanting heart.
              From spring through summer to chilling autumn.
              I have been consistent in keeping my thoughts for you only…


              _ * _


              Tình Hoài Hương
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment



              Hội Quán Phi Dũng ©
              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




              website hit counter

              Working...
              X