Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những Tháng Năm Cuồng Nộ

Collapse
X

Những Tháng Năm Cuồng Nộ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Tháng Năm Cuồng Nộ



    Những Tháng Năm Cuồng Nộ
    Khuất Đẩu

    Lời mở đầu
    Một nơi không ngày tháng

    Tôi chỉ là một công dân hạng hai cầm bút chứ không phải là nhà văn. Lại càng không phải là nhà văn có thương hiệu cho dù là cấp xã hay cấp nhà nước. Tôi viết trước hết cho các con tôi vì chúng rất mù mờ không hiểu cha ông chúng đã sống và đã chết như thế nào trong suốt hơn nửa thế kỷ giông bão vừa qua.

    Tôi có người bạn bảo bây giờ viết như Kinh Kha buồn. Nghĩa là biết chẳng tới đâu mà vẫn phải cầm lấy bút như cây chủy thủ. Tôi nghĩ còn hơn Kinh Kha buồn vì sông Dịch bây giờ chẳng những lạnh mà hoang vắng đến rợn người. Chẳng có một tân khách nào dám tiễn đưa. Cái đất Tần ấy lúc này đang ngút trời gươm đao bất trắc.

    Từ lúc nạn đói năm Ất dậu đến nay có bao nhiêu triệu công dân hạng hai Việt Nam đã chết? Hai triệu? Năm triệu? Hay mười triệu? Chết vì đói, vì thủ tiêu, vì đấu tố, vì tố cộng, vì Mậu thân, vì cải tạo, vì vượt biên… Cho dù ở bên nào họ cũng chỉ là những nông dân nghèo, cả đời khát khao mảnh vườn thửa ruộng. Chính vì vậy mà họ bị lừa phỉnh, bị lợi dụng, bị sai khiến. Cho đến bây giờ những kẻ sống sót cũng không còn là những nông dân thuần Việt như xưa.

    Cái làng An Định không có trên bản đồ Việt Nam nhưng nhất định là có trong tâm tưởng của nhiều người. Và số phận của họ cũng trôi nổi như nhân vật bị thả trôi sông. Con sông ấy là con sông lịch sử.

    Cũng như nhân vật chính trong truyện vừa mới sinh đã bị đem thả trôi sông, tôi thả tác phẩm của mình lên mạng. Sống chết thế nào là số phận của nó. Dù sao tôi cũng xin được cảm ơn.

    Trân trọng,
    Khuất Đẩu


    1. Người đã sinh ra tôi nhưng không dám nhận tôi là con chăc vẫn muốn cho tôi được sống. Bởi vì, mặc dù thả tôi xuống sông, nhưng bà vẫn cẩn thận đặt tôi vào lòng một chiếc nắp bầu có trét dầu rái và đắp lên ngực tôi một chiếc yếm mà mãi sau này tôi vẫn còn nghe phảng phất mùi mồ hôi.

    Dòng sông đưa tôi đi vô tình như bao lần đưa những xác súc vật mà người ta vẫn thường ném xuống. Nếu hôm đó không có một người đang đãi cát tìm hến và không có một cơn gió nhẹ bất chợt thổi qua đưa cái nắp bầu tấp vào chân bà thì không biết số phận của tôi trôi nổi đến bờ bãi nào và liệu tôi còn có đủ cơ may để mà sống sót ở đời hay không!

    Cô Sáu nói, lúc đầu tao hoảng hồn tưởng là ma da định bỏ chạy lên bờ, nhưng nhìn kỹ thấy cái mặt mày tím ngắt, tao vội vàng mang cái nắp bầu chạy thẳng vào lều. Tao giựt đại một tấm tranh đốt lửa để sưởi ấm cho mày. May quá, nhà có con chó mới đẻ, tao nhét thử cái vú nó vào miệng mày, trời ơi, mày bú ngon lành!

    Như vậy, cô Sáu nói tiếp, con chó đó cũng như mẹ của mày. Ừ thì là mẹ của tôi, hay đúng hơn nó coi tôi như một trong bầy con của nó. Ngoài việc phải nằm phơi bụng ra cho tôi bú, nó còn dọn sạch cả cứt đái do tôi thải ra. Nó thường đưa cái lưỡi dài liếm láp khắp mặt mũi mình mẩy tôi. Nhờ vậy tôi trùi trũi lớn lên, không bị ghẻ chóc đầy mình như những đứa con nhà nghèo khác.
    Cái ngã ba sông vắng lặng và buồn hiu bỗng trở nên ồn ào khi tôi được đồn thổi là chó đẻ ra người hay tệ hơn là người lấy chó đẻ ra tôi! Không ngày nào là không có người đến xem và mặc dù chẳng ai dám tới gần vì con chó cái canh giữ tôi quá cẩn thận, nhưng khi ra về ai cũng bảo đích thị chính con chó ấy đã đẻ ra tôi.

    Khi cô Sáu đem tôi xuống chùa Thiên An xin “bán” cho Phât để lũ ma da ở ngã ba sông không dìm chết tôi, người khắp nơi kéo đến xem còn đông hơn cả đi lễ rằm tháng bảy. Mặc cho con chó nhe hàm răng trắng nhỡn ra gầm gừ hăm doạ, người ta vẫn cứ vạch đít tôi ra xem có cái đuôi như đuôi chó hay không. Người ta còn kéo cả chim vừa cười vừa bảo là giống hệt c… chó!

    Cho dù tôi có do người hay chó đẻ ra, ngài hoà thượng vẫn xem tôi là một sinh linh bé bỏng cần được Đức Phật chở che, nên ngài đã nhẹ nhàng bọc quanh tôi một tấm vải màu vàng, vừa niệm Phật vừa luồn tôi vào giữa bụng một cái đại hồng chung, bảo đệ tử nện đúng mười hai chày đến nỗi lúc nào tôi cũng nghe như có tiếng chuông ngân nga ở trong đầu!

    Vì đã vắt hết sữa cho tôi bú nên con chó teo tóp không còn đủ sức đẻ đái gì nữa. Nó thành bạn suốt ngày chơi đùa với tôi. Nó thường rít lên những tiếng ư ử, sủa hắc hắc rồi vụt chạy cho tôi đuổi theo. Khi đuổi kịp, nó liền nằm lăn ra đât để cho tôi nằm đè lên. Nó rối rít đưa cái lưỡi liếm khắp mặt tôi như thể tôi vừa đi đâu xa mới vê. Chơi chán, tôi và nó cùng nằm lăn ra ngủ. Khi cô Sáu đem tôi xuống sông tắm rửa, nó vẫn chưa thôi cái cơn đùa giỡn. Nó bơi tít sang bờ bên kia đứng chóc mỏ lên mà sủa. Rồi nó lại lộn qua đuổi theo cô Sáu, chạy quắn quít khắp nhà. Cô Sáu phải nện một cán chổi vào lưng, nó mới chịu nằm yên.

    Một hôm, tôi và nó cùng chơi và cùng ngủ cạnh nhau như thế, thằng thủ ngữ Đực chuyên ăn trộm chó, đã lén quẳng dây thòng lọng vào cổ nó, lôi đi. Khi cô Sáu tôi tìm được thằng khốn nạn thì “người mẹ” tội nghiệp của tôi chỉ còn lại cái đầu đang bị nó gặm nham nhở!

    Cô Sáu, người đã cứu vớt tôi khỏi cái chết của một đứa bé vừa mới sinh đã bị đem thả trôi sông, người đã nuôi nấng dạy bảo nhiều khi đánh mắng tôi, người mà tôi thiết tha muốn gọi mẹ nhưng cô vẫn không cho. Cô nói, tao chưa có chồng sao lại có con được. Mày cứ gọi tao bằng cô, khi nào tìm được người đã đẻ ra mày thì hãy gọi mẹ. Đâu phải bạ ai cũng gọi là mẹ được.

    Nhưng biết đến bao giờ! Cứ như lời cô phỏng đoán thì mẹ tôi phải là người ở thôn An Đông chứ không ở đâu xa lạ. Nếu ở xa thì khi vớt được cái nắp bầu lên, là tôi đã chết cóng từ lâu rồi. Và cũng bỡi vì chỉ có ở An Đông chuyên nghề làm cốm mới có những chiếc nắp bầu trét dầu rái để tránh nước mưa và giữ cốm cho dòn. Tôi đã đi khắp An Đông, chui vào các lò cốm, để mặc cho người ta đùa cợt sờ nắn, nhưng vẫn không biết ai là người đã đẻ ra mình. Mà dẫu cho có ai đó thì cũng không chắc đã đủ can đảm để nói với tôi rằng, ta chính là mẹ của con để cho tôi đựơc sung sướng gục đầu vào lòng mà khóc gọi Mẹ!

    Tuy cô Sáu không cho tôi gọi mẹ, nhưng lòng tôi lúc nào cũng thầm gọi cô là Mẹ. Mẹ Sáu, Mẹ Sáu ơi ! Tôi gọi thế khi tôi ốm đau, khi tôi tuyệt vọng. Người cô thấp nhỏ, đen, một con mắt gần như bị chột vì một cành tre đâm phải. Tôi không biết cô bao nhiêu tuổi, nhưng trông cái dáng người khô đét như trái mướp khô, miệng lúc nào cũng nhai trầu bỏm bẻm, cô đúng là bà ngoại và tôi là đứa cháu nhỏ.

    Nhà cô, thực ra là cái chòi rách của cô, nằm ở địa đầu thôn Trung Lương. Đó là một doi đất mà những cơn lụt mỗi năm tràn qua đã cuốn hết đất màu, chỉ còn trơ lại cát gọi là đồng cây Sanh. Gọi là đồng nhưng chẳng có một cọng lúa hay cây bắp nào, chỉ lơ thơ một vài cây sậy lúc nào cũng nghiêng ngã trong gió như những người say rượu. Vào mùa nắng, những cơn gió nam đuổi bắt nhau trên bãi, tung cát lên cao, uốn lượn một hồi rồi trút cả xuống thôn Trung Lương. Cát trên mái nhà, trong buồng ngủ, trong mâm cơm, cát nhiều đến nỗi cả một xóm đầu thôn phải bỏ đi nơi khác, chỉ còn lại mỗi một chùa Thiên An phơi mình ra chịu trận.
    Đồng cây Sanh mỗi năm một phình to ra và cái ngã ba sông càng ngày càng hoang vắng hơn. Khi mùa mưa tới, chỉ trong một vài ngày là cả cánh đồng mênh mông như biển. Cô cháu tôi phải đem nhau vào trú trong mả Thập Miên. Đây là những ngôi mộ cổ nằm san sát bên nhau như những con trâu được ai đó lùa lên gò để tránh lụt. Cô cháu tôi mỗi người chui vào một nhà mồ thấp lè tè, che gió bằng một tấm tranh rồi nằm cuộn tròn trong đó suốt đêm như một con cuốn chiếu. Bên ngoài, gió rít lên the thé, sục sạo từng ngôi mộ như đang lùng kiếm lũ quỷ không đầu cũng đang lẫn trốn đâu đó.

    Cô Sáu nói, mấy mươi năm trước dân các làng nổi lên làm giặc. Họ là những người đàn ông trong tay chỉ có mỗi một cây rựa nên gọi là giặc Rựa. Họ cắt phăng búi tó, rùng rùng kéo nhau lên phủ xin giảm xâu giảm thuế. Quan phủ hoảng sợ phải đóng cửa thành. Họ liền tràn vào các vùng phụ cận, gặp ai để búi tó là đè ra cắt phập. Họ tung hoành đến cả tháng. Mãi đến khi quan công sứ cho lính Pháp hợp cùng với lính tập vây bắt suốt mấy ngày mới dẹp được yên. Bọn họ bị triều đình khép tội làm giặc và những ai ở ba làng An Định, An Đông và Trung Lương đều bị đem chém ở đồng cây Sanh. Đầu của họ bị đem bêu trên những cái cọc cắm ven đường, còn xác thì đem chôn ở bãi cát. Chỉ một mùa lụt là bao nhiêu cái xác không đầu đều bị nước cuốn trôi, xương trắng lăn lóc khắp cả cánh đồng, vung vãi tận các khu vườn ở thôn Trung Lương. Hoà thượng chùa Thiên An cho các sư sãi đi thu nhặt, gom thành một đống lớn hoả thiêu rồi lập đàn giải oan.

    Mặc dù nhà chùa đã tụng kinh siêu độ đến bảy ngày, nhưng nỗi oan to lớn quá nên những con ma không đầu không thể nào siêu thoát được. Chúng biến thành quỷ cứ rền rĩ khóc than mãi. Trời nắng chúng quay cuồng thành cơn gió trốt, trời mưa chúng biến thành những đám ma trơi lập loè. Một đôi khi chúng biến thành người cùng đi với khách bộ hành, cũng hỏi han chuyện trò, đến khi nhìn mặt mới biết là không có đầu!

    Nhưng, vẫn theo lời cô Sáu, những con ma đã biến thành quỷ ấy tuy đáng sợ thật, nhưng những con quỷ sống mới đáng sợ hơn. Đó là những bọn ăn mày chúa. Chúng tụ tập thành bầy đến vài mươi đứa tôn một thằng lên làm chúa. Ngoài việc ăn mặc lôi thôi rách rưới đã đành, chúng còn bó vào chân nào đầu tôm ruột cá để ruồi nhặng bám theo vo ve như đàn sáo. Thằng chúa nằm nghễu nghệnh trên một cái võng rách để cho hai thằng mù khiêng đi xiên xẹo, hai bên lại có hai cái lọng bằng nón cời do hai thằng thọt cầm. Việc đầu tiên khi vào được nhà ai là chúng tìm cách chọc cho chó cắn. Chỉ cần một con chó hung hăng ngu dại nào đó đớp một phát vào một đứa trong bọn là y như rằng bọn chúng trúng lớn. Cả lũ tức thì nằm lăn ra đất, vật vã kêu gào như đang bị ai thiến. Chúng nằm đó suốt ngày, hết khạc nhổ đến ỉa đái cho đến khi chủ nhà chịu hết xiết, phải đem gạo thịt tiền bạc ra van xin hết lời chúng mới chịu đi cho!

    Vì vậy, khi nghe tụi ăn mày chúa kéo tới đầu làng, nhà nào cũng vội vàng nhốt chó, đóng chặt cửa như trốn giặc. Những nhà giàu phải đem gạo tiền ra tống tiễn để chúng đi qua làng khác. Cả đám hương lý cũng phải xén bớt quỹ làng, ngọt ngào năn nỉ nếu không chúng tới nằm vạ trước đình làm ô uế đến cả thánh thần. Ngã ba sông là nơi chúng ưa thích dừng chân. Từ đây, chúng đi tới các làng ven sông mà không bỏ sót một làng nào. Chiều tối chúng kéo nhau về bãi cát tháo bỏ những thứ dơ dáy hôi hám, tắm táp kỳ cọ rồi tươi tỉnh ăn uống no say. Chẳng đứa nào câm. Cũng chẳng thằng nào chột, con nào què. Đứa nào cũng mạnh khoẻ béo tốt. Thằng ăn mày chúa lại có cả vợ hầu, cơm rượu xong lại rửng mỡ rúc rích suốt đêm. Có lần chúng đem gạo thịt tới cho cô Sáu nhưng cô không thèm nhận. Cô bảo thà chết đói chứ không bao giờ đụng vào của bất nhân.

    Cô Sáu kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện như thế, nhưng không hề nói cho tôi biết một chút gì về gốc gác của cô. Cô bảo, tao cũng là đồ trôi sông lạc chợ như mày, có hơn gì đâu mà nói. Ngay cả tên cô nghe cũng rất lạ đời, đàn bà ai lại đặt tên Chơi. Nhưng cô cười bảo tao ham chơi quá, người ta chửi mãi lâu ngày thành tên.

    Nói vậy chứ cô là người rất chăm làm. Sống bằng nghề đi mót, đánh tranh giũ rạ thì chơi thế nào được. Có điều cô làm những việc tẳn mẳn buồn bã ấy một cách rất nhẹ nhàng vui vẻ, làm mà cứ như chơi vậy.

    Thường thì bọn đi mót vừa đông vừa gian không thua gì bọn ăn mày chúa. Họ lấy cớ đi mót để rút trộm lúa, bẻ trộm bắp, nên chủ ruộng nào cũng đem theo một cây roi dài để thả sức mà quất lên lưng lên nón. Cô Sáu tôi không muốn bị đánh như đánh chó. Đợi cho lúa được bó xong gánh hết về nhà và cả bọn cướp cạn kia bỏ đi, cô cháu tôi mới xuống ruộng gom hết những hạt thóc rơi trước khi lũ vịt chạy đồng kéo tới. Chúng tôi cũng quét cả lúa rụng trên đường đi mặc dù có lẫn cả đất và phân trâu bò. Nhưng có hề gì, sau đó cô tôi đem hết ra sông đãi, chỉ trong chốc lát là có cả một mớ lúa vàng. Mót như thế thì chẳng ai thèm tranh với cô cháu tôi ngoài một vài con chim sẻ chim cu thỉnh thoảng sà xuống đớp vài hạt. Mùa mưa nước ngập đồng thì chúng tôi lại kiếm khá hơn vì bọn đi mót giả bộ kia không chịu được ướt át lạnh lẽo. Chúng tôi nhiều khi được thợ gặt chừa lại cho cả một vạt lúa ngập trong bùn.

    Những lúc không có gì để mót, cô tôi di giũ rạ đánh tranh để người ta lợp nhà. Cô tỉ mẩn dùng liềm gạt những hạt thóc còn sót lại trong rạ trước khi giũ cho rơm bung ra, chỉ để lại những cọng rạ thẳng và cứng. Sau đó cô dùng những chiếc hom tre và với cách thức trong nghề, cô đan thành những tấm tranh rất đẹp. Tiền công cho mỗi một tấm tranh chẳng được bao nhiêu nhưng cô được rất nhiều lúa, tuy gạo có mùi dầu hơi nhưng vẫn đủ ăn quanh năm.

    Sau mỗi mùa lụt, cái bãi cát ở ngã ba sông rất nhiều hến. Cô đem một cái rổ thưa cứ việc xúc đầy cát rồi để nước cuốn đi chỉ chừa lại những con hến vừa ngọt vừa béo mà ai cũng thích. Chính trong một lần như thế cô đã cứu sống tôi.

    Cô Sáu tôi như thế đó, rất nghèo hèn cơ cực, nhưng ngoài con chó cái một thời vừa là mẹ vừa là bạn của tôi, thì chính cô là người đàn bà từ tâm mà phước đức lắm tôi mới gặp được trong đời.

    2. Chúng tôi cứ sống nghèo khó nhưng yên lành như thế cho đến một hôm chết khiếp vì sợ.

    Hôm ấy là một buổi xế trưa, trời không có gió nên rất nóng. Cô tôi vừa tắm từ dưới sông lên đang phơi áo trên mấy cây sậy. Bỗng nghe đất cát kêu rào rào, chỉ trong chớp mắt đã thấy hai sĩ quan Nhật, kiếm dài sát đất đang đứng lù lù trước mặt. Một người nữa mặc áo Tàu, hai tay bị trói quặt ra sau lưng. Cô tôi vội núp sau mấy cây sậy, còn tôi thì túm lấy ống quần của cô che mặt.

