Thông báo

Collapse
No announcement yet.

American Racer, Chuyến Tàu Biệt Xứ

Collapse
X

American Racer, Chuyến Tàu Biệt Xứ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • American Racer, Chuyến Tàu Biệt Xứ

    Sau Ngày Nước Mất Nhà Tan / Đổ Quốc Anh Thư / Không Quân QLVNCH

    American Racer, Chuyến Tàu Biệt Xứ

    My name is S.S. American Racer. I have been in the Suisun Bay Reserve Fleet since July, 1983 without maintenance! I'm looking for a new home. I was born at Sun Shipbuilding & Drydock, in Chester, Pennsylvania in 1964. On March 22, 1969, while on a trip to Vietnam and on the Long Tau River 13 miles southeast of Saigon, I was attacked with rockets. They missed. I was later involved with "Operation Frequent Wind", which was the final evacuation of Vietnamese refugees in 1975. A link to a picture of this is here: http://www.ussvega.com/page-16/htms/...an%20Racer.htm I am one of the very first automated (powerplant) ships! Then I was sent to rust away in the Mothball Fleet in Suisun Bay on July 15, 1983. Been there ever since.


    (Depanment of Defense Photo (USMC) 7714875)

    Ở ngoài khơi thị xã Vũng Tàu --- cách bờ biển khoảng 20 hải lý --- 4 giờ chiều rồi mà ánh nắng vẫn còn gay gắt. Trên mặt đại dương xanh biếc, những cơn sóng bạc đầu nhấp nhô từ xa chạy đến, vỗ vào chiếc tàu American Racer, tạo thành những tiếng kêu "lõm bõm". Đây là chiếc tàu dân sự thứ nhì --- sau chiếc Green Board --- được chính phủ Hoa Kỳ thuê đến biển Đông, phối hợp với chiến hạm Mỹ, chạy dọc theo bờ biển VN, cứu vớt dân chúng VN đi lánh nạn Cộng Sản. Sau khi chiếc tàu American Racer đã "chất đầy" người tỵ nạn --- kể cả vài ngàn người từ chiếc Green Board chuyển sang -- thì nhổ neo, rồi lấy hướng đi về phía Subic Bay, Phi Luật Tân.

    Từ trên boong tàu American Racer đi xuống tầng 1, tầng 2, rồi tầng cuối, chỗ nào cũng chặt cứng người và người. Trẻ thơ thiếu sữa, gào khóc thảm thương. Người lớn mệt mỏi, ngồi ủ rũ một nơi. Ai nấy, quần áo tả tơi, vẻ mặt u sầu. Nhiều cảnh thương tâm diễn ra. Nơi thì phụ nữ ngồi ôm con, sụt sùi khóc chồng mới tử nạn. Chỗ thì đàn ông nằm úp mặt xuống sàn tàu để che dấu thương đau khi gia đình tan nát. Chuyện bất hạnh của mỗi người có phần khác biệt, nhưng tựu chung vẫn là thân phận của người dân mất nước đi tỵ nạn. Khi chạy thoát ra biển thì họ chấp nhận, tàu Mỹ, hay tàu của bất cứ nước nào cứu vớt, chở đi đâu thì đi, miễn là thoát khỏi thảm họa Cộng Sản.

    Trong tâm trạng ấy, Bình và Thu Mai ngồi trầm tư trên boong tàu. Ngày cũng như đêm, lúc nào hai người cũng lo sợ cho gia đình: Bên nội ở chung cư Minh Mạng và trại Tam Hà; bên ngoại ở Thị Nghè, Sài Gòn. Kế tiếp là Tuấn và Diễm Hiền; Thảo và bé Hạnh. Liệu Diễm Hiền và Thảo, có thể thoát khỏi thảm cảnh đoạn trường hay không?

    Làm sao Bình quên được thảm cảnh "nước mất nhà tan" ngày 30-4-1975? Chiều hôm ấy, chuyện xẩy ra trên chiếc Tuần Dương Hạm của Hải Quân Hoa Kỳ, giống như cơn ác mộng. Bình cảm thấy chua xót và ngỡ ngàng. Lịch sử sang trang, đầy rẫy tai họa. Cuộc sống biến đổi đột ngột và đau thương chưa từng thấy.

    Không ngờ, sau khi thoát nạn, bay đến chiếc Tuần Dương Hạm USS Blue Ridge, Tuấn lại quyết định táo bạo, lấy chiếc UH, "đơn thân độc mã " bay trở về Sài Gòn --- giữa lúc thành phố này đang bị VC tiến quân chiếm đóng! Liệu Tuấn có tránh khỏi đạn phòng không của chúng bắn hạ hay không? Nếu Tuấn bị tử nạn, hoặc bị VC bắt, gia đình họ Hoàng chỉ còn lại Diễm Hiền, Thảo và mấy đứa trẻ thơ. Trẻ thơ và phụ nữ "chân yếu tay mềm" mà sống trong chế độ Cộng Sản sắt máu, làm sao thoát khỏi thảm cảnh đoạn trường?

    Ngược dòng lịch sử, Bình vẫn còn nhớ, mỗi lần Cộng Sản chiến thắng, lại thêm một lần dân chúng VN chạy tán loạn. Điển hình là năm 1954, sau khi Cộng Sản thắng trận Điện Biên Phủ, đất nước chia đôi, có khoảng một triệu đồng bào miền Bắc đã lũ lượt, di cư vào Nam tỵ nạn. Trên con tàu Serpent --- chuyến tàu chở gia đình Bình cùng gia đình Tuấn và hàng ngàn người đồng cảnh --- không ai đếm xuể, có bao nhiêu gia đình tan nát: Con lạc mất cha, vợ lạc mất chồng, anh chị em mỗi người một ngả khi chạy trốn Cộng Sản. Chẳng thế mà các nạn nhân, vừa bước lên tàu vào Nam, vừa khóc mếu thảm thương.

    Thế rồi, 20 năm sau, lịch sử lại tái diễn. Khi Cộng Sản chiếm trọn miền Nam --- chúng gọi là "Đại Thắng Mùa Xuân" --- hàng triệu đồng bào hoảng hốt, tìm đường lánh nạn. Nhưng lánh nạn bằng cách nào và chạy đi đâu bây giờ? Thảm cảnh diễn ra từ đầu tháng 4 năm 1975 đến nay, kể ra không hết. Ở bến tàu, ở phi trường, dọc theo quốc l từ miền Trung vào miền Nam, tổng Cộng mỗi ngày có hàng trăm ngàn người, chen lấn nhau, đạp lên nhau, tranh giành nhau lên tàu thuỷ, lên phi cơ, hay liều chết, dùng những chiếc thuyền bé nhỏ, vượt đại dương!

    Nhiều người từ Kontum, từ Pleiku chạy ra Đà Nẵng. Cộng Sản chiếm Đà Nẵng, họ chạy vào Sài Gòn. Cộng Sản chiếm Sài Gòn, họ chạy lên Tây Ninh, băng qua biên giới, rồi vượt cả ngàn dặm rừng núi ở bên Cao Miên, để đến Thái Lan. Họ chấp nhận muôn vàn chông gai trên đường lánh nạn. Có thể gặp thú dữ, có thể gặp Khờ Me Đỏ dã man tàn ác. Chỉ vì trong thâm tâm, họ đã lựa chọn: Thà chết còn hơn kéo dài cuộc sống lầm than trong chế độ Cộng Sản!

    Đó là thật sự lịch sử. Đó là hệ quả sau cuộc chiến --- xâm chiếm miền Nam --- do Cộng Sản khởi xướng: Máu và nước mắt của đồng bào lai láng khắp nơi. Từ cuối tháng 4 đến nay, ai có thể làm thống kê, tổng kết xem mấy chục ngàn người đã bị vùi thây nơi biển cả? Có bao nhiêu người được cứu sống? Dọc theo bờ biển miền Nam --- thuộc các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy và Phước Tuy -- mỗi ngày có mấy chục ngàn người đi vượt biển?

    Hầu hết người tỵ nạn đều sử dụng tàu gỗ bé nhỏ, dân chài dùng để đánh cá trên sông. Mỗi chiếc chỉ chở được vài chục người là nhiều. Làm sao những tàu gỗ, lại có thể vượt đại dương, nhất là khi gặp sóng gió? Đấy là chưa kể chủ tàu tham lam, "nhét" người trên tàu chặt cứng như "cá hộp". Vì khi vượt biển, mỗi người phải trả cho chủ tàu dăm ba "cây vàng". Kết quả là sau khi ra khỏi bờ biển khoảng vài chục hải lý, những chiếc tàu gỗ ấy, không gặp chiến hạm Mỹ, hay tàu buôn của các nước khác cứu vớt, thì chuyện bị sóng gió lật úp là điều hiển nhiên.

    Bình nhớ mãi "đêm lịch sử 30-4-1975" trên chiếc Tuần Dương Hạm USS Blue Ridge: Nhìn lên bầu trời, không một ánh sao; nhìn xuống mặt biển, chung quanh "tối đen như mực". Trong khi tiếng máy của con tàu hoà với tiếng gió biển kêu "ù ù" thì Thu Mai ngồi ôm con, sụt sùi khóc. Nghe âm thanh ai oán, Bình càng cảm thấy đau lòng. Nhưng anh biết làm gì để an ủi Thu Mai? Không biết đến bao giờ, nàng mới gặp lại cha mẹ, chị em và bạn hữu?

