Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những Tác Hại Giáo Dục Của Việt Nam (I)

Collapse
X

Những Tác Hại Giáo Dục Của Việt Nam (I)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Tác Hại Giáo Dục Của Việt Nam (I)

    A. Tổng Quan

    Tết Canh Dần vừa qua người viết ra thăm Cố Đô Huế, nơi vua quan triều Nguyễn trị nước trong 143 năm, kính cẩn dâng nén hương cầu cho nước thịnh dân an và thành tâm tạ tội với Các Ngài đang hiện diện trong Thế Tổ Miếu. Trước Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế cùng hai vị Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu đại diện nhà Nguyễn, tôi xin thú tội vì đã học những sử liệu thiếu “chính đại quang minh” ở học đường Việt Nam, nên có nhận thức sai lầm về vua quan triều Nguyễn và đắc tội với Các Ngài.

    Nhân ngày lễ trọng đại hôm nay, nguyện xin Các Ngài rộng lòng tha thứ, gia ân phù giúp, cho toàn thể Con Cháu dân tộc, sớm thực tâm nối bước Tổ Tiên, đem chính sử kết liên Dân Việt, tạo sức hùng hưng phục Quê Hương, quyết loan truyền Chánh Thuyết Tiên Rồng, thành cơ chế cứu nguy Nhân Loại. Đúng ơn Trời muốn, Kỳ Đài Bách Việt, Hiển Tổ rạng danh. Lòng thành kính dâng, khấn xin hưởng nhận.



    B. Nhận Diện Thời Cuộc

    Năm 1953 Hồ Chí Minh phát động một lúc hai phong trào: Cải tạo ruộng đất/ nông nghiệp được giao cho Trường Chinh, Tổng bí thư đảng Lao Động Việt Nam, tiền thân đảng Cộng Sản Việt Nam, lập ra Ủy Ban Cải Cách Ruộng Đất do hai ủy viên bộ chính trị là Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương, cùng với một ủy viên trung ương đảng là Hồ Viết Thắng làm phụ tá. Mục đích xóa bỏ định chế làng nước và truất phế quyền tư hữu đất đai của nông dân, tập trung toàn bộ năng lực cho Hồ Chí Minh và Cộng đảng xây dựng chế độ chuyên chính vô sản, làm bạo lực khởi chiến tại Việt Nam.

    Cũng trong năm ấy, phong trào cải tạo tư tưởng/ văn hóa được ủy nhiệm cho Phạm Văn Đồng, Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, lập một Ban Nghiên cứu Lịch Sử, Địa Lý và Văn Học do Trần Huy Liệu làm trưởng ban và đặt quyền trực thuộc trung ương đảng, sau đổi tên Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Mục đích tuyên truyền xuyên tạc Văn – Sử – Địa, đầu độc sự suy nghĩ, tâm lý và ý tưởng người dân thuận theo khuynh hướng độc tài toàn trị của đảng. Họ phủ nhận tất cả mọi thành quả xây dựng đất nước, mở mang bờ cõi hay phát triển đời sống xã hội Việt Nam của vua quan xưa nay, trong đó có nhà Nguyễn ở thời cận đại họ dễ dàng phán xét.

    Phong trào cải tạo tư tưởng do "bác đảng" chủ trương, không chỉ dừng lại ở sự thay đổi tư duy hoặc thái độ từng người, mà kích động mọi người trở thành lực lượng chiến đấu và bảo vệ Tà Thuyết Mác Lê. Việc làm của ban cải tạo cũng không chỉ lôi kéo học sinh/ sinh viên ra khỏi sự nhận thức chính đáng sử liệu Việt học, mà đầu độc người trẻ Việt Nam tin tưởng mù quáng vào ý tưởng mới/ ý thức hệ cộng sản ghi trong sử sách do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam sọan ra. Do đó mỗi khi nghe nhắc tới công lao hay sự nghiệp dựng nước giữ nước của Tổ Tiên tiền nhân, thì thanh thiếu niên Việt Nam đều mất khả năng suy xét để trả lời, mà chỉ có phản xạ tự nhiên thốt ra lời báng bổ Tổ Tiên:“Chế độ phong kiến,” “quân chủ chuyên chế...” Họ phủ nhận lịch sử, cắt đứt truyền thống chính trị ngàn đời của dân tộc và giống nòi.