    Một sĩ quan liền rút kiếm nghe đánh soạt chỉ thẳng vào cô tôi, ậm oẹ một tràng tiếng gì đó như quát tháo. Cô tôi chắp hai tay sụp xuống đất: “ Lạy các quan tha cho chúng con! “. Tôi cũng bị cô kéo ngã chưa kịp khóc theo, đã nghe lơ lớ: ”nó piểu nị lôi thỉ cho nó coi lớ!”. Cô tôi liền giật phăng tôi ra khỏi quần, lội ào xuống sông mặc cho tôi khóc thét lên vì sợ. Hai sĩ quan Nhật liền đẩy người Tàu ngã chúi về phía trước. Qua tới bờ bên kia họ tra gươm vào vỏ, nghe cũng ớn lạnh như lúc họ rút ra. Ơn trời, cô tôi không bị chém lại còn được cho một đồng bạc. Đó là lần duy nhất chúng tôi thấy quân Nhật và cũng là lần đầu chúng tôi có một đồng bạc gánh dưa.

    Sau khi hoàn hồn, cô tôi lấy chiếc yếm của người mẹ đã từng đắp lên ngực tôi, cẩn thận gói đồng bạc rồi đem lót dưới cái gối rơm của tôi. Cô dứ dứ ngón tay vào trán để đe tôi không được lấy cắp. Cô cười bảo, để mai mốt cưới vợ cho mày!

    Liền sau đó cái tin ông Bang Tèng bị Nhật bắt được bàn tán ồn ào ở cái xóm Miễu bên kia sông. Người ta bảo Nhật nó sẽ tẩm dầu lên người ông ta rồi đốt để ông ta chạy coi chơi vì cái tội quyên tiền giúp Tàu đánh Nhật. Nó đã từng mổ bụng con ngựa bị chết ra, nhét người đàn bà dám lấy mạt cưa trộn cám bán cho ngựa nó ăn. Thì bây giờ cái chuyện thiêu sống hay mổ bụng đâu có khó khăn gì. Người ta nói tới Nhật như nói tới một hung thần dữ dội chưa hề tha chết cho ai bao giờ. Vậy mà cô tôi đã khỏi chết laị còn được cho tiền. Quả thật là may! Cô tôi đâu biết được rằng chỉ ít năm sau, cái việc “ lội thỉ cho nó coi “ lại là một cái tội đáng bị đem ra xử bắn. Đó là tội làm tay sai cho Nhật!

    Ít lâu sau cái ngày ông Bang Tèng bị bắt thì nghe tin Nhật đầu hàng Đồng Minh. Mà nghe đâu mình cũng là Đồng Minh nên coi như mình cũng thắng. Có điều thắng nhưng chẳng vui chút nào vì có cả triệu người chết đói!

    Cậu Khánh, con trai ông Tổng Bá đang học Tú Tài ở Hà Nội phải bỏ học mà về. Cậu nói, không có chỗ nào chịu nấu cơm cho học trò. Ngay cả chủ nhà cậu trọ học cũng chỉ ăn mỗi ngày một bữa, mà phải đợi đêm khuya mới dám ăn. Mỗi người chỉ có mỗi chén cơm ăn với muối. Ăn thầm trong bóng tối kín kẽ đến nỗi không dám nhai, chỉ trợn trạo rồi nuốt. Phố xá đóng chặt cửa cả ngày lẫn đêm. Người chết vì đói và lạnh nằm chất đống dưới mái hiên, chân tay co quắp bấu vào nhau gỡ không ra. Phải đến trưa xe chở xác mới đem đi hết. Rồi hôm sau lại có cả hàng chục bộ xương nằm ôm nhau chặt cứng. Càng lúc càng nhiều hơn, những người không ra người…sau khi đã ăn hết cả cóc nhái, chuột bọ lếch thếch kéo lên thành phố để chực chờ chút cháo lá đa. Có lần cậu vô ý ném một cái vỏ chuối xuống đường, lập tức có hàng chục người tranh nhau, kẻ được liền trợn mắt nuốt chửng! Người ta đói đến nỗi ăn cả lá cây, ăn cỏ như trâu bò. Nghe nói có chỗ ăn cả thịt người, cha ăn luôn cả thịt con vì không ăn nó cũng chết!
    Nghe những chuyện như thế cô Sáu tôi thở dài. Cô nói, tao có chết thì cũng được đi, chỉ tội cho mày đã bị thả trôi sông giờ lại còn phải chết đói nữa. Làm ma đói khổ lắm, lúc nào cũng vất vưởng trên bờ cây ngọn cỏ, đói khát thì làm sao đầu thai cho được! Nhưng ông phó Ba lại nói, ở xứ mình chẳng ai chết đói đâu mà lo. Nhật nó đâu có bắt cắt lúa để trồng đay cho nó. Lúa trong Nam nhiều như cát, Tây nó phải đốt bớt để chạy xe lửa kia.

    Từ khi thấy hàng ngàn người chết vì đói, cậu Khánh cho rằng sự giàu có no đủ của mình là một cái tội. Cậu đòi đem phần ruộng của mình cho hết những người nghèo. Cả nhà ông tổng Bá đều cho rằng cậu học quá hoá điên. Lúc này, hai tiếng cọng sản được người ta nói tới mà không cần phải ngó trước nhìn sau. Có người hỏi cọng sản là cọng làm sao ? Ông phó Ba liền nói là cọng các bà vợ lại. Đàn ông cười khoái trá còn đàn bà thì nguýt háy. Ông Khứ bảo đồ phù thuỷ biết gì mà nói, coi chừng bị cắt mất lưỡi bây giờ. Ông Khứ một thời mơ làm kép hát nên đã đi theo gánh bài chòi của ông bầu Kiên. Nhưng ông phó Ba nói, chỉ có tiếng “dạ” là nghe được nên chỉ có mỗi một việc nai lưng ra gánh đồ và làm quân sĩ chạy hiệu mà thôi.

    Cô cháu tôi là hai kẻ cùng đinh, như người ta thường nói là không có nổi một cục đất ném chó ỉa. Cái chòi của chúng tôi chỉ che tạm trên đất Trung Lương chứ chẳng phải dân làng ấy. Mà cả hai làng An Định, An Đông cũng chẳng làng nào chịu nhận chúng tôi làm dân. Nếu chỉ một thân một mình, cô Sáu chẳng cần gì phải làm dân làng nào cả. Cô cứ việc đi mót, đánh tranh giũ rạ và đi đãi hến cho đến già. Chẳng ai bắt cô phải đóng một đồng thuế đinh nào. Nhưng từ khi có tôi, cô không muốn tôi lang thang trôi dạt như bọn ăn mày. Cô nói, mày phải có sổ đinh thôi, nếu không lớn lên quan sẽ bắt tội đi đày. Rồi cô lật cái gối của tôi ra lấy đồng bạc gánh dưa, đặt lên cái đĩa xin ông lý trưởng cho tôi được làm dân làng An Định. Thấy đồng bạc, ông lý trưởng cười bảo của thằng Nhựt cho phải không? Cô tôi dạ. Ông lý trưởng lại hỏi nó tên gì? Cô nói, ai cũng biết là tôi lượm được nó trên sông nên đặt tên là Xí Được. Ông lý trưởng lại cười, nói: Được thì nghe được rồi, thêm xí làm gì cho nó xấu. Họ Lê hả? vậy thì để trong sổ nó là Lê Văn Được. Cô tôi mừng quá rối rít dạ dạ.

    Vậy là tôi có tên tuổi đàng hoàng và một trong ba cái làng ở ngã ba sông là làng An Định đã thành quê quán của tôi.
    Đó là một làng nhỏ như bao nhiêu làng khác nằm ven sông với một hương lộ chạy qua những vạt đất thổ, vừa là con đường nối các làng, vừa là con đê ngăn nước trong mùa lụt. Làng có ba xóm: thượng trung hạ, ngăn cách bỡi các gò đầy mồ mả và những đường luồng quanh năm nồng nặc mùi phân trâu bò. Mọi nhà trong làng đều lợp tranh chỉ mỗi nhà ông chánh nhạc lợp ngói mới đỏ tươi. Vì làng quay mặt về hướng nam nên lúc nào cũng thấy tháp Bánh Ít nổi bật lên nền trời như hai búp măng khổng lồ nhô lên khỏi mặt đất.

    Ông phó Ba nói, đây là đất của Hời, tháp của nó còn nhiều hơn chùa của mình. Ai cũng tưởng nó dấu vàng trong đó nên đục đẽo đập phá gần hết. Đâu biết rằng vàng của nó là vàng sống, hễ thấy người mình là trốn biệt. Trong vườn nhà bà phó Lý đêm nào vàng chẳng đi ăn sáng rực cả vườn nhưng dễ gì mà tìm được. Ông phó Lý lấy cớ trồng chuối đào nát cả vườn, đào tới đào lui cả năm cũng chỉ được có mấy trái cau, nhưng khi đem vào nhà coi lại chỉ là đất nung đen cháy như sành. Đó là chưa kể ông ta bị ma Hời làm cho cái bụng chương lên như trống cái thiếu chút nữa là toi mạng.

    Thầy giáo Hiên thì nói đây là đất anh hùng. Anh em nhà Tây Sơn tuy phát tích ở An Khê nhưng lập nên nghiệp đế ở Qui Nhơn tức là thành Đồ Bàn. Quân của anh em Nguyễn Nhạc đóng ở phía bên kia sông ngày nào chẳng lội sang làng mình. Cái gò Na trên kia là nơi ngày đêm họ diễn tập, voi ngựa của họ đứng chật cả đường.

    Ông đồ Ngân lai bảo đây là đất học. Làng nào chẳng có Tú tài Cử nhân. Làng mình có ông cử Vân, làng Yên Thới có ông nghè Nhã. Không phải đất học như An Đông thì dù có đi thi hàng chục lần cũng chẳng có ai đậu nổi cái Tú Tài.

    Như thế số phận đã đưa đẩy tôi được làm dân của một làng cũng khá tiếng tăm nhưng nghèo. Dân làng quanh năm chỉ sống với hai mùa lúa nên cất được một cái nhà là phải hết cả một đời người. Chỉ có ông Chánh nhạc chưa đến một năm đã xây được nhà ngói, nào cửa kiếng nào gạch bông cứ như nhà Tây. Trước kia ông nhàng nhàng, không nghèo mà cũng chẳng giàu. Nghe đâu một lần đi xe lửa ngồi cạnh một thằng Tây đi phát lương, không hiểu sao nó lấy nhầm cặp của ông để lại một cái cặp đầy tiền. Ông vội vàng xuống một ga nào đó đi ngựơc vào tận Nha Trang, Sài Gòn. Đợi mãi cả năm không thấy đông tĩnh gì mới dám về làng. Rồi cũng đợi tới lúc Nhật đảo chánh mới dám tậu ruộng xây nhà. Vì đã từng giữ chức trông coi lễ nhạc của làng, nên ông bỏ tiền ra mua đào kép lập nên gánh hát bài chòi Thanh Bình Ban. Ông là bầu Kiên nhưng người làng vẫn quen gọi ông là Chánh Nhạc.

    Nhờ cái vận may đó ông trở thành nhà giàu, nhưng cũng chỉ là giàu mới nổi. Nhà ông tổng Bá mới thực là giàu từ trong bụng mẹ giàu ra. Nhà tuy lợp tranh nhưng là nhà lá mái to rộng và kiên cố hơn cả đình làng. Những hàng cột gỗ lim bóng lộn, những vỉ kèo chạm trổ công phu, phải cả vạn tấm tranh mới lợp đủ. Người ta nói vào trong nhà ấy mùa hè thì mát lịm, mùa Đông ấm cứ như nằm trong chăn. Kể về vai vế chức tước thì ông tổng Bá ăn đứt. Một đằng thì dưới tay có đến cả chục lý trưởng, một đằng thì chỉ có mấy cái cò nhị ỉ eo. Nhưng nhờ có cái nhà ngói sang như Tây, có gánh hát bài chòi bề thế nên ông bầu Kiên được mọi người nể trọng và ưa thích hơn.

    Cô Sáu tôi một đôi lần gặp họ đều lễ phép thưa thầy Chánh, thầy Tổng nhưng vẫn coi khinh là trọc phú. Chỉ có ông cử Vân dù chưa được gặp lần nào vẫn được cô nói tới với tất cả ngưỡng mộ và lòng kính trọng.

    Ông cử Vân trước đây nhà rất nghèo. Mấy lần vào trường thi Bình Định chỉ lo làm bài thuê. Nhiều tay thơ phú chẳng ra gì nhưng nhờ ông mà thi đậu ra làm quan. Còn ông thì cứ rớt mãi. Sau ông cụ biết được đòi chết ông mới chịu làm bài cho mình và đậu thứ mười hai là thứ áp chót. Và cũng vì nghèo, trầy trật mãi ông mới được một chức quan nhỏ ở một huyện nghèo nhất của tỉnh Quảng Ngãi. Nhiều người vừa cười vừa kể lại rằng, dân ở đó mỗi người đi tết cho ông đến cả một cặp gà hay cặp vịt. Ông bảo nhiều quá không nhận. Nhưng khi mở ra xem thấy đó chỉ là hai cái trứng vịt hay trứng gà lộn, ông cũng đành phải cười mà nhận. Ông làm quan được vài năm, bổng lộc chẳng được bao nhiêu, lại phải ra vào luồn cúi nên ông từ quan về nhà. Nghèo vẫn hoàn nghèo. May mà phía vợ nhà ông vì mê cái chữ của ông nên chia cho vài mẫu ruộng. Từ đó mọi việc trong nhà đều do một tay bà vợ đảm đang quán xuyến. Ông chỉ có mỗi một việc đọc sách, ngâm thơ.

    Có lẽ câu chuyện một thằng bé bị thả trôi sông nhờ sữa chó lớn lên đã đến tai ông. Một hôm ông bước vào căn lều của cô tôi, kêu tôi lại săm soi mặt mũi rồi bảo cô ráng cho tôi đi học sau khi đã cho tôi một đồng bạc. Tôi vẫn còn nhở mãi cái hình dáng mỏng manh của ông bước đi liu xiu với chòm râu dài tới ngực. Nhờ có ông, nên mấy ngày sau tôi cũng được đi học như những đứa con nhà khá giả.

    Ngày đầu tiên, cô Sáu xin bà phó Lý mấy tàu lá chuối hơ lửa rọc thành xấp như giấy, lại cắt một nửa cây đũa mun vót nhọn để làm bút. Cô cõng tôi qua sông mặc dù nước cạn tôi có thể lội qua được. Cả lớp nhao nhao đón tôi bằng tiếng gọi mà thường ngày chúng vẫn réo khi gặp tôi: A, thằng Chó Đẻ ! Thầy giáo phải gõ thước lên bàn bốp bốp như giày đinh của Nhật tụi nó mới chịu im cho. Thầy kêu anh trưởng tràng đưa tôi vào lớp cho ngồi bên cạnh. Cô tôi đứng ngoài cửa chắp tay vái thầy mấy lần để cảm ơn.

    Thầy là con trai một của ông đồ Ngân dạy một lúc đến những ba lớp. Lớp Tư, lớp Năm và nhỏ nhất là lớp Đồng Ấu. Lớp học là nhà đông của đình làng An Định. Học trò có đứa phải cõng đến trường như tôi, có đứa lớn sồ mặt đầy mụn và lang beng. Thực ra thầy chỉ phải dạy những anh lớp Tư, các anh lại dạy lớp Năm và lớp Năm thì dạy bọn Đồng Ấu mới vào.

    Anh Cọng được lệnh thầy kẽ hàng rào trên lá chuối cho tôi kẽ theo. Chỉ một việc đơn giản như thế nhưng hôm ấy tôi run đến nỗi làm rách đến mấy miếng lá. Mồ hôi tứa ra trên tay tôi trơn như thoa mỡ, ngực tôi đánh trống liên hồi tưởng chừng anh Cọng cũng có thể nghe được. Vất vả một lúc tôi cũng kẽ được nhưng xiên xẹo chẳng ra làm sao. Khi tiếng trống tan trường vừa dứt, cả lớp đã vây lấy tôi. Có đứa giật phăng cuốn lá trên tay, có đứa kéo tuột quần tôi xuống, chúng làm đủ mọi trò như thể tôi là một con vật lạ hay là một món đồ chơi ngộ nghĩnh.

    Mặc dù vậy, tôi vẫn thích được đi học. Chỉ vài ba hôm là tôi đã kẽ được ngay ngắn, nhưng tập đọc là cả một cực hình. Dường như có một cục đá cứ chẹn lấy cổ họng tôi không cho giọng đọc thoát ra. Gay go nhất là đọc chữ U. Môi miệng tôi cứ chúm cả lại. Đỏ cả mặt, chảy cả nước mũi, khó khăn lắm tôi mới khạc ra được một tiếng như tiếng ho. Cả lớp lăn ra cười. Thầy bảo về nhà phải tập ngậm sạn mà hét cho cái lưỡi nó mềm ra mới hết được cái tật cà lăm ngọng nghịu.

    Nhiều đứa khác học hành dễ dàng hơn nhưng lại thích ở nhà đi bắt ốc mò cua, thích đi chăn trâu chăn bò, thích lang thang bờ kia bụi nọ chứ không chịu ngồi tù túng chỉ để kẽ những cái hàng rào chẳng biết để làm gì. Cha mẹ cố sức cho đi học nhưng chúng vẫn cứ trốn. Cứ cách một vài hôm lại có đứa không chịu tới trường, thầy phải cho cả lớp đi bắt về.

    Vui nhộn và hăng hái như đi bắt cá hay săn chồn. Các anh lớn vênh váo đi trước với cái bội đựng mạ và đòn gánh thật dài. Lũ bé con chúng tôi hò reo chạy theo. Chó trong làng được dịp thi nhau sủa. Những đứa trốn học thường là lớn tuổi không đời nào chịu để cho bị bắt. Chỉ nghe chó sủa là đã nhảy xuống sông hay leo tuốt lên cây cau. Cả bọn đứng dưới gốc chửi nhoi nhói như chó sủa mèo. Chửi chán thì mang giỏ về.

    Nhưng cũng có lần bắt được. Hôm đó có cha thằng Phùng giúp sức. Bảo mãi không chịu xuống, ông liền vào nhà lấy rựa doạ chặt cây cau. Thế là hắn ta rối rít dạ dạ, tuột xuống. Hắn bị nhốt vào giỏ khiêng về trường. Bọn trẻ chúng tôi được một bữa hò hét đến khản cả giọng, vừa đi vừa đành trống miệng thùng thùng làm như quân cờ lau của Đinh Bộ Lĩnh thắng trận trở về. Thầy bắt kẻ trốn học nằm lên bàn, thẳng cánh đét vào mông năm roi, nhưng cũng chỉ được ít hôm rồi lại trốn!