    Suốt đêm hôm ấy, Bình không thể nào ngủ được. Có khi Bình đứng dựa vào thành tàu "trầm tư mặc tưởng" hết giờ này qua giờ khác. Có khi Bình thẫn thờ, đi lang thang trên boong tàu như kẻ mộng du. Lúc nào mệt mỏi, Bình ngồi một chỗ, đăm chiêu nhìn xuống mặt biển như bị "ma quỷ thôi miên".

    Đến sáng hôm sau, Bình cùng đồng bào tỵ nạn --- trên chiếc Tuần Dương Hạm USS Blue Ridge --- di chuyển sang chiếc tàu dân sự Green Board. Vừa bước chân lên con tàu này, Bình gặp Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân VN; Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính, Tư Lệnh Sư Đoàn III KQ. Nhiều Tướng Tá khác mà Bình thường gặp trong các cuộc hành quân trước đây, cũng đi trên chuyến tàu này. Trông người nào cũng buồn thảm như nhau. Khi mất nước, tất cả đều là nguời tỵ nạn. Họ được cấp phát phần ăn "dã chiến" --- thực phẩm đóng hộp của quân đi Mỹ --- mỗi ngày hai lần. Chỉ tội nhiệp cho các trẻ thơ, không có sữa nên gào khóc thường xuyên. Trường hợp như bé Châu mới sinh được 3 tháng, Thu Mai phải lấy nước đường --- ở trong hp trái cây --- cho Châu uống.

    Kế tiếp là nỗi khổ của phụ nữ và cụ già. Vì sợ hãi cầu vệ sinh "lộ thiên, treo lủng lẳng trên cao", nên nhiều người đã phải nhịn ăn, nhịn uống mấy ngày liên tiếp. Chuyện xẩy ra chỉ vì Green Board là tàu chở hàng hóa. Nên khi "chất đầy" mấy ngàn người tỵ nạn, thủ thủy đoàn phải dùng gỗ, đóng 2 dẫy cầu vệ sinh lộ thiên --- dọc theo hai bên con tàu và cách xa mép tàu cả năm bẩy mét. Mỗi lần gặp gió lớn và sóng biển nhấp nhô, người sử dụng phải bám chặt tay vào mấy thanh gỗ, nếu không thì rất dễ dàng, bị gió hất xuống biển. Đấy là chưa kể, sóng gió thường xuyên làm dẫy cầu gỗ thô sơ này lắc lư, kêu kẽo kẹt, nghe như sắp sửa gẫy! Nhất là về ban đêm vắng người, trời tối đen, gió thổi vù vù, người nào sử dụng loại "cầu treo" này mà bất cẩn, rơi xuống biển thì không ai biết đến.


    Mặc dù, tình trạng của 2 dẫy cầu vệ sinh "ngặt nghèo" như thế, nhưng Bình vẫn không dám quả quyết, đó là nguyên nhân làm cho ông Ba --- người tỵ nạn trên tàu Green Board --- bị thiệt mạng. Vì khi chạy trốn Cộng Sản, mấy lần ông Ba sa vào thảm cảnh kinh hoàng, nên tâm thần bị khủng hoảng. Như vậy, có thể chính ông Ba đã tự ý đâm đầu xuống biển để kết liễu cuộc đời.

    Dù giả thuyết này đúng hay sai, nạn nhân còn lại vẫn là bé Kim 8 tuổi --- cô gái út của ông --- đang sa vào thảm cảnh đoạn trường. Từ tàu Green Board chuyển sang tàu American Racer, Bình đã chứng kiến bé Kim, lúc ngồi sụt sùi khóc, lúc đứng bên thành tàu, nói lảm nhảm. Nhiều người có thiện tâm, đến hỏi chuyện bé Kim để an ủi, nhưng không thể nào xoa dịu được nỗi đau thương của cô bé. Không hiểu vì quá mệt mỏi, hay vì nước mắt đã cạn khô, bây giờ bé Kim không kêu khóc nữa! Cô bé đang nằm thoi thóp thở, trông giống như bệnh nhân trong cơn hấp hối.

    Bình còn nhớ, cách đây mấy hôm, trên tàu Green Board, hai cha con ông Ba ngồi khóc lóc thảm thương. Khi Bình đến hỏi chuyện, tìm cách an ủi thì ông Ba mếu máo, kể lể sự tình liên miên suốt mấy tiếng đồng hồ.

    Gia đình ông Ba có 4 người, cư ngụ tại Đà Nẵng. Khi thành phố này bị VC tấn công, ông hoảng hốt, phải mua vé phi cơ chợ đen, để đem vợ con vào Sài Gòn lánh nạn. Nhưng không may, trong lúc gia đình ông đang xếp hàng, bước lên phi cơ thì VC pháo kích tới tấp. Hành khách chạy tán loạn, giẫm cả lên nhau. Chiếc phi cơ đậu bên này căn nhà vòm thì đạn nổ ngay ở bên kia. Sỏi đá, cát bụi văng tứ tung. Vợ ông và cậu con trai bị thương, nằm giẫy dụa trên vũng máu --- ở gần cửa phi cơ, ngay bên cạnh ông. Trong lúc kinh hoàng, ông Ba và bé Kim bị "biển người" chạy ùa tới, xô đẩy vào phi cơ --- không thể nào cưỡng lại được. Ngay sau đó, cửa phi cơ khép kín. Chiếc phi cơ "hoảng sợ", chạy ra phi đạo, cất cánh.

    Thế là hai cha con ông, kêu gào thảm thiết, ngỏ lời van xin phi hành đoàn cho trở lại Đà Nẵng để nhận xác chết của người thân. Nhưng không ai có thể đáp ứng được ý nguyện của các nạn nhân. Vừa đến Sài Gòn, ông Ba cùng bé Kim, thuê xe lại nhà "Bác Hai". Cả nhà "Bác Hai" xúc động khi nghe ông Ba khóc lóc, kể lể sự tình. Họ tìm cách an ủi, nhưng không ai có thể giúp được ông Ba trở về Đà Nẵng. Vì các tỉnh miền Trung hồi trung tuần tháng 4 năm 1975, đang bị VC tấn công nên đường xá bị tắc nghẽn. Ông Ba không còn cách nào, đành phải ở lại nhà "Bác Hai". Hết ngày này sang ngày khác, bé Kim thì nằm trên giường, sụt sùi khóc. Còn ông Ba thì quẫn trí, nhiều lúc như người điên, ngồi trong phòng một mình, lẩm bẩm kể lại chuyện kinh hoàng ở phi trường Đà Nẵng.

    Đến đêm 28 rạng ngày 29-4-1975, VC pháo kích tới tấp vào phi trường Tân Sơn Nhất và thành phố Sài Gòn. Khu nhà "Bác Hai" bị trúng đạn. Lửa cháy bùng lên làm cả xóm hoảng hốt. Ông Ba cùng bé Kim theo gia đình "Bác Hai", chạy thoát thân vào Chợ Lớn. Nhưng sau, họ lại đi theo "Chú Tư", chạy ra khu bến tàu Sài Gòn.

    Khi đến nơi, họ bị "cuốn theo chiều gió": Nhìn thấy đồng bào chen lấn nhau, leo lên chiếc sà-lan thì họ làm theo --- chạy đi đâu cũng được, miễn là thoát ra khỏi thảm hoạ Cộng Sản. Khi chiếc sà-lan chạy ra gần đến cửa biển, không ngờ gặp VC núp bên kia bờ sông, bắn tới tấp. Hai cha con ông nằm xẹp xuống sàn. Chung quanh ông: Máu, nước mắt, tiếng kêu gào... và xác người chết ngổn ngang. Trong giây phút kinh hoàng, hai cha con ông Ba không còn hồn vía gì nữa. Mãi đến khi chiếc sà-lan chạy thoát ra ngoài biển, ông Ba mới biết: "Chú Tư" và gia đình "Bác Hai" không còn người nào sống sót. Ông Ba và bé Kim, thêm lần nữa, ôm mặt khóc "hu hu" bên cạnh xác chết của người thân --- nằm cong queo trên vũng máu. Phía trước ông là mấy người bị thương, lúc kêu khóc, lúc rên hừ hừ. Chỉ dăm phút sau, họ tắt thở. Nhóm thanh niên trên sà lan không biết làm gì hơn là đẩy xác các nạn nhân xuống biển.

    Sau nửa ngày lênh đênh trên biển cả, chiếc sà-lan mới gặp chiếc tàu chiến của Hạm Đội Mỹ cứu vớt. Nhiều người tưởng là thảm hoạ đã qua. Nhưng không ngờ, khi hai cha con ông Ba chuyển sang tàu Green Board, chuyện bất hạnh kế tiếp lại xẩy đến.

