Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Phát Triển Tương Thân là chìa khóa Giáo Dục

Collapse
X

Phát Triển Tương Thân là chìa khóa Giáo Dục

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Phát Triển Tương Thân là chìa khóa Giáo Dục

    VRNs (27.06.2010) – Sài Gòn - Tình Tương Thân giúp con người hòa hiệp thành một. Việc Phát Triển làm cho con người thể hiện trọn vẹn mọi đặc tính của mình, và nhờ đó, thể hiện bình đẳng trong cuộc sống.

    Tình Tương Thân thúc đẩy Việc Phát Triển, Việc Phát Triển thể hiện Tình Tương Thân. Cuộc sống cá nhân cần có cuộc sống xã hội, và cuộc sống xã hội cần có cuộc sống cá nhân. Sống thân thương thể hiện bình đẳng, và sống bình đẳng thể hiện thân thương.

    Đây là ý tưởng của nhà nghiên cứu Phạm Văn Bản, cộng tác viên của www.chuacuuthe.com đưa ra nhằm góp thêm một tiếng nói cho những ai có trách nhiệm hoạch định chiến lược cho nền giáo dục quê nhà.


    I. Mục đích

    Trong chiều hướng lễ và văn, mục đích của giáo dục không đơn thuần nhắm vào học hỏi để tạo ra khả năng lý luận hay trình độ nhận thức, mà còn đào tạo một thái độ thích ứng và chính đáng – chính đại quang minh (1*) – đối với chính mình, với gia đình, với xã hội, với quốc gia dân tộc. Nói cách khác, sự giáo dục và đào tạo con người, dù ở bất cứ thời đại nào cũng cần đặt nền tảng, theo nguyên tắc “Tình Tương Thân, và Việc Phát Triển” của Con Người – Phát triển mọi tiềm năng và sức sống của con người. Phát triển là khát vọng trổi vượt, trổi vượt chính mình và trổi vượt ngoại cảnh.

    Phát triển mọi hình thái cuộc sống con người, từ mạnh khỏe, an lành, kiến thức, khôn ngoan, tài giỏi, tâm tình, đạo đức, may mắn, sống lâu… đến tiền bạc, tiện nghi, uy tín, danh vọng, quyền hành, chức tước… hoặc để lưu danh thiên cổ bằng lập đức, lập ngôn, lập công, lập duệ (dòng dõi đông đúc)… với những khám phá khoa học kỹ thuật, những tiến bộ tiện nghi… hoặc những sáng tạo như trồng cảnh, đánh cờ, ngâm thơ… tu tâm dưỡng tính… hoặc tìm hiểu và phát triển những tiềm năng siêu vật chất, vượt thời không của Con Người. Tất cả đều giúp phát triển Con Người một cách tốt đẹp, miễn sao thể hiện đúng nguyên tắc “Tài Của giúp người, và Mọi Người cùng hưởng.” (2*)

    II. Vấn Nạn Gíao Dục

    1. Cái Học Đông Phương

    a. Trong “Việt Nam Sử Lược” (1919), học giả Trần Trọng Kim nhận định rằng người Việt Nam chúng ta vốn chuộng cái học nên số người đi học cũng nhiều, tuy nhiên việc học hành càng lúc càng thoái hóa, vì nhiều người đi học chỉ mong làm quan hầu có địa vị, để ăn trên ngồi trốc trong xã hội. Tác giả nói rằng: “Bao nhiêu công phu của người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư Ngũ Kinh, cùng những lời thể chú của tiền nho trong những sách ấy, và học thêm mấy bộ sử Trung Hoa. Còn sự luyện tập hàng ngày, thì cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.

    Sự học của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra một thứ cố tật không sao chữa được... Đại khái, cái trình độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bây giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà còn kém cỏi như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được.”

    b. Đọc tiếp cuốn “Quốc Triều Chánh Biên,” Thượng Thư Bộ Học Cao Xuân Dục chủ biên, sách do Bộ Học theo chỉ dụ vua Khải Định năm thứ 9 thực hiện và dịch ra từ Việt Nho sang Quốc Ngữ, chúng ta hãy nghe Hòang Đế Minh Mạng có nhận xét về giáo dục như sau: “Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đă quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại.”