    Dạy và học như thế, nhưng chẳng hiểu tự bao giờ, đứa nào dù lười hay dốt đến mấy cũng viết được chữ, đọc được sách. Cứ y như ngày hai buổi đến ngồi đâu mặt vào nhau trên hai cái bàn chạy dài từ đầu lớp đến cuối lớp là tự nhiên chữ nghĩa nó chạy vào đầu. Tôi dù ngậm sạn hét mãi mỗi khi xuống sông tắm mà đọc vẫn cứ như nhai chữ. Nhưng thầy bảo chữ viết khá đẹp và chưa trốn học lần nào nên vẫn thường đem tôi ra làm gương cho cả lớp.

    Chưa đến hết năm học, anh Cọng trưởng tràng ở nhà cưới vợ. Hôm đám cưới thầy Hiên được mời ngồi trang trọng ở phản giữa cùng với ông lý trưởng. Anh mặc áo the đen, quần dài trắng, đội một chiếc khăn đóng, lúng túng trên đôi guốc gỗ, vái chào thầy. Khi thấy chúng tôi lấp ló thè lưỡi nheo mắt sau hàng rào, anh mắc cỡ đỏ mặt nhưng vãn không quên đưa nắm tay lên doạ dù biết rằng chẳng còn đứa nào sợ anh nữa. Cô dâu thập thò sau màn cửa chẳng biết đẹp hay xấu.

    Cuối năm ấy, gần như các anh lớp Tư đều đi cưới vợ. Lớp học nhỏ tuổi dần và cái cảnh kéo nhau đi bắt những đứa trốn học cũng không còn nữa. Đến khi tôi lên lớp Tư, tức là đã làm thầy được những đứa lớp Năm thì Việt Minh cướp chính quyền.

    3. Đó là một buổi sáng mùa Thu. Cái trống làng không phải vang lên một cách rộn rã để báo tin ngày khai trường mà thùng thùng từng hồi giục giã như đê vỡ. Mọi người ngơ ngác kéo nhau ra đình.

    Một tấm vải màu đỏ ở giữa có ngôi sao vàng được treo trước chánh điện. Không phải ông tổng Bá hay ông lý trưởng khăn áo trịnh trọng như trong các lễ sắc thần mà là ông bầu Kiên mặc đồ tây đứng trước điện dõng dạc tuyên bố: Chính quyền đã về tay Cách mạng! Mọi người lại ngơ ngác không hiểu chính quyền nó là cái ra làm sao thì ông bầu Kiên, ngoắc ông lý trưởng đang đứng sợ hãi dưới thềm bảo phải đem nộp gấp con dấu cùng sổ đinh và sổ điền. Khi ông lý vội vàng về nhà thì ông kêu lại dặn thêm phải nộp hết số tiền quỹ.

    Vậy là xong! Cái chính quyền vừa bị cướp chỉ là con dấu và mấy cuốn sổ. Không hào hiệp như chú Lía lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Cũng không tàn bạo như thằng Năm Quầng nung chì đòi đổ vào miệng lão Phẩm thợ bạc để khảo vàng. Nhiều người bảo cướp chính quyền sao mà dễ như trên tuồng hát. Nhưng ông phó Ba ra vẻ bí mật bảo không dễ đâu! Ông nói, cái lão Chánh nhạc được một cái cặp tiền nhiều thế kia sao không mua cái chức lý trưởng hay cái tước cửu phẩm mà cứ giữ mãi cái chức chánh nhạc với đám cò nhị ỉ eo, rồi thuê đào mua kép lập gánh hát? Còn thằng Khứ hò hát nghe như cóc nghiến răng mà cũng bày đặt đi theo gánh hát là tại làm sao? Là hoạt động ngầm cho Cách mạng đó! Gánh hát đi tới đâu là cờ xí truyền đơn đi tới đó. Thứ gì mà vận chuyển không dược kể cả súng đạn!

    Mọi người bấy giờ mới ngớ ra. Ai cũng khen ông bầu Kiên là mưu trí dám cả gan qua mặt cả tụi Pháp lẫn tụi Nhật!
    Tuy ông bầu Kiên không ra lênh, nhưng để mừng Tổ quốc được độc lập, nhà nào cũng cố may cho bằng được một lá cờ. Vải vàng thì xin ở chùa, nhưng kiếm cho ra vải đỏ thực không dễ. Nhiều nhà đành lấy cái khậu đỏ che trước bàn thờ chia nhau mà may. Cả làng chỉ có mỗi một cái máy may cọc cạch nên phải chạy gần như suốt cả đêm. Khó nhất là cắt ngôi sao! Cánh dài, cánh cụt, cánh mập, cánh ốm! Rối tung cả lên, nhưng cũng phải có mà treo ở bàn thờ Tổ quốc, lúc này còn thiêng hơn cả bàn thờ ông bà ông vải. Đến ảnh cụ Hồ thì đành chịu. Cả làng chỉ có mỗi ông bầu Kiên là có một ảnh khắc gỗ như trong kinh Phật, nên chẳng biết có giống cụ hay không!

    Xong việc may cờ, cả làng sôi lên vì những cuộc biểu tình. Đàn ông thì mang theo cuốc rựa, đàn bà thì cầm dao phay, trẻ con thì mõ tre. Mỗi khi hoan hô hay đả đảo đều vung lên loạn xạ như sắp băm vằm ai đó. Bọn trẻ con hùa theo đánh nhịp lốc cốc, lốc cốc. Đoàn người đi diễu quanh làng, chân dẫm lạch bạc tung bụi lên mù mịt. Ông Khứ lúc này không còn là một tên lính chạy hiệu mà oai phong lẫm liệt như một vị tướng. Lúc đi đầu, lúc đoạn hậu, ông khoa chân múa tay như nhà vừa mất trộm. Khi đi ngang qua nhà ông bầu Kiên, ông lại thúc đoàn người gầm to hơn, mõ đánh nhiều hơn, chân giẫm mạnh hơn trong khi ông chỉ huy Cách mạng đứng trên thềm nhìn ra vừa vẫy tay vừa mỉm cười.

    Ông tổng Bá thì ngược lại. Mỗi khi đoàn biểu tình đi ngang qua nhà, ông đều lẩn ra sau. Ông sợ cái đám biểu tình do ông Khứ dẫn đầu còn hơn sợ cái đám ăn mày chúa. Với lũ ăn mày, chỉ cần đem một ít gạo tiền là chúng đi qua làng khác, còn cái đám biểu tình này thì biết tống tiễn bằng cách gì? Ông lo lắm nhất là nghe hô “đả đảo”, cứ nghe như chửi thẳng vào mặt ông!

    Vì vậy, khi nghe phát động Tuần Lễ Vàng, ông liền lột sạch đồ trang sức của vợ con, sung sướng được dem hiến cho Cách mạng. Ông bầu Kiên khi nhận 12 chiếc kiềng, 15 chiếc cong và 20 chiếc nhẫn trước mặt dân làng, đã tung hô ông tổng Bá là nhà Đại Yêu Nước. Để chứng tỏ rằng mình xứng đáng với cái tước hiệu mới mẻ đó, ông tổng Bá liền hiến thêm mấy sào đất để xây trụ sở Uỷ Ban. Như vẫn chưa vừa, ông liền kêu thợ tới bắc cầu nối An Định với Trung Luơng. Cây cầu gỗ đâm thẳng vào căn lều của cô cháu tôi. Nhờ vậy mùa lụt tôi đi học mà không phải qua đò. Khi khánh thành ông hào phóng cho ngã một con bò, hai con heo để khao đãi các bác thợ và cả làng. Ông lại được ông bầu Kiên và ông Khứ phong cho chức Trưởng ban Vệ sinh kiêm Trưởng ban Đời Sống Mới.

    Liền một lúc được đến mấy chức, ông lại càng hăng hái hơn nữa, yêu nước hơn nữa! Các cụ già như ông cử Vân, ông đồ Ngân không còn ngồi trầm ngâm bên tách trà bàn sấm Trạng Trình, các bà lão không còn thong dong dắt cháu đi lễ chùa, những đứa bé không còn lêu lổng lang thang. Tất cả được ông huy động vào việc phát quang bờ tre, dọn sạch phân trâu bò, quét khắp đường làng ngõ xóm, sạch đến nỗi không còn tìm thấy một chiếc lá tre nào vương vãi. Chẳng mấy chốc làng An Định được khen là làng kiểu mẫu. Ông lại được hoan hô và bây giờ ông rất thích được đoàn biểu tình đi ngang qua nhà hô khẩu hiệu.

    Mặc dù Bảo Đại đã không còn ngồi trên ngai vàng và kinh thành Huế đã không còn ai hướng về bái vọng nữa, nhưng người ta cho rằng cái gốc rễ của phong kiến đã ăn sâu vào tận các đình làng. Cho nên muốn tận diệt phong kiến là phải phá đình. Và người nện cái nhát búa dũng mãnh đầu tiên vào đình làng An Định chẳng ai khác ngoài ông Khứ. Trong khi nhiều người sợ thánh thần vật chết thì ông bảo, thần thánh mẹ gì, chỉ mấy miếng gỗ và mây cục đất sét, vậy mà hết đời này đến đời khác cứ sì sụp cúng bái. Coi này, ông thét lên. Ai chết cho biết! Mấy cái bài vị nẩy tung lên, ba vị thần chẳng biết thần gì rơi xuống đất vỡ toang. Ông hô, tiến lên anh em! Thế là búa và xà beng của đám dân quân thi nhau nện ầm ầm. Gạch vỡ, ngói rơi và cái đình tốn bao công của trong suốt muời năm mới xây xong, chỉ có mấy ngày là đã thành một đống cây gỗ gạch đá ngổn ngang. Hai cái trụ biểu vì quá cao to nên để lại, nhưng hai con sư tử trước đây oai linh là thế, giờ chỉ như hai con chó đứng nhìn nhau mà không tiếng sủa nên chẳng còn làm cho đứa bé nào sợ nữa.

    Nhìn các bài vị và sắc thần đang cháy, những câu hoành câu đối vứt bừa bãi ngổn ngang, ông đồ Ngân ứa nước mắt than: Đình là nơi thờ cúng các vị tiền hiền mấy trăm năm trước có công lập làng được vua phong tặng chứ có phải thờ con vua cháu chúa gì đâu mà bảo là phong kiến! Còn chữ của ông cử Vân cho đẹp thế kia có tội tình gì mà vứt bỏ đi, thế này là mạt vận rồi!
    Ông Khứ liền quát: Phong kiến chẳng mạt. Cho chừa cái thói ỷ có năm ba chữ, bắt dân khúm núm hầu hạ, lúc nào cũng gãi đầu gãi tai như khỉ! Ông đồ Ngân lắc đầu chắp hai tay vái, không rõ là vái ông Khứ đang thét ra lửa hay vái cái oan hồn tội nghiệp của ngôi đình!

    Sau cái trận phá đình, các chức dịch cũ trong làng nàó Chánh tổng, Lý trưởng, Hương bộ, Hương kiểm…cảm thấy rét run trước sức mạnh ghê gớm của Cách Mạng. Ai cũng dẫy nẩy từ chối cái tiếng thầy tổng, thầy lý, thầy hương…mà trước kia họ sẵn sàng bán cả ruộng vườn, bợ đỡ xun xoe để mua cho bằng được.

    Ông Tổng Bá mặc dù đã được phong đến mấy chức mới rất hợp thời, nhưng xem ra cái chức chánh tổng cũ hãy còn là một cái gốc phong kiến quá to, chẳng biết sẽ bị ông Khứ đốn ngã lúc nào. Để tỏ ra tiến bộ và một lòng đi theo Cách mạng, ông cố sức tận tụy hơn với hai cái chức Trưởng ban nhỏ bé của mình. Ông liền đi từng nhà, xem xét từng chỗ ăn chỗ ngủ, chuồng heo chuồng bò và rồi để đi tới chỗ tuyệt đối, không thể nào vệ sinh hơn được nữa, không nơi nào đời sống mới hơn được nữa, ông đã đưa ra một sáng kiến mà ông Khứ dù đã bắt đầu hạnh họe cũng phải nhảy cẫng lên vì khoái chí.

    Đó là, từ nay mọi người phải ăn cơm trong mùng và chính ông sẽ mua mùng trắng phát không cho mọi nhà! Đúng là thôn kiểu mẫu nên mới có một người kiểu mẫu như thế. Cái ngày chăng mùng để ăn cơm là một ngày đáng nhớ của thôn An Định. Mọi người được lệnh phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc tươm tất để cho cán bộ các làng kéo tới học tập. Khi mâm cơm dọn ra, già trẻ lớn bé đều ngồi xếp bằng một cách trịnh trọng, người ông hay người cha lấy quạt mo xua lũ ruồi đi xa rồi mới thả mùng. Bưa cơm bắt đầu. Tất cả ngồi ăn chậm rãi, nhỏ nhẹ đến nỗi không dám nhai, ngay cả nuốt cũng phải từ từ. Trẻ con dĩ nhiên là không được khóc. Các cán bộ đứng ở bên ngoài liên tục ghi ghi chép chép. Có người hỏi : ăn có ngon không? Đáp: có. Lại hỏi: Thích không? Đáp: thích. Trong khi đó lũ ruồi nhặng nổi tiếng lì lợm vẫn cứ bay quanh, chúng kêu to hơn, kéo đến nhiều hơn nhưng đành hậm hực chịu thua cái sáng kiến của ông Trưởng ban vệ sinh kiêm Trưởng ban Đời Sống Mới.

    Chẳng biết các nơi khác có chịu học tập hay không, chứ dân làng An Định oán ông tổng Bá không để đâu cho hết. Cái tuồng mới ấy ai cũng tưởng chỉ diễn vài hôm để cán bộ trong làng coi chơi, không ngờ hết đoàn này đến đoàn khác kéo tới và mọi người cứ phải bỏ cả công việc để chui vào mùng ăn biểu diễn. Ông phó Ba là kẻ đầu tiên lên tiếng mỉa mai. Ông nói, ăn cơm trong mùng giống như thỏ ăn cỏ trong chuồng. Tiếp đó bà phó lý cũng nói, ngủ mùng thì được chứ ăn cơm trong mùng mà lại để cho người khác đứng coi thì nuốt làm sao trôi! Thì mặc kệ bà, ông Khứ nói, được khen là hợp vệ sinh thì thích hay không thích cũng phải chui vào mùng mà ăn. Mùng phát không mà còn kêu ca nỗi gì. Các nơi khác phải tự mua mùng chứ đâu có quá sướng như cái làng này.

    Ông Khứ và ông tổng Bá trong những ngày đầu đi kiểm tra rất gắt. Nhà nào không chịu chui vào mùng ăn cơm là tối đó bị đem ra phê bình kiểm điểm. Nhưng khi các đoàn cán bộ đã nhàm chán và mỏi mệt thì dân làng lại thoải mái ăn cơm trong bếp để cho lũ ruồi nhặng cũng được vui vẻ dự phần. Dù vậy, dân An Định vẫn được tiếng là đã thực hiện đời sống mới. Một cái cổng mới LÀNG KIỂU MẪU AN ĐỊNH được dựng lên đầy kiêu hãnh và thách thức.

    4. Cái công cuộc phá đình và ăn ở theo nếp sống mới, cho dù đã thành công nhưng cũng chỉ là việc nhỏ. Cái lo lớn nhât là thằng Pháp kia. Nó đã chiếm Hà Nội khiến cụ Hồ phải chạy lên núi. Nó cũng đã chiếm lại kinh thành Huế để đưa Bảo Đại về. Rối nó sẽ chiếm Qui Nhơn tất nhiên là chiếm luôn thành Bình Định. Chừng đó nó ở trong bắn ra, tàu bay trên trời bắn xuống thì làm sao mà đánh. Vậy là phải phá thành. Cả tỉnh cùng phá chứ không riêng gì làng An Định. Cái việc đại sự này thì đố ai mà dám ca cẩm.

    Mặc dù trước đây khi đi theo đoàn hát, ông Khứ bị kép chính Tư Kỉnh cười nhạo hát như bò rống, sai bảo như đứa ở, nhưng nay với chức chủ tịch Ủy ban, kép Tư Kỉnh đành phải nghe lời ông một phép. Kể ra còn có chút tình nghĩa nên ông đã phong cho Tư Kỉnh cái chức Đại đội trưởng Dân quân to kềnh. Với nột cái xanh tuya rông bằng da bò và một cái bao súng lục nhưng chưa có súng, kép Tư Kỉnh còn có vẻ oách hơn cả Lã Bố hí Điêu Thuyền.

    Nhận được lệnh hoả tốc đưa dân quân đi phá thành, ông Khứ lệnh lại cho Tư Kỉnh lập tức động binh. Thế là tất cả trai tráng trong làng, trong đó có các anh bạn tôi vừa nghỉ học cưới vợ và các chị chưa chồng được lệnh tâp trung trước sân đình. Chế độ phong kiến không còn nên trai gái được dịp gần nhau nói cười ầm ĩ. Ông Khứ chia làm hai, một nửa theo Tư Kỉnh đi phá thành, một nửa cùng ông ở lại giữ làng. Đoàn người lên đường trong tiếng hô đả đảo thực dân Pháp và trong nỗi lo mất chồng của các bà vợ trẻ.

    Nửa quân số còn lại với dây dừa, gậy tre và dao găm, ông Khứ liền bắt tay vào việc tuần hành làm như thế quân Pháp đang chực sẵn bên kia sông. Cả bọn vác gậy lên vai, chân dẫm lạch bạch miệng hômột hai, một hai hùng dũng đi khắp làng, làm cho lũ chó khiếp sợ cúp đuôi trốn biệt.

    Đoàn người phá thành lên đường chưa được năm hôm đã nghe có người bị thành sập đè chết. Đó là cậu Phú, con trai của ông bà phó lý chưa kịp đi hỏi vợ đã bị dập nát như một con thằn lằn bị ép vào kẹt cửa. Khi thấy xác con, bà đã ngã ra bất tỉnh.

    Đám tang thời Cách mạng nên không có cờ đuôi nheo, không trống kèn, chỉ có đám dân quân cầm gậy đi theo sau như lính lệ ngày xưa áp tải những hòm đựng tiền. Bà phó lý không khóc nhưng giữa đêm khuya bà gào lên ai oán khiến cả làng đau xé ruột.

