Đảo Chánh 1/11/1963
Phạm Bá Hoa
( Dinh Gia Long sau đảo chánh 1-11-1963 )
Ngày 8 tháng 5 năm 1963, Phật tử thành phố Huế biểu tình trước đài phát thanh đòi được treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản, đã bị đàn áp bằng bạo lực gây thiệt hại nhân mạng. Vài ngày sau đó, Thượng Tọa Thích Tịnh
Khiết, vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo đã gởi bản Tuyên Ngôn lên chánh phủ, trong đó, Phật Giáo đòi được hưởng chế độ ngang hàng với Thiên Chúa Giáo. Chánh phủ đã bắt giam nhiều chức sắc lãnh đạo của Phật Giáo tại nhiều nơi, nhất là tại Huế.
Trung tuần tháng 6/1963, Thượng Tọa Thích Quảng Đức, trụ trì một ngôi chùa nhỏ vùng Phú Nhuận (Sài Gòn), đã tự thiêu tại góc đường Lê văn Duyệt và Phan đình Phùng, trung tâm thủ đô Sài Gòn, trước các ống kính của rất nhiều nhà báo Việt Nam và ngoại quốc. Rồi sau đó, lần lượt thêm bảy tám vụ tự thiêu nữa tại các tỉnh. Không khí chính trị sôi sục với những cuộc mít tinh biểu tình của đông đảo sinh viên học sinh, đồng bào -nhất là đồng bào Phật tử- lác đác có cả Quân Nhân viên chức và Cảnh Sát nữa. Nhiều phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình ngoại quốc -nhất là Hoa Kỳ- đến Việt Nam ghi nhận và đánh giá tình hình.
THIẾT QUÂN LUẬT
Trước khi hết giờ làm việc chiều ngày 20/8/1963, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, gọi tôi vào văn phòng
- Tối nay, chú với mấy chú văn phòng làm việc tại đây. Chú cho mấy chú luân phiên về dùng cơm rồi trở lại ngay.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi cầm quyền vào tháng 7/1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh bộ Tổng Tham Mưu ban hành lệnh thiết quân luật trong phạm vi thủ đô Sài Gòn để Cảnh Sát cùng mật vụ bao vây các chùa, tìm bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang, vị sư được xem là lãnh đạo Phật Giáo. Nhưng với sự trợ giúp của nhân viên trong tòa đại sứ Hoa Kỳ, Thượng Tọa đã vượt rào vào khuôn viên tòa đại sứ và được phép tạm trú nơi đây.
Đảo chính 1-11-63 :
Thế là, từ đòi hỏi trong bản Tuyên Ngôn không được giải quyết, đến các vụ tự thiêu để phản đối chánh phủ, rồi đến vụ nhà cầm quyền vây bắt hụt Thượng Tọa Thích Trí Quang, dần dần đẩy Phật Giáo đến cuộc tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động tại hầu hết các tỉnh miền Trung và một số tỉnh miền Nam, đã làm cho tình hình chung của Việt Nam Cộng Hòa trở nên tệ hại hơn bao giờ hết, kể từ sau Hiệp Định Đình Chiến Genève năm 1954.
Đấy là phản ứng quyết liệt của giáo hội Phật Giáo và Phật tử trên toàn quốc. Với một tình hình như vậy, đã làm cho hầu hết các nước trong khối Tự Do, kể cả Hoa Kỳ là quốc gia ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm mạnh mẽ nhất, đều phản đối chính sách tôn giáo trong hành động đàn áp bắt giữ các chức sắc Phật Giáo và Phật tử Việt Nam. Trước dư luận quốc nội lẫn quốc tế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khó mà biện minh chính sách kỳ thị tôn giáo, cho dù lệnh cấm treo cờ Phật Giáo cũng như lệnh dùng bạo lực trực tiếp hay không trực tiếp do Tổng Thống ban hành cũng vậy. Vì thuở ấy, quyền lực rất lớn trong tay hai em của Tổng Thống là ông Ngô Đình Nhu "Cố Vấn Chính Trị" và ông Ngô Đình Cẩn "Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung".