    Vâng, vua Minh Mạng (1791-1841) là người thông minh, cởi mở, và có cái nhìn tinh tế về sự kiện hủ lậu của Nho gia. Ngài muốn canh tân học hành thi cử, nhưng vì triều thần gồm quan lại hủ nho, tham lam quyền lực… nhưng còn thua Cộng Sản thời nay! Không ai có “viễn kiến chính trị” giúp vua soạn thảo một chương trình “quốc phú dân cường.” Đang khi ở Nhật Bản lại có người đề xướng: “Nhật Bản muốn tránh tình trạng bị đô hộ thì cần có một chính quyền mạnh, hợp thời và kỹ thuật hạng nhất của Tây phương.” Bởi thế Hoàng Đế Mutsuhito (1852 - 1912) sau khi lên ngôi một năm, đã ký sắc lệnh cải tổ chính trị và chuyển việc điều hành quốc gia xuống cho các bộ. Ngài đã làm được cuộc cách mạng gọi là Minh Trị: Enlightened rule xứng danh Minh Trị Thiên Hoàng, khai sáng một kỷ nguyên hoàng kim Minh Trị (Meiji Era) trong lịch sử Nhật Bản, một nước có nền kinh tế xếp hạng sau Hoa Kỳ thời nay.

    c. Sau hai trăm năm, nhiều người Việt Nam đã phê phán Triều Nguyễn và nền Nho Học hủ lậu, không tiếc lời. Nhưng liệu rằng, nền Tây học và kỹ nghệ giáo dục hiện tại có thực sự tạo cho Việt Nam được mẫu người phục vụ cho nhân quần xã hội theo phương châm “Ngày nay đi học – Ngày mai giúp đời” để có thể làm cuộc cách mạng của Việt Nam như Nhật Bản? Người ta liệu rằng, đã vượt thoát khỏi tầm nhìn giáo dục của Hoàng Đế Minh Mạng hay Học Giả Trần Trọng Kim?

    2. Cái Học Tây Phương

    Xin lấy một nền giáo dục hiện đại nhất để chứng minh cho vấn nạn giáo dục. Nguy hại không do phát triển, mà do không ý thức trọn vẹn những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống xã hội, và công cuộc giáo dục, Hoa Kỳ đang gặp số vấn đề nan giải vừa kể, mà những nhà giáo dục phải đương đầu, đối phó “deal” với nạn học trò nghiện ngập, hút xách, phá thai, nhai kẹo cao su, hay mang súng đạn vào trường bắn giết thày cô và bạn bè.

    a. Kẹo cao su là thức nhai, được Lục Quân Hoa Kỳ cung cấp cho binh sĩ từ những thời Đệ Nhất Thế Chiến nhằm giảm chống buồn ngủ, hay chán nản nhớ nhà trong khi thi hành nhiệm vụ trực canh trên chiến tuyến quân đội đồng minh. Nhưng khi học sinh/sinh viên mang loại kẹo này vào học đường thì lại gây ra tai hại không lường, vì bã kẹo bám dính vào đầu tóc, áo quần, bàn ghế tường lớp. Chẳng những làm mất thẩm mỹ, mất vệ sinh mà kẹo cao su còn thành thứ vũ khí dùng cho học trò tinh nghịch kình chống lẫn nhau. Cuối cùng, những nhà giáo dục đã giải quyết nạn kẹo bằng cách làm luật nghiêm cấm học sinh/sinh viên mang kẹo cao su vào trường; kết quả có chăng khả dĩ.

    b. Nhưng trước nạn súng đạn trong trường, các nhà giáo dục không thể “deal” hay đối phó, mà phải xuống nước năn nỉ van xin, gọi là “appeal” cùng “chư vị tinh quái” đã được xếp vào hạng “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò!” Thày cô bất lực trước sự kiện con em xách súng vào trường nhả đạn và chỉ còn biết cầu cứu phụ huynh, ái hữu tôn giáo, lực lượng an ninh cảnh sát hỗ trợ. Với kỹ thuật tân tiến nhất thời đại, cảnh sát cũng chỉ có thể dùng súng trường bắn hạ từng em học trò tinh quái, trước sự chứng kiến và bưng mặt khóc than của mọi người… Bởi hệ thống giáo dục Hoa Kỳ đang bước vào khúc quanh hiểm nghèo vì chưa thực thi được sứ mệnh giáo dục; đó là đào tạo lớp người trẻ có thái độ chính đáng, “chính đại quang minh” đối với chính mình và đối với xã hội theo nguyên tắc “Tương Thân và Phát Triển” của nền Văn Hóa Việt Nam chúng ta.

    III. Nhìn chung các nền giáo dục

    Tổ chức giáo dục của Hoa Kỳ rất phức tạp trong thể chế liên bang với phương pháp tài trợ giáo dục, lại thêm nạn kỳ thị chủng tộc và những khác biệt trong quyết định hay thực thi chính sách giáo dục của chính quyền tiểu bang và địa phương… Vì giáo dục hướng về chủ nghĩa cá nhân và mở rộng đón nhận những yêu sách địa phương, những áp lực chính trị, cho nên mục đích của giáo dục là mối tương quan giữa giáo dục và hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình, mỗi nhóm người.