    Lần này, chẳng có ai dám quả quyết: Vì ông Ba bất cẩn, khi sử dụng loại cầu vệ sinh "lộ thiên, treo lủng lẳng trên cao", nên bị sóng gío hất xuống biển? Hay vì chuyện kinh hoàng --- ở phi trường Đà Nẵng và trên chiếc sà-lan --- khiến ông mang bệnh tâm thần, nên đã tự ý đâm đầu xuống biển để kết liễu cuộc đời? Bình không biết, giả thuyết nào đúng. Nhưng sau khi chuyện xẩy ra, anh chứng kiến, bé Kim vừa đi tìm cha, vừa sụt sùi khóc.

    - Ba cháu... ba cháu, đêm hôm qua đi đến dẫy nhà cầu này nè ... Cháu đợi hoài ... đến sáng, đi tìm nhưng chẳng thấy ba cháu đâu.
    Bé Kim sụt sùi, kể lể sự tình rồi lẩn thẩn hỏi Bình:

    - Chú có nhìn thấy... ba cháu ở đâu không?... Hay ba cháu rớt xuống biển rồi?
    Bình muốn tạo hy vọng, nói an ủi bé Kim:

    - Ở trên boong này, chú không thấy. Cháu theo chú, thử xuống tầng dưới xem sao, biết đâu ba cháu "đi lạc" ở dưới đó? Bình ngậm ngùi, nhìn đôi mắt bé Kim đỏ hoe: Thân gái mới 8 tuổi đầu, bơ vơ không nơi nương tựa, cuộc đời sẽ phiêu dạt về đâu? Anh dẫn bé Kim, lần lượt đi xuống tầng 1, tầng 2 để "tìm ông Ba".

    "Câu Chuyện Kinh Hoàng" kể trên, kết thúc thương tâm như vậy, ám ảnh Bình mấy ngày vừa qua. Từ tàu Green Board chuyển sang tàu American Racer, Bình vẫn còn thấy bé Kim, có lúc ngồi sụt sùi khóc, có lúc đứng ngơ ngác, nhìn hết nơi này đến nơi khác rồi nói lảm nhảm. Như mấy lần trước, Bình và Thu Mai đến an ủi bé Kim. Nhưng lần nào bé Kim cũng "dạ, vâng", hoặc gật đầu, hoặc lắc đầu. Cuối cùng, bé Kim ôm mặt khóc lóc nức nở. Bây giờ, chắc hẳn là bé Kim đã kiệt sức, nên nằm co ro, thoi thóp thở.

    Trong khi đó, con tàu biệt xứ --- American Racer --- vẫn tiếp tục lướt sóng, chạy về phía Subic Bay. Trên boong tàu, Bình đứng nhìn cảnh biển khơi lúc chiều dần tàn. Màn đêm đang từ từ buông xuống. Thêm một ngày buồn thảm trôi qua. Thế nhưng, nỗi gian truân của gia đình Bình, của hàng trăm ngàn người tỵ nạn, của cả dân tộc VN vẫn còn kéo dài. Nhìn xuống mặt đại dương, lờ mờ trong bóng tối, Bình trông thấy những làn sóng bạc đầu nhấp nhô từ xa chạy đến, vỗ vào con tàu, tạo thành những tiếng kêu "lõm bõm".

    Âm thanh ấy và cảnh biển khơi, kéo dài từ hôm 30-4-1975 đến nay, cùng với nỗi hận sầu vong quốc, đã in sâu vào tâm trí Bình. Anh không ngờ, miền Nam lại sa vào thảm hoạ Cộng Sản mau chóng đến như thế! Hàng chục năm, Quân Lực VN Cộng Hoà đã chiến đấu kiên cường. Không ai dám nghĩ là đoàn quân ấy lại tan rã, trong khoảng 1 tháng. Kể từ khi VC xé bỏ Hiệp Định Ba-Lê, tấn công vào thành phố Ban Mê Thuột, thảm cảnh diễn ra ở miền Nam, không khác nơi địa ngục là bao. Hàng chục triệu người, sa vào cảnh "đổi đời", đột ngột và đau thương, ngoài sức tưởng tượng của Bình:

    Gia đình Tuấn chỉ là trường hợp điển hình cho hàng triệu gia đình sa vào thảm cảnh ly tán, biệt phương.
    Gia đình ông Ba chỉ là trường hợp điển hình cho hàng trăm ngàn gia đình sa vào cảnh kinh hoàng trên hành trình tỵ nạn Cộng Sản.

    Bé Kim chỉ là trường hợp điển hình cho hàng trăm ngàn trẻ thơ, phải sống trong thảm cảnh đoạn trường, cuộc đời bơ vơ, không nơi nương tựa.

    Suốt mấy ngày lênh đênh trên biển cả, hàng ngàn người tỵ nạn trên con tàu American Racer, đã đến Subic Bay --- căn cứ của Hải Quân Hoa Kỳ ở Phi Luận Tân.

    Lúc con tàu cập bến, Bình đứng trên boong, ngơ ngác nhìn đường phố: Xe chạy tấp nập, nhà cửa khang trang. Cuộc sống thanh bình "nơi xứ lạ quê người" làm anh chạnh lòng, nghĩ đến VN với thảm cảnh chiến tranh máu lửa; với nỗi kinh hoàng khi dân chúng đi lánh nạn; với nỗi thống khổ của bản thân, gia đình, đồng đi và đồng bào từ khi thảm hoạ Cộng Sản lan tràn. Còn nỗi buồn nào thê thảm hơn thế nữa không?

    Trong tâm trạng ấy, Thu Mai ôm bé Châu, ngồi ủ rũ --- ngay phía sau Bình. Bên cạnh nàng là Phượng. Cô bé 2 tuổi, sau nhiều ngày không có sữa uống thì níu áo mẹ, kêu khóc thảm thiết:

    - Mẹ ơi! Về nhà... về nhà với bà... uống sữa!

    Nghe giọng trẻ thơ gào khóc, đòi "về nhà với bà, uống sữa", Thu Mai xúc động. Nàng nghẹn ngào, nói với con:

    - Không về nhà được đâu!... Không còn gặp bà được nữa! Bà ở tuốt Thị Nghè, Sài Gòn... xa lắm... Con nín đi!

    Mặc dù nói với bé Phượng như vậy, nhưng đôi mắt nàng ứa lệ. Thu Mai tự hỏi, đến bao giờ nàng mới có thể trở về Thị Nghè để gặp lại cha mẹ và chị em?

    Bé Phượng vẫn khóc nức nở:

    - Bố ơi! Về... về nhà với bà! Đừng đi nữa... về nhà, uống sữa!
    Khi nghe tiếng trẻ thơ gào khóc, đòi về nhà, tình yêu quê hương trong lòng Bình dâng lên. Anh thở dài, rồi cúi xuống ôm bé Phượng vào lòng:

    - Hồi nãy nghe mẹ nói, con có hiểu không? Nhà mình ở Sài Gòn... xa lắm... không về được nữa.
    Bồng con lên, anh đưa tay chỉ bâng quơ về phía chân trời xa thẳm, rồi nghẹn ngào nói với đứa bé:

    - Nhà mình ở Sài Gòn... xa lắm... ở tuốt phía chân trời kia kià... Đi tàu thủy mấy ngày, mấy đêm mới đến được!

    Trong khi ấy, có chiếc chiến hạm của Hải Quân VN Cộng Hoà từ ngoài khơi, chạy vào cập bến Subic Bay. Lúc đến nơi, con tàu thả neo, đậu gần chiếc American Racer. Không lâu sau, tiếng ồn ào gọi nhau xen kẽ với tiếng hô "nghiêm, nghỉ" trên chiếc chiến hạm ấy vang lên. Bình ngạc nhiên, nhìn thấy nhiều toán quân nhân cùng đồng bào tỵ nạn ở trên con tàu ấy, đi qua đi lại, rồi xếp thành hàng ngang, hàng dọc. Anh thầm hỏi:

    - Họ tập họp trên boong tàu làm gì? Chắc hẳn là họ xếp hàng xuống tàu để xin vào căn cứ Hải Quân Mỹ, tỵ nạn Cộng Sản?

    Bình đang thắc mắc thì không ngờ, tiếng hát bài Quốc Ca Việt Nam vang lên:

    "Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi... Đồng lòng cùng đi... hy sinh tiếc gì thân sống".

    Nhìn lá Quốc Kỳ Việt Nam màu vàng 3 sọc đỏ, từ Đài Chỉ Huy của chiếc chiến hạm, từ từ xuống thấp, Bình hiểu là Thuỷ Thủ Đoàn cùng đồng bào đang làm lễ Hạ Cờ --- trước khi trao chiếc chiến hạm ấy cho Hải Quân Hoa Kỳ. Anh vội vàng, nắm tay Thu Mai, kéo nàng đứng dậy. Cả trăm người trên boong tàu American Racer cũng tự động làm theo.

    "Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên... làm sao cho Núi Sông... từ nay luôn vững bền..."