Ông Ngô Đình Diệm, được Quốc Trưởng Bảo Đại mời về Việt Nam vào giữa năm 1954 và nhận chức Thủ Tướng ngày 7/7/1954. Thật ra thì Quốc Trưởng Bảo Đại cũng không bằng lòng cho lắm khi giao chức Thủ Tướng cho ông Diệm, nhưng vì không có cách lựa chọn nào khá hơn. Với lại từ trong hậu trường, ông Ngô Đình Diệm đã được Hoa Kỳ ủng hộ.
Ông Bảo Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã bị Việt Minh cộng sản cưỡng bách thoái vị vào mùa thu năm 1945. Đến năm 1949, chánh phủ Pháp đưa về Việt Nam (từ Pháp) nhận chức Quốc Trưởng do Pháp "đề cử" dù là có những cuộc hội họp của các nhà chính trị Việt Nam như là sự vận động với Pháp, để giúp cho cuộc chiến tranh xâm lược lần hai của thực dân Pháp khả dĩ có màu sắc cuộc chiến tranh nội bộ của Việt Nam, mà nước Pháp có mặt để "giúp đở"(!) Việt Nam chống cộng sản. Với chức vụ cao nhất nước cho dù bị giới hạn quyền hành, nhưng ông đã không tận dụng thực dân Pháp để vừa xây dựng quốc gia non trẻ vừa chống lại chủ nghĩa cộng sản đang bắt rễ tại Việt Nam, mà ông lại sống nhàn nhã trên đất Pháp nhiều thời gian hơn là có mặt trên quê hương Việt Nam đầy sóng gió!
Trong khi đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, ông bắt đầu có những chống đối Quốc Trưởng, và đặc biệt là ông đã không tuân lệnh Quốc Trưởng gọi sang Pháp nhận lệnh. Thủ Tướng Diệm vội vã xúc tiến
tổ chức cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 23/10/1955. Kết quả là cựu hoàng Bảo Đại bị truất phế khỏi chức Quốc Trưởng, và Thủ Tướng Diệm trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam từ ngày 26/10/1955. Từ đó, ngày này được chọn làm ngày Quốc Khánh hằng năm. Tiếp sau, Tổng Thống Diệm công bố: "Việt Nam là một nước Cộng Hòa", và danh xưng của Việt Nam là "Việt Nam Cộng Hòa".
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong những năm đầu cầm quyền, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đã được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận và thiết lập bang giao. Ông đã ổn định được cuộc sống cho non một triệu người từ miền Bắc chạy trốn chế độ cộng sản trước khi chúng tiến vào các thành phố trên đất Bắc theo Hiệp Định đình chiến Genève 20/7/1954. Hiệp Định này chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà trên địa thế là sông Bến Hải với cầu Hiền Lương. Từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ độc tài do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa theo chế độ dân chủ tự do. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã cải thiện được tình hình kinh tế xã hội trong mức độ khả quan.
Về quân sự. Theo sự cố vấn của phái bộ quân sự Hoa Kỳ, quân đội đã được tổ chức lại và phát triển từ cấp Tiểu Đoàn lên cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn, trên căn bản quân đội trong chiến tranh qui ước. Mọi dụng cụ chiến tranh trang bị cho quân đội, đều do Hoa Kỳ cung cấp.
Về chính trị. Ông đã thành công đáng kể trong nổ lực ôn hòa lẫn sử dụng võ lực trong mục đích đem lực lượng võ trang của Bình Xuyên, của Hòa Hảo, và Cao Đài về hợp tác hoặc giải thể. Lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài, là hai lực lượng chống cộng sản quyết liệt.
Đó là sự thành công bước đầu không ai phủ nhận được. Nhưng, dần đần về sau, chế độ dưới quyền Tổng Thống đã thể hiện tính cách "gia đình trị", bởi vì ngoài Tổng Thống ra, còn có:
- Thứ nhất, em trai Ngô Đình Nhu trong chức vụ Cố Vấn Chính Trị, và vợ ông Nhu là bà Trần Lệ Xuân, rất nhiều quyền lực trong tay vì Tổng Thống Diệm vẫn còn độc thân.