    Những ngày sau nhiều người bỏ về. Cả làng chìm trong hoang mang lo sợ. Người ta xì xào với nhau rằng vì cái tội phá đình nên các thần sẽ vật chết hết người này đến người khác. Ai cũng sợ sắp đến lượt mình. Để giữ vững tinh thần ông Khứ quyết định tổ chức một buổi lễ truy điệu. Bốn tấm phên bằng tre quét vôi trắng được dựng lên ở gò đình. Mặt trước vẽ ngôi sao và bốn chữ Tổ Quốc Ghi Công bằng gạch nghiền nát trộn với hồ. Một vòng hoa kết bằng lá dừa, bông trang đỏ và bông điệp vàng tượng trưng màu cờ tổ quốc được hai nữ dân quân danh dự khiêng đặt dưới chân tháp.

    Khi tất cả đều im lặng một cách thành kính, kép Tư Kỉnh dõng dạc hô: Phút mặc niệm bắt đầu! Ai cũng cúi đầu xuống nhưng vẫn lén dòm xem trong cái tháp bằng tre kia có con đom đóm nào bay tới không. Nếu có tức là hồn của cậu Phú từ dưới chân thành Bình Định đã theo về. Nhưng chỉ có gió hun hút thổi làm cho mấy cây đuốc cháy bùng lên như reo mừng rồi tắt ngúm. Trong không khí mơ hồ nửa ma nửa quỷ ấy, ông Khứ thét lên như có ai thọc dao vào họng.

    – Đả đảo thực dân Pháp !

    Lập tức bao nhiêu người cùng nhảy dựng lên: Đả đảo! Đả đảo!

    Tiếp theo, vẫn tiếng của ông nhưng nhẹ nhàng hơn.
    – Noi gương anh Trần văn Phú !

    Nhưng vì không tâp trước nên có người hô “noi gương” có người lúng túng hô “văn Phú ” và lũ trẻ con tưởng như đùa cùng hùa theo hú hú …

    Thế là buổi lễ chấm dứt trong tiếng cười ồn ào và cái chết thê thảm của con trai bà phó lý chỉ còn có mỗi mình bà là đau buồn cho đến suốt dời.

    Từ đó ai có chết thì cũng mặc. Hơi đâu mà làm lễ cho cả trăm cả ngàn. Vả lại, phải là người như thế nào mới được truy điệu chứ. Con trai bà phó lý tức là con của đám chức dịch địa chủ phong kiến sao lại đem ra cho cả làng noi gương? Để bắt chước cái thói bóc lột của nó à? Ông Khứ sau đó bị đem lột da phê bình, bị phê phán là thiếu quan điểm lập trường, chưa phân biệt đâu là bạn đâu là thù, chưa biết mình đứng ở chỗ nào của nhân dân…Lẽ ra ông đã bị đá văng ra khỏi Uỷ ban, nhưng ông đã từng có công treo cờ và vận chuyển truyền đơn, từng đi theo ông Chánh nhạc tức đi theo Cách mạng nên ông vẫn được tiếp tục công việc. Vả lại trong làng chẳng có ai hăng say với Cách mạng như ông, chẳng ai dám phá đình, phá thành và còn biết bao nhiêu việc khác nữa phải cần đến ông.

    Nhưng đó là, như ông phó Ba nói, cái tội ấy chỉ xì ra sau này chứ lúc đó bất cứ việc gì ông Khứ làm cũng đều được khen là tốt là đúng, là người có nhiều sáng kiến…như cái việc dùng cọc tre thọc đít Pháp thì đến đời con đời cháu cũng khôhg thể nào quên. Ông nói, thằng Pháp từ trên cao nhảy dù xuống, mình ở dưới đất dùng cây nhọn thọc lên, không thủng bụng cũng lủng đít. Mà nếu có tránh được thì với cái dù to như cái nhà dây nhợ lòng thòng, mình tới bắt thì chạy đâu cho thoát.

    Vậy là trong làng có bao nhiêu bụi tre cứ việc chặt sát gốc. Mỗi cây chẻ làm tư vót nhọn, cứ cách vài mét lại cắm một cọc. Thế là chỉ trong một vài hôm, suốt cả ruộng đồng bờ bãi, hàng vạn cái cọc tre trắng muốt chỉa thẳng lên trời, như có cả ngàn con nhím đang xù lông chờ giặc. Cọc cắm cả trên mồ mả, trong sân nhà, trên đường làng. Đi đâu cũng đụng phải cọc!

    Lần này thì dường như cả tỉnh kéo tới học tập. Và để chứng tỏ sự hiệu nghiệm của những cây cọc, ông Khứ liền tổ chức biểu diễn cảnh bắt giặc. Trước đó ông bảo Tư Kỉnh sai dân quân cột cả chục dây dừa trên cây xoài, lấy những chiếc mùng của ông Tổng Bá làm dù, cho người đeo râu bắp giả làm Tây. Khi cảnh nhảy dù diễn ra, cả bọn liền đeo dây nhảy xuống. Đại đội trưởng Kỉnh hô xung phong, đám dân làng gồm ông già bà lão cả trẻ con, cùng nhào tới trói nghiến trong tiếng trống thúc và tiếng reo hò!

    Cái sáng kiến của ông vì vậy được nhiều làng xã bắt chước. Cả một cánh đồng An Định, Kim Lăng, Kim Ngãi chạy thẳng đến tháp Bánh Ít, không chỗ nào là không có cọc. Đi giữa đồng như lạc vào một khu rừng lau đang trỗ bông. Ông Khứ nhìn cánh đồng cọc thích chí cười lớn: Có giỏi thì nhảy xuống đi! Có mà lủng đít! Chưa bao giờ ông thấy thắng lợi như lúc này. Ông dường như mê cuồng những cây cọc. Suốt ngày ông đi tới đi lui, dựng dậy những cây xiên xẹo, vuốt ve nựng nịu còn hơn cả vợ con. Và ông thực sự phẩn nộ đau xót khi thấy có cây bị nhổ trộm. Ông tưởng chừng kẻ địch đang nắm tóc trên đầu ông mà nhổ. Nhưng tóc ông dẫu có nhổ sạch cũng chẳng chết nào, chỉ lo là cái cánh đồng cọc kia không còn nữa thì thử hỏi ông còn gì!

    Tin chắc là có kẻ địch đang âm thầm phá hoại, ông lẩn lút suốt đêm đi rình. Ông thề sẽ bắt cho bằng được cái quân phản động, cái bọn Việt gian như rắn rít đang luồn lách trong làng. Nhưng rất tiếc lời thề ấy không trọn vì một con rắn gian ác tiếp tay cho giặc đã cắn vào chân ông. Trong khi nọc độc làm cho cái chân sưng phù lên đau nhức không chịu nổi, ông vẫn không quên ra lệnh cho Tư Kỉnh bảo dân phải nhốt trâu bò và ra sức canh phòng cẩn mật. Nhưng các anh chị dân quân đâu có nghĩ xa như ông. Tối đến bọn họ đi một vòng cho có lệ rồi kéo nhau ra ngồi trên cầu hát hò tán tỉnh, mặc cho ai muốn lấy trộm cứ lấy. Ở cái xứ toàn là ruộng đồng, củi còn quý hơn cả cơm ăn nước uống nên chẳng dại gì mà người ta không lấy để đun. Bọn trẻ con lại lấy cắp làm kiếm đánh nhau, trâu bò cạ lưng cho đã ngứa… Đến khi ông đi lại được thì cả cánh đồng cọc bị lấy cắp gần hết. Xui hơn nữa, mùa lụt lại đến sớm hơn mọi năm, mà lụt rất to vì từ hạ lưu đến thượng nguồn, bao nhiêu tre ven sông đèu bị đốn ngã nên mênh mông nước lũ cứ tràn về. Cây sống mà chưa đứng nổi huống hồ là cây chết! Sau trận lụt ông chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ tới chuyện thọc đít thằng Pháp nữa. Các làng xã khác cũng vậy. Cũng may là thằng Pháp nó không nhảy dù.

    Bọn phản động lại được dịp mỉa mai chế nhạo. Chúng nó bảo cả cái làng An Định rộng mênh mông chứ đâu phải cái giường của vợ mà dễ dàng thọc đít đứa nào dám mò vào. Ông khó chịu xấu hổ như một con gà cồ đã bị vặt trụi lông, có muốn cất tiếng gáy cũng không gáy nổi.

    Đang lúc mất dần uy quyền thì cái lệnh hoả tốc từ trên đưa xuống làm cho ông trở nên mạnh mẽ khác thường. Giết chó! Giết chó! Quả là cái lệnh nghe mới sướng tai làm sao! Bỡi vì thằng Pháp nó đánh ta đủ vành đủ kiểu. Ta chận ngõ này nó vào ngõ khác. Không thể đan lưới mà che cả bầu trời, không thể dùng cọc mà cắm hết cả núi rừng. Lại càng không thể dùng gậy mà đập nát xe tăng, không thể dùng dây dừa mà trói trong khi chúng có súng ngắn súng dài. Trên bảo phải lui về phòng ngự, lấy ít đánh nhiều lấy yếu đánh mạnh. Phải đánh du kích, phải núp trong hầm, phải trốn trong bụi, phải rình rập từng ngày từng đêm chờ nó sơ hở đánh úp. Vậy mà có đứa cứ nghếch mũi đi tìm, đông một tí là sủa um lên. Đó là lũ chó không khác gì bọn Việt gian phản động. Phải giết sạch chúng đi mới mong thắng được giặc.

    Ông Khứ lại hăm hở và yêu Cách mạng hơn, nhưng lần này ông cố nén không để cho cái sự hăng say trào ra miệng thành tiếng thét gào như trước nữa. Sau khi nhận lệnh ông chỉ bàn với Tư Kỉnh và một số dân quân tín cẩn. Đây là một chiến dịch lớn nên cần phải tuyệt đối giữ bí mật.

    Tờ mờ sáng hôm sau, cả bọn trang bị gậy tre và thòng lọng lặng lẽ tiến vào những nhà nuôi chó. Lũ chó tuy bất ngờ nhưng vẫn biết đón chào bọn họ theo cách chó tức là cùng hếch mỏ lên mà sủa. Chỉ cần một con lên tiếng là cả lũ hùa theo. Vì vậy không cần điểm danh cũng thấy đủ mặt cả vàng, vện, mực, đốm, non già, đực cái, tất cả cùng gâu gâu nhặng cả lên. Bọn chó ngu dại cứ tưởng là đạo tặc, không ngờ trước mặt chúng là những kẻ không biết sợ bất cứ kẻ thù nào huống hồ là chó.

    Có lẽ linh cảm được cái chết sắp ụp xuống, lũ chó rít lên những tiếng hoảng hốt rồi vùng chạy tán loạn khi nghe một tiếng “ẳng” của con chó đực bị thòng lọng siết cổ. Rồi tiếp theo là những tiếng tru thảm thiết, tiếng ư ử cầu cứu chủ, tiếng ằng ặc khi bị trấn nước, tiếng trẻ con khóc vì bị mất chó, tiếng đàn bà chửi, cả tiếng van xin năn nỉ gần như lạy lục.

    Nhà ông Hương mục có một con chó mẹ với bốn con chó con. Bà hương lấy vải bọc bốn con chó nhỏ mới sinh chưa mở mắt ôm ghì trước ngực. Con chó cái ngày thường nổi tiếng rất dữ, nhưng lúc này chỉ biết quẩn dưới chân bà, mắt không rời cái bọc đang ngọ ngoạy. Nhưng chỉ loáng một cái là thòng lọng đã vòng qua cổ nó. Ông Khứ liền giật mạnh lôi đi làm cho mấy cái vú tia sữa lên nền nhà. Bà hương nói như khóc: thôi tha cho mây con chó con, nó còn nhỏ quá mà! Một gã nhanh như cắt đưa tay tóm cái bọc miệng cười nham nhở: Sao lại tha? Của đại bổ đó bà ơi! Rồi gã vác lên vai bước đi nghễu nghện.

    Con chó cái nhà ông Hương bộ thì rất ư là dũng cảm. Nó không cần chui vào gầm giường mà cứ đứng nghểnh mỏ nhe răng ra chờ đợi. Chiếc thòng lọng chưa kịp quăng ra nó đã lao tới đớp một phát vào đùi thằng thủ ngữ Đực. Mặc cho hàng chục cây gậy đập vào đầu vào lưng, nó vẫn ngoạm chặt chịu đánh cho đến chết chứ không nhả ra. Phải cắt đầu nó đưa thằng trộm chó tới nhà thương mới lấy ra được cả hàm răng cắm sâu vào đùi. Cũng may là nó không bị dại, nếu không thì thằng khốn đó cũng tru lên rồi chết như chó chết.

    Ông Hương kiểm thì cầm sẵn cây rựa bén ngót trên tay, đòi chém tuốt những ai dám động đến chó nhà ông. Ngày thường ông lặng lẽ ít nói nhưng lúc này ông gào lên: Ai cho phép giết chó? Ai? Thử đụng vào đây coi nào! Ông vung cái rựa múa một đường như Trương Phi diệu võ giương oai với hai con mắt trợn ngược như muốn lồi ra. Rồi ông ngồi xuống ôm lấy con chó yêu có bộ lông óng mượt, bốn chân cao, bụng thon và cái ngực nở. Đúng là một con chó nòi rất quý, nó thường theo ông đi săn chồn và lần nào cũng mang về ít ra là một con chồn đèn. Ông cứ ôm mãi con chó như thế như cha ôm con, không một anh dân quân nào dám đến gần kể cả ông Khứ. Mãi cho đến tối, may có ông Chánh nhạc từ Bồng Sơn vừa về năn nỉ dỗ dành, ông mới chịu để cho đem đi. Nhưng ông nói, đem đâu xa chứ đừng có giết nó trước mặt tôi! Rồi ông vào nhà nằm vật lên giường mà khóc.


    Chưa bao giờ cả làng no say đến thế. Những con chó dù còi cọc ghẻ lở lông rụng từng mảng trông gờm ghiếc nhưng khi đem thui vẫn căng phồng tươm mỡ vàng hực. Thôi thì người ta bày ra đủ món! Nào nướng, nào dồi, nào rựa mận… nhanh nhất là luộc xắt phay, chấm nước mắm. Nhiều anh chơi nguyên một cái đầu ngồi gặm thoã thích, răng chó và răng anh ta va vào nhau kêu lộp cộp.

    Chiến dịch đại sát cẩu ấy thành công hơn cả việc chui vào mùng ăn cơm hay lấy cọc đâm thủng đít thằng Pháp. Không chỉ riêng làng An Định mà diễn ra khắp nơi. An Đông, Yên Thới, Châu Liêm cũng ra quân cùng một ngày. Bao nhiêu con chó đều kéo ra sông trấn nước, rồi cạo lông mổ ruột, nên suốt cả tháng mặt sông váng mỡ nổi lều bều tanh đến lợm giọng. Cô Sáu tôi phải vào tận đình để lấy nước ăn uống và tắm giặt.

    Thế là xong đời lũ chó. Ông Khứ mặc sức đi ngang về tắt. Cái thói ưa rình mò của ông không còn bị lũ chó phá bỉnh nữa. Nhưng hãy còn một con, ông Khứ ạ!

    Đó là con Mực của cậu Phú, một con chó ít ra cũng làm vẻ vang cho nòi giống chó vì lòng trung thành. Gần như không lúc nào nó chịu rời xa cậu chủ. Ngay khi cậu theo đoàn quân đi phá thành nó cũng bỏ nhà chạy theo. Suốt ngày nó lẩn quẩn bên cậu. Khi thấy một tảng đá lớn lao xuống, nó liền phóng mình tới cứu cậu nhưng không kịp. Nó cuống quít cào đất kéo cậu ra, rồi chính nó chạy về nhà tru lên như khóc báo cho bà phó lý biết con bà đã chết. Khi cậu nằm yên trong lòng đất nó ở luôn bên mộ, bà phó lý phải đem cơm lên cho nó ăn.

    Khi lũ chó ở xóm Miễu bị giết bà Phó lý đến nhờ cô Sáu tôi tìm cách đưa nó về. Cô tôi chất rơm vào thúng giả cách như đi mót, dụ mãi nó mới chịu nằm trong thúng. Cô tôi phủ rơm lên mình nó đợi đến tối mới dám đưa về. Bà Phó lý dấu nó trong buồng riêng, âm thầm nuôi nó như trước đây người ta nuôi những người trong hội kín. Con Mực tinh khôn như hiểu được cái vận hạn đen tối của giống nòi nên ngoan ngoản nằm im. Chỉ đến khuya nó mới theo bà phó ra sau vườn làm cái việc đái ỉa.

    Nhưng một đêm, nó bỗng chạy thẳng lên mộ chủ tru lên từng hồi ai oán. Nghe tiếng tru, thằng thủ ngữ Đực biết ngay là con chó của bà Phó lý. Mặc dù hãy còn đi cà nhắc nhưng nó vẫn tìm ông Khứ. Hai thầy trò xách cuốc lên ngay mộ. Chỉ một đai cuốc là con chó cuối cùng của làng An Định gục xuống. Bà Phó lý đau xót như vừa mất thêm một đứa con. Bà phải đổi một cây cau đẹp nhất trong vườn cho ông Khứ làm trụ cờ ở uỷ ban, mới xin lại được cái đầu của nó để đem chôn cạnh mộ con trai.

    Giờ thì ai cũng phải tin là tuyệt hẳn nòi giống chó. Cô Sáu tôi bảo, may mà mày không phải sinh ra vào lúc này, chó đâu còn nữa mà cho mày bú. Xóm làng từ nay không còn tiếng chó sủa trở nên lạnh lẽo. Chỉ còn lũ mèo, một đôi lúc gào lên não nùng, càng làm cho đêm tối trở nên ma quái rờn rợn như thể là làng đang có dịch.

    (còn tiếp)

  • #2
    Về nhà văn Khuất Đẩu

    T.Vấn


    Khuất Đẩu. Đó là một cái tên rất mới trong làng văn chương cả hải ngọai lẫn trong nước. “ Mới “ không theo cái nghĩa ngày xưa nhà văn Mai Thảo dùng để chỉ “ những người viết mới “, tức những cây viết mới nổi nhờ vào vài bài thơ, vài truyện ngắn được đăng trên các báo văn học. Đúng hơn , “ người viết mới Khuất Đẩu “ chỉ mang một phần trong cái ý nghĩa “ mới “ mà Mai Thảo đã từng ám chỉ.