    Nghe giọng hát nghẹn ngào, nhiều lúc đứt quãng, của các Quân Nhân đứng chung quanh, hoà với tiếng khóc của trẻ thơ và tiếng gió biển thổi vù vù, Bình và Thu Mai không thể nào cầm được nước mắt. Nhiều người xúc động mạnh, ôm mặt khóc hu hu. Trong thảm cảnh "nước mất nhà tan", mọi người đều ngầm hiểu, VN Cộng Hoà đã xụp đổ, Quân Lực VN Cộng Hoà đã tan rã. Đây là buổi chào cờ cuối cùng, "vĩnh biệt" VN Cộng Hoà? Thoáng qua trong trí nhớ của Bình, hình ảnh những buổi lễ chào cờ trang nghiêm, khi ở vũ đình trường Lê Lợi tại Trường Võ Bị Quốc Gia, khi ở sân cờ Bộ Tư Lệnh Không Quân, hoặc trong ngày Quốc Khánh ở Sài Gòn, chưa có lần nào Bình bị cảm kích như lần này.

    "Công dân ơi!... Mau làm cho cõi bờ... thoát cơn tàn phá... vẻ vang nòi giống... Xứng danh... nghìn năm... giòng giống Lạc Hồng".

    Khi bài Quốc Ca "Tiếng Gọi Công Dân" vừa chấm dứt, anh em Quân Nhân cùng đồng bào tỵ nạn trên con tàu Greenboard, nghẹn ngào nhìn nhau qua làn nước mắt: Quần áo tả tơi, dáng điệu bơ phờ và đều mang tâm trạng, hận sầu vong quốc như nhau!

    Trên boong tàu, nhiều người xúm lại, kể lể tâm sự ồn ào. Bình ngồi im lặng bên cạnh Thu Mai. Tâm trí anh bị chìm đắm trong thảm cảnh "nước mất nhà tan".

    "Dương Văn Minh đã dâng miền Nam cho Cộng Sản! Hắn đã kêu gọi Quân Ðội VNCH buông súng"!

    Thế là đất nước chúng ta, từ Bắc vào Nam, sa vào ách cai trị của "đoàn quân Quốc Tế Vô Sản Mác-Lênin" do Nga Tàu điều khiển.

    Thế là dân tộc chúng ta từ Bắc vào Nam, phải cúi đầu "thờ Mao Chủ Tịch, thờ Stalin bất diệt".

    Thế là đồng bào chúng ta, từ Bắc vào Nam, "làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm", nhưng cơm vẫn không đủ ăn, áo vẫn không đủ mặc!

    Đó là "thành tích" của đảng CSVN. Sau 30 năm chiến tranh máu lửa, chúng đã "thống nhất đất nước": Hai miền Nam Bắc, cùng đặt dưới ách nô lệ Mác-Lênin. Hai miền Nam Bắc cùng lầm than nghèo khổ như nhau.

    Nghĩ như vậy, uất hận trong lòng Bình lại dâng lên. Anh thầm hỏi:

    - Hàng chục năm trôi qua, Quân Lực VN Cộng Hoà chiến đấu kiên cường, tại sao đến ngày 30-4-1975 lại thảm bại? Vì giới lãnh đạo VN Cộng Hoà yếu kém? Hay vì thế lực ngoại bang xếp đặt?

    Cả hai đều đúng. Trong lúc VN Cộng Hoà bị Hoa Kỳ cúp viện trợ, Quân Đội không có đủ vũ khí thì làm sao miền Nam nhỏ bé, có thể đương đầu với đại khối Quốc Tế Cộng Sản? Không những thế, đa số các cấp lãnh đạo thời Đệ Nhị Cộng Hoà, đều là những kẻ bất xứng, về nhân cách cũng như về khả năng. Phe nhóm "Tướng Tá Phản Loạn" như Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Cao Kỳ và Đỗ Mậu là những nhân vật điển hình.

    Ngược lại, hình ảnh của các vị Tướng Lãnh khả kính như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ cùng Đại Tá Trần Văn Hai và Thiếu Tá Lê Anh Tuấn, lần lượt thoảng qua trong tâm trí của Bình. Gần gũi với anh nhất hình ảnh của Th/T Lê Anh Tuấn -- người bạn học cùng lớp suốt 7 năm trời qua hai mái trường trung học Nguyễn Trãi và Chu Văn An. Nên khi nghe tin Th/T Tuấn tuẫn tiết ngày 30-4-1975 cùng với các liệt vị kể trên, Bình xúc động mạnh.

    Đồng thời, hình ảnh các Hoa Tiêu đã chiến đấu rất can cảm, như Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh và Nguyễn Du, cũng lần lượt hiện ra trong ký ức của Bình. Trong phi đoàn 219, nhiều Kingbees xuất sắc, đã gẫy cánh mà anh em Không Quân thường nhắc đến, kể ra không hết:

    Nguyễn Phi Hùng, anh em Kingbees thường gọi là "Hùng Râu Kẽm", đạt được nhiều chiến tích lẫy lừng. Tất cả anh em Biệt Kích Lôi Hổ -- đã từng gởi mạng sống vào tay ông -- đều còn nhớ. Có lần ông chở toán Biệt Kích, đáp phi cơ giữa chiến khu, bị VC bắn trúng vai, máu chảy ướt đẫm cả cánh tay. Ông Hùng vi vàng giao cần lái cho Hoa Tiêu phụ, rồi móc khăn từ túi áo ra, bịt vết thương lại. Sau khi làm xong, ông tiếp tục lái phi cơ trở về căn cứ.

    Nguyễn Thanh Giang, bản tính ngang tàng và có tinh thần "hiệp sĩ". Nhiều lần ông bay với Tuấn, thả Biệt Kích vào sào huyệt VC ở phía Bắc sông Bến Hải. Có lần ông bay với Bình, bị liên thanh VC bắn hàng chục viên vào thân phi cơ, trông lỗ trỗ tựa như tổ ong. Cuối cùng, ông Giang bị bắn rơi xuống đồi 31 trong trận Hạ Lào năm 1970.

    Trong lúc Bình đang ngồi im lặng, hồi tưởng những kỷ niệm trong đời quân ngũ, kèm theo hình ảnh của Tuấn cùng anh em Hoa Tiêu ở Biên Hoà thì trên máy vi âm của con tàu American Racer vang lên:

    - Xin quý vị lưu ý! Quý vị hãy chuẩn bị sẵn sàng. Khoảng mươi phút nữa, quý vị sẽ xuống tàu. Theo mũi tên màu da cam, quý vị đến phòng đợi để đáp phi cơ, đi tới các trại tạm trú. Ở bên dưới con tàu American Racer, phía bên tay trái, có phòng riêng dành cho Quân Nhân VN Cộng Hoà, cởi bỏ quân phục -- thay quần áo dân sự
    .

  • #2
    Wake Island, Hòn Ðảo Lưu Ðầy

    Wake Island, Hòn Ðảo Lưu Ðầy
    ( thoichinhchienblogsport.com )

    Suốt mấy tuần lễ nay, ban đêm cũng như ban ngày, thảm cảnh "nước mất nhà tan" hồi Tháng Tư Đen năm 1975 --- súng nổ, người chết; Cộng Sản tiến quân, dân chúng VN chạy tán loạn --- vẫn liên tục, thay phiên nhau ám ảnh, khiến Bình buồn thảm khôn nguôi. Cuộc đời biến đổi đột ngột và đau thương chưa từng thấy. "Mới ngày nào", hàng triệu người đang sống yên vui. Đến nay, gia đình tan nát. Con mất cha, vợ mất chồng. Anh chị em mỗi người một ngả. Thân phận người Chiến Sĩ Cộng Hoà như Bình, "mới ngày nào" cùng Tuấn, cùng các chiến hữu Không Quân, còn tung hoành trên vùng trời lửa đạn. Ai ngờ hôm nay, anh trở thành kẻ vong quốc, đi tỵ nạn ở nơi "xứ lạ quê người", đêm đêm nằm ngủ dưới mái hiên của "căn nhà hoang" trên đảo Wake.


    Đúng nghĩa là kẻ không nhà. Đêm nay cũng như mấy đêm trước, mỗi lần Bình thức giấc lại thêm một lần, thảm cảnh "bể dâu" hiện ra trong ký ức của anh. Bình nằm trăn trở hết giờ này qua giờ khác, không thể nào ngủ được. Khi thì anh mường tượng đến vẻ mặt thiểu não của Thảo và bé Hạnh ở Sài Gòn, bị công an Việt Cộng áp ức, hạch hỏi đủ điều. Khi thì anh nghĩ đến nỗi khổ đau của Diễm Hiền tay ẵm con thơ, mỏi mòn trông chờ Tuấn trở về, hết ngày này qua ngày khác, nhưng vẫn biệt vô âm tín. Đêm hôm trước, vừa mới nhắm mắt ngủ được khoảng dăm phút, Bình gặp cơn ác mộng: Chiếc UH của Tuấn, khi bay vào không phận Sài Gòn bị VC bắn lên tới tấp. Phi cơ bị trúng đạn rồi phát hoả, cháy đỏ rực như bó đuốc từ trên không trung rơi xuống. Sau cơn ác mộng, Bình lại càng cảm thấy lo ngại cho người bạn xấu số.