    Những thế hệ học sinh/ sinh viên tiêm nhiễm sách sử do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam tuyên truyền và đấu tố, họ luôn tỏ lòng vô ơn cũng như lộ chí căm thù vua chúa nhà Nguyễn, bằng kết án ghi trong sách giáo khoa: “Chế độ quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động – Nhà Nguyễn tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát – Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà – Tự Đức bán rẻ đất nước cho thực dân Pháp…” Tóm lại, cả nước đều phát biểu rập khuôn như thế, và đắc tội với Tổ Tiên tiền nhân!

    Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam chà đạp nhân quyền, thủ tiêu công lý, phán xét một chiều các vua quan nhà Nguyễn bằng những ngôn ngữ thiếu trầm tĩnh và đầy tính chất khủng bố cực đoan. Xin hỏi, dân tộc Việt Nam sẽ gặt hái gì trên chính trường văn hóa thế giới? Chính quyền Việt Nam hôm nay sẽ trả lời ra sao, một khi cho rằng ta cứ thiếu lễ nghĩa liêm xỉ, cứ hãm huyết phun người... thì chính nghĩa giải phóng dân tộc với thực dân xâm lược có còn biên giới gì khác biệt?

    1. Lịch Sử Việt Nam Tập I

    Đọc Lịch Sử Việt Nam (1971) tập I, tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam đều lập luận một chiều theo chủ trương của phong trào cải tạo tư tưởng của đảng, chớ họ không viết theo tư duy và sử học cá nhân:

    - Triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tội ác trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nước một lần nữa, sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cướp nước xóa khỏi bản đồ thế giới.

    - Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân.

    - Triều Nguyễn là vương triều tối phản động. Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em.

    - Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế.

    Xuyên qua nội dung người ta thấy rằng những đề tài trên đây không được thảo luận một cách thẳng thắn theo khoa học, mà chỉ tòan những lời bịa đặt, xuyên tạc và thóa mạ nhà Nguyễn nhằm truyền dạy cho lớp người thanh thiếu niên tỏ lòng vô ơn tiền nhân, phủ nhận những nỗ lực, những giá trị thành quả trong đại cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước của vua quan Việt Nam nói chung, và triều Nguyễn nói riêng. Tất cả làm một nhát gươm chặt đứt nguồn mạch chính trị Việt Nam, khiến cho toàn dân không còn Hồn Nước. Vì rằng Hồn Nước phải bao gồm toàn thể lịch sử, tinh hoa văn hóa mà tạo nên tinh thần sống của một dân tộc.

    Hồn mất trước, Nước mất sau!

    2. Lịch Sử Việt Nam Tập II

    Đọc tiếp cuốn Lịch Sử Việt Nam (1985) tập II phát hành mới đây, các tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam lại tiếp tục đấu tố nhà Nguyễn theo kiểu lên án địa chủ trong thời kỳ cải tạo nông nghiệp của đảng. Họ không tự giới hạn được ngôn ngữ, cho nên mỗi câu, mỗi chữ trong bài viết đã làm cho người đọc cảm tưởng như mình bị nghe đảng chửi, đang khi vua quan nhà Nguyễn lại không thể lọt tai. Trước mắt chỉ có ba thành phần là tác giả, Cộng đảng, và bạn đọc, nhưng khi xem tài liệu này người ta không thẩm định được nội dung mà "bác đảng" muốn gì; phá nước chăng? Có lẽ là như vậy:

    - Triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt – Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn – Cực kỳ ngu xuẩn.

    - Nhà Nguyễn đã tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát – Chế độ áp bức bóc lột nặng nề – Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động – Chính sách đối ngoại mù quáng.