- Thứ nhì, em trai Ngô Đình Cẩn trong chức vụ không hề có trong tổ chức quốc gia là Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung, ông sống độc thân. Là người không có văn bản bổ nhiệm nhưng lại có toàn quyền đối với các tỉnh duyên hải miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên/Huế, Quảng Nam Đà Nẳng, Quảng Tín, và Quảng Ngãi. Quyền lực của ông có thể xem như "vị sứ quân" của 5 tỉnh này.
- Thứ ba, anh trai Ngô Đình Thục, Tổng Giám Mục địa phận Vĩnh Long, về sau là địa phận Huế. Tuy là chức sắc trong tôn giáo, nhưng tiếng nói của ông ảnh hưởng rất lớn đối với công việc chánh quyền mà các em của ông nắm giữ.
-Thứ tư, em trai Ngô Đình Luyện, Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh quốc, được xem là người ít dính dáng đến những tệ hại mà các anh của ông gây ra trên quê hương.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hai em của ông là Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, đã lần lượt dẹp các tổ chức chính trị đối lập bằng cách "thanh toán" các nhà chính trị trong những tổ chức đó.
Rồi đến sự lộng hành của bà Trần Lệ Xuân -em dâu ông- tại các diễn đàn quốc tế cũng như quốc nội, đặc biệt là trong thời gian xảy ra cuộc đàn áp Phật Giáo nhiều nơi trên toàn quốc, bà đã nhiều lần tuyên bố công khai với vẻ miệt thị
và tàn nhẫn khi nói đến những vụ tự thiêu của các nhà sư phản đối chánh quyền, bà gọi đó là "các nhà sư nướng thịt người thì cứ để họ nướng..."
Những sự kiện đó đã đưa người dân từ ủng hộ chánh phủ lúc đầu, dần dần trở nên bất mãn, đến mức căm thù chế độ mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người trách nhiệm chính.
Vậy, sự kiện đàn áp Phật Giáo ngày 8/5/63 và những hành động tệ hại tiếp theo, là nguyên nhân quốc nội dẫn đến cuộc đảo chánh 1/11/63. Tôi nói "nguyên nhân quốc nội", vì theo tôi, còn có "nguyên nhân quốc tế" nữa.
( Lý do bài của tác giả quá dài không thề load một lần, quí vị vui lòng xem phần II & III tiếp theo ..... )
Phạm Bá Hoa
Lời trần tình
Trước khi bắt đầu tôi rất đắn đo, vì muốn ghi lại sự kiện trung thực ít nhất cũng là trung thực với tôi về những gì mà tôi biết và những gì mà tôi làm, tất nhiên là khó tránh khỏi những đụng chạm đến quí vị, đặc biệt là đối với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, và Đại Tướng Nguyễn Khánh. Riêng với Đại Tướng Khiêm và Đại Tướng Viên, là hai vị mà tôi luôn ghi nhớ nghĩa ân, bởi vì tôi không có một thân nhân hay một bạn bè nào quen biết khi bước vào quân ngũ năm 1954. Cho đến cuối năm 1961, đang trong trách nhiệm Trưởng ban hành quân/Phòng 3 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tôi được cử giữ chức Chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn mà Đại Tướng Khiêm lúc đó là Đại Tá Tư Lệnh. Từ đó cho đến ngày cuộc chiến ngưng tiếng súng trong nỗi tức tưởi của hằng triệu quân nhân dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, và những lá quân kỳ từng tung bay trong hào quang chiến thắng, tôi có môi trường thuận lợi tiếp xúc với nhiều vị Tướng lãnh cũng như nhiều giới chức trong cơ quan lập pháp, hành pháp, và các cơ quan kinh tế.