    Bây giờ, chỉ có Trời mới biết được thân phận của Tuấn ra sao? Tuấn bị VC bắt giam ở đâu? Hay anh đã bị chúng bắn hạ cùng với chiếc UH khi bay vào không phận Sài Gòn chiều ngày 30-4-1975?
    "Đó chỉ là giả thuyết". Bình thầm nghĩ như thế để xua đuổi nỗi lo âu sau cơn ác mộng. Thế nhưng, khi nhìn vào cuộc sống của chính bản thân mình, Bình lại còn cảm thấy bi quan hơn. Anh tự hỏi, trong quãng đời còn lại, sống trên "đất khách quê người", ngôn ngữ bất đồng, văn hoá khác biệt, trong túi không có một xu, cuộc sống sẽ ra sao? Biết đến bao giờ Bình mới quên được mối "hận sầu vong quốc"? Thu Mai cùng cô Hằng, cô Hương và cậu Thiện cũng nhìn thấy tương lai đen tối như thế. Nên mỗi khi bàn chuyện với nhau, người nào cũng "than vắn thở dài".


    Vì bi quan như thế, nên mấy tuần lễ trước đây, khi đi trên chuyến tàu Green Board, gặp bé Kim sa vào thảm cảnh đoạn trường, Bình và Thu Mai không dám rủ cô bé đi theo gia đình mình. Bây giờ trên đảo Wake, hai người đều có ý ân hận. Trong phần đời còn lại, Bình không bao giờ quên được thảm cảnh của bé Kim, của Tuấn, của những người đồng cảnh khi "nước mất nhà tan"!

    Đêm nay, tâm trạng Bình không khác mấy đêm trước. Anh nằm trăn trở hết giờ này qua giờ khác. Nhìn đồng hồ đeo trên tay, gần 3 giờ sáng rồi mà anh vẫn không ngủ được. Bình đứng dậy, đi băng qua con đường nhựa, rồi xuyên qua kẻ hở của bức tường bê-tông, để ra bờ biển. Nhìn hàng trăm tảng bê-tông, được dựng thẳng đứng, cao gần bằng mái nhà, nối tiếp nhau, chạy dọc theo bờ biển, Bình hiểu là bức tường này được dựng lên để ngăn chặn bão tố --- "tấn công" vào hòn đảo nhỏ bé.

    Chỉ mất vài phút đồng hồ, từ căn nhà tạm trú, Bình đã đi đến bờ biển. Dưới ánh trăng thanh, có gió mát, có tiếng sóng biển kêu lõm bõm, Bình thẫn thờ đi dọc theo bãi biển như kẻ mộng du. Nhìn những làn sóng bạc đầu trên mặt đại dương phản chiếu ánh trăng lấp lánh, Bình nhớ đến bãi biển Vũng Tàu và bãi biển Nha Trang. Anh dừng chân, đứng trên bãi cát, đăm chiêu nhìn về phía Tây: Ở nơi chân trời mịt mờ, xa thẳm, là bờ biển VN. Bình lẩm bẩm tự hỏi, biết đến bao giờ, VN mới thoát khỏi thảm hoạ Cộng Sản để anh trở về sống dưới mái nhà xưa?

    Trong tâm trạng ấy, Thu Mai cũng như Hằng, Hương và Thiện, từ khi xa cha mẹ đến nay, lúc nào cũng ủ rũ như những kẻ không hồn. Bình còn nhớ chuyến bay từ Subic Bay đến đảo Wake, Thu Mai vừa bước lên phi cơ, vừa lau nước mắt. Nàng hiểu rằng, mỗi lần di chuyển như thế, lại thêm một lần, đi sâu vào con đường "nghìn trùng xa cách"! Ở nơi "xứ lạ quê người", biết đến bao giờ Thu Mai mới gặp lại cha mẹ và chị em?

    Thật ra, gia đình Thu Mai ở Thị Nghè, sa vào thảm cảnh ly tán, không phải là trường hợp duy nhất. Đó chỉ là trường hợp điển hình. Qua bản tin của "Ủy Ban Đặc Nhiệm" phổ biến chiều hôm qua, Bình thầm hỏi, có bao nhiêu gia đình ly tán trong "Tháng Tư Đen" năm 1975 vừa rồi? Vì bản tin chỉ cho biết, tổng kết đến cuối tháng 5 vừa qua, có gần nửa triệu người Việt đi tỵ nạn Cộng Sản. Con số này càng ngày càng gia tăng và chắc chắn trong vài năm tới, sau khi "nếm mùi Cộng Sản", sẽ có hàng triệu người đi vượt biên, vượt biển.
    Hiện thời, nửa triệu người tỵ nạn, liên tục được tàu chiến của Đệ Thất Hạm Đi Mỹ cứu giúp và lần lượt, được chuyển đến tạm trú ở đảo Guam, đảo Wake, trong trại Pendleton và trại Fort Chaffee. Bình còn được biết, nhiều nước khác --- như Anh, Pháp, Canada và Úc --- cũng cử đại diện đến đảo Guam, để đón nhận người VN tỵ nạn vào nước họ, "làm lại cuộc đời".

    Ở đảo Wake, có khoảng 3 ngàn người tỵ nạn, tạm trú trong những căn nhà bỏ hoang --- trước kia là khu gia binh của Hải Quân Hoa Kỳ. Mỗi người được "Ủy Ban Đặc Nhiệm" cấp cho tấm thẻ mầu để đi ăn ở nhà ăn "Xanh, Đỏ, Trắng” hay “Vàng”, tuỳ theo khu tạm trú. Đồng thời, cứ khoảng mươi người, lại có thêm cuốn sổ lãnh vật liệu -- thường dùng hàng ngày.
    Theo ước đoán sơ khởi của nhân viên Sở Di Trú, trong 3 ngàn người tỵ nạn trên đảo Wake, có khoảng 10 % là nhân viên làm sở Mỹ; 30% là Quân Nhân, hoặc công chức VN Cộng Hoà; 55% là dân chài lưới và 5% là thương gia, hay tư chức. Trong mấy ngày đầu, tất cả người tỵ nạn đều phải kê khai lý lịch. Sở Di Trú Mỹ cứu xét từng hồ sơ để cấp giấy cho người tỵ nạn vào Mỹ. Ưu tiên 1 là thân nhân của người Mỹ. Ưu tiên 2 là nhân viên làm sở Mỹ. Ưu tiên 3 là Sĩ Quan và công chức VNCH từ cấp Trưởng Phòng trở lên.

    Đại đa số dân tỵ nạn đều có thân nhân --- cha mẹ, vợ con, hoặc anh chị em --- bị thất lạc, hay còn kẹt ở lại VN. Ban ngày, họ tụ họp từng toán năm ba người, kể lể tâm tình cho nhau nghe, rồi sụt sùi khóc than trước thảm cảnh gia đình ly tán. Ban đêm, họ nằm la liệt, ngủ trên sàn nhà, trong nhà bếp, ở dưới mái hiên, hay bên gốc cây trên bãi cát.
    Trong trại tạm trú này, nhiều người tỵ nạn bị mất trí. Kẻ thì đi lang thang quanh đảo, gọi tên thân nhân. Người thì đứng bên bờ biển, nói lảm nhảm cho đến khi mệt mỏi thì nằm co ro trên bãi cát, ôm mặt sụt sùi khóc. Trong căn nhà Bình tạm trú, có ông Đại Uý Hải
    Quân "mát giây" khá nặng. Ông tự ý viết "bản cáo trạng", kết tội bản thân ông, rồi đem dán ở trước cửa nhà tạm trú: "Bỏ con là bất nhân. Bỏ vợ là bất nghĩa".

    Nhưng thật sự, ông đâu có ý "bỏ vợ bỏ con". Mấy hôm trước, ông kể lại rằng, trưa ngày 30-4-1975, đơn vị của ông đang hành quân ở Vùng IV thì bất ngờ được "lệnh giải tán ". Ai muốn về quê, đoàn tụ với gia đình hay đi đâu lánh nạn thì đi. Nhiều người như ông, không biết làm cách nào để trở về nhà, vì tất cả các ngả đường đều bị VC gài mìn, hay "đóng chốt". Trong lúc bí thế, ông không còn biết làm cách nào hơn, bèn đi theo chiếc sà lan ra ngoài biển, rồi được Hải Quân Mỹ cứu vớt...

    Hiển nhiên, trường hợp của ông không phải là trường hợp duy nhất. Vì trong ngày 30-4-1975, hàng trăm ngàn Quân Nhân đang tiếp tục chiến đấu thì ngỡ ngàng, nhận được lệnh "tan hàng". Trong lúc hoảng hốt, nhiều Quân Nhân bị "cuốn theo làn sóng tỵ nạn", thoát thân ra hải ngoại một mình trong khi "vợ dại con thơ" bị sa vào thảm hoạ Cộng Sản.
    Gần gũi với Bình là Th/Tá Long, Th/Uý Quảng và nhiều chiến hữu khác ở Sư Đoàn III Không Quân. Trong lúc khẩn cấp, họ đã sử dụng phi cơ trực thăng bay ra ngoài biển, tìm tàu của Đệ Thất Hạm Đi. May mắn, họ được cứu thoát. Nhưng điều bất hạnh to lớn mà họ phải gánh chịu là vợ con bị kẹt lại ở quê nhà. Vì vậy, trên đảo Wake, có khoảng trăm người, đã xin "Ủy Ban Đặc Nhiệm" trở về VN.