    - Tên chúa phong kiến bán nước số một là Nguyễn Ánh – Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp.

    Đang khi theo sử liệu của Việt học cho ta thấy rằng: Người khởi đầu dựng nghiệp nhà Nguyễn, là Nguyễn Kim (1468-1545). Nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống nhà Mạc. Nguyễn Kim tìm được người con vua Lê Chiêu Tông, lập ngôi nối tiếp là vua Lê Tang Tông. Nhờ công này Nguyễn Kim được phong chức Quốc Công, cai quản quân đội. Nguyễn Kim về sau bị người họ Mạc dùng thuốc độc trả thù. Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng được phong Quận Công, nhưng binh quyền lại lọt vào tay anh rể, Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm giữ quyền chỉ huy quân đội và trông coi triều chính. Để giảm bớt thế lực họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho mình cũng bị diệt trừ, Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa theo lời khuyên “Hoành sơn nhất đái vạn dung thân: Một dải Hoành sơn có thể dung thân lâu dài” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm -- Chỉ một lời nói đã giải quyết cho hai thế lực thù nghịch xa nhau, vừa thóat cảnh đau thương chiến tranh cho dân tộc lại vừa mở rộng lãnh thổ Việt Nam.

    Trịnh Kiểm giao quyền cai quản miền Nam thời đó cho Nguyễn Hoàng vào năm 1558, bao gồm phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam ngày nay. Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ phương nam, mở rộng biên giới và xâm lấn đất đai của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế Quốc Khmer nhường lại đất xứ Phù Nam, tức miền Nam Việt Nam ngày nay. Kết qủa Nhà Nguyễn đã góp công đầu trong đại cuộc Mở Nước, xây dựng và phát triển đất nước hùng hậu như trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ do Quốc Sử Quán triều Nguyễn ấn hành vào thế kỷ 19 đã ghi rõ Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, và toàn bộ cương vực này là thuộc Đại Việt.
    Các chúa Nguyễn ngày ấy, về hình thức vẫn thần phục vua Lê và xưng chúa. Nguyễn Hoàng được tôn là chúa Tiên, vì người mở đầu cho sự nghiệp tiên đế của nhà Nguyễn ở phương nam. Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, Chúa Sãi lên ngôi năm 1613, là người mang họ Nguyễn Phúc và từ đó con cháu trong dòng đều mang họ này. Sáu đời sau Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vào năm 1738, là người xưng vương, Vũ Vương vì chúa Trịnh ở phương Bắc đã xưng vương, đang khi vua Lê chỉ còn hư vị.

    Vũ Vương chết, theo di chúc người nối nghiệp là Nguyễn Phúc Luân, nhưng phản thần Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần 12 tuổi lên ngôi Định Vương năm 1765, nhằm dễ bề thao túng. Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên bị dân chúng óan hận và nổi lên khởi nghĩa, trong số ấy có anh em nhà Tây Sơn. Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm đối phó. Nhân cơ hội này, chúa Trịnh đem quân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị Trương Phúc Loan, nhưng sau khi bắt được Trương Phúc Loan quân Trịnh tiếp tục đánh chiếm Phú Xuân, năm 1775. Chúa Nguyễn phải chạy vào Quảng Nam, tới năm 1777 Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn, bắt giết tất cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, và nhiều người và thuộc dòng tộc Nguyễn Phúc, chỉ còn người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân, là Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát.

    Năm 1778 Nguyễn Phúc Ánh quay lại và tập hợp lực lượng đánh chiếm Gia Định và tới năm 1780 xưng vương. Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Vương khiến vương trốn chạy và quay lại nhiều lần. Mãi cho đến năm1790 Gia Long mới chiếm trọn Gia Định, tỏ ra là một trang anh hùng nghĩa khí, xây dựng nền độc lập tự chủ, mở mang bờ cõi và thống nhất lãnh thổ Việt Nam. Vua Gia Long rất xứng đáng cho con cháu Việt Nam noi gương!