    Như chúng ta biết, Hoa Kỳ là một xã hội giai cấp và dựa trên bằng cấp. Giai cấp ưu đãi nhất được thừa hưởng mọi thành quả ích lợi xã hội, và là một nhóm đặc quyền. Giai cấp thiếu ưu đãi thì phải lãnh nhận gánh nặng xã hội và chịu mọi sự thiệt thòi, sưu cao thuế nặng. Quốc gia này đã vượt qua giai đoạn phát triển nông nghiệp và đại kỹ nghệ, và nay đang trong giai đoạn phát triển dịch vụ với chủ trương tăng gia mức tiêu thụ đại chúng để thâu lợi. Đúng ra, Hoa Kỳ hiện nay đã bước sang Thời Đại Tín Liệu (Information Revolution), chớ không còn ở Thời Đại Kỹ Nghệ (Industrial Revolution).

    Theo định chế giai cấp xã hội dựa trên bằng cấp đã mang lại số thành quả trong việc phát triển kinh tế, kỹ thuật… nhưng định chế này cũng mang lại sự tập trung quyền lực kinh tế chính trị vào tay nhóm đặc quyền, tức một thiểu số người và một số nghề nghiệp lương bổng cao, hưởng nhiều ưu tiên và được xã hội trọng vọng.

    Tới nay, nhiều người cho rằng tuyển chọn theo bằng cấp thì ứng hợp với tiêu chuẩn hiệu năng và quản trị khoa học. Điều này đúng, nhưng tiêu chuẩn này không đúng vì không mang lại việc phát triển trọn vẹn tài năng cho mọi lớp người và mọi nhóm chủng tộc trong một xã hội.

    Cho dù quốc gia này có hệ thống giáo dục tiểu học và trung học cưỡng bách, miễn phí. Hơn 3,100 trường đại học công lập và tư nhân, đã rộng cửa thâu nhận sinh viên ở mọi trình độ. Có khoảng 750,000 cơ quan chuyên cấp học bổng, và trong số học bổng đó có hơn 80% không đòi hỏi, không yêu cầu sinh viên phải học thật giỏi. Đặc tính giáo dục cấp tiến và dân chủ biểu lộ qua sự thành lập điều hành hệ thống đại học có hơn nửa số trường công lập làm rường cột cho nền giáo dục Hoa Kỳ. Tôn chỉ các trường đều là chương trình giáo dục phải thật là hay, để những con em thông minh hãnh diện là sinh viên của trường; và học phí thì phải là hạ, để giúp gia đình nghèo cũng có thể cho con em theo học.

    Trường đại học và phân khoa Hoa Kỳ được xếp hạng như sau: Đại Học Nghiên Cứu (Research University), các trường nổi tiếng như Harvard, Yale, Stanford, Columbia, Duke, Princeton, University of Pennsylvania... Ðại Học Kỹ Thuật (Technology University) các trường Massachusetts Institute of Technology (MIT), Stanford, Cornell, Michigan Ann Arbor, Illinois Urbana Champaign... Đại Học Khoa Học Nghệ Thuật (Liberal Arts College) các trường Williams, Amherst, Middlebury, Wellesley, Wesleyan... Đại Học Tiểu Bang và các trường công (State University and Public University). Đại Học Cộng Đồng (Community College). Phổ biến ở Hoa Kỳ là các loại trường Liberal Arts College, sinh viên không học chuyên về một ngành kỹ thuật (Engineering), mà học các môn khoa học tự nhiên (Natural Sciences), khoa học xã hội (Social Sciences) và các môn khoa học khác (Humanities).

    Đại học và các phân khoa của Hoa Kỳ chia thành những loại: Trường tiểu bang (State College/University) do chính quyền tiểu bang quản trị và cung cấp tài chính, và mỗi tiểu bang thường có một hay nhiều trường đại học tổng hợp và trường đại học đơn ngành. Trường tư (Private College/University) trường thâu học phí cao so với giá của trường tiểu bang. Trường địa phương (Community College) điều hành bởi quận/thành phố, và tổ chức nhiều lớp học ban đêm cho những sinh viên làm việc ban ngày. Trường nghề nghiệp (Professional School) đào tạo các ngành chuyên môn: thương mại, kỹ thuật, hội hoạ, âm nhạc, thể thao... và có thể tùy thuộc vào một trường đại học tổng hợp/ hoặc độc lập. Viện công nghệ (Institute of Technology) dạy khoa học và công nghệ theo chương trình bốn năm. Trường đạo (Schools run by Church) và nhiều trường đại học/hay phân khoa (College và University) các tôn giáo tổ chức và điều hành.

    Hoa Kỳ là xã hội giai cấp đặt tiêu chuẩn bằng cấp và gây cho giai cấp bất hạnh vì không bằng cấp, nhưng cũng chưa nguy hại như những xã hội dựa trên gia đình, Nhật Bản. Ngày trọng đại nhất trong đời của học trò Nhật là trúng tuyển đại học; ngược lại thi rớt thì phải vào học trường kỹ thuật. Trường đại học và trường kỹ thuật trở thành khoảng cách biệt và phân chia giai cấp quá lớn.