Tôi biết có những vị gần như mai danh ẩn tích từ khi đến Hoa Kỳ sau ngày đất nước vào tay cộng sản 30/4/1975, nhưng tôi xin phép được nhắc đến quí vị trong tập sách, và tôi chỉ nói đến quí vị ở khía cạnh quí vị là những vị lãnh
đạo Quốc Gia, lãnh đạo Quân Lực, chớ tôi không nói đến những riêng tư của quí vị. Tôi xin tôn trọng phần riêng tư đó. Về những gì tôi viết vào đây, có thể có sự kiện nào đó mà quí vị cho là không chính xác, nhưng theo tôi, tôi thấy đã đủ thận trọng trong cách nhìn của tôi khi viết những trang sách nhỏ này. Biết đâu, có những điều mà tôi nói lên được sự thật liên quan đến quí vị mà nhiều chục năm qua chính quí vị cũng chưa biết đến, và cũng có thể tôi làm sáng tỏ được điều gì đó đối với dư luận dù rằng quí vị cho là có hay không có cũng chẳng sao.
Thế hệ chúng ta đã học nhiều bài học quí báu từ trong lịch sử, và vận dụng vào bổn phận công dân trong trách nhiệm bảo vệ quốc gia. Rồi đây, những thế hệ sau chúng ta, cũng cần đến lịch sử mà thế hệ chúng ta sẽ là một phần quan trọng trong đó, và quí vị là thành phần quan trọng hơn hết trong giai đoạn lịch sử 1954 - 1975.
Lịch sử một dân tộc không thể tự nhiên mà có. Muốn có được lịch sử, tôi nghĩ, sau chặng đường phục vụ quốc gia dân tộc, mỗi người trong bất cứ lãnh vực nào của xã hội, cần viết lại trên giấy trắng mực đen về những hiểu biết xác thực của mình trong từng phạm vi trách nhiệm lúc đương thời, và viết với một trạng thái tâm hồn thật bình thản. Từ đó, những nhà viết sử gom góp lại, chọn lọc, phân tách, đánh giá, và tạo nên những dòng sử qua từng giai đoạn thăng
trầm của đất nước. "Tiếng thơm muôn đời hay lời sỉ nhục lưu mãi trong sử”
Trước khi bắt đầu tôi rất đắn đo, vì muốn ghi lại sự kiện trung thực ít nhất cũng là trung thực với tôi về những gì mà tôi biết và những gì mà tôi làm, tất nhiên là khó tránh khỏi những đụng chạm đến quí vị, đặc biệt là đối với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, và Đại Tướng Nguyễn Khánh. Riêng với Đại Tướng Khiêm và Đại Tướng Viên, là hai vị mà tôi luôn ghi nhớ nghĩa ân, bởi vì tôi không có một thân nhân hay một bạn bè nào quen biết khi bước vào quân ngũ năm 1954. Cho đến cuối năm 1961, đang trong trách nhiệm Trưởng ban hành quân/Phòng 3 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tôi được cử giữ chức Chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn mà Đại Tướng Khiêm lúc đó là Đại Tá Tư Lệnh. Từ đó cho đến ngày cuộc chiến ngưng tiếng súng trong nỗi tức tưởi của hằng triệu quân nhân dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, và những lá quân kỳ từng tung bay trong hào quang chiến thắng, tôi có môi trường thuận lợi tiếp xúc với nhiều vị Tướng lãnh cũng như nhiều giới chức trong cơ quan lập pháp, hành pháp, và các cơ quan kinh tế.
Tôi biết có những vị gần như mai danh ẩn tích từ khi đến Hoa Kỳ sau ngày đất nước vào tay cộng sản 30/4/1975, nhưng tôi xin phép được nhắc đến quí vị trong tập sách, và tôi chỉ nói đến quí vị ở khía cạnh quí vị là những vị lãnh
đạo Quốc Gia, lãnh đạo Quân Lực, chớ tôi không nói đến những riêng tư của quí vị. Tôi xin tôn trọng phần riêng tư đó. Về những gì tôi viết vào đây, có thể có sự kiện nào đó mà quí vị cho là không chính xác, nhưng theo tôi, tôi thấy đã đủ thận trọng trong cách nhìn của tôi khi viết những trang sách nhỏ này. Biết đâu, có những điều mà tôi nói lên được sự thật liên quan đến quí vị mà nhiều chục năm qua chính quí vị cũng chưa biết đến, và cũng có thể tôi làm sáng tỏ được điều gì đó đối với dư luận dù rằng quí vị cho là có hay không có cũng chẳng sao.