    3. Đại Cương Lịch Sử Việt Nam

    Đọc tiếp đến cuốn sử mới đây có tên, Đại Cương Lịch sử Việt Nam (2007) do Đinh Xuân Lâm biên soạn. Ông Lâm được chính quyền Việt Nam hiện thời ca tụng là giáo sư có công xây dựng Bộ môn Lịch sử cận đại và hiện đại… Giáo sư Lâm còn là Phó Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, và là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm UNESCO. Tác giả viết:

    - Triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ.

    - Nhà Nguyễn là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu, phản động. Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn.

    Và, các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp của Nhà Nguyễn, ông Lâm cho rằng nó “đã xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.”

    - Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách.

    - Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng.

    - Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây thì chúng thi hành ngày một thêm gắt gao chính sách bế quan toả cảng và cấm đạo, giết đạo.

    - Với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương Tây.

    Xuyên qua nội dung của cuốn sách Đại Cương Lịch sử Việt Nam (2007), chúng ta thấy rằng gía trị của một người mưu cầu hạnh phúc cho dân, cho nước đã chỉ có thể được đo bằng sự hy sinh, lòng xả kỷ và tinh thần phục vụ lợi ích dân nước… Một vài bộ sách, một vài hình thức hoạt động thì chưa phải là điều “ắt có và đủ” để kết luận việc làm của giáo sư như theo lời tán tụng “nhà nước…” chỉ là “Chí Phèo” tên một nhân vật trong tiểu thuyết tiền chiến. Đây cũng là điều hoang tưởng của nhiều giáo sư… thái độ ấy, người ta cho là quá khích, cực đoan, không ích lợi gì cho việc phát triển đất nước mà tác giả muốn trình bày.

    4. Xuyên tạc lịch sử và chà đạp sách sử “Đại Nam Thực Lục”

    Đại Nam Thực Lục là bộ sách ghi chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) cho tới đời vua Khải Định (1925), do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần tiền biên và chính biên được viết vào năm Minh Mạng thứ hai (1821) sau 88 năm công phu soạn thảo tới năm 1909 mới hoàn thành: Tiền biên có 2 kỷ và Chính biên 6 kỷ, và được dịch ra Quốc Ngữ từ nguyên bản Nho Ngữ vào năm Khải Định thứ 9 (1924) để giúp cho chúng ta tra cứu dễ dàng.

    Thế nhưng vào năm 1961, trước khi cho sửa đổi và tái bản Đại Nam Thực Lục, các tác giả của Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam đã đồng loạt viết tài liệu giới thiệu với chủ đích đấu tố bộ sử triều Nguyễn như đã thực hiện trong phong trào cải tạo ruộng đất, với hai chiến thuật mà họ đã công phu tập luyện tới mức vô địch thượng thừa; đó là đánh “du kích và bắn sẻ;” đồng thời khai thác triệt để hai chiến thuật này vào các mặt trận quân sự, kinh tế, xã hội, ngoại giao, tôn giáo và văn hóa, khiến cho người ta nhớ lại câu chuyện Gà đẻ trứng vàng trong cổ học Đông phương, để phòng ngừa du kích và bắn sẻ. Các ông trong ban quản giáo này có con gà đẻ trứng vàng. Lúc đầu họ chờ gà đẻ tự nhiên mỗi ngày một trứng, nhưng một hôm họ làm theo chủ trương chỉ đạo nhà nước, muốn có nhiều vàng một lúc và sử gia quyết định làm thịt con gà Đại Nam Thực Lục. Nhưng khi mổ gà ra, lại chẳng thấy có trứng vàng. Tác giả đã không hiểu con gà nhà Nguyễn là nguồn sản xuất và cái trứng, thành tựu cải cách, là sản phẩm. Hóa ra thì tất cả chỉ muốn “lượm trứng,” chớ không “xuất của” để mua thực phẩm nuôi gà:

    - Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh (1558-1888) những công việc mà các vua chúa nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta.

    - Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam Thực Lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn…

    - Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử... vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức.