    Khuất Đẩu không còn trẻ. Ông sinh năm 1940 tại Bình Định. Tên thật là Trương Đẩu. Nhưng lại có cái tên mọi người thường gọi là Trương Thanh Sơn. Khi tác phẩm “ Những tháng năm cuồng nộ “ của ông xuất hiện trên trang mạng Talawas tháng 3 năm 2010 dưới bút hiệu viết tắt K.Đ, người đọc đã bị “ bất ngờ “, cái bất ngờ gây cảm giác “ thú vị “ cho cả người đọc lẫn người viết. Bất ngờ là vì cái giọng văn già dặn, từng trải, chắc nịch, gọn và khô ấy đã thể hiện thật xuất sắc nội dung những điều ông muốn gởi đến người đọc. Tác phẩm chinh phục người đọc, nhưng không ai biết tác gỉa là ai, như nhà văn Nguyễn Lệ Uyên đã viết “ K.Đ, cái bút danh mới toanh và lạ hoắc “. Theo ghi chú về tác phẩm trên Talawas, thì “ Những tháng năm cuồng nộ “ được sưu tầm bởi Thư Quán Bản Thảo của nhà văn Trần Hòai Thư, không thấy nói gì thêm về tác giả. Sau đó, một số truyện ngắn ký tên Khuất Đẩu được Talawas giới thiệu, một cách gián tiếp cho biết K.Đ là hai chữ viết tắt của Khuất Đẩu. Gần đây, khi trang T.Vấn & Bạn Hữu đặc biệt giới thiệu nhà văn Khuất Đẩu và tác phẩm qua bài viết của anh Đỗ Xuân Tê và sự góp nhặt của anh Ngộ Không với chuyên mục Tác Giả Tác Phẩm, chúng tôi nhận được sự liên lạc từ chính nhà văn Khuất Đẩu hiện sinh sống trong nước. Qua bản thảo mới nhất vừa được hiệu đính lại “ Những tháng năm cuồng nộ “, chúng tôi ghi nhận tác phẩm này do Khuất Đẩu viết xong năm 2004, hiệu đính lần thứ hai năm 2009 ( tức bản do Thư Quán Bản thảo sưu tầm và gởi đến Talawas ), và hiệu đính lần cuối năm 2011 ( bản này do nhà văn Khuất Đẩu gởi đến T.Vấn & Bạn Hữu , đã được dùng để thay thế bản năm 2009 trong chuyên mục Tác Giả Tác Phẩm – Khuất Đẩu).

    Vừa xuất hiện, cái tên Khuất Đẩu đã tạo được cho mình một vùng ánh sáng khiến nhiều con mắt để ý tới.

    Trước hết, là ở đề tài ông lựa chọn. Đó là số phận của người dân quê ở liên khu V, Nam, Ngãi, Bình, Phú qua 9 năm kháng chiến rồi qua thời “hai mươi năm nội chiến” và sau 75. Những gì xẩy ra chung quanh ông trong suốt 70 năm làm người, đã trở thành những mối ám ảnh khôn nguôi.

    Những mối ám ảnh ấy không phải là chỉ có ông mới phải chịu đựng. Rất nhiều người khác, sống ở trong nước hay nơi xứ người, cũng có cùng những mối ám ảnh mà ngay cả cái chết cũng không giải tỏa được. Sự khác biệt chỉ là ở chỗ, ông đã nói được thay họ một vài trong những điều họ muốn nói. Với khả năng sử dụng chữ nghĩa văn chương tích lũy hơn 60 năm, khi nói ra, chữ nghĩa của ông đã mang đủ sự trưởng thành già dặn cần thiết để chuyên chở tâm tư của ít nhất hai thế hệ người Việt, ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương.

    Kế đến là tính cách kẻ sĩ nơi Khuất Đẩu, thể hiện ở chi tiết ông hiện còn sinh sống ở Việt Nam. Cái đảm lược tóat lên từ những trang sách viết dưới giá treo cổ mà ông cay đắng gọi là “ sự liều mạng “ ấy quả thật đáng được ngưỡng mộ. Vì thế, mỗi trang viết của Khuất Đẩu, đều biểu trưng cho một sự chấp nhận, nếu không muốn nói là dũng cảm. Có lẽ, thái độ ấy có sự nâng đỡ từ những nỗi thống khổ cao nhất mà những nhân vật của ông đã can đảm chịu đựng.

    Truyện vừa “ Lão Tiền Bối “, tác phẩm viết xong năm 2006 và được hiệu đính lần cuối năm 2011 trước khi gởi đến T.Vấn & Bạn Hữu ( chúng tôi đã giới thiệu tác phẩm này trong mục Góc Văn ) của Khuất Đẩu là một bằng cớ khác của “ sự liều mạng “. Đọc truyện này, người ta liên tưởng ngay đến một nhân vật khác có thật ở ngòai đời và những màn kịch vừa xẩy ra khiến tác phẩm “ Lão Tiền Bối “ viết từ năm 2006 có vóc dáng một “ kịch bản nay mới được dàn dựng”. Tôi nhớ có một nhà văn nào đó ở trong nước đã cho rằng nhà văn là “ con chim báo bão “. Cũng chẳng sai bao nhiêu so với “ kịch bản Lão Tiền Bối “ nói đến ở đây.

    Theo lời nhà văn Khuất Đẩu, với truyện vừa Lão Tiền Bối , hợp cùng truyện dài Những Tháng năm cuồng nộ và truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, ông đã hòan thành xong bộ Trio về cùng một chủ đề . Qua 3 tác phẩm này ( hiện được lưu trữ trên T.Vấn & Bạn Hữu), người cùng thời và các thế hệ mai sau sẽ có cơ hội hiểu và biết thêm nhiều điều về những tháng năm cuồng nộ của một giai đọan lịch sử não lòng.

    Ngoài bộ ba truyện dài và truyện vừa nêu trên, còn có Người Tử Tù viết năm 1970, các truyện ngắn và một số thơ không vần, đã được đăng tải trên Thư Quán Bản Thảo, Talawas, Tiền Vệ, Thông Luận và Văn Chương Việt.

    Thay mặt người đọc, thay mặt những người đã từng chịu thống khổ trong giai đọan lịch sử ấy, chúng tôi xin cám ơn nhà văn Khuất Đẩu.

    T.Vấn
    Ngày 7 tháng 9 năm 2011
    ©T.Vấn 2011
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 10-25-2017, 12:15 AM.

    Comment


    • #3
      Những Tháng Năm Cuồng Nộ 5 - 8

      5. Sau những bữa thịt chó no say đám dân quân bước vào những ngày học quân sự mới lạ. Họ tập chạy, tập nhảy, tâp bò rắn mối, tập ném lựu đạn và đánh xáp lá cà.

      Một ông từng đi lính Tây được mời ra chỉ dạy những bài tập cơ bản. Ông tên Hồng, run bắn lên khi ông Khứ cho người gọi lên Uỷ ban. Vợ con ông đều khóc tưởng ông sắp phải đi tù vì đã từng đi lính cho Pháp. Nhưng ông Khứ cười bảo chẳng tù tội gì đâu, Cách mạng chỉ nhờ ông giúp cho một tay. Cả đám dân quân nào đã ai biết tập tành là gì. Chỉ có mỗi một việc đứng nghiêm mà cũng không biết đứng ra làm sao. Không khéo Tây nó cười cho! Ông Hồng mừng như được sống lại. Không ngại nắng mưa, ông dạy cho đám dân quân biết sắp hàng, biết nghiêm nghỉ, biết đằng trước bước đằng sau quay. Cực nhất là tập bò rắn mối. Nhiều anh cứ ngóc đầu hoặc chổng mông lên. Ông cầm một cái roi quất nhẹ lên mông bảo với họ là đạn nó không nương nhẹ như thế này đâu.

      Ít lâu sau huyện đội cử xuống hai người. Họ bảo mỗi anh phải đẽo một cây súng gỗ và lấy đất sét nắn thành lựu đạn. Họ chỉ cách cầm súng, cách ngắm đầu ruồi. Khi trúng đích họ hô bắn thì cứ việc kêu một tiếng đoàng. Ném lựu đạn thì khó hơn vì phải dùng răng cắn chốt, phải giữ kíp cho thật chặt và khi ném xong phải nhớ nằm xuống sát đất và cũng kêu một tiếng đùng.

      Bắn mãi bằng mồm cũng chán nên ai cũng mong đợi cái ngày tập đánh xáp lá cà. Nhưng đâu phải đánh lung tung như đánh lộn hay đánh ghen. Phải tập tành bài bản. Và người đứng ra tập các thế võ tự vệ lại là một người đàn bà. Có chuyện lạ như thế vì bà ta có võ con nhà nòi.

      Bà là vợ ông biện Ngũ, không đẹp cũng không xấu, một người đàn bà lam lũ như bao nhiêu người đàn bà khác trong làng. Nếu cái buổi chiều hôm ấy ông biện Ngũ không ỷ mình là chồng, không hạnh họẹ chuyện cơm nước, không lên giọng mắng chửi và nhất là không bưng cả cái mâm cơm đập lên đầu bà thì đố ai biết được bà giỏi võ. Lúc thấy người chồng hùng hổ bưng cái mâm lên, bà chỉ nghiêng người một chút là tránh được. Một tay bà đỡ cái mâm, một tay nắm áo xách anh chồng lên như xách tai một con mèo và không một chút thương tiếc, bà ném ông ta đang trợn mắt vì kinh ngạc rơi tòm xuống cái giếng gần đó. Bà mẹ chồng một mặt réo ba hồn chín vía anh con trai, một mặt kêu trời để làng nước tới cứu. Từ đó chẳng còn ai nghe tiếng quát tháo ở nhà ông biện Ngũ nữa.

      Ông phó Ba đã diễn đi diễn lại cái trò ấy đến cả chục lần bằng cách méo miệng trợn mắt, bằng tiếng kêu eo éo như nhái trong miệng rắn và lần nào cũng làm cho mọi người cười đến nỗi không sao đứng lên được.

      Bấy giờ người ta mới biết được bà là dân An Vinh, đúng như câu Trai An Thái, gái An Vinh cực kỳ giỏi võ. Người ta bảo ở làng ấy, những người con gái trước khi đi lấy chồng đều được cha hay anh bí mật dạy cho những ngón gia truyền. Chỉ một vài chiêu đơn giản thôi nhưng có thể tránh được cơn hung bạo của chồng, có khi là mẹ chồng và cả đám em chồng nữa.

      Lúc đầu bà nhất định không chịu. Bà bảo một vài miếng để phòng thân là bí mật của dòng họ không được phép dạy cho ai kể cả chồng con. Nhưng ông Khứ bảo dạy cho Cách mạng mà, dạy họ đánh Pháp giành độc lập chứ có đánh giết ai đâu. Rồi cô Thảnh thay mặt Hội Phụ Nữ đứng ra mời, chồng con hảnh diện nói vào, sau cùng bà bằng lòng nhưng nói trước: Học võ là phải nghiêm, ai đùa giỡn là bị phạt đó. Cả đám dân quân vui vẻ hô”nghiêm“và bà bắt đầu dạy họ cách đứng tấn, cách né đòn và phản đòn. Bà dạy họ đến cả tháng. Có lẽ không ở đâu dân quân được học võ một cách bài bản và nghiêm túc như ở làng An Định.

      Đến lúc khoá huấn luyện bế mạc, ông Khứ và đại đội trưởng Kỉnh tổ chức một buổi diễn tập. Laị có những anh to lớn giả làm Tây đen mình bôi đầy lọ nghẹ, những anh du kích mặt trét bùn, mình cắm đầy lá nguỵ trang. Lại có cả nữ cứu thương và ngộ nhất là có hai con trâu đực thật to giả làm xe tăng, trên lưng có hai đứa đứng cầm ống tre giả làm đại bác.

      Đám giặc từ ngã ba Trung Lương vượt sông tiến vào làng An Định (coi như từ biển đổ bộ lên). Lũ Tây đen xí xô xí xà, chúng nó lia súng máy tạch tạch bằng cách gõ mõ tre. Hai cái xe tăng đủng đỉnh mồm không ngớt nhai rơm phèo bọt trắng. Đám du kích vượt qua lằn đạn bằng cách bò rắn mối. Có tiếng ông Khứ quát: Hạ thấp xuống đi, đạn nó bắn lủng đít bây giờ! Nhiều tiếng cười nổi lên. Ông Khứ lại bảo: Sao không xung phong? còn chờ gì nữa!

      Thế là hàng trăm tiếng hô xung phong! Xung phong! Du kích lao lên với súng gỗ miệng hét đùng đùng. Lựu đạn bằng đất ném tới tấp. Lũ Tây đen cũng không vừa, chúng lao tới và hai bên liền thực tập bài đánh xáp lá cà. Bao nhiêu miếng võ gia truyền của bà biện Ngũ đều được đem ra sử dụng. Họ đánh nhau cứ như thật, hăng máu đến nỗi ông Khứ mấy lần phất cờ bảo thôi nhưng chẳng bên nào chịu dừng. Cả hai con trâu giả làm xe tăng cũng bất ngờ quay ra húc nhau, hất văng hai đứa cầm ống tre xuống đất, thiếu chút nữa là bị nó đạp cho lòi ruột. Đến lúc này mọi người bỏ chạy tán loạn. Hai con trâu mắt đỏ ngầu, miệng sùi bọt cứ đứng ghim sừng vào nhau. Chủ trâu là phó tuần Nghinh đến trước mặt ông Khứ gào lên: Đánh giặc kiểu gì mà ngu dữ vậy? nó mà chết là tui bắt đền. Ông Khứ ê mặt chẳng biết nói sao. Bỗng dưng một con chịu thua bỏ chạy. Con kia nghểnh cổ lên đắc thắng. Buổi diễn tập chấm dứt bằng cách cả ta và địch cùng chạy ùa xuống sông tắm.

      Buổi chiều hôm ấy trên cái tháp thông tin dựng bằng bốn cây cau, ông Tư Alô lại chõ miệng vào cái loa thiếc gào lên cho cả làng cùng biết: buổi diễn tập thành công! Hoan hô các chiến sĩ dân quân anh dũng làng An Định!

      Như thế đấy, công cuộc chuẫn bị kháng chiến chống Pháp đã sẵn sàng, nhưng thằng Pháp vẫn chưa tới hay nói một cách tự hào là nó không dám tới. Nó chỉ thập thò ở đèo Eo Gió hay biển Đề Gi mà ở đó bộ đội ta với dúng thật và đạn thật đang chờ sẵn.

      Nói tới bộ đội là ai cũng nghĩ họ dũng cảm mưu trí. Các cô gái thì tin chắc họ đẹp trai học giỏi, vì nghe đâu lúc toàn quốc kháng chiến nổ ra họ liền bỏ học kéo nhau đi cả lớp. Chắc chắn là họ dễ thương hơn các anh dân quân vừa học xong lớp bình dân học vụ chỉ được cái tài trét bùn lên nón trắng hay vạch tóc ra để xem cái kẹp có bọc chỉ hay không (để tránh máy bay). Vì vậy khi phát động phong trào hũ gạo nuôi quân là ai cũng rộn ràng hăng hái. Cô Thảnh nói, nào có khó khăn gì đâu mà cũng chẳng tốn kém gì mấy! Mỗi bữa chỉ bớt đi một nắm gạo cho vào hũ, tức là ăn đói một chút để bộ đội được no hơn. Có ăn no mới đánh được giặc chứ! Nghe xót xa dễ thương quá! Cứ như mẹ nhường cơm cho con, chị nhường cơm cho em.

      Những ngày đầu nhà nào cũng đều góp đầy góp đủ. Các bà trong hội Phụ nữ trong đó có cô Sáu tôi, lần nào đi thu gạo chỉ mới bước chân vào ngõ đã thấy cả nhà rối rít đem hũ gạo ra khoe. Ai cũng muốn gửi một chút tình cho bộ đội. Nhưng lâu ngày người ta cảm thấy phiền phức nhàm chán. Có người bỏ đại vài nắm vào hũ cho lấy có. Có người thảy gạo vào thúng như bố thí cho ăn xin ăn mày. Có người rỉa rói: thu gì mà thu lắm thế? Có thấy bộ đội nào ăn đâu, các người ăn thì có! Có người than: nhà tui ăn toàn rau, có hột gạo nào đâu mà nộp! Cái gánh gạo nuôi quân mọi hôm oằn cả vai cô Sáu tôi, giờ nhẹ tênh như giấy.

      Cứ tình hình này thì mất điểm thi đua nên người ta qui định mỗi tuần vào chiều thứ năm phải ăn cháo thay cơm. Số gạo thừa dùng để nuôi quân. Dĩ nhiên những ngày đầu mọi người thấy rất hay, cái sáng kiến này tiện lợi vô cùng. Thay một bữa cơm bằng một bữa cháo được quá đi chứ, vừa nhẹ bụng vừa đỡ phải lắc nhắc hôm nào cũng phải nhớ mà bỏ. Nhưng những ngày sau đó thì thực vô cùng khó chịu, lúc nào cũng nghe cồn cào trong bụng như có kiến bò. Nhất là những khi làm việc nặng. Đi cấy đi cày mà không có hột cơm trong bụng thì không cách gì cày cấy được. Thế là cháo nấu thì cứ nấu, cơm ăn vẫn cứ ăn, gạo nộp vẫn cứ nộp. Hoá ra chẳng tiết kiệm được tí nào. Chiều thứ năm nhà nào cũng bày ra mâm bát với một nồi cháo loãng, chờ đội kiểm tra đi khỏi là cơm canh như thường lệ. Cô Thảnh cay lắm, nhất định phải bắt cho được một người để trị tội làm gương.

      Nhờ lũ chó bị giết sạch nên cô có thể sộc vào bất cứ nhà ai. Nhưng không còn chó thì người ta thay bằng một đứa bé ngồi canh cửa. Khi thấy ông Khứ hay cô Thảnh là chúng nó kêu lên: bà ơi! mẹ ơi! thế là nồi cơm lập tức được đem đi dấu biến. Chỉ tội cho bà hương bộ, nhà không có cháu nhỏ mắt lại kém, nên khi cô Thảnh vào tận nhà bà mới hay. Lúc ấy nồi cơm chưa kịp chín, bà vội ôm vào lòng dù bỏng rát. Bà giật đại một cái mền trùm lên. Khi cô Thảnh hỏi làm sao mà trùm mền, bà giả bộ rét run nói: tôi bị sốt rét cô à! Cô Thảnh ngồi xuống bên cạnh cũng giã bộ tử tế dịu dàng nói: tôi đưa bà đi nằm nghe. Sốt rét mà ngồi gần lửa thì đau đầu lắm đấy! Được thôi mà, bà hương bộ nói như khóc. Bỗng cô Thảnh cười nhẹ rồi giật tung cái mền lên.
      – À, sốt rét của bà đây hả ? Thôi mời bà đi theo tôi.

      Bà hương bộ phải bưng cái nồi cơm chưa chín khốn khổ trước ngực đi khắp làng để mọi người đổ ra xem. Cô còn xúi tụi trẻ con chạy theo lêu lêu, có đứa còn hô đả đảo! Sau này, trước khi chết bà trăn trối với con cháu, đó là cái nhục lớn nhất trong đời!

      Từ đó mọi người đều răm rắp ăn cháo chiều thứ năm. Rồi sau đó, ăn cháo luôn cả tuần, chẳng phải để góp nhiều gạo mà vì không đủ gạo để nấu cơm. Năm đó không biết lũ chuột từ đâu kéo tới cắn nát cả cánh đồng rồi tràn vào mọi nhà. Chuột nhiều đến nỗi chúng cắn đuôi nhau leo tận lên ngọn cau, làm tổ trong từng bụi chuối. Dĩ nhiên đội kiểm tra không còn việc gì để làm và những hũ gạo nuôi quân bị bỏ nằm chỏng chơ trong góc nhà.