    "Anh Long à... Sau khi thoát thân sang đảo Wake, anh tự ý trở về VN vì tình thương yêu gia đình thúc đẩy, đó là điều hiếm quý. Nhưng mong anh suy nghĩ cho kỹ, khi về nhà, liệu VC có để anh yên vui với gia đình hay không? Tôi bảo đảm với anh là không. Anh hãy tin tôi, "thằng Bắc Kỳ di cư" này đã đau khổ với Cộng Sản, nên hiểu rõ bộ mặt "giả nhân giả nghĩa" của chúng.

    Dĩ nhiên, khi được tin anh về, chị và các cháu vui mừng, nhưng vui mừng được bao lâu? Liệu có được vài tiếng đồng hồ hay không? Để rồi cả gia đình phải triền miên đau khổ khi anh bị đầy đoạ, hết năm này đến năm khác trong ngục tù Cộng Sản. Anh ạ, không còn sự chọn lựa nào hơn, anh nên chấp nhận, sống xa vợ con vài ba năm rồi sau đó, tuỳ cơ ứng biến!"

    Bình hết lời can ngăn Th/Tá Long nhiều lần, nhưng ông Long vẫn nhất quyết, xin trở về VN. Thật ra, trong tình cảnh như thế, ai có thể gạt nước mắt, tiếp tục hành trình tỵ nạn? Nhưng liều mạng trở về VN, người nào sẽ được VC "cho phép" sống yên vui? Quả thật là tiến thoái lưỡng nan!

    Ngoài 100 người ở đảo Wake, hiện nay trên đảo Guam có khoảng 1500 người cũng xin "Ủy Ban Đặc Nhiệm" cung cấp phương tiện cho họ hồi hương! Trong thảm cảnh "nước mất nhà tan", ai cũng thông cảm nỗi khổ đau và tôn trọng quyền tự quyết của họ. Chỉ có điều đáng tiếc là trong số 1500 người ấy, có khoảng vài trăm người bị VC "nằm vùng" trong trại tỵ nạn xách động, biến thành công cụ tuyên truyền cho Cộng Sản trên đảo Guam. Họ tham gia các cuộc biểu tình mang cờ VC, cùng những khẩu hiệu đề cao "Bác và Đảng", "hoan hô Cách Mạng thành công"... và "đả đảo đế quốc Mỹ cưỡng bách dân chúng VN đi theo khi thất trận"!

    Quả là oái oăm và lố bịch! Oái oăm và lố bịch ngoài sức tưởng tượng của con người. Bình là chứng nhân. Hàng trăm ngàn người khác là chứng nhân. Không ai ép buc dân chúng VN đi tỵ nạn VC! Không ai xúi dục dân chúng VN bỏ nước ra đi. Sự thật, khi Cộng Sản đánh chiếm miền Nam, dân chúng hoảng sợ và không còn sự lựa chọn nào hơn thì phải bỏ nước ra đi lánh nạn --- dù gặp muôn vàn chông gai, nhưng vẫn còn hơn là kéo dài cuộc sống lầm than trong chế độ Việt Cộng!

    Tuy nhiên, trong lúc sa vào thảm cảnh gia đình ly tán, nhiều người ở đảo Guam lầm tưởng, làm trò hề biểu tình như vậy, VC sẽ hài lòng. Khi trở về VN, họ sẽ được VC cho sống yên vui với gia đình! Nhưng chắc chắc, chuyện ấy sẽ không xẩy ra. Sau khi trở về VN, họ sẽ "ân hận ngàn thu" trong ngục tù VC!

    Dù sao, những người trở về VN --- do tình cảm gia đình thúc đẩy --- đều là những người đáng thương. Hiển hiện, họ mang nặng lòng chung thủy. Ngược lại, trong biến cố lịch sử 30-4-1975, Bình đã chứng kiến, có nhiều kẻ đã lợi dụng cơ hi để bỏ vợ, bỏ con, mang người tình "đi tìm tự do"! Sự việc xẩy ra đúng như lời trong "bản cáo trạng" của ông Đ/Uý Hải Quân đã kết án: "bỏ con là bất nhân; bỏ vợ là bất nghĩa".
    Điển hình là câu chuyện tình "thiên bất dung gian" của anh Cơ Phi --- nhân viên cơ khí --- làm cho hãng Air America ở VN. Bình còn nhớ, hồi đầu tháng vừa rồi, anh ta cùng người tình, từ tàu Green Board chuyển sang tàu American Racer. Không ngờ "trời xui đất khiến", anh ta gặp lại người vợ và hai đứa con thơ, ngồi ở trên boong tàu từ chiều hôm trước! Sau mấy tiếng đồng hồ "im lặng là vàng", sóng gío ghen tuông nổi lên làm "om xòm" cả boong tàu:

    Người vợ, sau khi "bắt gặp quả tang" anh ta ngoại tình thì chửi bới thậm tệ. Còn người tình, khi biết rõ anh ta là kẻ gian dối --- đóng kịch "độc thân" để dụ dỗ cô nàng --- thì ôm mặt sụt sùi, than thân trách phận là bị lừa gạt.

    Quả thật là "gieo gió gặp bão". Người vợ và người tình đều không muốn nhìn mặt anh ta nữa. Chỉ tội nghiệp hai đứa trẻ thơ. Khi gặp lại cha, chúng mừng rỡ mà không biết gia đình mình tan vỡ. Chúng thỏ thẻ, kể lại cho cha nghe, nào là cảnh sợ hãi Việt Cộng pháo kích, phải chạy trốn cùng với nhiều người khác bằng chiếc thuyền nhỏ bé. Nào là lúc say sóng, bị ói mửa khi chiếc ghe chạy ra ngoài khơi thị xã Vũng Tàu. Nỗi kinh hoàng kéo dài suốt nửa ngày, hai đứa trẻ thơ mới hoàn hồn khi được Hải Quân Mỹ cứu vớt. Sau nhiều lần di chuyển từ tàu nọ sang tàu kia thì "phúc đức", được gặp lại cha.

    Bình vừa đi trên bãi biển vừa hồi tưởng, hết chuyện này đến chuyện khác. Lúc anh đi trở về khu tạm trú thì ở phía đông, mặt trời đang từ từ lên cao. Ánh bình minh dần dần lan rộng khắp nơi trên mặt biển. Bây giờ, Bình nhìn thấy rõ, dọc theo lối đi, có cả trăm xác đỉa chết, đen và to bằng cổ tay, nằm chết cong queo trên bãi biển. Anh rùng mình nhớ đến chuyện đỉa cắn khi đi trốn Cộng Sản vào Nam năm 1954.

    Hồi ấy, để vượt qua mấy trạm gác của bọn công an Cộng Sản, gia đình Bình phải áp dụng chiến thuật "phân tán mỏng", đi từng người và giả dạng là dân quê đi "mò cua bắt ốc". Bình cũng phải đeo cái rỏ bằng tre trên vai, tay cầm cây gậy và đi băng qua mấy khu ruộng lúa hoặc những vũng sình lầy, có khi nước ngập lên đến đầu gối. Kết quả là cả nhà, ai cũng bị đỉa cắn chảy máu ở hai bên ống chân. Bình còn nhớ, loài đỉa này cũng đen như đỉa biển, nhưng chỉ nhỏ bằng con giun đất. Không ngờ 20 năm sau, khi đi lánh nạn Cộng Sản lần thứ 2, Bình lại gặp đìa --- nằm chết ngổn ngang bên lối đi.

    Lúc đi gần đến căn nhà tạm trú, Bình nhìn thấy khói đang bốc lên, gần bụi cây bên bờ biển. Anh biết là Thu Mai đang ngồi, đốt giấy để đun nước nóng pha sữa cho Diễm và Phượng --- như mấy buổi sáng trước đây. Bình bước nhanh đến bên cạnh nàng.
    - Anh đi đâu mà bây giờ mới thấy?
    Bình mỉm cuời rồi nói khôi hài:
    - "Ôi ta buồn, ta đi lang thang" lòng vòng trên bãi biển.

    Thế rồi, hai người ngồi bên nhau, rì rầm nói chuyện. Trong khi Thu Mai liên tục, cầm giấy vụn cho vào "bếp lửa" thì Bình bẻ cành thông khô --- nhỏ như những que tăm --- giúp nàng có thêm "nhiên liệu". Gọi là "bếp lửa", nhưng sự thật là 3 hòn đá, to bằng nắm tay, được kê gần nhau. Bên trên là lon sữa bò chứa đầy nước. Bên dưới là giấy và cành cây thông, âm ỉ cháy.

    Không lâu sau, khói bốc lên cao. Bình không ngờ, hai anh Quân Cảnh Mỹ --- thuộc đi tuần thám trên bãi biển --- hăm hở bước đến.
    - Hello! What are you doing?