    Tóm lại, chúng tôi mong rằng các sách sử tương tự như của Giáo sư Đinh Xuân Lâm thì cần công khai nhận lỗi, viết lại, tôn trọng lịch sử, và những gì trình bày nơi đây không làm phiền lòng tác giả cũng như độc giả. Chúng tôi hy vọng tình trạng phê bình chủ quan, giáo điều tắc trách về sử liệu của phong trào cải tạo tư tưởng, cần phải được chấm dứt ngay và không còn tái diễn, để trả lại không khí trong sạch của sử học cho những người Con Cháu Việt đang cố gắng tô điểm cho nền văn hóa và lịch sử, ngõ hầu tìm lại truyền thống bất khuất của Tổ Tiên để thực thi đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay.

    C. Di Sản Nhà Nguyễn

    Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam bóp méo lịch sử, tuyên truyền xuyên tạc Vương triều nhà Nguyễn, được đăng tải rộng khắp trên các diễn đàn nghiên cứu về lịch sử văn học, địa lý và tư tưởng Việt Nam, biểu thị trong ngành đại học sư phạm hoặc trong sách gíao khoa của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, được giảng dạy từ bậc tiểu học, trung học và đại học trải qua hơn 2/3 thế kỷ nay. Sách sử giáo khoa thư đã giáo dục tầng lớp thanh thiếu niên, đào tạo cho họ phẫn uất căm thù vua quan triều Nguyễn, cắt đứt truyền thống chính trị dân tộc, vô cảm trước sự kiện mất đất mất đảo, phó mặc vận mệnh Tổ Quốc rơi vào tay giặc phương Bắc như thời nhà Hồ, từng xảy ra nạn “Mất Nước” trong lịch sử.

    Nhìn vào Việt Nam hôm nay: các hãng xưởng Trung Quốc mọc lên khắp nơi từ thôn quê cho tới thị thành, và từ đội công nhân kỹ thuật, toán bảo vệ canh gác, các phương tiện sản xuất, hay bảng tên cầu đường đều là Bắc Thuộc. Hàng hoá Trung Quốc tràn ngập, phá giá thị trường và làm lũng đoạn nền kinh tế nước ta. Ô nhiễm Trung Quốc thải đầy sông nước, mùi hôi thối xông lên nồng nặc và hủy diệt môi sinh dân ta, gây nhiều biến chứng ung thư độc hại. Thể chế Trung Quốc lại được đảng Cộng Sản Việt Nam hôm nay tôn trọng tiếp nhận, làm khuôn mẫu toàn trị nhằm đàn áp bóc lột dân lành – chớ chúng ta chưa bàn tới những vụ hải đảo Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa hay đất đai biên giới đã mất, hoặc do những đảng viên đầu tỉnh ở Lạng Sơn, Quảng Ninh và nhiều nơi khác đã cho công ty xí nghiệp Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan thuê đất trồng rừng nguyên liệu – Pháp lệnh Trung Quốc, từ cao xuống thấp đều được truyền sang để cho chính quyền Việt Nam thi hành. Đó chính là hậu quả tai hại của nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam từ năm 1953 tới nay.

    Xã hội miền Bắc từ năm 1953, miền Nam từ sau năm 1975, chúng ta thấy cảnh “dân suy nước nhược,” lòng người ly tán, thờ ơ, vô cảm trước vận hệ tồn vong. Những di tích lịch sử triều Nguyễn bị nhà cầm quyền phủ nhận, không bảo quản và phó mặc cho thời gian biến thành phế tích “phong kiến,” vật liệu bị đánh cắp, sử liệu bị tịch thu, hoặc sửa đổi nội dung. Những bảng tên trường học, đường phố hay những công viên công cộng có dính líu tới danh xưng của vua quan triều Nguyễn đều bị xóa sạch, kể cả những danh nhân hay anh hùng dân tộc, như vua Duy Tân chống Pháp cũng bị gạch tên. Tới nay, nhờ dịch vụ du lịch thương mại, nhà cầm quyền mới chịu cho chỉnh trang một phần Đại Nội nhằm thu hút ngoại tệ, và lại còn đặt thượng cụ cái “Hình Bác Hồ” cười đắc thắng dưới ngọn “Cờ Sao Bắc Thuộc” trên đỉnh cao chót vót của Kỳ Đài trong Kinh Thành Huế, nhằm trêu chọc Việt kiều về thăm. Đang khi, ai mà chả biết Hồ Chí Minh có công lường gạt Hoàng Đế Bảo Đại, truất phế trong cuộc Cách Mạng Tháng 8, vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, khi lừa vua gia nhập Việt Minh ở Ngọ Môn Quan trong Kinh Đô Huế.