      Đói gần như cả làng!
      Hồi đó, nhờ làm cấp dưỡng, cô tôi có nuôi một con heo nhỏ như con chuột. Ít lâu sau đội dân quân nghỉ ăn tập, cô tôi xin nước cơm trộn tí cám cho nó ăn. Sau không ai cho nữa vì chẳng ai còn gạo để vo, cô tôi phải cho nó ăn lá cây. Hết lá tảo nhơn đến lá dâm bụt, lá mì lá khoai. Sau cùng không kiếm đủ lá đành làm thịt. Cả xương lẫn da không được năm ký. Ông phó Ba cười, ai đời thịt heo mà phải mua mỡ về xào! Đó là con heo duy nhất mà cô cháu tôi ăn hết trong đời vì không dám cho ai. Thịt của nó nghe toàn mùi lá. Thịt của chúng tôi chắc cũng chẳng hơn gì!
      Khổ nhất là những lúc bụng đói mà phải nghe mùi thịt dê nướng của nhà ông Chánh nhạc. Mỗi khi ông từ tỉnh về thế nào cũng có một con dê bị giết thịt để đãi bạn bè. Nó được hai anh trai cày lên núi bắt về. Suốt đêm nó kêu be be thê thiết như mẹ gọi con, con gọi mẹ. Sáng ra hai anh dùng roi mây mà quất cho đến khi mồ hôi nó tuôn ra như tắm. Lúc ấy các anh mới đè cổ thọc dao vào họng lấy tiết để pha rượu. Nhiều người cho là ác nhưng hai anh bảo không đánh cho ra hết mùi hôi thì ăn sao được!

      Chẳng ai hiểu tại sao mới đó mà có người chỉ mong được chút gì bỏ vào miệng, có người phải đúng mùi vị mới ăn!

      Nhà cô Thảnh lâu nay vẫn được tiếng ăn sang như Tây. Không phải như những nhà khác chui rúc trong bếp đầy lọ nghẹ và bồ hóng hay ngồi chò hỏ quanh một cái nong mà mỗi người mỗi ghế quanh một cái bàn có trải khăn và cắm hoa. Một đôi khi, những người bạn của anh cả Định từ Qui Nhơn lên chơi, cả nhà lại bày ra ăn cơm Tây với dao muổng lách cách. Cô Thảnh lại bận đồ đầm, ngồi lên ghế phô tơi hai chân bắc chéo lên nhau trò chuyện với các chàng cũng ăn mặc y như Tây, lúc nào cũng đeo cà ra oách và kè kè một cây ba toong chẳng biết để làm gì!

      Nhà cô lại có cả buồng tắm và cũng chính từ cái buồng tắm ấy mà ông Phó Ba có cả một câu chuyện động trời để chọc cười thiên hạ. Vẫn con mắt có thể giả bộ lé, giả bộ mù, vẫn cái miệng muốn méo kiểu gì cũng được, vẫn cái mũi chun chun và hai bàn tay vặn vẹo, ông diẽn tả cái cảnh cô Thảnh sợ đến lé mắt, hai tay vừa che trên vừa bụm dưới chạy ra khỏi cái buồng tắm vì có một thằng phải gió đang nằm trên mái nhìn trộm. Trong khi mọi người lăn ra cười bò thì ông tỉnh như sáo phán: thằng phải gió đó là thằng thủ ngữ Đực. Nhưng bà vợ ông thì đay nghiến: thằng đó chính là ông chứ ai! Mọi ngưòi lại được dịp bò ra mà cười một lần nữa.

      Tuy có một dạo nhà cô ăn ở như Tây, nhưng không một ai dám nghi ngờ nhà cô theo Tây. Ngược lại, cả nhà cô đều theo Cách mạng. Ông Chánh nhạc và anh cả Định làm ở tỉnh, bà chánh nhạc làm hội trưởng hội phụ lão, cô Thảnh làm hội trưởng hội phụ nữ. Quả thực không có nhà ai danh giá vẻ vang bằng. Vì theo Cách mạng nên cuộc sống cũng phải đơn giản, dao muổng cốc tách đều đem cất kỹ trong tủ. Mặc dù có nhiều lời ra tiếng vào, nhưng cô bảo dê là của nhà cô nuôi, nếp lúa là của nhà cô trồng, đánh Pháp là đánh cái thực dân của nó chứ đâu đánh cái văn minh.

      Sau khi bà hương bộ bị cô bắt mang nồi cơm đi khắp làng, mọi người đâm ra sợ cô hơn cả ông Khứ. Mặc dù cô không quát nạt, không doạ đưa đi cải tạo, nhưng ở cô vẫn toát ra cái quyền uy lặng lẽ ngay cả lúc cô ăn nói nhỏ nhẻ dịu dàng. Trong những buổi mitting cô thường lên kể tội thực dân Pháp. Những cảnh đốt nhà hãm hiếp giết người, dĩ nhiên là cô chưa hề thấy, nhưng cái cách cô kể nó sôi nổi tàn bạo làm sao! Cứ như cô vừa chạy thoát một trận càn của địch và đang hổn hển kể cho mọi người nghe.

      Có một lần, cô kéo một người đang bụng mang dạ chửa bước lên bục. Trong khi mọi người đang ngẩn ngơ và người đàn bà chửa đang đỏ mặt mắc cỡ vì cái bụng to kềnh của mình thì cô nghiêng bàn tay như một cái dao kéo từ ngực kéo xuống. Cô nói, nó mổ bụng lôi đứa nhỏ trong này ra! Tức thì có nhiều tiếng rú thất thanh, nhiều người đưa tay ôm mặt không dám nhìn. Người đàn bà chửa thì ngất xỉu tự bao giờ, chân tay lạnh ngắt. Một giọng ai đó thét lên: Đủ rồi! Đừng nói nữa, sợ quá!

      Đợi cho người đàn bà chửa tỉnh lại, cô bắt đầu cao giọng: Giặc Pháp tàn ác dã man như thế đó. Phải đánh đuổi nó đi, phải biến căm thù thành hành động, tức là phải góp gạo nuôi quân, phải đóng thuế nông nghiệp, phải đi dân công, phải…Đêm càng khuya cô nói càng nhiều và cái đám đông đói khát sau một ngày mệt mỏi đang vật vờ ngủ gục thỉnh thoảng lại được dựng dậy vì những tiếng hô đả đảo. Trên đường về các bà nói thầm với nhau: ai mà dám lấy cô ta làm vợ!

      Đúng là mọi người đều sợ cô. Cô Sáu tôi chẳng những sợ mà còn hận cô nữa. Chuyện đó như thế này. Cái dạo cô tôi làm cấp dưỡng, ông Tư Kỉnh vẫn thường gặp cô ở bếp đình để bảo ban dặn dò, đưa tiền gạo cho cô nuôi ăn mấy chục người. Đôi lúc ông nán lại ngồi nói chuyện này chuyện nọ, có khi ông đùa không chừng thằng Được chính là con cô. Cô tôi chỉ nhỏ nhẹ bảo ông hãy ăn nói cẩn thận. Nhiều người liền nhạo ông có vợ hai.. Thế là từ chỗ đùa chơi câu chuyện đến tai vợ ông.

      Ngày trước bà là cô đào nhan sắc của Thanh Bình Ban, ông bầu Kiên phải mua đến cả trăm bạc. Cả làng ai chẳng rơi nước mắt khi cô vừa hát vừa cầm dao cắt thịt mình cho mẹ chồng ăn trong vai Xuân Nương. Nhưng thời gian đã tàn phá hết nhan sắc của cô. Giờ cô bạc phếch vì thiếu phấn son, trông trắng dã lạnh ngắt như vừa vớt từ dưới sông lên. Dĩ nhiên nghe đồn thổi như thế bà ghen lồng ghen lộn vì cô Sáu tôi tuy không đẹp nhưng trẻ hơn bà.

      Một tối nọ chúng tôi đang chơi trò xử tử Việt gian bỗng nghe léo nhéo: Xử tử con mẹ này cho tao! Cả bọn ngừng chơi. Trước mặt chúng tôi là một người đàn bà hung dữ đang nắm tóc một người thấp nhỏ lôi từ trong bếp đình ra. Khi nghe tiếng: tôi làm gì mà bà đánh tôi! thì tôi hiểu người đàn bà đó chính là cô Sáu tôi. Tôi lao thẳng vào người bà ta cắn một miếng vào tay. Tôi cắn mạnh đến nỗi nghe như có mùi máu tanh và mặn đang chảy trong miệng. Bà ta rú lên: Trời ơi, thằng chó đẻ mày dám cắn tao hả! Thế là cô tôi được cứu thoát. Nếu không, có lẽ bà ta đã lôi cô tôi đi khắp làng như bà hương bộ.

      Chuyện đó, người thì bảo do lão Tư Kỉnh, người thì bảo không có lửa sao có khói, cô Sáu tôi rất khổ nhục.

      Ông Tư Kỉnh tối hôm đó quả có tới cười cợt gì đó với cô tôi. Khi bà vợ xông vào thì ông nhanh chân chạy thoát. Không bắt được chồng, bà Tư Kỉnh liền chộp lấy cô tôi. Vây mà trong buổi họp phụ nữ, cô Thảnh chẳng những đã không đả động gì đến vợ chồng lão Tư Kỉnh, không bênh vực an ủi cô tôi lấy một lời, lại còn kết tội làm hại đên uy tín của cán bộ, xúc phạm đên danh dự của phụ nữ. Cô còn đem chuyện cô Sáu tôi lội qua sông để cho mấy thằng Nhật lội theo và được nó cho tiền ra xỉa xói rằng, như thế là làm tay sai cho giặc, đáng đem bắn bỏ như tụi Việt gian. Với những tội lỗi xấu xa ấy, cô tôi không còn xứng đáng đứng trong hàng ngũ phụ nữ yêu nước nữa. Cô Thảnh tuyên bố cô tôi như một con chiên ghẻ cần phải khai trừ ra khỏi hội.

      Vẫn biết như thế cô khỏi phải đóng hội phí, khỏi phải họp hành gì nhưng cô rất xấu hổ. Kể từ đó nói tới cô Thảnh là cô bịt tai lại chẳng muốn nghe. Cô tôi ghét cô Thảnh còn hơn ghét bà Tư Kỉnh.

      Mấy tháng sau cái ngày diễn tập thành công, bụng của cô Tâm nữ du kích cứu thương càng ngày càng phễnh to ra. Chả hiểu hội phụ nữ tra hỏi thế nào mà buổi sáng hôm sau người ta thấy cô treo cổ dưới cầu. Xác của mẹ con cô vẫn cứ phải treo tòn teng đến mấy ngày để đợi công an huyện xuống khám vì người ta nghi ngờ kẻ địch đã giết cô rồi đem xác treo lên. Nhưng cả làng An Định nhất là các bà phó lý, bà hương bộ đều nói như đinh đóng cột rằng chính cái miệng có gang có thép của bà Hội trưởng đã giết cô Tâm tội nghiệp chứ kẻ địch kẻ điếc nào đâu. Ngày chôn cất cô, các bà khóc than kể lể cứ như là con đẻ rứt ruột của mình. Cô Thảnh cho rằng cô ta làm nhục hội Phụ nữ nên chẳng thèm đưa tang.

      Cô Sáu nói, với bao nhiêu oan nghiệt như thế, oan hồn của hai mẹ con cô nhất định hãy còn lảng vảng trên cầu. Tối nào cô cũng đem một vắt cơm, một cây nhang ra cầu và lần nào cô cũng ngồi khóc lặng lẽ.

      6. Mặc dù thằng Pháp chưa đổ bộ hay nhảy dù xuống làng An Định, nhưng mỗi buổi sáng người ta thấy chúng quần đảo trên bầu trời Đập Đá. Chúng đi trên hai chiếc khu trục, không biết là từ biển vào hay từ Nha Trang ra. Hai chiếc máy bay như hai con đại bàng sắt khổng lồ, bay lượn, gầm thét rồi trút bom xuống cái đập mà ngày trước tụi Pháp phải tốn khá nhiều công của mới xây được.

      Phải bảo vệ đập bằng mọi giá! Người ta bèn đem cả tấn dây dừa bện thành những tấm lưói rộng đến cả mẫu ruộng để che chắn cho đập. Người ta định hứng bom như hứng dừa rồi sẽ tháo ngòi nổ lấy thuốc làm lựu đạn. Người ta sẽ lấy của chúng đánh lại chúng như lấy gậy ông đập lưng ông. Nhưng cái tấm lưới ấy chỉ hứng được có mỗi một trái bom liền ngã sụp xuống sông. Không cây cọc nào chịu nổi sức nặng của nó. Ngưòi ta đành để mặc chúng muốn thả bao nhiêu thì cứ thả. Kháng chiến trường kỳ mà. Trong khi đó dường như thằng Pháp cũng trường kỳ tấn công, mỗi sáng chúng chỉ mang theo có hai trái bom, mỗi chiếc thả một trái, bắn tạch tạch một vài viên rồi lặn mất. Chúng cứ đều đặn như thế, nhởn nhơ như thế, thả thoải mái như thế nên cái đập như trêu ngươi cũng không thèm chịu vỡ!

      Dân các làng chung quanh dường như cũng đoán được thói quen của chúng. Lúc đầu người ta kêu réo, gào khóc, chạy trốn như chuột. Hầm gia đình, hầm cá nhân, hầm cho học trò, hầm cho người đi đường… chỗ nào cũng hầm. Nhiều người chạy chưa kịp tới hầm đã lăn ra bất tỉnh. Cái tiếng thét gào của lũ máy bay sao mà kinh. Cứ như không cần tới đạn bom, chỉ cần nghe tiếng gầm rú của chúng cũng đã thấy đầu óc như sắp phọt ra ngoài. Nhưng lâu dần người ta không còn sợ cái tiếng quát nạt đó nữa, nhất là người ta biết chúng chỉ thả khơi khơi cho hết bom thì về. Mặc cho tiếng kẻng báo động người ta vẫn chống cuốc đứng xem. Một vài người còn khen nó bay lượn đẹp quá!

      Một buổi sáng tháng chạp, người ta làm sạch đường để ăn Tết. Cả trăm người lố nhố cào cuốc quét dọn, lại đốt rác cho khói um lên. Hai chiếc máy bay sau khi thả hai trái bom xuống sông như thường lệ, bất ngờ bay vút qua đầu, cứ tưởng là chúng doạ chơi vẫn ngước mặt lên mà cười. Không ngờ chúng quần lại hạ thấp hơn, rồi một tràng đạn nóng bỏng xé gió găm thẳng vào lưng vào đầu. Hơn năm người chết và cả chục người bị thương. Những chiếc võng dây dừa được những người dân khốn khổ khiêng chạy qua các làng để đến nhà thương. Những giọt máu thiếu ăn trộn với bụi đường thành những hạt bắp nâu khô cứng.

      Gọi là nhà thương nhưng chỉ có vài gian nhà nhỏ nằm bên cạnh một cái miễu hoang nép dưới bóng một cây sung già ở thôn An Dân mà đêm đêm thường nghe tiếng cú rúc đến lạnh mình. Một vài chiếc giường tre nằm dọc theo hàng cây rù rì. Những người bệnh thường là những người sắp chết lúc nào cũng thấy những chiếc lá rơi xuống trên mình như những lá vàng mã. Ở đây chỉ có độc một thứ thuốc đỏ và băng vải cắt ra từ những tấm vải mùng.

      Những người bị thương ở đầu ở ngực thường chết ngay trên đường đi tới nhà thương. Chỉ những ai bị thương ở chân ở tay mới thấy được cảnh cưa xương róc thịt. Ai đã từng trông thấy một lần trong đời khi nhớ lại đều cảm thấy rợn người. Dầu không muốn, người ta vẫn phải cột người bệnh vào gốc cây. Một miếng vải đen bịt ngang mắt. Một miếng giẻ nhét vào miệng. Trông cứ như tội nhân sắp bị tra khảo. Cưa và dao được nướng trên lò than rồi nhúng vào nước kêu đánh xèo. Bác sĩ cầm dao ướm một ngón tay thử đã nguội chưa như một anh đồ tể thử xem dao có bén không. Thể rồi thịt ở bắp tay hay bắp chân được róc cho đến khi xương trắng lòi ra. Bệnh nhân kêu ú ớ qua nắm giẻ như bị mộc đè. Hai người y tá cầm cưa kéo qua kéo lại như cưa tre. Xương trắng thành bột rơi xuống đất. Khi cái phần thân thể bị dập nát và hôi thối được cắt rời thì bệnh nhân đã ngất xỉu rừ lâu rồi. Khúc xương vô dụng được ném cái bịch vào thùng mạt cưa. Một vài con dòi với hàng lông thưa và trắng từ trong ống xương lây nhầy bò ra. Một nắm bông tẩm thuốc đỏ như máu ấn vào chỗ mới cắt. Những khoanh vải mùng được đem ra quấn nhiều vòng. Thế là xong, bệnh nhân được đưa vào lán trại, vài hôm sau thì chết. Ai chưa chết thì lại phải chịu đựng một lần nữa cảnh cưa xẻ, rồi cũng chết vì đuối sức và bị nhiễm trùng.

      Rất nhiều cái xác không thân nhân. Hoặc là dân tản cư, hoặc là do quá nghèo đành để mặc cho nhà thương lo liệu việc chôn cất. Mà nhà thương thì đâu giàu có gì. Chỉ có mỗi cái hòm gô sung xộc xệch cho hằng bao nhiêu xác. Vì vậy xác bị bỏ nằm sấp không cần đậy nắp được hai người khiêng đi lúc la lúc lắc. Đến đồng cây Sanh hai người không cần đào huyệt cũng không nói gì với nhau, chỉ cùng hự lên một tiếng rồi lật úp cái hòm xuống cát. Thế là người chết được ngửa mặt lên nhìn trời một lần nữa nếu có thể nhìn được. Một chiếc chiếu rách hay một một vài quần áo cũ được phủ lên, cát vun thành mồ. Hai người lặng lẽ khiêng cái hòm không trở về để chiều hay mai lại khiêng cái xác khác.

      Cả cánh đồng cây Sanh trở thành một cái nghĩa địa nhưng chỉ một mùa lụt là chẳng biết mồ mả đâu mà tìm. Xương trắng lại trôi tấp vào các khu vườn hoang và nhà chùa Thiên An cũng không còn đủ sư sãi để thu nhặt nữa. Bọn trẻ chăn bò buồn buồn lấy những ống xương làm kiếm đánh nhau. Mỗi khi nhặt được cái đầu lâu, chúng lại chuyền nhau như trái banh.