    Anh Quân Cảnh hỏi Bình "đang làm gì"? Bình vừa chỉ tay vào lon nước, vừa trình bầy sự việc. Hiển hiện, đốt lửa trên bãi cát như vậy, không có gì nguy hiểm, hoặc trái với luật lệ trên đảo Wake. Nên hai anh Quân Cảnh nói "OK", rồi bỏ đi nơi khác.

    Thật ra, "Ủy Ban Đặc Nhiệm" ở đảo Wake cấm không cho người tỵ nạn nấu ăn, hoặc đốt lửa, hoặc mang thực phẩm từ nhà ăn về khu tạm trú. Đó là điều hữu lý để ngăn ngừa hoả hoạn và giữ vệ sinh cho khu tạm trú. Chỉ tội nghiệp cho các trẻ em, đến bữa ăn thì không ăn. Để rồi, sau khi nhà ăn đóng cửa, các em đói bụng, khóc mếu đòi ăn! Nhưng trên hòn đảo bé nhỏ này, làm gì có quán ăn, hay tiệm bán thực phẩm, nên các em phải nhịn đói cho đến khi nhà ăn mở cửa. Khổ hơn nữa là các trẻ thơ dưới 2 tuổi. Mặc dù được phát sữa hộp đầy đủ, nhưng các em không quen uống sữa pha với nước lạnh. Điển hình Châu, sau khi uống sữa pha với nước lạnh đã bị tiêu chảy liên tiếp, đến nỗi kiệt sức, phải nằm điều trị ở Bệnh Xá! Do đó, Thu Mai mới phải đốt lửa trên bãi cát để đun nước pha sữa cho Diễm và Phượng.

    Đợi đến khi có nước sôi, Bình theo Thu Mai, đi vào nhà tạm trú. Nơi đây, đúng nghĩa là tạm trú. Từ phía trước đến phía sau căn nhà, từ phòng khách đến phòng ăn, phòng ngủ, chỗ nào cũng có người nằm, kẻ ngồi sát bên nhau. Trong lúc nhóm chiến hữu Không Quân --- gồm có Vĩnh, Huỳnh, Lộc và Chừng --- ngồi nói chuyện ồn ào thì những người đồng cảnh khác như Bách, Liên, Dân và gia đình ông bà Hóa gọi nhau đi ăn sáng. Bình đợi, sau khi Thu Mai cho Diễm và Phượng uống sửa xong thì hỏi nàng:
    - Gần 8 giờ rồi, em muốn đi ăn sáng không?
    - Không, em chưa đói. Anh muốn đi bây giờ hở?
    - Ừ! Anh đi trước với Diễm nhé.

    Nói xong Bình cúi xuống, bồng Diễm lên, bước ra khỏi cửa nhà. Bên đường, từng toán năm bẩy người vừa đi về phía nhà ăn, vừa nói chuyện ồn ào. Ngay lúc ấy, trên máy phóng thanh của "Ủy Ban Đặc Nhiệm" --- đặt giữa sân cát ở khu tạm trú --- vang lên tiếng nói quen thuc của cô xướng ngôn viên:

    "Kính chào quý vị,
    Mời quý vị nghe tin tức:
    Hôm nay, Ủy Ban Đặc Nhiệm ở đảo Wake cho biết, danh sách quý vị muốn trở về VN, đã được chuyển đến Ủy Ban Đặc Nhiệm Trung Ương. Ai muốn tiếp tục hành trình đi tỵ nạn Cộng Sản, hay đổi ý trở về VN đều được toại nguyện.

    Hiện thời tổng Cộng ở đảo Wake và đảo Guam, có khoảng 1600 người đã xin hồi hương. Tổng số người trở về, có thể sẽ gia tăng hoặc giảm vào giờ phút cuối. Nhưng bất kể bao nhiêu người, Uỷ Ban Đặc Nhiệm Trung Ương cũng cung cấp đầy đủ thực phẩm và nhiên liệu để họ có thể sử dụng chiếc tàu VN Thương Tín, đi từ đảo Guam về VN.

    Tưởng cũng nên nhắc lại, hồi cuối tháng 4 năm1975, chiếc tàu VN Thương Tín đã chở đầy người tỵ nạn, khi chạy trên sông Sài Gòn thì bị Cộng Quân bắn tới tấp. Nhiều người bị tử thương, tàu hư hại nhưng vẫn chạy được đến đảo Guam. Bây giờ, chiếc tàu này đang được sửa chữa để những người hồi hương --- trong đó có Sĩ Quan Hải Quân --- có thể sử dụng ".
    Nghe xong bản tin, Bình cảm thấy ngậm ngùi. Anh nghĩ đến các chiến hữu Không Quân --- trước đây phục vụ ở Không Đoàn 43CT. Sau khi thoát được sang bên đảo Wake, họ lại xin trở về VN. Chuyện gì sẽ xẩy ra sau khi chuyến tàu VN Thương Tín cập bến Sài Gòn? Thêm lần nữa, Bình nhớ đến Th/Tá Long. Vì hình ảnh của ông đã gắn liền với những kỷ niệm --- trong nhiều phi vụ hành quân --- khi Bình mới đổi về căn cứ Không Quân Biên Hoà. Đậm nét nhất trong ký ức của Bình là chuyện hành quân hôm Tết Nguyên Đán năm Nhâm Tý 1972. Bình và ông Long suýt chết khi bay hành quân cho Tiểu Khu Tây Ninh.

    "Hôm ấy, ông Long và Bình bay chiếc C&C, hướng dẫn chiếc 2 Gunships xạ kích vào vị trí của Cộng Quân ở phía tây Trảng Lớn.

    Khi phi cơ xuống thấp, VC bắn lên tới tấp. Vừa thấy chiếc Gunship-1 bị trúng đạn --- phải đáp khẩn cấp --- ông Long nhanh như cắt, cho chiếc C&C nhào xuống, cứu cấp phi hành đoàn lâm nạn. Ngồi bên cạnh ông Long trong phòng lái, Bình nhìn thấy rõ, trong lúc chiếc Gunship-1 bốc cháy thì phi hành đoàn 4 người, đẩy cửa kính chui ra. Họ lom khom chạy ở phía bên này khu ruộng thì phía bên kia, VC núp trong bụi cây, bắn ra tới tấp. Thấy vậy, chiếc Gunship-2 bay vòng tròn sát ngọn cây để cho xạ thủ dùng đại liên 6 nòng, bắn cả ngàn viên đạn vào bụi cây, khiến VC không "ngóc đầu" lên được.

    Tuy nhiên, khi ông Long vừa mới cho phi cơ cất cánh, chưa lên cao khỏi đầu người thì VC ở trong bụi cây phía bên trái, sử dụng súng M-79, bắn đuổi theo chiếc C&C. Trong lúc tiếng đạn nổ "ầm ầm" thì bùn và nước, từ dưới ruộng luá văng lên, bám vào cả cửa kính phi cơ. Đợi đến khi chiếc C&C bay lên cao, rồi đáp xuống phi trường Tây Ninh an toàn, Bình "mới biết là mình còn sống". Lúc đi kiểm soát, anh đếm được 17 vết đạn dọc hai bên thân và đuôi phi cơ. May mà chiếc UH chỉ chảy dầu và trên bảng phi cụ, có vài ba vật dụng bị hư hại vì giây điện bị đứt".

    Trở về chuyện tạm trú trên đảo Wake. Lúc đến nhà ăn Xanh, Bình nhìn thấy cả trăm người đang đứng xếp hàng. Anh lắc đầu, thầm nghĩ:
    - Phải xếp hàng dài như thế này thì mình sẽ chờ cả tiếng đồng hồ nữa mới có thể vào được phòng ăn!

    Sau nhiều lần đi ăn, Bình nghiệm thấy bữa nào có món ăn ngon --- hợp khẩu vị với đa số người Việt --- như cơm gà, thịt bò nướng và cam táo thì nhà ăn rất "đông khách". Vì ai cũng muốn đi ăn sớm, nên có khi phải xếp hàng chờ đợi cả tiếng đồng hồ. Ngược lại, bữa nào món ăn không ngon --- như thịt hộp, cá hộp, hay "hamberger" và "hot dog" --- thì nhà ăn "ít khách".

    Hôm nay cũng như mấy hôm trước, trong khi chờ vào phòng ăn, từng nhóm dăm ba người xúm lại, nói chuyện ồn ào. Ở phía trước cửa, người đông như "phiên chợ". Có anh lính Mỹ đứng giữ trật tự. Mỗi khi thấy năm bẩy người ăn xong, anh ta vẫy tay, cho toán khác đi vào. Nhìn thấy ai mang thức ăn ra ngoài, anh ta chặn lại, tịch thu, ném vào thùng rác. Vì luật lệ trên đảo, không cho mang thức ăn về khu tạm trú.
    Thế nhưng, đôi khi Bình đã chứng kiến, người thì kẹp thức ăn xẹp lép trong chiếc đĩa giấy, rồi dấu trong thắt lưng quần, để mang ra khỏi phòng ăn. Kẻ thì gói chặt thức ăn trong tờ giấy để ném ra ngoài cho thân nhân --- đứng chờ sẵn ngoài hàng rào gỗ, phía bên trái phòng ăn.