    Giờ đây trở về viếng thăm Cố Đô Huế trong dịp Tết Canh Dần, và trước án thờ các vị minh quân thánh chúa nhà Nguyễn, tôi thành kính tri ân và nguyện cầu Các Ngài tha thứ, và xin dìu dắt đàn con cháu biết thực tâm nối bước Tổ Tiên, luôn thể hiện tận tình sở học. Hơn thế nữa Các Ngài đã cố công xây dựng đất nước, mở mang bờ cõi, thống nhất lãnh thổ, phát triển văn hóa giáo dục, kinh tế, xã hội, quân sự, ngoại giao và để lại nhiều di sản quý báu cho lịch sử. Ví dụ:

    - Nhã Nhạc Cung Đình Huế

    Nhã Nhạc Cung Đình Huế đã được Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO năm 2003 công nhận là một “Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại: Chefs-d'œuvre du patrimoine oral et immatériel de l'humanité.” Theo đánh giá của UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền chỉ có nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia. Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 vào thời nhà Trần, cho tới nhà Nguyễn thì Nhã Nhạc Cung Đình Huế đạt tới hoàn chỉnh và siêu việt để được gọi là Quốc Thiều.

    - Mộc Bản Triều Nguyễn

    Mộc bản triều Nguyễn cũng là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam do UNESCO công nhận vào ngày 31 tháng 7 năm 2009. Số mộc bản này hiện đang bảo quản tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia Đà Lạt, Lâm Đồng. Mộc bản gồm có 34,618 tấm, là những bản văn chữ Việt Nho, khắc ngược trên gỗ để in giấy ra sách, và phát hành tại Việt Nam vào thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ 20. Tài liệu mộc bản này do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn tạo ra, với những loại gỗ dùng khắc tài liệu thường là gỗ thị, gỗ mít hay gỗ nha đồng. Nét chữ trên tài liệu mộc bản rất là tinh xảo sắc nét, và còn là tài liệu quý giá trong việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa nước ta. Người có công lưu giữ Mộc Bản Triều Nguyễn là ông Cố Vấn Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Nhu (1911-1963) làm Quản Thủ Thư Viện ngày ấy.

    - Kinh Thành Huế

    Cố Đô Huế cũng được UNESCO năm 1993 công nhận là “Di sản Văn hóa Thế giới.” Hiển hiện trước mắt tôi đây, là một kinh thành với những kiến trúc quy mô đồ sộ, được xếp hạng nhất trong các Di Tích Lịch Sử Việt Nam. Từ phong cách cấu trúc cho tới phương pháp phòng ngự của Vua Gia Long, người ta thấy kinh thành này trông tợ như một pháo đài hùng tráng, mà ngày xưa, thuyền trưởng người Pháp Le Rey (1819) khi vừa đặt chân tới Kinh Thành Huế đã có nhận xét: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài William ở Calcutta và Saint Georges ở Madras do người Anh xây dựng: Citadelle de Hue forteresse est vraiment le plus beau, le plus affecté par l'Indochine, même contre le Fort William à Calcutta et à Madras Saint-Georges par la construction de la Colombie.”