    Đang khi Anh Quốc, sinh viên muốn được ghi danh vào các trường đại học lớn Cambridge, Oxford… thì phải theo học các trường tư và nội trú… như St. Paul, Eton, Winschester, Harrow, Rugby là những trường có giá tiền học rất cao, thuộc giới thượng lưu. Pháp Quốc thì grandes écoles là bước đầu cho việc chuẩn bị vào đại học ở các trường lớn, và lycées là trúng tuyển vào các trường trung học công lập. Các kỳ thi tuyển ở Pháp rất khó, và đòi hỏi phải có ảnh hưởng quan hệ của gia đình. Sinh viên vào học các trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Supérieure), Bách Khoa Kỹ Thuật (Ecole Polytechnique), Nghiên Cứu Chính Trị (Institut d’Etudes Politiques), Quốc Gia Hành Chánh (Ecole Nationale d’Administration)… phải là con em của những gia đình giàu có thế giá trong lãnh vực chính trị và kinh tế thì mới được theo học.

    IV. Công Lý Tây phương

    Truyền thống Văn hóa Tây phương là “Chiếm Hữu,” và nền tảng cuộc sống của xã hội Tây phương là “Ai thắng thì có Công Lý.”

    Ngay từ thời xa xưa, người Tây phương đã có nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng cách đấu kiếm/ đấu súng. Có những cuộc thách đấu chết người chỉ do một câu nói chạm danh dự, là mời bạn hữu làm trọng tài giúp họ đấu kiếm hoặc đấu súng. Có thời người ta dùng sức giết chết một đối thủ mà vẫn được coi là phương pháp biểu lộ công lý.

    Ngày nay, chẳng những chúng ta còn thấy nguyên tắc này tràn ngập trong phim ảnh mà cả trong phản ứng hàng ngày. Bất cứ nơi đâu, khi có hai người đánh nhau – là tất cả những người khác vây lại cổ võ. Không ai nghĩ tới chuyện can gián, hoặc đem tình đem lý ra để hòa giải, để phân xử… ngoại trừ cảnh sát/ an ninh can thiệp để chấm dứt. Người ta hùa nhau mà khuyến khích, hò hét, đánh cá, mà không cần biết hai người đánh nhau vì lý do gì, cũng không cần biết ai đúng, ai sai… họ chỉ biết ai mạnh ai yếu, họ chỉ chờ đợi phút “knock out” để cổ võ cho người hùng thắng trận.

    Hai người đấu nhau, ai giết được người khác thì được hoan hô, được công nhận là đúng, là hợp lý, là ngay thật, là thanh liêm, là đạo đức… Ai mạnh hơn, ai rút súng nhanh, ai giết người giỏi thì công lý đứng về người đó. Đây không phải là chuyện xa xưa, mà hiện nay lại còn được nâng lên thành nền tảng của các chủ nghĩa, thành nguyên tắc đối xử giữa hai con người, cũng như hai nhóm người, hai công ty, hai đảng phái, hai quốc gia, hai khối thế giới tự do và cộng sản. Trường hợp Việt Nam Cộng Hòa là một ví dụ không ngoại lệ.

    Khi mạnh sức, đâm giỏi, bắn nhanh, thủ đọan và biểu lộ của công lý, thì thân phận của những người bình thường, không có tấc sắt trong tay sẽ ra sao?

    Khi “Tài và Sức là Công Lý” thì thân phận 99% nhân lọai kém tài, yếu sức sẽ ra sao? Khi chỉ biết tranh sức tranh tài, có gì khác ác thú, “ác thú đấu tranh!”

    Coi thường mạng sống con người là một trong những nét nổi bật của văn hóa phương Tây. Không ai có thể liệt kê hết những khủng khiếp của lịch sử người phương Tây đối xử với nhau, và với những giống dân khác trên thế giới… mà nhiều khi lại được coi là ơn ích, là văn minh của họ. Những đại anh hùng của họ thường đã là những tên tội đồ tàn ác nhất nơi các dân tộc khác. Lịch sử càng cận đại thì tai họa càng khủng khiếp hơn!

    Vết tích của quan niệm này được ghi trong những cuộc vui giải trí tổ chức để coi các đao phủ song đấu, hoặc coi sư tử xé xác người. Họ vui chơi bằng cách coi hai người giết nhau, coi đòan người khiếp sợ la hét trước thú dữ. Họ hoan hô và kính phục kẻ nào giết chết được người khác. Họ chê bai những con sư tử giết người quá mau, quá nhanh không cho họ thưởng thức nét kinh hòang của nạn nhân trước khi bị xé xác. Họ hả hê ra về khi vận động trường ướt đẫm máu người. Họ thích vào rạp mua vé xem “The Passion of Christ” của Mel Gibson là vậy!