Thế hệ chúng ta đã học nhiều bài học quí báu từ trong lịch sử, và vận dụng vào bổn phận công dân trong trách nhiệm bảo vệ quốc gia. Rồi đây, những thế hệ sau chúng ta, cũng cần đến lịch sử mà thế hệ chúng ta sẽ là một phần quan trọng trong đó, và quí vị là thành phần quan trọng hơn hết trong giai đoạn lịch sử 1954 - 1975.
Lịch sử một dân tộc không thể tự nhiên mà có. Muốn có được lịch sử, tôi nghĩ, sau chặng đường phục vụ quốc gia dân tộc, mỗi người trong bất cứ lãnh vực nào của xã hội, cần viết lại trên giấy trắng mực đen về những hiểu biết xác thực của mình trong từng phạm vi trách nhiệm lúc đương thời, và viết với một trạng thái tâm hồn thật bình thản. Từ đó, những nhà viết sử gom góp lại, chọn lọc, phân tách, đánh giá, và tạo nên những dòng sử qua từng giai đoạn thăng
trầm của đất nước. "Tiếng thơm muôn đời hay lời sỉ nhục lưu mãi trong sử”
( Dinh Gia Long sau đảo chánh 1-11-1963 )
Ngày 8 tháng 5 năm 1963, Phật tử thành phố Huế biểu tình trước đài phát thanh đòi được treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản, đã bị đàn áp bằng bạo lực gây thiệt hại nhân mạng. Vài ngày sau đó, Thượng Tọa Thích Tịnh
Khiết, vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo đã gởi bản Tuyên Ngôn lên chánh phủ, trong đó, Phật Giáo đòi được hưởng chế độ ngang hàng với Thiên Chúa Giáo. Chánh phủ đã bắt giam nhiều chức sắc lãnh đạo của Phật Giáo tại nhiều nơi, nhất là tại Huế.
Trung tuần tháng 6/1963, Thượng Tọa Thích Quảng Đức, trụ trì một ngôi chùa nhỏ vùng Phú Nhuận (Sài Gòn), đã tự thiêu tại góc đường Lê văn Duyệt và Phan đình Phùng, trung tâm thủ đô Sài Gòn, trước các ống kính của rất nhiều nhà báo Việt Nam và ngoại quốc. Rồi sau đó, lần lượt thêm bảy tám vụ tự thiêu nữa tại các tỉnh. Không khí chính trị sôi sục với những cuộc mít tinh biểu tình của đông đảo sinh viên học sinh, đồng bào -nhất là đồng bào Phật tử- lác đác có cả Quân Nhân viên chức và Cảnh Sát nữa. Nhiều phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình ngoại quốc -nhất là Hoa Kỳ- đến Việt Nam ghi nhận và đánh giá tình hình.
THIẾT QUÂN LUẬT
Trước khi hết giờ làm việc chiều ngày 20/8/1963, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, gọi tôi vào văn phòng
- Tối nay, chú với mấy chú văn phòng làm việc tại đây. Chú cho mấy chú luân phiên về dùng cơm rồi trở lại ngay.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi cầm quyền vào tháng 7/1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh bộ Tổng Tham Mưu ban hành lệnh thiết quân luật trong phạm vi thủ đô Sài Gòn để Cảnh Sát cùng mật vụ bao vây các chùa, tìm bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang, vị sư được xem là lãnh đạo Phật Giáo. Nhưng với sự trợ giúp của nhân viên trong tòa đại sứ Hoa Kỳ, Thượng Tọa đã vượt rào vào khuôn viên tòa đại sứ và được phép tạm trú nơi đây.