    Cố Đô Huế tọa lạc bên tả ngạn sông Hương có diện tích hơn 500 mẫu đất, ba vòng thành bảo vệ. Trong khuôn viên Ðại Nội được xây theo hình vuông, mỗi cạnh 600 thước, bằng gạch cao 4 thước, dày 1 thước, bên ngoài thành có hào và 10 cầu đá bắc qua hào để ra vào lũy. Bốn góc thành có 4 tháp canh, bốn mặt thành có 4 cửa ra vào đối diện nhau gọi là Ngọ Môn, Thần Vũ Môn, Đông Hoa Môn, Tây Hoa Môn. Ðại Nội có hơn trăm công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ, khu rộng nhất là Tử Cấm Thành (Cố Cung) xây vuông mỗi cạnh 300 thước, tường cao 3 thước rưỡi và có hơn 50 công trình xây dựng với nhiều cung điện. Chữ Tử có nghĩa là màu tím, trong chuyện thần thoại Tử Vi Viên. Tử Cấm Thành chia thành hai khu ngoại triều và nội đình, và Ngọ Môn là cửa chính vào Cố Cung, đặt ở phía Nam trên trục chính. Ngọ Môn được xây dựng theo kiểu hình chữ U, phía dưới là khối tường thành dày và cao, có trổ 5 cửa vòm vì thế Ngọ Môn có tên Ngũ Phượng Lầu.

    Một Cụ xứ Huế kể chuyện cho tôi nghe. Ngày vua Gia Long du thuyền trên sông Hương, thấy núi Bằng Sơn cao khoảng 105 thước, có dáng non bộ cân xứng với phong thủy. Ở hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn, trông tợ thanh long bạch hổ phục chầu. Nhà Vua quan sát, thấy Bằng Sơn là bình phong hay bàn thạch cho mình ngự mà trông việc thiên hạ, vì thế vua đã chọn Bằng Sơn làm án phía trước, tức hệ thống tường thành thiên nhiên bao quanh để bảo vệ cho Kinh Thành Huế mà đổi tên núi Ngự Bình.

    Năm đó là 1805, Vua Gia Long khởi công xây thành. Thành được xây theo phong cách tổng hợp giữa kiến trúc Tây phương và kiến trúc thành lũy của Đông phương, tạo cho thành mang mặc sắc thái dân tộc. Việc xây cung đình, nhà vua còn đặt ra những phần thừa kế và tiếp nối truyền thống kiến trúc của các Nhà Lý Trần Lê. Đặc điểm vua tiếp nhận tinh hoa kỹ thuật và mỹ thuật Trung Quốc nhưng biến chế Việt Nam hóa. Nhà vua cũng rút tỉa kỹ nghệ hóa do những kỹ sư Pháp hoặc Tây phương đang phục vụ dưới triều, cho nên thiết kế hệ thống hào lũy, hệ thống thành quách và hệ thống cung điện đều đặt trên hướng trục chính là Tây Bắc và Đông Nam theo các yếu tố ngũ hành tương ứng với ngũ phương. Xây dựng mãi cho tới năm 1832, Kinh Thành Huế mới được hoàn tất dưới triều Minh Mạng… rồi trải qua hai trăm năm nay, cố đô vẫn còn như nguyên vẹn với gần 140 công trình kiến trúc lớn nhỏ trước mắt.

    - Mộng Lành Thành Mộng Dữ

    Khi nhìn hình Hồ Chí Minh treo trên Kỳ Đài, Cụ già xứ Huế nói rằng,“Ước mơ của họ: mộng lành thành mộng dữ, vì nước Việt Nam hôm nay được thế giới xếp vào hạng áp chót.” Giấc mộng “đả thực bài phong,” “không gì quý hơn độc lập tự do,” “đánh Mỹ xong ta xây đẹp bằng mười” tất cả trở thành kinh hoàng, là do ông Hồ và đám hậu duệ cố chấp và không chịu tiến lên, không theo kịp trào lưu văn minh và phát triển của thời đại chính trị kỹ nghệ liên bang. Ngược lại họ kéo Việt Nam trở về thời đại săn hái, ghi nhận trong Hiến Pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân… theo chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Vì độc tài chậm tiến, ác mộng xảy ra từng giây từng phút, lớp đảng viên cầm quyền lãnh đạo thì thi nhau tham nhũng để có phương tiện cho con cháu du học nước ngoài, và cũng là mở cửa để thoát hiểm khi có biến động chính trị xảy ra. Tới nay ai cũng muốn cần phải thay đổi chính trị thì mới có thể phát triển kinh tế quốc gia.