      Trong số những người bị thương có một cô gái nghe đâu là người trong hoàng tộc, Công Tằng Tôn Nữ thị gì đó. Chắc là khi Bảo Đại tuyên bố thoái vị trao ấn kiếm cho Cách mạng, cả nhà cô sợ quá bỏ kinh thành mà đi, rồi xiêu tán thất lạc, chết vì đói vì bệnh tật, giờ chỉ còn mỗi mình cô. Cô đẹp lắm, đẹp đến nỗi khi thấy cô mọi người trong nhà thương đều đứng ngẩn ra mà nhìn. Tóc cô dài, da cô trắng muốt, hai con mắt sâu và đen như chất chứa bao nhiêu nỗi đau của kiếp người.

      Cô bị thương cả hai chân và những con vi trùng tai quái không thèm nể nang gì đến người đẹp cứ việc đục khoét làm cho vết thương sưng phù lên. Đành phải cưa bỏ. Buổi chiều cưa chân cô người ta đứng chật vòng trong vòng ngoài. Cô được đặt trên một tấm ván. Khi người ta định lấy dây cột và nhét giẻ vào miệng, cô xua tay không chịu. Dù vây bác sĩ vẫn cho người giữ chặt. Dao đã được đốt, cưa đã được nung. Bác sĩ dù đã hết sức cẩn thận vãn có vẻ không tin cái việc cưa xẻ có thể cứu được cô. Khi cái lưỡi dao rạch một đường trên làn da trắng, mọi người cảm thấy đau nhói tưởng như đang rạch vào chính thịt da của mình. Những miếng thịt được bóc dần để lộ ống xương thanh mảnh. Và sau cùng là cái giây phút đau buốt tận óc khi lưỡi cưa nghiến rào rạo qua xương. Lúc này nhiều người bưng mặt không dám nhìn, nhưng cô không kêu. Cô vẫn nằm yên, chỉ để nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt đẹp như Phật bà Quan Âm. Hai cánh môi be bé của cô bật máu.

      Cho dù có người hào hiệp tặng cô một lọ pênĩxilin là thứ thuốc quý hơn vàng và các bác sĩ hết lòng chăm sóc, nhưng chỉ đến ngày thứ ba là cô qua đời. Nấm mồ của cô được vun to nhất, nhưng khi mùa lụt tới, xương thịt của cô chắc cũng phải trôi đến chùa Thiên An để nương nhờ cửa Phật.

      Bây giờ người ta mới thấy thấm thía chiến tranh là đổ nát chết chóc, là bệnh tật đói nghèo. Con chim bồ câu không thể bay mau hơn máy bay oanh tạc. Những câu khẩu hiệu dù cả vạn người hô cũng không át được tiếng bom. Mọi người vưà phải bươi chải kiếm ăn vừa tự cứu chữa bệnh tật để mà sống tiếp những ngày dài mệt mỏi với bao công việc đào hầm vót chông, những đêm dài chuyển lúa từ kho này đến kho khác, những tháng ngày lạc trong rừng sâu vì nghĩa vụ dân công…

      Đã là nghĩa vụ thì không trốn tránh vào đâu được. Nếu không phải là bộ đội, không phải dân quân thì cứ đến mười tám tuổi là anh phải mất ba tháng trong một năm để đi tải đạn hay gánh gạo tiếp tế cho chiến trường. Đối với một người nông dân thì cái công việc ấy cũng không lấy gì làm nặng nhọc. Nhưng phải luồn lách trong rừng sâu, phải chạy bán sống bán chết vì địch truy đuổi, rồi lam sơn chướng khí, ăn uống kham khổ, hễ có được chút máu tươi nào thì muỗi mòng và vắt thi nhau hút mất… nên người nào cũng lo sợ khi đến lượt phải đi.

      Cô Sáu tôi chưa đến năm muơi nên phải mất một tháng ròng đi gánh muối. Cô bảo chỉ có chục ký muối thôi, nhưng phải mang theo cả gạo, cọng với áo quần và phải mang cái gánh ấy trên vai suốt ngày trèo đèo lội suối, đâu có nhẹ nhàng gì. Đó là chưa kể tới cái khổ của đàn bà con gái. Đi qua những vùng toàn cỏ tranh, nước uống tìm không ra nói gì đến tắm giặt. Ngày trở về trông cô như một bà lão sáu mươi!

      Người nào cũng mang một nỗi lo, nhưng không phải như ngày xưa, lo sao cho có lúa đầy bồ, có áo mới cho con ngày Tết, có tiền cúng giỗ ông bà. Giờ còn lo một cái gì to tát hơn, rất vĩ đại và cũng rất mơ hồ: Lo cho kháng chiến thành công! cô Sáu nói, cỡ trôi sông lạc chợ như tao với mày mà cũng phải lo những việc bằng trời thì lo sao cho nổi!

      Dĩ nhiên, những việc bằng trời thì có những người có đầu óc cũng bằng trời lo. Không thể đem cả trăm cả vạn con người ra mà phơi dưới thanh thiên bạch nhật để bọn chúng muốn bắn giết thế nào thì cư bắn giết. Chui vào đất không được thì chui vào đêm tối mênh mông. Vì vậy chợ không họp ngày mà họp đêm. Trường học, học từ đầu hôm hay từ nửa đêm về sáng.

      Cuộc sống thay đổi lề lối sinh hoạt thì lũ trẻ chúng tôi lại càng có nhiều trò vui. Những buổi học đêm đối với chúng tôi là những cuộc vui không bao giờ dứt. Không như các buổi mitting ngồi đập muỗi mỏi tay chỉ để nghe hết ông này bà nọ thét gào, không như các buổi biểu tình rầm rộ đi khắp làng trong bụi đường mù mịt. Đi học đêm là nghịch phá và đôi khi hái trộm trái cây. Có đến mười ông Khứ cũng không sao ngăn được.

      Chúng tôi mỗi đứa mang theo một cái đèn thắp bằng dầu dừa như những Phật tử trong lễ hội phóng đăng. Trước bảng, một sợi dây dừa chăng ngang treo lủng lẳng cả chục chiếc đèn. Lớp học không có cánh cửa nên bốn bề lộng gió. Đèn nhảy múa, bóng thầy bóng trò cũng chập chờn múa theo. Tù xa trông vào cứ như một lũ âm binh.

      Lớp học bắt đầu bằng một cái lệ kỳ dị. Thầy giáo bí ẩn như một đạo sĩ cất tiếng hỏi: Học để làm gì? cả lớp trả lời: Học để phục vụ nhân dân và kháng chiến. Rồi thầy bắt đầu giảng: nước đá cứng như đá nhưng tan ra dưới ánh mặt trời. Ammôniắc có mùi hôi như nước đái bò! Chẳng đứa nào hiểu được tại sao cứng như đá lại có thể tan ra được, cũng như nước đái bò sao lại là chất hoá học và với những điều như thế thì làm sao phục vụ nhân dân và kháng chiến? Nhưng cũng chẳng có đứa nào buồn đưa tay lên hỏi. Một nửa lớp thì buồn ngủ, một nửa lớp thì đói và đầu óc thì đang nghĩ tới những trái ổi, trái sabôchê ở chùa Thiên An.

      Trong cảnh yên lặng buồn buồn ấy đột nhiên có tiếng kẻng báo động. Như thế là tàu bay đi săn đêm. Đèn phụt tắt. Thầy và trò lao ra các hầm đầy nươc, đầy cóc nhái và rắn rít. Một lúc sau tiếng động cơ xa dần. Lớp học lại ầm ĩ tiếng cười đùa. Khi đèn được thắp lên, thầy bảo: muốn học nữa hay về? Cả lớp nhao nhao: Về! Về!

      Cả làng An Định chỉ có một người con gái đi học. Chị là con một ông thầy thuốc từ Quy Nhơn tản cư lên. Chị tên Thảo hơn tôi đến bốn tuổi nhưng lại học cùng lớp với tôi. Là gái, nên chị không dám đi đêm một mình. Tôi được cả nhà ông thầy thuốc tin cậy để cùng đi với chị. Ông thường cho tôi một vài cọng cam thảo tẩm mật ong và chị thường dúi vào tay tôi khi cái bánh in khi trái chuối.

      Một đêm tháng mười, trời mưa và lạnh. Khi tôi chợt thức giấc cứ tưởng là quá muộn nên vội vàng đến rủ chị đi. Đường đất trơn trượt, mây lần chị suýt ngã. Phải khó khăn lắm chúng tôi mới tới được trường. Giữa lùm cây tối đen chẳng thấy một ánh đèn nào. Hoá ra là còn rất sớm. Hai chị em kiếm giấy và rác đốt cho đỡ lạnh. Một lúc sau lửa tắt, hai chị em ngồi tựa lưng vào vách nói chuyện vu vơ. Gió lùa qua lớp đuổi nhau trong đêm tối sâu hun hút. Trong gió như có tiếng thét gào, rền rĩ, đôi lúc như có tiếng cười của những hồn ma ở đồng cây Sanh. Chị có vẻ sợ, mỗi lúc một nép sát vào tôi, sau cùng gần như chen hẳn vào giữa để cho tôi ôm vào lòng. Một cảm giác là lạ nhưng hết sức êm ái diệu kỳ. Tôi ngồi yên nghe tiếng mưa rơi, tiếng giọt tranh tí tách, tiếng gió xào xạc trên hàng tre và tiếng đập nôn nao trong lồng ngực chị. Dường như chị đang thiếp ngủ vì tôi nghe tiếng thở sâu dài và đều đều của chị.

      Có thể chị chẳng mơ thấy gì và sau này chị cũng chẳng nhớ gì đên cái đêm mưa hôm ấy, nhưng tôi không bao giờ quên được cái khoảng ngực tôi áp sát vào lưng chị, lần đâu tiên tôi cảm nhận được cái làn hơi ấm áp ngọt ngào trong thịt da của một người con gái.

      Những buổi học đêm trong chiến tranh không ngờ đối với chúng tôi lại là những phút giờ bình yên tươi đẹp nhất. Có thể chúng tôi chẳng học được gì nhiều ở những người thầy, nhưng chúng tôi đã học lẫn nhau, đã nương tựa để mà lớn lên. Mặc dù sống thiếu thốn khổ cực chúng tôi vẫn thấy vui, vẫn không có những nỗi lo âu sợ hãi như người lớn. Như thể chúng tôi đang đứng bên lề của cuộc chiến tranh.

      7. Nói là nói vậy chứ cái cuộc chiến này không cho phép một ai đứng bên lề. Bom đạn vẫn liên tục trút xuống cái mảnh đất nghèo khổ này. Mà mỗi ngày mỗi tàn nhẫn khủng khiếp hơn. Không chỉ có bom văng mảnh mà còn có cả bom napan thường gọi là bom xăng đặc. Cái quầng lửa nó bùng lên đẹp đẽ bao nhiêu thì cũng tàn hại bấy nhiêu. Nhà ông tổng Bá giống như một kho thóc nên đã nhận lãnh trái bom napan đầu tiên. Cả cơ ngơi mấy đời chỉ trong chớp mắt đã cháy vèo vèo thành tro. Sức nóng khủng khiếp của nó làm cho mấy cây dừa cao vút ở tận góc vườn khô quắt quéo. Hai cái cối đạp bằng đá xanh trông hãy còn nguyên nhưng lấy tay bóp thử thì nát vụn như phấn.

      Năm ngày sau đến lượt nhà ông Chánh nhạc. Ai cũng tưởng nhà ngói thì cháy sao nổi nhưng khi lửa tàn, những viên ngói được nung một lần nữa không cứng như sành mà vỡ ra thành những viên nhỏ như sỏi. Ngay cả cốc tách được đem chôn cũng chảy đóng cục. Đám dân quân, đám phụ nữ theo lệnh ông Khứ và cô Thảnh thúc hối đem gàu mo chổi dụi chạy tới cũng chỉ đứng từ xa mà nhìn.
      Từ đây lửa hoành hoành khắp nơi. Những nhà to ở các làng đều bị đốt. Tuy chưa có ai bị cháy thui nhưng những đám cháy phừng phừng vẫn làm cho người ta kinh hoàng. Các cụ đồ Ngân và cụ cử Vân nói với nhau, lửa trên sông Xích Bích cũng chỉ khủng khiếp đến thế này là cùng.

      Nhưng đó là lúc các cụ chưa thấy cái biển lửa ở làng An Định khi Pháp rải xăng đốt cả đồng lúa đang chín! Lửa ngụt trời. Khói đen mù mịt. Cả làng cùng kêu thét như thấy con mình bị ai ném vào lửa. Rồi như điên như dại, tất cả cùng lao vào giành giựt nhau với lửa những bông lúa tội nghiệp đang run lên vì quá nóng. Ai có liềm dùng liềm, ai có dao dùng dao, những ai không có gì thì dùng tay không. Nhưng lửa như những con rồng hung dữ chỉ trong chớp mắt đã nuốt trọn cả cánh đồng. Cả đồng lúa đang trĩu hạt giờ chỉ còn lại tro. Mùi lúa cháy không khét như mùi nhà cháy mà lại thơm đến nghẹn ngào! Mặt đầy bụi tro lem luốc, đầy mồ hôi và nước mắt, mỗi người nhìn lại trong tay mình chỉ có một vài bó lúa cỏn con, ngơ ngác tự hỏi không biết sống làm sao đây!

      Lại đói!
      Người ta kéo nhau đi mót mì mót khoai ở tận Phù Cát, Phù Mỹ. Những đoàn người lếch thếch hệt như đám ăn mày chỉ khác là không bó chân những đồ dơ bẩn và không còn chó để chọc cho cắn rồi nằm vạ. Nhưng chẳng còn thứ gì để mà mót. Cả vỏ mì vỏ khoai trước đây là cho không, giờ thì cũng phải mua. Khoai sùng khoai thối cũng bán. Những người nghèo lại đi thất thểu với cái bụng đói. Người ta cũng chẳng thèm sợ tàu bay và chúng cũng không thèm bắn vào họ nữa.
      Chúng đi phá đập!

      Nghe nói Mỹ viện trợ cho Pháp hàng ngàn quả bom có cánh. Khi rơi xuống sông chúng biết tìm đến cửa đập và đúng lúc đó chúng mới chịu nổ. Thế là cái đập lưng mai rùa làm đã từng làm trợt bao nhiêu bom nay ngờ nghệch hả họng ra để nuôt cái chết vào bụng.

      Đập Đá nổ tung !
      Rồi đập Đồng Cam ở Phú Yên cũng không còn!

      Giá lúa một ngày tăng đến năm lần. Một gánh lúa bằng cả một gánh tiền tín phiếu.

      Đang giữa mùa Hè. Gió Nam thổi suốt ngày đêm như những bầy ngựa hoang cất tiếng hí đuổi nhau trên cánh đồng. Sông cạn khô như có cả trăm con rồng cùng kéo tới hút nước.
      Ông Khứ lại hô hào chống hạn!

      Hàng trăm cái giếng được đào giữa ruộng vừa mới cháy. Trước đây hàng ngàn cây cọc theo lệnh ông chỉa lên trời thì nay hàng trăm cây xà beng thọc sâu vào bụng đất. Những mạch nước hiếm hoi ri rỉ được những chiếc gàu mo cán dài múc lên vung vãi trên đồng. Đất bị nướng. Một vài gàu nước tạt lên chỉ nghe đánh xèo một tiếng, khói bốc lên khét lẹt. Đến cây xương rồng cũng không trồng được chứ nói gì đến lúa.

      Đang lúc mọi người phải chiến đấu tuyệt vọng với đói khát, hạn hán thì đột nhiên có tin xử tử Việt gian ở gò Na.

      Cái tin mới lạ lùng làm sao! Hả hê làm sao! Thế là tất cả chết chóc, thương tật, ốm đau, nhà cháy, đập lở, ngay cả những con chó bị giết, những ngày đêm ngứa ngáy vì bị chí rận… người ta đều trút lên đầu Việt gian.

      Mọi người quên đói, quên ốm đau, quên những ngày sắp tới không biết sống bằng gì… để náo nức đợi chờ. Ai cũng muốn biết mồm ngang mũi dọc của thằng Việt gian nó ra làm sao. Chắc nó mặt xanh nanh vàng, vừa hung ác như thằng Năm Quầng mà cũng vừa quỷ quyệt như thằng Lý Thông. Người ta kháo nhau về những việc làm hèn hạ của nó. Nào là chỉ điểm kho lúa, trường học, nhà thương… chính nó đốt nhà ông tổng Bá, nhà ông Chánh nhạc, chính nó ác độc báo cho Pháp biết đồng lúa chín… chỉ cần một mảnh gương nhỏ dắt đâu đó để mặt trời nhấp nháy là máy bay biết chắc nơi nào cần trút bom xuống. Nó còn rải truyền đơn rầm rì tung tin xấu, đặt những câu thơ phản động như:

      "Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ôi!
      Chú khiêng lên hết chiến khu rồi
      Thi đua sao cứ thua đi mãi?
      Kháng chiến lâu dài khiến chán thôi!"


      Nói thế mà nghe được à? Ông Khứ nghiến răng trèo trẹo như thể sắp cắn vào cổ nó nếu nó dám nói trước mặt ông.

      Gò Na, đó là một bãi tha ma lâu đời còn rộng hơn cả đồng cây Sanh nằm giữa hai thôn Yên Thới và Châu Liêm. Hãy còn sót lại những mả Hời đen lù lù bên cạnh những mồ mả của người đời sau, nằm rải rác giữa các bụi xương rồng và gai bàn chải. Những bụi duối cao to như những đụn rơm là hang ổ một thời của bọn giang hồ cướp giật Năm Quầng, Sáu Quẳng. Con sông Cái thỉnh thoảng lại nổi lên một cái xác chương phình mà dân làng này thường lén đẩy sang làng kia để khỏi lôi thôi với phủ huyện. Một con đường nhỏ mỏng manh như sợi chỉ nối hai làng lại với nhau, hoạ hoằn mới có người đi, trông bé nhỏ như những con rận trên một chiếc áo cũ.

      Thực ra, ngày trước nó cũng không đến nỗi hoang vắng và đáng sợ đến như vậy, nhưng kể từ khi triều đình đem chém ba người học trò ở Châu Liêm và Yên Thới vì tội phá trường thi Bình Định, thì gò Na chẳng còn ai dám qua lại nữa. Đó là một buổi chiều đẫm máu và nước mắt. Pháp trường là một bãi cỏ giữa gò. Một bụi tre hoang được chặt tận gốc chỉ chừa lại ba cây tre đực. Ngọn tre được kéo xuống sát đất giữ chặt bằng những cái chảng ba. Tử tội bị xổ tóc buột vào ngọn tre còn thân thì bị trói vào cột. Khi đao phủ vung cái lưỡi dao bén và lạnh vào mỗi người thì, dù đã rời khỏi cổ, nhưng đầu vẫn chưa rơi xuống đất. Lại lia thêm một nhát nữa vào sợi dây buột ở chảng ba. Thế là ba cái đầu với sáu con mắt còn mở trừng trừng vì chưa hết bàng hoàng theo ngọn tre bay vút lên trời cao, rồi cứ thế đong đưa như những cái tổ chim giồng giộc. Lũ diều hâu và quạ quang quác bay đến tranh nhau róc rỉa cho đến khi chỉ còn là ba cái sọ trắng hếu, mỗi khi có gió thổi là khua lốc cốc.