    Họ còn được dạy thêm những gương “nhân đức” là phải tận diệt những giống dân cản trở họ, dù súc vật cũng không tha… phải thi nhau cầm đá ném chết người khác để chứng tỏ mình là người mộ mến và bảo vệ “thuần phong mỹ tục.” Ở thời nay, trước mắt chúng ta, mà nhiều kẻ đi coi đấu bò, coi những con thú bị đâm từng lát, máu chảy thành vòi. Họ hả hê thưởng thức cảnh kéo dài nỗi đau xé ruột của con vật bị thương, họ vỗ tay reo vui khi con thú vô tội quằn quại hấp hối… Ôi văn hóa! Ôi giáo dục!

    V. Nguyên lý giáo dục Tương Thân Phát Triển

    Qua cái nhìn về các hệ thống văn hóa và giáo dục hiện nay nhằm xây dựng cho một Nền Giáo Dục Việt Nam trong thời đại mới, chúng ta cần rút tỉa những tinh hoa của Văn Hóa Việt như sau:

    1. Tình tương thân

    Cuộc sống con người gồm cuộc sống cá nhân và cuộc sống xã hội. Cuộc sống cá nhân lại được kết thành do chính đời sống bản thân và đời sống gia đình. Trong đời sống bản thân và gia đình, con người bộc lộ cho nhau chính cá thể của mình một cách trọn vẹn.

    Trọn cuộc sống cá nhân, tức tương quan giữa con người và con người, đều đặt trên nền tảng đời sống tình yêu và đời sống tình nhà. Cuộc sống con người nối kết nhau bằng tình. Tình đưa đến hiệp nhất. Tình này bộc lộ và thể hiện tình kia. Mọi người đều sẵn sàng chết cho nhau, và chết vẫn còn nhau.

    Chính nhờ bộc lộ và thể hiện cá thể của mình cho nhau, và trong nhau, một cách trọn vẹn trong Tình Thân, trong tương quan Thân Thương Tột Cùng, mà con người sống thực và phát triển trọn vẹn, mà Hạnh Phúc Làm Người ngày một gia tăng.

    2. Việc phát triển

    Theo cơ cấu cuộc sống, con người bộc lộ và thể hiện chính mình chẳng những qua cuộc sống cá nhân, mà còn qua cuộc sống xã hội.

    Cuộc sống xã hội có trương độ rộng lớn, nên con người tự bộc lộ qua sinh hoạt, sinh hoạt làng và sinh hoạt nước, sinh hoạt địa phương và sinh hoạt trung ương. Và mọi giáo dục sinh hoạt của con người đều đặt nền tảng trên sự tương đồng tuyệt đối giữa Người và Người. “Nhận thực chính mình, và Chỉ thấy con người.”

    Công tác chính yếu của giáo dục sinh hoạt là đem tài đem trí, đem sức lực của cải để giúp nhau, và cùng nhau đạt chủ đích tối hậu là làm cho mọi người, và cả thú vật cò cây, tất cả được hưởng nhờ. “Tài của giúp người, và Mọi người cùng hưởng.”

    Ngoài cuộc sống cá nhân, sự kính quý còn gia tăng theo mức độ đem lại lợi ích cho người khác, cho nhau, từ việc đem vui tươi cho học đường và đóng góp vào việc cộng đồng, giúp cho dân an nước thịnh.

    Sự quý trọng lên tới tột đỉnh đối với việc góp phần cho cuộc sống của tất cả mọi người được phát triển đúng mức, và nhất là việc cộng tác giải cứu con người thoát khỏi mọi thứ giặc, khai mở kỷ nguyên an bình thịnh vượng, cho mọi người cùng hưởng Cuộc Sống Hạnh Phúc đích thực.

    Tất cả giáo dục sinh hoạt của con người đều quây quanh Việc Phát Triển mỗi người và mọi người một cách trọn vẹn.

    Nguồn gốc, mục đích, và giá trị của Sinh Hoạt con người, của Việc, là đem tài năng và của cải để giúp nhau thể hiện và phát triển trọn vẹn cá thể của nhau trong Cuộc Sống Chung. Con người phát triển trọn vẹn chính mình bằng việc phát triển cuộc sống chung. Cuộc sống chung phát triển trọn vẹn bằng việc phát triển của mỗi một con người.

    Có như thế mỗi người và mọi người, mới có thể bộc lộ trọn vẹn, triển nở đầy đủ, và thể hiện đúng mức con người cá thể của mình, mà đồng thời cũng chu toàn sứ mạng đời mình trong cộng đồng nhân loại.

    3. Đặc tính cuộc sống

    Văn Hóa Việt đặt trọng tâm cuộc sống cá nhân trên Tình Tương Thân, và của cuộc sống xã hội trên Việc Phát Triển.

    Tình Tương Thân giúp con người hòa hiệp thành một. Việc Phát Triển làm cho con người thể hiện trọn vẹn mọi đặc tính của mình, và nhờ đó, thể hiện bình đẳng trong cuộc sống.

    Tình Tương Thân thúc đẩy Việc Phát Triển, Việc Phát Triển thể hiện Tình Tương Thân. Cuộc sống cá nhân cần có cuộc sống xã hội, và cuộc sống xã hội cần có cuộc sống cá nhân. Sống thân thương thể hiện bình đẳng, và sống bình đẳng thể hiện thân thương.

    Tương Thân Phát Triển, Phát Triển Tương Thân là đặc tính của cuộc sống con người.

    4. Phát triển và Đấu tranh, Tiến hóa

    Để sinh tồn, con người và toàn thể loài người phải hợp tác để Phát Triển, chớ không phải đấu tranh dành giật, mạnh thắng yếu thua, ác thú đấu tranh.

    Văn hóa Việt không loại bỏ đấu tranh, nhưng đấu tranh là để chống bất công, để chống bạo quyền vị kỷ, để giải cứu con người.

    Đấu tranh chỉ là một công tác của phát triển. Đấu tranh không thể là định luật sống còn của những con người muốn sống thực sự Cuộc Sống Làm Người.

    Trái lại, khi đấu tranh trở thành định luật sinh tồn, mạnh được yếu thua, thì kết quả đương nhiên phải luôn luôn là hận thù và đàn áp, thì hòa bình cũng chỉ là kết quả của đàn áp thẳng tay.

    Khi đặt đấu tranh thành định luật sinh tồn thì dầu dưới bất cứ hình thức nào, xâm lược, thực dân, chuyên chế… hay độc tài, công an, tập trung cải tạo… hoặc tài phiệt, kinh tế thị trường, định giá dịch vụ… nghiệp đoàn, bầu cử, làm luật… cũng chỉ là bộ mặt khác nhau của kẻ mạnh, của đàn áp. Tất cả đã không phải là một thái độ chính đáng cho lớp người trẻ với nền giáo dục hôm nay.

    Phát Triển lại là tiến bộ và tiến hóa. Tiến bộ là những phát triển về kiến thức và kỹ thuật, là những khám phá, những phát hiện và ứng dụng mới của con người về những thực thể, hoặc những khả năng của thực thể. Ví dụ, những khám phá về điện lực, vi trùng, vi khuẩn, quang tuyến… sức mạnh của hơi nước, của nguyên tử… Những khám phá và ứng dụng này thường dễ dàng hơn khi có điều kiện thích hợp.

    Những phát triển ở thực thể, tiến hóa, là những bộc lộ của tiềm năng, khi có điều kiện thích ứng. Những điều kiện kinh tế và xã hội có thể giúp bộc lộ hay làm tàn lụi những khả năng tiềm ẩn trong con người.

    Nền kinh tế kỹ thuật hiện nay có thể giúp bộc lộ thêm khả năng suy tư, kiến thức nhưng đồng thời làm lu mờ những khả năng tâm linh, giao cảm, tình cảm mà điều kiện kinh tế và nếp sống Tổ Tiên Việt đã bộc lộ và phát triển.

    VI. Kết luận

    Trên đây chỉ là gợi ý cho một nền giáo dục Việt Nam. Chẳng những chúng ta cần nhiều công trình khảo cứu nhìn lại toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt và văn hóa Việt bằng một cách trung thực, toàn diện, sống động và khích lệ thiết thực làm căn bản cho Nền Giáo Dục Việt Nam thời nay, mà nguyên lý giáo dục “Tương Thân Phát Triển” một động cơ phát huy Văn Hóa Giáo Dục Việt Nam, nhằm xây dựng một thời đại Việt Nam mới.

    Phạm Văn Bản

    Ghi chú:

    (1*) Chính đại quang minh, nguyên lý làm người, đã được khắc trước ngai vàng của vua chúa, (xem bảng chữ chính đại quang minh) để thấy lối giáo dục của người xưa.


    (2*) Truyện tích Trầu Cau & Chữ Đồng trong Tập Huấn Ca viết năm 1982 của Phạm Văn Bản:

    Thứ hai: diễn tả tình người
    Ông bà dẫn chứng cuộc đời Trầu Cau
    Sinh đôi – hai đứa giống nhau
    Tận tình đùm bọc – cơm rau cạnh kề
    Có nàng chớm tuổi cặp kê
    Luống mong mình cũng tóc thề sánh vai
    Nàng nhìn tư cách cả hai
    Kính trên nhường dưới – đức tài ngang nhau
    Giúp nàng suy tính trước sau
    Trao duyên gởi phận – lựa vào người anh
    Chuyện tình đậm thắm xuân xanh
    Vợ chồng hiệp nhất – anh em một nhà

    Ngày kia trông cuốc hóa gà
    Gặp em mà tưởng lầm là “hôn phu”
    Người em đành quyết chu du
    Dẫu rằng xa cách – cũng vì thương anh
    Hành trình biển nhớ đoạn đành
    Sống thiêng thác gởi – hóa thành đá vôi

    Nhưng anh lòng luống bồi hồi
    Nhớ em – chàng kiếm chốn đồi xa xăm
    Khóc thương – tượng đá đang nằm
    Người anh cũng chết biến nhằm cay cau
    Thương chồng – nàng mãi âu sầu
    Tìm nơi chồng chết hóa trầu giây leo

    Từ đây lễ tết, cưới cheo
    Ăn trầu – tập tục giàu nghèo như nhau

    Gẫm suy truyện tích Trầu Cau
    Giống như hai đứa – nhắc nhau Tiên Rồng

    Bởi chưng Bọc Mẹ hòa đồng
    Thân Thương – nguyên lý sống lồng trong kinh
    Ðể cùng Bình Ðẳng phân minh
    Chứa chan nhân nghĩa – dân tình nước ta
    Trăm Con Một Bọc – sinh ra
    Ðồng Bào – cùng bọc mẹ cha sinh thành

    Chu toàn trách nhiệm làm anh
    Sánh duyên phái nữ – đặt thành tương quan
    Ðến khi xảy chuyện bất an
    Tình Người – giải quyết hoà chan sáng ngời

    Chẳng như thiên hạ - xử đời
    Vợ chồng khi cưới – sống rời anh em
    Tổ Tiên ta lại những xem
    Cuộc đời xung khắc lẫn kèm yêu thương
    Cả ba – cùng chọn một đường
    Ðồng sinh đồng tử - tình thương vẹn toàn
    Dương âm – hằng sống bình an
    Trầu Câu âu yếm che tàn Ðá Vôi
    Vị cay thơm ngát hương môi
    Hoà nhau thành máu – Chết rồi vẫn thương

    Ước mơ nhân loại đã tường
    Thương nhau trọn kiếp – nhẫn nhường khắc ghi
    Sẵn sàng phải chết – xá chi
    Dẫu rằng có chết – cũng vì thân thương

    Sống trong xã hội bình thường
    Trầu Cau – nền tảng là đường dựng xây
    Gia đình gia tộc – xum vầy
    Họ hàng làng nước – sống đầy thương yêu
    Tương quan xét đến các chiều
    Từ làng đến nước – một điều thân thương
    Sáng soi chân lý ngàn phương
    Trầu Cau – lời dạy thành chương dẫn đầu

    Toàn dân – sống thực chung tầu
    Thân Thương Bình Ðẳng – mưu cầu phát huy
    Nước nhà – lâm cảnh biến nguy
    Hiến thân bảo vệ - chẳng tùy cứ ai
    Và nền văn hóa thoát thai
    Ông bà, chú bác – nối dài kỷ cương
    Anh em, con cháu – tỏ tường
    Diễn tình cốt nhục Thân Thương Tột Cùng

    Ngay nay tà thuyết nhìn chung
    Phân chia giai cấp – sao cùng yêu thương?
    Bởi chưng nền tảng khinh thường
    Gây bao tàn sát – nhiễu nhương hận thù
    Nhân quyền, cải tiến… tài bù
    Bất công chồng chất – cho dù đấu tranh

    Ta xem sự thể rành rành
    I – you, nị - ngộ… tị ganh hàng ngày
    Ðồng đẳng – là chữ giãi bày
    Phân ngôi định cấp – tớ thày là đây

    Chẳng như văn hóa phương Tây
    Ðộc tài cộng sản … chứa đầy bất công
    Ta theo Văn Hóa Tiên Rồng
    Trầu Cau – căn cội Cộng Ðồng Thân Thương

    Tình Người – xin hãy am tường
    Tâm Tụê nơi Mẹ - yêu thương dẫn đầu
    Triển khai Kinh tóm lại câu
    Bao điều tàng ẩn nhiệm mầu chữ Song
    Kết Kinh hiệp ý Chữ Ðồng
    Diễn ra chữ Hiệp – Tiên Rồng là đây

    Căn nguyên Song Hiệp giãi bày
    Trăm Con Một Bọc – đi xây cuộc đời
    Thân Thương Bình Ðẳng – sáng ngời
    Chứng minh Sử Việt – ngàn đời đã qua

    Tới nay công cuộc chúng ta
    Giúp Dân Cứu Nước – vì là quê hương
    Tái sinh xã hội kỷ cương
    Phục hồi nguyên lý Thân Thương Tột Cùng

    * * * *

    Thứ ba – lời dạy sống chung
    Tổ Tiên nêu tích Tiên Dung Chữ Ðồng
    Sống trong xã hội Tiên Rồng
    Căn nguyên Bình Ðẳng – hòa đồng việc chung

    Có nàng công chúa Tiên Dung
    Trăng tròn lẻ bóng – dạo cùng khắp nơi
    Như tiên tung cánh giữa trời
    Ðang mong tìm kiếm một nơi thanh bình

    Kể ra cho rõ sự tình
    Chữ Ðồng vất vưởng một mình ven sông
    Thương thay kiếp sống Cha Rồng
    Áo cơm không đủ - chất chồng cô đơn
    Sớm khuya lòng luống mong ơn
    Tiên Rồng Song Hiệp thoát cơn đọa đày
    Rồi chờ cũng sẽ có ngày
    Ước sao được vậy – kiếp này thảnh thơi

    Sáng nay công chúa ghé nơi
    Vây màn tắm gội – đất trời thăng hoa
    Hiện nguyên mình ngọc thân ngà
    Nào ngờ - dưới cát vốn là ẩn nhân
    Nước trong – cuốn sạch bụi trần
    Trôi theo lớp cát – hiện thân Chữ Ðồng

    Cao xanh đã thắt chỉ hồng
    Thấp cao hiệp nhất – vợ chồng nên duyên
    Mẹ Tiên – bèn xuất bạc tiền
    Xây làng dựng phố - khắp miền ấm no
    Con dân – ra sức chăm lo
    Lập nên cuộc sống tự do thanh bình

    Cha Rồng cũng góp phần mình
    Phép tiên đã luyện – tận tình dạy dân
    Tạo ra sung túc muôn phần
    Cộng đồng phát triển – đang cần bình an
    Và rồi công cưộc liên can
    Những gì thịnh vượng – vua quan lo sầu
    Tiên Rồng – biến hóa nhiệm mầu
    Dân làng – mọi sự tóm thâu Về Trời

    Đây Kinh Nền Tảng tuyệt vời
    Làm Con Người Thật là lời khuyên chung
    Ðề cao Bình Ðẳng Tột Cùng
    Tổ Tiên lột tả nội dung Tiên Rồng

    Tích xưa – thiên hạ thổi phồng
    Công nương hoàng tử - mới đồng sánh đôi
    Thứ dân – cũng phải hoa khôi
    Môn đăng hộ đối – tranh ngôi sang giàu

    Tạo ra giai cấp khác nhau
    Ăn trên ngồi trốc – bí bàu đấu tranh
    Bất công xã hội rành rành
    Chủ nô chế độ - đoạn đành anh em

    Ông bà nhưng lại đã đem
    Cành vàng lá ngọc – dân đen hợp hòa
    Tiên Dung trẻ đẹp như hoa
    Giầu sang quyền thế - vậy mà yêu dân
    Chữ Ðồng không khố che thân
    Nghèo nàn mạt rệp – hưởng phần cưới tiên

    Nàng Dung lưu lạc khắp miền
    Chính mình nhận thức – và tiên lên bờ
    Chàng Ðồng nào dám hững hờ
    Ẩn mình dưới cát – đợi chờ cơ duyên
    Thấp cao – ván đã đóng thuyền
    Sinh Con Trăm Ðứa – hưởng quyền quốc gia
    Như dân – trong nước một nhà
    Lấy chi tài của – khiến ta chia lìa

    Tiên Rồng văn hóa chiếu tia
    Ðừng cho ngoại vật ngăn chia cuộc đời
    Nơi đây Chỉ Thấy Con Người
    Toàn dân hạnh phúc – tiếng cười đoàn viên
    Thực thi Bình Ðẳng như Tiên
    Ta noi gương Mẹ - dùng tiền nuôi dân
    Gương Cha – cũng được góp phần
    Tài năng biến hóa – chuyên cần dạy khuyên

    Giúp dân Sống Thực căn nguyên
    Phát huy toàn diện – vang truyền gần xa
    Cháu con noi đức mẹ cha
    Tài năng của cải chỉ là hỗ tương
    Chớ dùng tài của đo lường
    Phân ngôi định cấp – thân thương xa lìa
    Rồi gieo giọt lệ đầm đìa
    Ăn trên ngồi trốc – phân chia giàu nghèo
    Gây ra cuộc sống cheo leo
    Khinh khi cốt nhục – rắc gieo tương tàn

    Tiên Rồng – xã hội thịnh an
    Mọi người cùng hưởng – sẻ san gia tài
    Chẳng dành hạnh phúc riêng ai
    Về Trời – dẫn tới tương lai thanh bình
    Từ người tới vật hữu sinh
    Hoàn toàn được hưởng trong tình Thân Thương

    Tuy rằng cũng có ít phường
    Tham quyền lạm chức nhiễu nhương dân lành
    Ðể răn những kẻ lộng hành
    Toàn dân khinh bỉ - Sử xanh chê cười

    Chẳng như văn hóa xứ người
    Chủ nô – cổ võ coi người như trâu
    Cấp cao sẵn thế làm giầu
    Ðạp lên đồng loại – tóm thâu lợi quyền

    Và nền Ðạo Việt lại khuyên
    Góp chung Phúc Ðức – lưu truyền nghìn thu
    Sống theo nguyên lý đặc thù
    Tột Cùng Bình Ðẳng – chân tu Con Người.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X