    Về phương diện đạo đức Cụ cho rằng, “Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam càng ngày càng băng hoại,” vì nghèo đói, cho nên dân chúng thường tập trung vào các thành phố lớn, như Sài Gòn để tìm kiếm việc làm và sống dựa số tiền thân nhân nước ngoài gởi về, hoặc những dịch vụ bất chính của nhiều thương gia ngoại quốc đầu tư, rửa tiền... Thế hệ con cháu cán bộ cao cấp cũng chỉ noi gương bóc lột, tham nhũng, gian lận chính trị của lớp cha anh với những ấn tượng xấu xa. Do đó, cần thay đổi tận nền tảng chính trị, nhanh chóng xóa bỏ chế độ độc tài lạc hậu mới mong làm cho dân giàu nước mạnh và sống hòa bình trong cộng đồng thế giới.

    Tôi bàng hoàng nghe Cụ nói, và Cụ chính là một người Việt Nam thuần túy. Trong những câu chuyện Cụ kể, tôi cũng hình dung ra được công trình dựng nước/ giữ nước của Tổ Tiên Dân Tộc và phân biệt chánh tà. Cụ đã không bị ảnh hưởng bởi trào lưu ngoại lai qua sách sử tuyên truyền, không bị đầu độc bởi hệ thống loa phóng thanh của “nhà nước” rêu rao hằng ngày, cho nên Cụ là một người “hữu thần.” Hữu thần khác biệt với “vô thần” dù là cộng sản hay tư bản – cũng luôn coi con người là con thú, hoặc máy móc. Để con người được thật sự sống như thân phận con người, Cụ thể hiện quan niệm hữu thần, là vì Cụ tin có Ông Trời, có Thần Thánh, Hồn Thiêng Sông Núi, Tổ Tiên Ông Bà… và áp dụng vào cuộc sống hiện tại, quan niệm hữu thần, chính là Phúc Đức. Bởi thế tôi cũng cảm nhận rằng: Quan niệm Phúc Đức của Cụ là nền tảng vững chắc nhất, thâm sâu nhất, tinh túy nhất cho tinh thần chiến đấu của mọi người chúng ta, vì phân định được rõ ranh giới chánh nghĩa và gian tà, cứu nước hay cướp nước, giữ nước hay bán nước.

    Theo truyền thống và niềm tin xưa nay của dân tộc, chúng ta biết rằng: bất cứ việc thiện nào cũng là việc Phúc Đức! Phúc Đức đó ta làm ta hưởng, mà còn để lại, truyền lại cho vợ, chồng, con, cháu và dòng tộc dân tộc hưởng nhờ: Làm lành để đức cho con. Muốn được thì phải tích đức, nghĩa là làm phúc, làm việc thiện và tránh làm ác, Chung thân hành thiện, thiện do bất túc, nhất nhật hành ác, ác tư hữu dư: Suốt đời làm điều lành, vẫn chưa đủ, một ngày làm điều ác, ác đã quá thừa.” Vậy mà trong đời sống con người, có việc Phúc Đức nào to lớn cho bằng việc dấn thân giúp đỡ trăm triệu người Việt Nam hiện nay, cứu nguy Dân Tộc, bảo vệ và phát huy truyền thống của Giống Nòi, lấy lại Giang Sơn gấm vóc mà Tổ Tiên Ông Bà, qua hình ảnh Triều Nguyễn dày công Mở Nước và Giữ Nước: Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho 1/ hay 100 triệu người, đang chờ.

    (Tiếp Phần II)


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X