Đảo chính 1-11-63 :
Thế là, từ đòi hỏi trong bản Tuyên Ngôn không được giải quyết, đến các vụ tự thiêu để phản đối chánh phủ, rồi đến vụ nhà cầm quyền vây bắt hụt Thượng Tọa Thích Trí Quang, dần dần đẩy Phật Giáo đến cuộc tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động tại hầu hết các tỉnh miền Trung và một số tỉnh miền Nam, đã làm cho tình hình chung của Việt Nam Cộng Hòa trở nên tệ hại hơn bao giờ hết, kể từ sau Hiệp Định Đình Chiến Genève năm 1954.
Đấy là phản ứng quyết liệt của giáo hội Phật Giáo và Phật tử trên toàn quốc. Với một tình hình như vậy, đã làm cho hầu hết các nước trong khối Tự Do, kể cả Hoa Kỳ là quốc gia ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm mạnh mẽ nhất, đều phản đối chính sách tôn giáo trong hành động đàn áp bắt giữ các chức sắc Phật Giáo và Phật tử Việt Nam. Trước dư luận quốc nội lẫn quốc tế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khó mà biện minh chính sách kỳ thị tôn giáo, cho dù lệnh cấm treo cờ Phật Giáo cũng như lệnh dùng bạo lực trực tiếp hay không trực tiếp do Tổng Thống ban hành cũng vậy. Vì thuở ấy, quyền lực rất lớn trong tay hai em của Tổng Thống là ông Ngô Đình Nhu "Cố Vấn Chính Trị" và ông Ngô Đình Cẩn "Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung".
Ông Ngô Đình Diệm, được Quốc Trưởng Bảo Đại mời về Việt Nam vào giữa năm 1954 và nhận chức Thủ Tướng ngày 7/7/1954. Thật ra thì Quốc Trưởng Bảo Đại cũng không bằng lòng cho lắm khi giao chức Thủ Tướng cho ông Diệm, nhưng vì không có cách lựa chọn nào khá hơn. Với lại từ trong hậu trường, ông Ngô Đình Diệm đã được Hoa Kỳ ủng hộ.
Ông Bảo Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã bị Việt Minh cộng sản cưỡng bách thoái vị vào mùa thu năm 1945. Đến năm 1949, chánh phủ Pháp đưa về Việt Nam (từ Pháp) nhận chức Quốc Trưởng do Pháp "đề cử" dù là có những cuộc hội họp của các nhà chính trị Việt Nam như là sự vận động với Pháp, để giúp cho cuộc chiến tranh xâm lược lần hai của thực dân Pháp khả dĩ có màu sắc cuộc chiến tranh nội bộ của Việt Nam, mà nước Pháp có mặt để "giúp đở"(!) Việt Nam chống cộng sản. Với chức vụ cao nhất nước cho dù bị giới hạn quyền hành, nhưng ông đã không tận dụng thực dân Pháp để vừa xây dựng quốc gia non trẻ vừa chống lại chủ nghĩa cộng sản đang bắt rễ tại Việt Nam, mà ông lại sống nhàn nhã trên đất Pháp nhiều thời gian hơn là có mặt trên quê hương Việt Nam đầy sóng gió!
Trong khi đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, ông bắt đầu có những chống đối Quốc Trưởng, và đặc biệt là ông đã không tuân lệnh Quốc Trưởng gọi sang Pháp nhận lệnh. Thủ Tướng Diệm vội vã xúc tiến
tổ chức cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 23/10/1955. Kết quả là cựu hoàng Bảo Đại bị truất phế khỏi chức Quốc Trưởng, và Thủ Tướng Diệm trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam từ ngày 26/10/1955. Từ đó, ngày này được chọn làm ngày Quốc Khánh hằng năm. Tiếp sau, Tổng Thống Diệm công bố: "Việt Nam là một nước Cộng Hòa", và danh xưng của Việt Nam là "Việt Nam Cộng Hòa".