      Từ đó chẳng ai dám đi qua cái bụi tre oan nghiệt ấy. Chỉ có dân hai làng đến ngày giỗ thì tới sì sụp khóc than và rằm tháng bảy sư cụ bên kia sông dẫn đệ tử qua tụng cho một vài bài kinh siêu độ. Nhưng thỉnh thoảng, trong những đêm trăng mờ, người ta lại nghe có tiếng rì rầm bình thơ.

      Đầu tiên dân làng ai cũng mong tới ngày xử bắn. Nhưng khi biết được trong số họ có Phùng văn Hiên con cụ đồ Ngân thì ai cũng ngơ ngác kinh hoàng. Không thể nào tin được một người tử tế như thầy Hiên lại đi làm cái việc hèn hạ là chỉ điểm cho giặc để chúng giết người đốt nhà. Cũng không thể tin được cụ đồ Ngân xúi con mình làm những việc phản động chỉ vì cái đình bị phá. Hay là chính thầy đã làm những câu thơ mỉa mai khiến ông Khứ tức ói máu?

      Chẳng ai tin được những diều lạ lùng như thế. Bỡi vì tuy thầy không còn dạy bọn trẻ con nữa nhưng đêm nào thầy chẳng khản tiếng rát họng đọc I tờ, tờ I ti ở các lớp bình dân. Chính thầy được bình bầu là chiến sĩ thi đua diệt giặc dốt mấy năm liền kia mà. Chỉ mới đây nghe nói thầy ho lao phải ra Hội An chữa trị. Không ngờ thầy đã tìm cách trốn qua vùng địch. Cái tội ấy bị bắn là phải rồi, chỉ buồn là từ đây thầy bị gọi bằng thằng, thằng Việt gian Phùng văn Hiên! ông Khứ đã nói như thế trong buổi học tập kể tội thầy.

      Ngày xử bắn, tuy chẳng còn ai náo nức đợi chờ nhưng cả làng cùng lặng lẽ kéo nhau lên gò Na, đứng sau lưng cụ đồ Ngân. Cụ chờ đợi cái phút giây cuối cùng của con trai mình với cái sĩ khí của một nhà nho. Cũng tại cái bụi tre oan nghiệt ấy, cũng một buổi chiều như buổi chiều năm ấy, chỉ khác là không có những cây tre đực bị kéo xuống sát đất, nhưng có bốn cái hòm trống hoác đang mở miệng chờ sẵn.

      Thầy Hiên cùng với ba người nữa được một toán bộ đội đặc biệt đưa vào pháp trường. Bọn họ được hỏi ước nguyện cuối cùng. Có người xin điếu thuốc, có người xin ly rượu để có thêm can đảm, có người dặn vợ lấy chồng khác (ai mà dám lấy vợ Việt gian!) Thầy Hiên không xin gì chỉ lặng lẽ nhìn về phía cụ đồ. Có lẽ thầy thầm xin cha mình tha cho tội bất hiếu.

      Sau khi các ước nguyện cuối cùng nhanh chóng được giải quyết, bọn họ bị trói vào cọc và bị bịt mắt. Tiểu đôi hành quyết tiến vào vị trí. Người chỉ huy hô: chuẩn bị! Súng được đưa lên vai, mũi súng hướng vào ngực tử tội. Rồi tiếp theo một tiếng đanh gọn như pháo lệnh: Bắn! Hàng chục tiếng đoàng vang lên. Cả bốn thân người rung lên dãy dụa. Người chỉ huy lạnh lùng đến kê súng lục vào đầu mỗi người bóp cò. Đó là những phát súng ân huệ!

      Thôi thế là rồi đời thầy Hiên, người thầy giáo vỡ lòng của tôi và bao nhiêu học trò khác đang đi bộ đội hay làm dân quân du kích giữ làng. Cái chết của thầy mãi đến bây giờ vẫn còn là nột nghi án. Có thực thầy làm Việt gian hay thầy trả giá cho sự bội tình? Nghe nói thầy đã đi dạm hỏi cô Thảnh nhưng sau đó thầy nhất định không chịu cưới cô. Ở lại làng thì không thể không cưới. Chỉ còn một lối thoát duy nhất là phải đi vào vùng địch dù biết rằng đến chín phần là đi tìm cái chết.

      Cũng may là thầy không bị bêu đầu như những sĩ tử năm xưa. Cụ đồ Ngân được phép nhận xác con về chôn. Mộ thầy nằm tận chân núi Mò O. Cô sáu và tôi đã hơn một lần lén đến thắp hương cho thầy. Cô tôi khóc y như hồi cô khóc cô Tâm. Một tháng sau, cụ đồ Ngân không chịu ăn uống gì trong suốt năm ngày để được chết theo con.

      8. Những tên Việt gian dù đã bị bắn nhưng cái đói, cái khổ và cái chết vẫn không vì thế mà giảm bớt. Giặc Pháp chẵng những không suy yếu mà còn mạnh hơn. Chúng đă vượt qua đèo Eo Gió, đổ bộ lên Đề Gi và cả Qui Nhơn. Vì chúng có thêm nhiều đại bác, nhiều tàu bay. Và tất cả là do thằng Mỹ!

      Thế là người ta tổ chức những buổi mitting vĩ đại liên xã, những cuộc biểu tình liên thôn. Cô Thảnh và nhiều cán bộ khác thay nhau lên kể tội thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tiếng hô đả đảo chừng như vang dội đến tận sông Ngân. Trong những đêm hừng hực lòng căm thù ấy người ta quyết định phải làm một cái gì thật vĩ đại, thật kiêu hùng để chứng tỏ cho cả thế giới biết lòng căm thù của cả một dân tộc. Hai câu khẩu hiệu khổng lồ: ĐẢ ĐẢO CAN THIỆP MỸ và TÍCH CỰC CHUẨN BỊ TỔNG PHẢN CÔNG! được dựng lên, một ở gò Na, một ở đồng cây Sanh.

      Bao nhiêu tre còn sót lại từ thời làm cọc phòng không đều được chặt sạch. Hàng trăm người cùng chẻ chẻ, vót vót, đào lỗ dựng trụ, lao động suốt ngày đêm. Chẳng bao lâu những con chữ to cao đến mấy thước ngạo nghễ đứng lên chạy dài đến cả cây số.

      Từ khi bị đuổi khỏi hội Phụ nữ, cô Sáu thành người lêu bêu không đoàn thể. Nhưng như thế lại được tự do. Chẳng phải họp hành phê bình kiểm điểm, chẳng phải đi làm những chuyện không công để được tiếng thi đua. Cô không còn đi mót nữa vì chẳng ai bỏ sót một hạt lúa nào ở ruộng. Cũng không ai kêu cô đánh tranh giũ rạ. Người ta thà chịu dột còn hơn làm mồi cho lửa. Những nhà lá mái còn dỡ cả tranh cho bò ăn, chỉ để cái mái đất bên trong, trông xa cứ như những ụ gò mối.

      Chẳng có việc gì làm, nhưng chẳng lẽ ngồi không chịu chết đói. Cô tôi gom chút ít tiền tín phiếu dành dụm mở một ngôi hàng nước ở đầu cầu. Nói là hàng quán cho oai chứ thực ra chỉ một om nước chè vối, vài ba tán đường, năm bảy cây mía. Một đôi khi có thêm trái mít. Khi bán hết cô lại gom những hạt mít luộc chín xỏ năm hạt vào một que. Lũ trẻ con rất khoái những que hạt mít ấy. Chúng đứng nhìn say sưa. Có đứa bạo dạn chụp vèo một xâu chạy mất.

      Nhưng cái quán lèo tèo ế ẩm quá. Mía để lâu khô xốp, đường chảy nước, mít bán xong thì hột đã mọc mầm!

      Rất may là từ ngày dựng hai câu khẩu hiệu khổng lồ, cái ngã ba Trung Lương bỗng trở nên tấp nập. Xe bò chở tre cọc cạch, xe ngựa leng keng chở người, xe đạp của cán bộ tỉnh huyện qua cầu chuông reo kính coong. Người ta kéo đến trầm trồ chỉ trỏ. Ai cũng thấy mình trở nên cao lớn như những con chữ vĩ đại đang ưỡn ngực trong gió. Người ta nói, mình vẫn hơn thằng Mỹ chớ bộ. Nó làm gì có cái câu khẩu hiệu to như mình! Nói đă, người ta lại uống, lại ăn. Mà mía rẽ nhất, một cây đến mấy người cùng ăn. Cô tôi có ngày bán đến cả chục bó. Thế là cô cháu bàn nhau phải đi mua tận gốc ở các vùng trồng mía.

      Hai cô cháu thức dậy lúc sao Cày vừa mới mọc. Trời đêm mát lạnh. Khi đi ngang qua gò Na, tôi nắm chặt tay cô còn cô như cũng đang run. Tôi sợ ma, cô sợ cướp. Cái bụi tre nơi các sĩ tử năm xưa bị bêu đầu và thầy giáo Hiên bị bắn như đang lặng lẽ theo cô cháu tôi. Chúng tôi đi nhanh nó theo nhanh và khi chúng tôi nhắm mắt mà chạy, nó cũng chạy theo. Bên tai tôi không ngớt vang lên tiếng khua lốc cốc của những cái sọ người. Cô tôi, mặc dù đã cột chặt những cục bạc tín phiếu dấu kín trong người, nhưng vẫn sợ không biết bè đảng của Năm Quầng Sáu Quẳng trốn núp ở đâu! Nếu từ trong những bụi cây quỷ quái ấy nhảy ra, thì chắc là cô cháu tôi phải giao hết cái cơ nghiệp bé nhỏ cho chúng.

      Khi chúng tôi đên được chợ mía thì mặt trời đã lên khỏi ngọn tre. Chợ họp ngay trên bến sông, bán chỉ độc một mặt hàng là mía cây. Mía cột thành bó, mười hai cây là một chục. Cô Sáu tôi mua đến 50 bó, thuê một chiếc sõng theo sông Cái về nhà.

      Về bằng đường sông rất thích. Nước sông mát, mặt sông êm, chiêc sõng nhẹ nhàng trôi. Người chủ chỉ thỉnh thoảng chống sào đẩy mạnh một cái là chiêc sõng lao tới như một chiếc tàu bay giấy. Gần trưa, cô tôi đem cơm vắt ra ăn. Lần này cơm không độn, xắt từng lát ăn với muối rang, nhai thật kỹ nghe ngòn ngọt. Cơm xong, tôi nghiêng đầu xuống sông uống nước, rồi nằm trên những bó mía ngửa mặt lên trời ngắm những đám mây đủ hình thù đang thong thả bay đi.

      Sông vẫn trôi êm. Cô tôi ngồi tựa lưng vào mía như đang ngủ. Tôi nhìn những xóm làng hai bên sông. Những mái nhà thấp nhỏ chưa bị đốt lẫn trong hàng cây, những đứa bé chạy chơi trần truồng, những người đàn bà đang giặt…Tôi bỗng thấy đời sống trở nên êm dịu quá. Tôi đang được dòng sông nâng niu. Dù sao tôi cũng biết ơn mẹ tôi đã không thả tôi trên một dòng sông lạnh lẽo đầy sóng gió.

      Khi sõng về tới chân cầu, cô tôi và người chủ sõng vác mía đem lên bờ. Tôi đứng bên cầu coi mía. Ông Khứ thấy cô tôi mua một sõng mía đầy nhíu mày hỏi: đầu cơ tích trử hả? Cô tôi im lặng không trả lời.

      Sau vài chuyến đầu, cô tôi gửi tiền cho bác chủ sõng đi mua giùm. Cô tôi trở thành một bà chủ quán tuy không giàu có gì nhưng cũng tạm đủ nuôi hai cô cháu. Tôi không còn bị đói đến mờ mắt nữa.

      Nhờ có đồng ra đồng vào, cô may cho tôi một chiếc áo cổ vuông là kiểu áo mới nhất lúc bấy giờ. Khi thấy tôi xúng xính trong chiếc áo còn cứng vì hồ, cô nói: mẹ mày chắc đẹp, mày lớn lên trông cũng lịch sự trai đấy! Tôi chẳng hiểu lịch sự trai là gì, nhưng tôi thấy mặt mình đã trỗ lang beng và có mấy cái mụn dễ ghét. Mẹ tôi đẹp, tôi nghĩ thầm, sao cha tôi lại bỏ mẹ tôi để bà phải đem tôi thả xuống sông? Cha tôi là người như thế nào? Chẳng lẽ như ông Khứ? Trời ơi! Tôi không muốn nghĩ tới nữa!

      Lúc này, dân tản cư ở Tuy Phước đến che lều ở đồng cây Sanh ngày càng đông. Công cuộc bán buôn của cô tôi nhờ thế càng trở nên phát đạt. Cô tôi bán thêm kim chỉ mắm muối, lại có cả rượu lậu nữa. Cứ tưởng cuộc đời của cô cháu tôi khá lên, không ngờ một hôm ông Khứ cho dân quân đến tịch thu hết cả mía đem về trụ sở Uỷ ban vì tội đầu cơ! Mấy lít rượu bị đem đổ xuống sông cho cá uống! Cô tôi gần như trắng tay.

      Mặc dù Pháp đổ bộ lên Qui Nhơn, nhưng người ta vẫn bảo là mình đang chiến thắng. Cả chục nghìn quân Pháp bị vây ở Điên Biên Phủ chỉ chờ ngày đầu hàng. Sắp tổng phản công rồi. Giờ chuyển sang cuộc chiến đấu mới. Đây là cuộc chiến mà ông Khứ và cô Thảnh bảo là gay go và khốc liệt hơn, cuộc chiến một mất một còn giữa giai cấp vô sản và giai cấp bóc lột.

      Người ta chỉnh đốn lại hàng ngũ, rà soát lý lịch từng người một trong các đoàn thể ngay cả trong trường học. Người ta truy tận gốc từ đời ông đời cha, từ bên nội đến bên ngoại. Vì vậy trong lớp học xảy ra những cảnh tố lẫn nhau. Không còn chơi đùa phá phách như trước nữa mà bắt đầu xoi mói, bươi móc như những mụ hàng xóm nhỏ nhen. Những đứa con nhà phú nông địa chủ không dám đi học nữa. Chị Thảo cũng phải ở nhà vì cha chị là người Qui Nhơn lại làm nghề bán thuốc Bắc tức là thuộc thành phần tiểu tư sản. Mà tiểu tư sản và địa chủ là con đẻ của thực dân phong kiến. Tôi thì nghèo kiết các nhưng không phải vô sản vì nào ai biết gốc gác của cha mẹ tôi là người thế nào. Tôi vẫn còn đi học vật vờ vì nếu cho rằng nguồn gốc của tôi là do chó đẻ ra như người ta vẫn thường gọi thì quả thật cũng chẳng biễt xếp chó vào loại giai cấp nào!

      Ở trong làng, ngày trước mặc dù có chiếu trên chiếu dưới, có kẻ địa chủ phú hào, có người cùng đinh mạt hạng, nhưng nếu không tranh nhau một miếng thịt ở đình thì chẳng việc gì phải sợ ai cả. Bây giờ, cái cách xếp hạng mới này lại chia ra nhiều tầng nấc một cách hết sức chi li.

      Không có lấy một cục đất ném chó ỉa như thằng thủ ngữ Đực là cố nông. Có một rẻo vườn và một cái nhà nát là bần nông. Có thêm năm ba sào ruộng là trung nông. Mà trung nông lại chia ra bậc trên và bậc dưới, tức là cái anh tạm đủ ăn và cái anh chưa đủ ăn. Có chừng vài mẫu ruộng và đôi trâu là phú nông. Có ruộng mà phát canh thu tô tức là không làm mà vẫn dư ăn dư để là địa chủ. Nếu đă từng giữ một chức dịch nào đó như chánh tổng, lý trưởng là địa chủ ác ôn. Nhưng có công với cách mạng như ông Chánh nhạc là địa chủ tiến bộ. Tuy không niêm yết danh sách từng người một nhưng cứ theo cái khung ấy mà tự xếp mình vào. Nếu anh muốn hạ thành phần xuống một bậc thì lập tức người ta cũng lôi anh lên như một con vật đã bị đóng dấu.

      Những đêm học tập mãi tận sáng, cán bộ ra sức mổ xẻ nhồi nhét chỉ để cho cả làng dòm ngó lẫn nhau cái thành phần. Ngày trước người ta tranh nhau từng chức nhỏ như câu, biện để khỏi bị gọi bằng thằng. Bây giờ người ta cố lột bỏ những gì mà xã hội cũ vì tiền hay vì nịnh nọt đã được ban cho. Nếu ai trơ khất như thằng thủ ngữ Đực thì được trịnh trọng gọi là đồng chí bần cố nông. Ngược lại ruộng sâu trâu nái chức tước một thời như cụ cử Vân, ông tổng Bá thì bị gọi là thằng quan, thằng địa chủ. Ngoài hai cái thành phần cực cao và cực thấp không dễ ai muốn chui vào hay thoát ra, thì cái đám đông nhất, là trung nông lại kèn cựa không lúc nào yên như một đàn dê quá đông trong một cái chuồng quá hẹp.

      Người ta xỉa xói, nhà đó mà trung nông thôi à? Có ruộng có bò mà không dư ăn à? Phải đưa lên bậc trên chứ. Chỉ cần cái đàn bò ấy đẻ thêm vài lứa là có thua gì địa chủ. Các bà đi chợ thì dòm lom lom vào thúng rổ của nhau. Họ nói, cái con mẹ đó mà bần nông à? Chính mắt tôi trông thấy nó mua cả ký thịt. Ai cũng cố tìm cách hạ cái thành phần của mình xuống và đẩy thành phần của người khác lên. Tuy nhiên chẳng ai dám kình cãi chửi bới, nhất là những người thành phần trên lúc nào cũng nhín nhịn những người thành phần dưới. Đám địa chủ phú nông thì ngồi im hơi lặng tiếng để mặc cho người ta mổ xẻ cái thành phần của mình ra như bị cưa xương róc thịt ở nhà thương.

      Nếu Cách mạng là thay cũ đổi mới thì cái việc xác định thành phần là một cuộc cách mạng thật sự. Nó lay chuyển tận gốc rễ cả nền móng xã hội. Lúc này không ai vênh váo sung sướng hơn thằng thủ ngữ Đực vì nó là cố nông đến mấy đời. Người ta nói nó đã trơ khất tận từ đời ông cố nội. Không ai nhớ lúc nào nó sinh ra, chỉ thấy nó lê lết từ nhà này sang nhà nọ, bạ cái gì cũng bỏ vào miệng nhai. Nó cứ tồng ngỗng mà đi khắp nơi cho đến khi bà phó lý thấy mắc cỡ giùm. