Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những Tác Hại Giáo Dục Của Việt Nam (II)

Collapse
X

Những Tác Hại Giáo Dục Của Việt Nam (II)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Tác Hại Giáo Dục Của Việt Nam (II)

    I. Chính Trị
    1. Định Chế Làng Nước

    Ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, Gia Long đã xây dựng và phát triển định chế làng nước, một tuyệt tác chính trị của tổ tiên được lưu truyền trong lịch sử, nhằm gíup dân chúng bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống mọi sự vi phạm hoặc xâm phạm từ nước ngoài, kể cả bằng những biện pháp trấn áp quyết liệt công giáo. Định chế làng nước mà người viết học hỏi nhà Nguyễn, là đặc điểm giúp cho dân tộc ta thoát nạn quân chủ chuyên chế ở thời trước, mà còn là phương thức giúp chúng ta thoát nạn “dân chủ đấu thầu” trong thời nay.

    Học giả Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược (1919) nói rằng, “người ta thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo nghĩa của các nước Âu Tây, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học Nho Giáo có nhiều chỗ khác nhau.” Theo nguyên tắc tổ chức triều đình nhà Nguyễn, khi có việc gì quan trọng vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét. Các quan bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Khi việc nào đã quyết định thì đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Vua tuy có quyền lớn nhưng không được làm điều gì trái nguyên tắc. Nếu vua có làm điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn, và thường là vua phải nghe lời can ngăn của những người này.

    Trong định chế làng nước, quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống làng thôn đều thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người đại diện của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại đia phương. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.

    Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia, quyền hạn vua quan Việt chẳng những không can thiệp vào đời sống từng người dân, mà cũng không xâm phạm vào nếp sống sinh hoạt của các làng thôn. Đối với triều đình, mỗi làng là một quốc gia thu hẹp có chủ quyền và độc lập. Việc làng thì người dân tự lập và tự quyết.

    Làng tự lập chẳng những có ban quản trị riêng do chính dân bầu ra, mà còn có điều lệ riêng cho hệ thống hành chánh trong làng. Làng có ngôi đình thờ vị Thành Hoàng riêng, với những nghi thức nghi lễ riêng. Làng có tổ chức trị an riêng với những tiêu chuẩn thưởng phạt do dân trong làng quy định. Làng có tài sản riêng và toàn quyền xử dụng ngân sách tài chánh theo nhu cầu. Trong phạm vi làng, cả quyền phép của vua quan cũng kiêng nể những điều lệ riêng này. Phép vua thua lệ làng… Xin hỏi, có chế độ nào trực tiếp do dân, của dân, và vì dân hơn thể chế dân chủ của Làng Nước Việt?

    Tóm lại, hệ thống làng Việt Nam đã áp dụng hai nguyên tắc căn bản của thể chế chính trị văn minh hiện đại là phân quyền và tản quyền.

    Nguyên tắc tản quyền: Trung ương dành cho địa phương, cho dân làng một số quyền tự chủ và tự do. Truyền thống làng nước Việt Nam đã được áp dụng từ thời lập quốc cho đến cận đại, và bị Hồ Chí Minh và Cộng Đảng xóa bỏ Định Chế Làng Nước để thành lập chế độ vô sản. Giữa thế kỷ 15 Hương Ước hay Khoán Ước đã thành văn và rất phổ thông trong cơ cấu Hương Làng Việt Nam. Hương Ước là bản ghi lệ làng, tức Hiến Pháp Làng ấn định hệ thống tổ chức hành chánh, luật lệ của làng. Và từ đó, Luật Pháp của Nước chỉ là Hương Ước của một tập hợp các Làng.

    Chúng ta có thể nhìn thấy hình ảnh của Làng Nước Việt Nam qua thể chế chính trị Liên Bang hiện nay của nhiều quốc gia trên thế giới. Cấp tiểu bang, địa phương có quốc hội và ngân sách riêng. Bởi thế người dân mới có quyền định đoạt một số quyền lợi mà họ có nghĩa vụ đối với quốc gia.

    Nguyên tắc phân quyền: Cơ cấu tổ chức Làng áp dụng nguyên tắc phân quyền, gồm có:

    - Hội Đồng Kỳ Mục hay Tiên Chỉ, gồm những vị bô lão hoặc đại diện các “Tộc” trong Làng. Hội đồng này quyết định những việc quan trọng của Làng, tương đương như “Quốc Hội” cấp nước. Hội Nghị Diên Hồng đời Trần đã mang được hình ảnh này ở cấp quốc gia.

    - Ban Lý Dịch hay Chức Dịch là những người điều hành công việc hành chánh của Làng. Chúng ta có thể hình dung sự phân quyền trong Làng qua hai cơ cấu “hành pháp” và “lập pháp” của quốc gia thu hẹp này.


    2. Tổ Chức Triều Chính

    Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế, Gia Long tiếp tục kiện toàn hệ thống hành chánh và quan chế của một chính quyền mới. Xét về căn bản vua vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương giống như các triều đại ngày trước. Đứng đầu nước là vua, giữ trọng trách và quyền hành của dân nước. Giúp vua giải quyết giấy tờ, công văn ghi chép là Thị Thư Viện, đến thời Minh Mạng thì đổi là Văn Thư Phòng và năm 1829 gọi là Nội Các. Về việc quốc gia đại sự vua giao bốn vị Điện Đại Học Sĩ, gọi là Tứ Trụ Đại Thần, đến năm 1834 thì đổi thành Viện Cơ Mật. Ngoài ra còn có Tông Nhân Phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia.

    Để đề cao vai trò nhà vua và uy quyền của người nguyên thủ quốc gia, ngăn chặn nạn quyền thần lấn át hoàng đế, Gia Long đặt ra lệ Ngũ bất: không lập tể tướng, không lấy trạng nguyên, không lập hoàng hậu, không lập đông cung thái tử, không phong tước vương cho người ngoài họ vua. Bên dưới, triều đình lập ra sáu Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư chịu trách nhiệm chỉ đạo các công việc quốc gia.

    Bộ Lại: điều hành việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc.
    Bộ Hộ: điều hành việc đinh điền thuế má, tiền bạc tài chánh.
    Bộ Lễ: điều hành việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử.
    Bộ Binh: điều hành việc quân sự, quốc phòng, binh bị.
    Bộ Hình: điều hành việc pháp luật.
    Bộ Công: điều hành việc xây dựng cung điện, dinh thự, đường xá.

    Bên cạnh sáu bộ, còn có Đô Sát Viện, tức Ngự Sử Đài bao gồm 6 khoa, chịu trách nhiệm thanh tra quan lại. Hàn Lâm Viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự Phụ Trách coi một số sự vụ, Phủ Nội Vụ quản trị các kho tàng, Quốc Tử Giám phụ trách giáo dục, Thái Y Viện trách nhiệm việc chữa bệnh và thuốc thang, và có một số Ty, Cục khác.

    3. Quy Chế Phẩm Trật

    Gia Long rút tỉa kinh nghiệm của các triều đại trước, nên đã không truyền ngôi cho con nhỏ và đần độn. Hoàng tử Cảnh là con trưởng đã chết, theo nguyên tắc đích trưởng kế thừa thì truyền ngôi cho con của Đông Cung Cảnh, nhưng Vua Gia Long đã phong con thứ là Minh Mạng làm thái tử để được truyền ngôi vua.

    Kể từ thời Minh Mạng ngạch quan lại được chia thành hai ngành Văn – Võ, xác định rõ giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng hai bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc, còn ở thời bình, quan võ phải đặt dưới cấp quan văn cho dù cùng phẩm với mình. Quan Tổng Đốc là văn cai trị tỉnh, lại vừa là võ chỉ huy quân lính tỉnh. Lương bổng của các quan tương đối ít, nhưng quan lại được hưởng thêm nhiều quyền lợi, cho họ được khỏi đi lính, làm sưu hay miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao hay thấp. Ngoài ra con cái các quan còn được hưởng lệ tập ấm.

    Hệ thống hành chánh và quan lại của triều Nguyễn cũng gọn nhẹ và hữu hiệu, mặt khác tham nhũng vẫn là mối lo nhằm trong sạch hàng ngũ quan chức. Để hạn chế tệ nạn tham nhũng, nhà vua đặc biệt quan tâm đến chế độ lương bổng, bảo đảm cuộc sống ổn định, khá giả cho đội ngũ quan lại. Bộ Hoàng Việt Luật Lệ của Triều Nguyễn cũng đặt ra những tưởng thưởng, những hình phạt, và những điều lệ nghiêm khắc đối với những sự hà lạm của quan lại như tiếm nghịch, biển thủ của công, ăn hối lộ và đút lót. Xét ra, bộ luật nhà Nguyễn còn hữu hiệu và ưu việt hơn cả 92 điều luật phòng chống tham nhũng của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam thời nay.

    4. Phân Chia Hành Chánh

    Minh Mạng thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn, theo đó bỏ các tổng trấn, đổi các dinh, trấn thành tỉnh. Đây là lần đầu tiên đơn vị hành chính tỉnh xuất hiện ở Việt Nam. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng.

    Vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, Hà Tiên. Và Thừa Thiên nơi có kinh đô Phú Xuân là phủ trực thuộc trung ương.

    Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc, mỗi người phụ trách hai ba tỉnh và chuyên trách một tỉnh, Tuần phủ dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ một tỉnh. Giúp việc có Bố Chánh Sứ ty lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính. Án Sát Sứ ty lo về an ninh, luật pháp. Lãnh Binh phụ trách về quân sự. Tất cả các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền Trung ương trực tiếp bổ nhiệm, thuở ban đầu là võ quan cao cấp, và về sau nhà Nguyễn bổ dụng các quan văn. Bởi thế chúng ta thấy một hệ thống chính quyền được phân biệt rõ ràng giữa trung ương và địa phương, và trong hệ thống này nhà vua, nguyên thủ quốc gia có được nhiều quyền lực hơn so với các triều đình ngày trước.

    Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Nhìn chung là cơ cấu hành chánh của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình có thể dễ dàng quản lý và phản ứng mau lẹ mỗi khi có biến loạn xảy ra.

    II. Kinh Tế
    1. Nông Nghiệp

    Trong suốt dòng lịch sử làng là đơn vị kinh tế vừa là đơn vị quốc phòng, là cơ sở sản xuất vừa là tiền đồn giết giặc, giúp mọi người no cơm ấm áo vừa tăng trưởng trọn vẹn… Hệ thống tổ chức làng trở thành quốc sách giữ nước và mở nước hoàn chỉnh nhất, hữu hiệu nhất, thành công nhất mỗi khi có giặc xâm lăng Việt Nam, nguyên lý ấy gọi là Toàn Dân Toàn Diện. Bởi thế vấn đề ruộng đất trong làng, cũng được mọi người mặc nhiên thừa nhận là của công, của vua. Ngay từ thời nhà Đinh hay tiền Lê… vua có đặc quyền sở hữu, và trao lại cho làng cái chủ quyền hưởng dụng.

    Nhưng trong thực tế, những ruộng đất do người dân cày cấy lâu ngày lại biến thành của riêng, tư điền, và rồi tư nhân có thể mua bán, đổi chác, kế thừa… hoặc trở thành những lãnh chúa từng sinh sát trên các lãnh địa như bao xã hội khác. Bởi thế triều đình Việt Nam, muốn cho toàn dân an cư lạc nghiệp thì phải cải cách ruộng đất, bằng cách trưng dụng tư điền và đem ra chia nhỏ cho mọi người, gọi là “công điền công thổ và chia đất định kỳ.” – như sách Espuis Des Lois, Montesquieu cũng nói, “Trong một nền dân chủ tốt, chia đều đất đai chưa đủ, mà cần phải chia nhỏ ruộng đất...” Công điền công thổ được vua trao cho làng và cấm bán, trừ trường hợp ngọai lệ có thể cầm cố trong 3 năm, nhưng hết hạn phải giao nạp để làng quân cấp theo tráng đinh, có số ruộng tương tự nhau gọi là công bằng xã hội. Với định chế công điền công thổ và chia đất định kỳ của Việt Nam được gọi là phép quân điền (đất vua), hòan toàn khác biệt phép tĩnh điền Trung Quốc.

    Phép tĩnh điền – theo truyền thuyết khởi đầu nhà Thương, vấn đề ruộng đất là của thị tộc, và tới nhà Chu dùng phép tĩnh điền chia đất thành 9 khu hình chữ tĩnh, khu giữa là công điền và 8 khu khi đem chia cho thị tộc canh tác rồi nộp hoa lợi cho vua. Tới đời Xuân Thu, Thượng Ưởng làm tướng nhà Tần bãi bỏ phép tĩnh điền, cho tự quyền khai thác để nộp địa tô, sở dĩ họ áp dụng chính sách trung ương tập quyền (quân chủ chuyên chế) và bãi bỏ phép tĩnh điền là truất phế các lãnh chúa thị tộc từng khuynh đảo nền chính trị. Họ không theo Định Chế Làng Nước như Việt Nam, cho nên xã hội nông nghiệp Trung Quốc sinh quái thai bất công và đấu tranh với những kẻ chủ trương mưu mô thủ đoạn mạnh thắng yếu thua, và phân cách xã hội giữa giới địa chủ và bần nông.

    Đang khi định chế bình sản Việt Nam, với công điền công thổ và chia đất định kỳ, thì cải cách ruộng đất là hữu sản hoá để toàn dân có cơ hội phát triển đời sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm chủ (tư hữu). Bởi thế nhà Trần, Lê Quý Ly đề xướng phép hạn điền, yêu cầu người có trên 10 mẫu thì nộp làm quân điền. Ngoài số ruộng quân cấp cho dân, làng giữ lại một số làm công quỹ như sau.

    - Bút điền: ruộng dùng trong việc chi phí bút nghiên, giấy tờ hộ tịch.
    - Trợ sưu điền: ruộng được trích ra cho người nghèo giúp họ đóng thuế đinh.
    - Học điền: ruộng để hội tư văn dùng thuê thày dạy học cho dân trong làng.
    - Cô nhi quả phụ điền: ruộng dành để giúp cho các bé mồ côi, người già góa phụ nghèo khổ.

    a. Chính sách ruộng đất

    Để tiếp nối phép quân điền của tổ tiên, ngay khi lên ngôi vua Gia Long ra lệnh cấm bán ruộng đất, và quy định chặt chẽ việc cầm cố điền thổ để bảo đảm có đất cày cho mọi người. Đạo dụ năm Gia Long thứ 2 (1803) ghi: “Theo lệ cũ thì công điền công thổ do quân cấp và đem bán riêng là có tội, do đó nhân dân đều được lợi cả. Từ đời Tây Sơn bỏ hết luật cũ, dân gian nhiều người đổi ruộng công làm ruộng tư, cũng có kẻ tạ sự việc công mà cầm bán ruộng đất công... Nay phàm xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền…”

    Trải qua cuộc nội chiến lâu dài dân nước hết sức điêu tàn thống khổ, vừa hết chiến thì lại tới họa, thiên tai hạn hán, ngập lụt mất mùa xảy ra liên tiếp, và triều Nguyễn giờ đây mang gánh nặng Việt Nam, thường phải giảm thuế, miễn thuế và chẩn cấp. Trong đình thần có ý kiến là tịch thu ruộng đất bị chiếm trong thời loạn để phân phát lại cho dân nghèo, nhưng vua Gia Long cho rằng phép này khó thực hiện, cho nên vua chỉ tịch thu những ruộng đất của quan lại triều Tây Sơn, và ruộng trang trại riêng của Tây Sơn mà làm quân cấp. Thời Minh Mạng định lại cấp ruộng theo khẩu phần. Quan lại, binh lính, công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được một khẩu phần. Quan lại cường hào được khẩu phần tốt hơn. Người già, người tàn tật được nửa khẩu phần, và cô nhi quả phụ thì được 1/3 khẩu phần.

    b. Chính sách cứu trợ

    Mỗi khi mất mùa lũ lụt, hạn hán giá gạo thường lên cao gây khó khăn về lương thực, và nạn thiếu ăn hoành hành tại các tỉnh nghèo nhất hay gặp thiên tai, như Nghệ An. Dân gặp nạn đói lan tràn khắp vùng thôn quê, nhiều người tụ họp nhau đi ăn cướp, và những kẻ chống triều đình đã lợi dụng sự bất mãn của nhóm người đói rét để xách động họ nổi loạn, như ở Thanh Hóa và Nghệ An vào năm 1819. Mất mùa thì triều Nguyễn phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu đói, thường là chẩn cấp. Để có phương tiện thực hiện cứu trợ khẩn cấp triều Nguyễn thiết lập các kho lương trữ lúa cho việc cứu tế, được gọi là Bình Chuẩn Thương. Người nghèo túng có thể mua gạo với giá rẻ hơn bình thường, không giới hạn từ 1, 2 phương tới cả thưng, đấu, bát.

    Triều Nguyễn lập Nghĩa Thương là các kho trữ lúa ở cấp tỉnh và phủ huyện. Những khi đói kém thì các kho này được mở ra để phát chẩn cho dân nghèo. Triều Nguyễn tổ chức Xã Thương dưới thời Tự Đức, là khi giá gạo đắt thì bán ra và khi gạo rẻ thì đong lại để lưu trữ. Gạo Xã Thương có thể cho vay thu lợi dùng vào việc cấp dưỡng binh đinh, giúp kẻ khó nghèo.

    Thời Minh Mạng, triều đình bắt buộc quan lại các tỉnh phải xuất lúa giống trong kho cho dân nghèo vay để làm mùa sau, nhằm làm cho nông nghiệp không bị đình trệ, việc mất mùa không bị ảnh hưởng nhiều sang các năm tới. Dù cho các biện pháp cứu tế đã làm cho công quỹ hao hụt, nhưng chỉ có thể ngăn nạn đói khỏi lan rộng trong thời gian ngắn mà thôi. Cũng như việc phòng ngừa tăng giá lương thực chỉ là liều thuốc cấp thời, không thể chữa dứt con bịnh thiếu hụt lương thực của xã hội. Hơn nữa, quan lại địa phương tham nhũng làm giảm hiệu năng của các biện pháp cứu tế, cho nên triều Nguyễn buộc lòng phải ban hành các đạo dụ nghiêm trị. Điều này lại thêm cơ hội cho những thành phần chống đối có dịp tuyên truyền triều đình nhà Nguyễn tàn ác.

    Để làm nhẹ bớt sự khổ cực của người nông dân, triều Nguyễn cho áp dụng chính sách giảm hay miễn thuế cho những tỉnh gặp nạn. Các tỉnh bị thiệt hại nặng, vua cho miễn luôn tất cả các khoản thuế còn thiếu trong những năm trước. Vào năm 1841, vua Thiệu Trị cho dân Hưng Yên được miễn số thuế là 23,385 quan và 83,162 hộc lúa.

    c. Chính sách khai hoang và phục hóa

    Vào đầu thế kỷ 19 sử sách đã ghi lại rất nhiều cuộc nổi loạn trong dân, bắt nguồn từ suy xụp kinh tế, nhưng ở miền Nam nhà Nguyễn vẫn tiếp tục công việc khẩn hoang mở rộng và phát triển nông nghiệp từ thời các Chúa Nguyễn để lại. Miền Nam Việt Nam, người dân được tự do đi khẩn hoang dù là cá nhân hay đoàn thể cũng đều có sự yểm trợ của triều đình. Sử sách ghi lại tên tuổi nhiều người có công trạng trong việc đào kênh vỡ đất, như Thoại Ngọc Hầu.

    Triều Nguyễn rất quan tâm trong việc khai hoang phục hóa, cho tiến hành nhiều chính sách khai khẩn đất hoang khác nhau, và đã mang lại nhiều kết quả thành công lừng lẫy. Diện tích ruộng đất của Việt Nam tăng lên gấp bội, vào năm 1847 tính được là 4 triệu 273 ngàn mẫu. Hai vị quan tổ chức khẩn hoang nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương. Tham tán Quân vụ Nguyễn Công Trứ thành danh với ba tác phẩm khẩn hoang: đồn điền, doanh điền và khai khẩn ruộng hoang.

    c1. Đồn điền. Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo và đi cùng với tội phạm để thực hiện việc khai khẩn đất hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được cai quản theo nguyên tắc đồn điền, không như thôn ấp bình thường. Sau khoảng thời gian từ sáu đến mười năm để tạo được cuộc sống ổn định, thì mới chuyển sang hình thức bình thường. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất, do Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853 tới năm 1854 đã lập được 21 cơ 124 ấp, phân phối ở cả 6 tỉnh.

    c2. Doanh điền. Chính sách này là di dân để lập ấp mới, bắt đầu thực hiện từ năm 1828 dưới thời Minh Mạng, theo đề nghị của Nguyễn Công Trứ vào năm 1828. Cách thức lập ấp được quy định như: triều đình bỏ vốn ban đầu và đề cử quan chức đứng ra chiêu mộ dân chúng đưa đi khai hoang theo hai trường hợp.

    * Số dân mộ được là 50 người đủ một lý, người đứng ra mộ ấy sẽ được ban chức lý trưởng.
    * Số dân mộ được là 30 người đủ một ấp, người đứng ra mộ ấy sẽ được ban chức ấp trưởng.

    Và thời gian sáu tháng ban đầu triều đình sẽ cấp cho dân chúng đi khai hoang đầy đủ lương thực và phương tiện sản xuất. Từ tháng thứ bảy thì dân phải tự lo, và triều đình miễn thuế cho các ấp hay lý mới này trong 3 năm. Tổng Giao Thủy thuộc tỉnh Nam Định cũng được thành lập theo hình thức này… Về sau các quan ở Gia Định như Trương Minh Giảng, Cao Hữu Dực, Trần Hoàn, Phạm Hữu Chỉnh và Nguyễn Tri Phương cũng noi gương và thực thi chính sách này trên vùng mình cai quản. Và với chính sách đồn điền đã trở thành một quy mô rất lớn, thu được nhiều thành công với thành quả diện tích điền thổ của Việt Nam tăng lên gấp bội.

    c3. Khai khẩn ruộng hoang. Chính sách đồn điền và doanh điền lại được triều Nguyễn đưa ra một loạt luật lệ thưởng phạt phân minh trong việc khai thác điền địa đã được khẩn hoang, và ngăn ngừa tình trạng bỏ đất nửa chừng mà không canh tác.

    Tóm lại triều Nguyễn đã khuyến khích toàn dân tự do khai hoang phục hóa, và việc đinh điền mỗi ngày một chỉnh đốn, kiểm soát chặt chẽ hơn. Chính sách điền địa dưới thời Minh Mạng đã được đo đạc lại rõ ràng, tổng cộng là hơn 630,075 mẫu, và tổng số đinh toàn quốc là 970,516 xuất với 4.063,892 mẫu canh tác.

    Công lao mở mang bờ cõi của triều Nguyễn quả thật hết sức to lớn đối với toàn dân ngày nay, thế mà Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam lại vô ơn và đặt ra những luận điệu tuyên truyền: “Chính sách khai hoang của họ Nguyễn trong giai đoạn sau này là nhằm làm giàu cho giai cấp địa chủ và củng cố cơ sở xã hội của chính quyền. Do khẩn hoang và cướp đoạt tại vùng đất phía Nam đã hình thành một tầng lớp đại địa chủ giàu có, tập trung trong tay rất nhiều ruộng đất. Tầng lớp đại địa chủ đó là chỗ dựa trung thành của chính quyền họ Nguyễn…”

    2. Thương nghiệp
    a. Nội thương

    Việc thống nhất quốc gia vào đầu thế kỷ 19 là một điều kiện thuận lợi cho nền thương nghiệp Việt Nam nhằm phục hồi và tái thiết sau một thời gian dài chiến tranh tàn phá. Hòang Đế Gia Long và các vua nhà Nguyễn đã thực hiện công tác hạ tầng cơ sở, tu sửa, chỉnh trang và mở rộng đường xá cầu cống, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều để cho công việc buôn bán của người dân được tiện lợi. Ví dụ: đường xá trong nước là sự khẩn yếu cho việc chính trị, Gia Long ra lệnh cho quan lại các doanh các trấn phải sửa sang đường lộ, dân sở tại phải đắp đường làm cầu, cứ 15,000 trượng đường thì vua phát cho dân 10,000 phương gạo. Từ ải Nam Quan (thuộc Lạng Sơn) vào tận Bình Thuận cứ 4,000 trượng đường phải làm một nhà trạm ở cạnh quan lộ, để cho du khách qua lại nghỉ ngơi, và cả thảy đã có 98 trạm. Còn từ Bình Thuận trở vào Miền Nam Việt Nam đến Hà Tiên, thì phải đi đường thủy.

    b. Kỹ Nghệ

    Từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt trước, kỹ thuật công nghệ Tây phương đã được các vua chúa mang vào áp dụng rất nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Thời nhà Nguyễn vẫn kế thừa những thứ đã du nhập ấy, nhiều công trình được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của phương Tây như thành Bát Quái, kinh thành Huế, thành Hà Nội… Thời Gia Long đã từng cho đóng một loại thuyền lớn bọc đồng để tuần tra biển.

    Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các Ty trông coi các ngành thủ công. Ví dụ như ty Vũ khố chế tạo điều hành và quản trị nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng. Ty Thuyền chịu trách nhiệm về các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc. Ngoài ra còn có các ty Doanh kiến, ty Tu tạo, ty Thương bác hoả dược.

    c. Kỹ Nghệ Nặng

    Sang đến thời Minh Mạng đã có nhiều hãng xưởng kỹ nghệ máy móc mang tính mới mẻ được chế tạo, như máy cưa chạy bằng sức trâu và sức nước, máy xẻ gỗ chạy bằng sức trâu. Cụ thể là, năm 1834, Nguyễn Viết Túy với sự đồng ý của vua Minh Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc súng bằng sức nước mang tên Thuỷ hoả ký tế. Sau đó những năm 1837 đến 1838, theo mẫu máy móc Tây phương, nhóm thợ thủ công Việt Nam cũng chế tạo được nhiều máy cưa văn gỗ, xẻ gỗ bằng sức nước, máy hút nước tưới ruộng... và xe cứu hoả. Đặc biệt là năm 1839, dựa theo các kiểu mẫu của Tây phương, các đốc công Hoàng Văn Lịch và Vũ Huy cùng toán thợ xưởng Việt Nam đóng thành công chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên, và được vua Minh Mạng hết sức khen ngợi. Năm sau, vua lại chỉ đạo cho họ đóng một chiếc tàu kiểu mới tân tiến hơn, và sửa chữa lại một chiếc bị hỏng. Tới thời Tự Đức, rất nhiều sách kỹ thuật phương Tây được dịch sang tiếng Hán, như Bác Vật Tân Biên, Khai Môi Yếu Pháp, Hàng Hải Kim Châm.

    Ngành nghề đóng tàu Việt Nam, vào năm 1819 Sĩ quan kiêm thương gia Hoa Kỳ John White tới Gia Định, và được nhà vua Gia Long hứa hẹn dành mọi sự dễ dàng trong việc buôn bán của Hoa Kỳ ở Việt Nam. John White (1820) đã nhận xét: “Người Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác.” Ngoài các thuyền gỗ, thợ Việt Nam còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng, và sáng chế nhiều máy móc tân tiến, đạt phẩm lượng cao như máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng, máy hơi nước.

    Phần lớn nhân lực trong các hãng xưởng Việt Nam lại do triều đình trưng dụng, từ những thợ khéo trong các ngành khảm xà cừ, kim hoàn, thêu dệt, may vá… làm việc và cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vì vậy người thợ thường tìm cách trốn tránh, dù cho vua có áp dụng những biện pháp trừng phạt để ngăn ngừa. Thợ khéo ít dám trổ tài vì chẳng thấy lợi lộc nhiều… có lẽ do tuyên truyền xuyên tạc của những thành phần Kháng Nguyễn Phục Lê… vì thế cho nên họ chỉ dám làm những thứ nhỏ để bán cho dễ, cho đủ ăn. Thợ nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý. Đầu thế kỷ 19 có người chế được men sứ tốt hơn của Trung Quốc, nhưng phải bỏ trốn vì sợ nhà vua trưng dụng, số khác lại làm đồ giả theo Trung Quốc, tránh quan quân mua rẻ hay tịch thu.

    Triều Nguyễn cũng tập trung khai thác quặng mỏ, vào đầu thế kỷ 19 triều đình đã điều hành tổng cộng 139 quặng mỏ, năm 1833 đã có 3,122 công nhân viên chức, tuy nhiên, phương pháp khai thác quặng mỏ thời bấy giờ cũng chưa được phát triển như thế giới Tây phương. Nhưng một điều đáng tiếc là những tiến bộ của Triều Nguyễn sao lại không tác động vào tiến trình phát triển kỹ nghệ của xã hội Việt Nam? Tại sao tới giữa thế kỷ 19, Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp sản xuất lạc hậu, chậm tiến so với thế giới Tây phương? Và điều gì đã làm cho Nhà Nguyễn thất bại trong công cuộc kỹ nghệ hóa, không tạo được cuộc cải cách thực sự như Minh Trị Thiên Hoàng (1852 - 1912) ở Nhật Bản? Khi có mặt ở cố đô Huế và đọc lại nhiều tài liệu sách sử, người viết rất ưu tư trong việc đi tìm nguyên nhân thất bại của cuộc cải cách và kỹ nghệ hóa mà Triều Nguyễn đã có chủ trương. Và nhất là khi Anh Quốc chiếm Tân Gia Ba, vua Gia Long đã thấy cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không biệt đãi cho một quốc gia nào.

    d. Dịch Vụ Thương Mại

    Triều Nguyễn hàng năm, cũng tổ chức nhiều chuyến đi công cán đến các nước trong khu vực để thực hiện việc giao dịch buôn bán. Từ năm 1824, Minh Mạng đã sai sứ đi công cán ở Hạ Châu (Tân Gia Ba) và Giang Lưu Ba (Nam Dương). Năm 1825, vua Minh Mạng lại phái người sang Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh. Và sau đó, mỗi năm đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của người Tây phương ở khắp Đông Nam Á. Từ năm 1831 trở đi, các chuyến công cán càng lúc càng nhiều, nơi đến cũng đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống (Phi Luật Tân), Bắc Úc, Quảng Đông, Giang Lưu Ba... Trong khoảng thời gian năm 1835 tới 1840 đã có 21 chiếc tàu được cử đi, hàng bán ra chủ yếu là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là len, dạ và vũ khí đạn dược. Các hoạt động này hầu như triều đình độc quyền, mặc dù tư nhân không bị luật lệ nào ngăn cấm.

    Tài liệu chỉ cho thấy, các thuyền buôn tư nhân Việt Nam vì không được trang bị vũ khí, nên không chống lại được bọn hải tặc Trung Quốc hoành hành trên biển, từ vịnh Thái Lan tới đông bán đảo Mã Lai. Dù vậy cũng có ít nhiều thương nhân lợi dụng các chuyến tàu thương mại này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu, hay Quảng Châu.

    3. Thương Gia Việt Nam

    Hàng năm, thuyền buôn Trung Quốc thường đi lại giữa Việt Nam và Tân Gia Ba. Thương nhân Hoa kiều thường hay lén chở gạo của Việt Nam đi bán, và mang thuốc phiện về. Khiến cho những năm 1820 tới 1830, Việt Nam giao dịch với Tân Gia Ba cũng trở thành hạn chế. Năm 1824, giá trị mậu dịch của Việt Nam là 93,781 Mỹ kim. Năm 1826 tới 1827 tổng số mậu dịch là 124,698 Mỹ kim. Nguyên nhân do hàng hóa của Việt Nam phù hợp với thị trường Trung Quốc thời ấy, và vì nhờ Hoa kiều mà mậu dịch quốc tế ngày ấy hoạt động.

    Học giả Trần Trọng Kim cho rằng “Người thiên hạ đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất cảng, nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chiếc thuyền manh chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia, nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.”

    Ở Kẻ Chợ trong thế kỷ 19 các thương khu (phường) đã thay đổi nhiều, vào giữa thế kỷ 19 thì đã thoát khỏi trạng thái chợ phiên có kỳ hạn và đã có thương gia cùng thợ thuyền cư trú thường xuyên. Thị trấn Thanh Hóa được bắt đầu xây dựng đầu thời Gia Long và tới năm 1885 đã là một trung tâm thương mại. Ở kinh đô Huế, thời Gia Long cư dân ở chen chúc thường hay có hoả hoạn, nên năm 1837 triều đình cho chỉnh trang lại và lập chợ Gia Hội có tất cả 399 gian, dài suốt hơn 319 trượng, tất cả đều có cột bằng gạch nung và xây bằng vữa vôi.

    Tuy nhiên, thương mại của Việt Nam rất kém cỏi, họ buôn lẻ hàng hóa của người Hoa để bán lại kiếm lời. Sự tổ chức thương mại của người Việt sao quá sơ sài và chỉ có trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay. Họ không liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam cho vay lãi trở nên phát tài nhưng họ dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay công nghệ. Do đó mà thương nghiệp không mạnh được, một phần lớn cũng bởi tâm lý của người dân.

    Việc buôn bán ở các chợ quy mô lớn lại bị kiểm soát bởi thương nhân Hoa kiều, dù những người này chỉ là thiểu số. Người Pháp Dutreuil de Rhin (1876) đã nhận định rằng: “Nhân số Hoa kiều tuy ít nhưng đã chiếm được các thương nghiệp lớn lao.” Một mặt Hoa kiều mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu để bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy mực. Trong vùng quê, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công nghệ ở các chợ. Nơi đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản, nông sản của mình và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc đi rong từ chợ này sang chợ khác.

    Ngoài các tổ chức buôn bán đại quy mô ra, Hoa kiều trong các đô thị lớn còn kinh doanh sòng bạc, đánh đề hoặc đút lót cho tham quan để được đúc tiền, trưng thầu thuế đò, thuế chợ hay độc quyền về rượu. Có những Hoa thương có thế lực còn chiếm độc quyền cung cấp hàng cho triều đình. Dù sao guồng máy triều chính cũng đã cản trở nhiều sự trao đổi hàng hoá, bởi những nhiêu khê qua thủ tục hành chính ở các cửa ải, và sở thuế vụ. Vua Gia Long và Minh Mạng cũng cho đúc những nén vàng nén bạc, và cho thấy kinh tế thương mại có những bước tiến lên và phát triển. Tuy nhiên, các nén vàng bạc lại chẳng được đầu tư, mà dân chúng đem cất giữ bởi tâm lý con người còn mang nặng tính nông nghiệp. Xã Hội Việt Nam đã thiếu hẳn lớp người thương gia, đang khi có đủ chính trị gia, khoa học gia hay sử gia Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam.

    4. Cho Vay Ăn Lời”

    Như trên người viết đã đề cập đến Dinh Bình Hầu Nguyễn Công Trứ (1778-1858) người lừng danh với 3 quốc sách đồn điền, doanh điền, và khai khẩn ruộng hoang. Buổi thiếu thời, dù sống cảnh hàn vi nhưng Ông luôn cố gắng học hành để mong thi đỗ, làm quan giúp dân giúp nước. Sau nhiều lần thi hỏng, cuối cùng cũng đậu Giải Nguyên năm Gia Long thứ 18 (1819) và đến năm Minh Mệnh nguyên niên 1820, Ông ra làm quan lúc 42 tuổi, và thường khuyên chúng ta làm tròn phận sự Kẻ Sĩ, lập công danh sự nghiệp và bình tâm sáng tạo dù gặp cảnh ngộ nào. Lời văn hào hùng ngạo nghễ, biểu lộ bản lĩnh chính trị vững vàng, chí khí mạnh mẽ, thái độ cầu tiến, quả là khẩu khí của kẻ sĩ Nguyễn Công Trứ suốt đời hăng say phục vụ dân nước, và xứng đáng cho chúng ta kính phục:

    Tước hữu ngũ Sĩ cư kỳ liệt
    Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên
    Có giang sơn thì Sĩ đã có tên
    Từ Chu Hán vốn Sĩ này là quý
    Miền hương đãng đã khen rằng hiếu nghị
    Đạo lập thân phải giữ lấy cang thường
    Khí hạo nhiên chí đại chí cương
    So chính khí đã đầy trong trời đất
    Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
    Hưu hưu nhiên điếu vị canh Sằn
    Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn
    Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
    Cầm chính đạo để tịnh tà cừ bí
    Hồi cuồng loan nhi chướng bách xuyên
    Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
    Mang quách cả sở tồn làm sở dụng
    Trong lang miếu ra tài lương đống
    Ngoài biên thuỳ rạch mũi Can Tương
    Sao cho bách thế lưu phương
    Trước là Sĩ sau là khanh tướng
    Kinh luân khởi tâm thượng
    Binh giáp tàng hung trung
    Vũ trụ chi nhân gian giai phận sự
    Nam nhi đáo thuỷ thị hào hùng
    Nước nhà yên thì Sĩ được thung dung
    Bấy giờ Sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
    Dăm ba đứa tiểu đồng lếch thếch
    Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
    Này thơ, này rượu, này địch, này đàn
    Đồ thích chí chất đầy trong một túi
    Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
    Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh
    Này này Sĩ mới hoàn danh.

    Nhưng tiếc thay trong Kẻ Sĩ, Nguyễn Công Trứ chưa nhận thức quan niệm “Phi Thương Bất Phú” và mẫu người “Thương Gia Trí Thức,” là hệ trọng trong cuộc cải cách nông nghiệp và kỹ nghệ hóa đất nước mà triều Nguyễn đã chủ trương. Hình ảnh của người Thương Gia trong xã hội kỹ nghệ phải được coi trọng và đặt lên hàng đầu, mới phải, ví dụ: “Dân hữu tứ Thương vi chi tiên” nhằm giúp cho dân chúng noi gương và học hỏi, rồi sẽ tình tự thay đổi quan niệm “Cày sâu cuốc bẫm” của xã hội nông nghiệp, để biết cách “Cho vay ăn lời” trong thời đại văn minh kỹ nghệ hôm nay. Ví dụ: Nhật Bản năm 1872 đã bãi bỏ giai cấp Võ Sĩ Đạo (Samurai) làm giảm mẫu “Người Hùng Quân Sự” trong cuộc cách mạng Minh Trị (Enlightened rule) thay bằng hình ảnh “Thương Gia Trí Thức” và đề cao lớp người buôn bán trong xã hội quân chủ. Ngoài ra Anh Quốc, Hòa Lan, Bỉ Quốc… Nhật Bản, Thái Lan, Mã Lai là những nước quân chủ lập hiến chuyển qua đại nghị theo đường hướng hòa bình, như lời triết gia Hegel: “Xã hội con người được cai trị từ một người, đến một giai cấp và đến toàn dân. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho một xã hội dân chủ.”

    Trong Thánh Kinh, đệ tử Giu Ða bán thày với gía 30 đồng, số tiền ngày ấy cũng không nhỏ và đã mua được khu thương mại gọi là ruộng máu… điều này chứng tỏ nền tài chánh của dân Do Thái cách nay hai ngàn năm đã phát triển cao. Trong kinh cũng nhắc đến mẫu người “cho vay ăn lời,” dù có phê bình theo quan niệm tôn giáo, “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước trời.” Nhưng truyền thống sinh họat thương mại “cho vay ăn lời” đúc lên mẫu người Tài Phiệt Do Thái, mà xưa nay họ nắm vận mệnh tài chánh toàn cầu: “Dân hữu tứ Thương vi chi tiên!”

    Với truyền thống “cho vay ăn lời” người Do Thái bành trướng trên thế giới, chính là nguyên nhân thầm kín mà nhà lãnh tụ độc tài Ðức Quốc Xã Adolp Hitler (1889-1945) nhận ra, và muốn chấm dứt nạn lệ thuộc tài chánh của tài phiệt Do Thái đang nắm giữ vận mệnh Châu Âu. Và muốn dành lại chủ quyền tài chánh cho Ðức Quốc và Châu Âu, Quốc trưởng Hitler một mặt dựng ra thuyết chủng tộc Aryan làm bung xung, nhưng mục đích là để khuyến khích thanh niên Đức Quốc Xã đấu tranh sinh tồn chống lại thuyết Do Thái Giáo, mặt khác, lãnh tụ độc tài này cũng muốn giành lại chủ quyền tài chánh từ tay nhóm tài phiệt người gốc Do Thái khắp nơi.

    Nhìn lại những thước phim tài liệu của cơ quan tuyên truyền Ðức Quốc Xã, chúng ta thấy rằng họ chỉ dám nhắm vào cái gọi là “Người Do Thái dơ bẩn” chớ không dám nêu đích danh “Khối Tài Phiệt Do Thái,” thì đủ hiểu lớp người Thương Gia Do Thái này ở cấp cao chúa tể nào rồi. Hậu quả cuộc Thế Chiến II không những là thảm họa chung cho nhân loại, nhưng chính là thảm bại của Châu Âu, của Ðức Quốc vì “Chiến Tranh Tài Chánh” mà Quốc trưởng Hitler chủ trương đã thua cuộc với khối Thương Gia Do Thái, và truyền thống ngàn đời “cho vay ăn lời” đã chiến thắng trong thầm lặng trên mọi cuộc diện chiến trường thế giới, mà hầu như ít ai biết đến. “Dân hữu tứ Thương vi chi tiên!”

    (Tiếp Phần III)


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X