    Thêm vào đó, mấy hôm trước Bình còn chứng kiến nhiều chuyện khôi hài diễn ra trong phòng ăn, khiến người tỵ nạn, dù là buồn rũ rượi cũng phải phì cười. Chẳng hạn như chuyện "ông nọ, bà kia" không biết tiếng Anh, nhưng rất nhanh trí. Khi muốn người đầu bếp Phi Luật Tân cho miếng đùi gà thì "ông nọ" nhấc chân lên, đập nhẹ vào đùi làm dấu. Còn người "bà kia" thì vạch áo ra, chỉ vào bụng để tỏ ý, muốn có miếng lườn gà.
    Bình được biết, trong 3 ngàn người tỵ ở đảo Wake thì hơn phân nửa là dân chài lưới. Nhiều Quân Nhân có óc khôi hài, gọi họ là "Danh Ca", có nghĩa là dân "đánh cá". Chắc hẳn, họ là thành phần may mắn nhất trong biến cố lịch sử năm 1975. Nhờ sống gần ven biển, mà lại có sẵn tàu đánh cá trong tay, nên chuyện vượt biển lánh nạn Cộng Sản đối với họ, đương nhiên quá dễ dàng. Chẳng thế mà nhiều người ở vùng Phước Tĩnh đã cho biết là cả làng họ đã thoát nạn Cộng Sản đến đảo Wake. Bình còn nhớ, trong bữa ăn hôm trước, có ông "Danh Ca" đã hả hê kể rằng:
    - Tất cả hai họ nội và ngoại của gia đình tôi đều đi được đầy đủ từ hôm 29-4-1975. Hiện nay, người thì ở "đảo Ếch, đảo Cam", người thì đã sang trại "Phó Cha Phi", tiểu bang "Ối Con Sò".

    Mấy người đồng cảnh ngồi cùng bàn ăn với ông ta, đều phì cười. Vì họ hiểu "đảo Ếch, đảo Cam", tức là đảo Wake và đảo Guam. Còn trại "Phó Cha Phi", tiểu bang "Ối Con Sò" tức là trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas. Nhưng cuối cùng, ai cũng bất mãn khi nghe ông ta nói:
    - Nhiều người oán giận mấy ông lớn tham nhũng làm mất nước. Nhưng gia đình tôi thì cám ơn mấy ông ấy. Nhờ mấy ông lớn tham nhũng mà VC chiếm được miền Nam, nên cả nhà, cả họ tôi được đi Mỹ. Bọn tôi đã chuẩn bị cả mấy tuần lễ trước, bán được 2 chiếc tàu đắt giá gấp 10 lần giá năm trước. Tôi mang theo được tất cả vốn liếng để cho mấy cháu đi Mỹ, như đi du học.

    Chắc hẳn, lương tri của ông ta đã bị tệ liệt? Nếu không, tại sao ông ta không nhìn thấy thảm cảnh của đại khối dân chúng? Trong khi gia đình của ông, họ hàng của ông, là những người may mắn hiếm hoi, thoát khỏi thảm họa Cộng Sản, thì hàng triệu người khác: Gia đình tan nát, hay ly tán biệt phương. Người bị đầy ải trong ngục tù. Kẻ sa vào ách đô hộ Mác-Lênin, cuộc sống lầm than, nghèo khổ. Dân chúng VN lũ lượt kéo nhau đi vượt biển tỵ nạn. Máu và nước mắt của thuyền nhân lai láng khắp nơi trên biển Đông.

    Hôm ấy, Bình nghĩ thầm như vậy rồi đứng dậy, đi ra khỏi phòng ăn. Từ đó đến nay, mỗi lần đi ăn, kể cả sáng hôm nay, Bình không muốn gặp lại ông "Danh Ca" ấy nữa.
    - Anh Bình! Anh Bình! "Lôi Thiên 3" xuống đây... Xuống đây nói chuyện với anh em cho đỡ buồn.
    Bình nghe gọi tên mình, kèm theo danh hiệu khi bay hành quân thì xoay người lại phía sau. Đúng là anh em Không Quân ở Biên Hoà --- đang đứng ở phía cuối hàng. Người vẫy tay. Kẻ to tiếng, gọi Bình "nhập cuộc", tán gẫu với họ trong khi chờ đợi vào phòng ăn.
    - Tại sao không?
    Bình mỉm cười và hỏi lại họ như thế, rồi "nhập cuộc". Thật ra, ngày nào cũng vậy, mỗi lần đi ăn, người tỵ nạn ở đảo Wake thường "tụm năm túm ba" bàn luận, hỏi thăm nhau, hay thuật lại cho nhau nghe những chuyện hy hữu xẩy ra hồi miền Nam thất thủ.
    Bình còn nhớ, mấy ngày đầu tiên đến đảo Wake. Anh và Thu Mai "năng nổ" hơn nhiều người khác. Khi đi khai lý lịch cũng như khi đứng xếp hàng đi ăn, hễ gặp ai, hai người cũng "xúm lại", hỏi thăm tin tức, hay kể lể sự tình. Nào là chuyện về ông bà Hữu --- song thân của Thu Mai ở Thị Nghè. Nào là chuyện của Tuấn và Diễm Hiền, của Thảo và bé Hạnh ở Biên Hoà. Có lẽ, đậm nét nhất trong ký ức của Bình là chuyện xẩy ra trong nhà ăn Xanh.

    Hôm ấy, Bình và Thu Mai gặp người đồng cảnh, cư ngụ ở khu nhà thờ Thị Nghè. Ông ta kể lại rằng, vào khoảng 12 giờ trưa ngày 30-4-1975 thì bọn VC nằm vùng trong xóm, xuất đầu lộ diện. Chúng đột nhập vào nhà ông, bắt ông về "tội" mà chúng cáo buc là "làm tay sai cho CIA". Ông xin chúng thương tình, xét lại:
    - Từ trước đến nay, tôi có biết CIA là cái quái gì đâu! Oan cho tôi quá.

    Lúc ấy, ông đang cởi trần --- chỉ có chiếc quần cụt che thân. Nên ông phải năn nỉ nhiều lần, chúng mới cho vào phòng trong để "mặc áo". Trong khi vợ con của ông khóc lóc ẫm ĩ thì ông nhanh trí. Thay vì vào phòng "mặc áo", ông trèo qua tường ở phía sau nhà, rồi leo lên mái tôn, tuột xuống phía bên kia đường và trốn thoát.
    "Vĩnh biệt vợ con, lòng đau như cắt, tôi không kịp... không thể nào nói... đôi lời trăng trối!

    Tuổi già sức yếu, vài ba năm nữa là xuống lỗ, làm sao vợ chồng tôi có thể gặp lại nhau? Đứa cháu nội tôi gần 3 tuổi, đang bập bẹ tập nói. Mỗi lần.... tôi đi đâu về thì nó lon ton chạy ra cửa, đòi ông nội bồng".
    Bình ngậm ngùi, nghe ông ta khóc mếu, kể lại tâm sự. Còn Thu Mai thì chạnh lòng trước cảnh gia đình ly tán, sụt sùi khóc theo.

    Bây giờ, trở lại chuyện xếp hàng vào nhà ăn Xanh. Nghe anh em Không Quân nói chuyện về tình cảnh của đồng đội và đồng bào ở quê nhà, Bình chỉ còn biết "than vắn thở dài".
    - Đêm hôm qua, mình nghe đài VOA.
    - Có tin gì lạ không?
    - Không có gì lạ hơn là bài bình luận thời sự.
    - Anh tóm lược nội dung.
    - Đại ý là Cộng Sản VN đang áp dụng đường lối cai trị bằng bao tử. Gia đình nào cũng phải có sổ hộ khẩu để mua thực phẩm. Hiện thời, nhiều người phải ăn bo bo thay cho cơm. Ở Sài Gòn và các thành phố lớn như Đà Nẵng, Huế và Cần Thơ, hàng chục ngàn người bị đuổi ra khỏi nhà. Không những tài sản bị tịch thu mà chủ nhà và gia đình còn phải đi đến vùng "Kinh Tế Mới".

    Khổ nhất là các gia đình Quân Nhân, Công Chức VNCH -- đang bị công an VC hạch hỏi và hăm doạ. Có nhiều thiếu phụ còn trẻ, chồng đi tù VC, đã bị dụ dỗ, bị ép buc làm vợ bé, hay cặp bồ với công an, hoặc Bộ Đội. Làm như vậy, mấy cô, mấy bà mới có tiền nuôi con và tránh khỏi bị hạch hỏi, hay bị hăm dọa.
    Trong khi anh em Không Quân nói chuyện ồn ào thì Bình đứng lắng nghe, đôi mắt ngơ ngác nhìn về phía bờ biển, lo nghĩ liên miên về Tuấn và Diễm Hiền; về Thảo và bé Hạnh. Anh chỉ còn biết cầu mong cho Diễm Hiền và Thảo, thoát khỏi thảm cảnh đoạn trường.


    Posted by SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH at 2:57 PM

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X