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong những năm đầu cầm quyền, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đã được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận và thiết lập bang giao. Ông đã ổn định được cuộc sống cho non một triệu người từ miền Bắc chạy trốn chế độ cộng sản trước khi chúng tiến vào các thành phố trên đất Bắc theo Hiệp Định đình chiến Genève 20/7/1954. Hiệp Định này chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà trên địa thế là sông Bến Hải với cầu Hiền Lương. Từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ độc tài do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa theo chế độ dân chủ tự do. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã cải thiện được tình hình kinh tế xã hội trong mức độ khả quan.
Về quân sự. Theo sự cố vấn của phái bộ quân sự Hoa Kỳ, quân đội đã được tổ chức lại và phát triển từ cấp Tiểu Đoàn lên cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn, trên căn bản quân đội trong chiến tranh qui ước. Mọi dụng cụ chiến tranh trang bị cho quân đội, đều do Hoa Kỳ cung cấp.
Về chính trị. Ông đã thành công đáng kể trong nổ lực ôn hòa lẫn sử dụng võ lực trong mục đích đem lực lượng võ trang của Bình Xuyên, của Hòa Hảo, và Cao Đài về hợp tác hoặc giải thể. Lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài, là hai lực lượng chống cộng sản quyết liệt.
Đó là sự thành công bước đầu không ai phủ nhận được. Nhưng, dần đần về sau, chế độ dưới quyền Tổng Thống đã thể hiện tính cách "gia đình trị", bởi vì ngoài Tổng Thống ra, còn có:
- Thứ nhất, em trai Ngô Đình Nhu trong chức vụ Cố Vấn Chính Trị, và vợ ông Nhu là bà Trần Lệ Xuân, rất nhiều quyền lực trong tay vì Tổng Thống Diệm vẫn còn độc thân.
- Thứ nhì, em trai Ngô Đình Cẩn trong chức vụ không hề có trong tổ chức quốc gia là Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung, ông sống độc thân. Là người không có văn bản bổ nhiệm nhưng lại có toàn quyền đối với các tỉnh duyên hải miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên/Huế, Quảng Nam Đà Nẳng, Quảng Tín, và Quảng Ngãi. Quyền lực của ông có thể xem như "vị sứ quân" của 5 tỉnh này.
- Thứ ba, anh trai Ngô Đình Thục, Tổng Giám Mục địa phận Vĩnh Long, về sau là địa phận Huế. Tuy là chức sắc trong tôn giáo, nhưng tiếng nói của ông ảnh hưởng rất lớn đối với công việc chánh quyền mà các em của ông nắm giữ.
-Thứ tư, em trai Ngô Đình Luyện, Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh quốc, được xem là người ít dính dáng đến những tệ hại mà các anh của ông gây ra trên quê hương.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hai em của ông là Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, đã lần lượt dẹp các tổ chức chính trị đối lập bằng cách "thanh toán" các nhà chính trị trong những tổ chức đó.
Rồi đến sự lộng hành của bà Trần Lệ Xuân -em dâu ông- tại các diễn đàn quốc tế cũng như quốc nội, đặc biệt là trong thời gian xảy ra cuộc đàn áp Phật Giáo nhiều nơi trên toàn quốc, bà đã nhiều lần tuyên bố công khai với vẻ miệt thị
và tàn nhẫn khi nói đến những vụ tự thiêu của các nhà sư phản đối chánh quyền, bà gọi đó là "các nhà sư nướng thịt người thì cứ để họ nướng..."
Những sự kiện đó đã đưa người dân từ ủng hộ chánh phủ lúc đầu, dần dần trở nên bất mãn, đến mức căm thù chế độ mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người trách nhiệm chính.
Vậy, sự kiện đàn áp Phật Giáo ngày 8/5/63 và những hành động tệ hại tiếp theo, là nguyên nhân quốc nội dẫn đến cuộc đảo chánh 1/11/63. Tôi nói "nguyên nhân quốc nội", vì theo tôi, còn có "nguyên nhân quốc tế" nữa.
( Lý do bài của tác giả quá dài không thề load một lần, quí vị vui lòng xem phần II & III tiếp theo ..... )
Comment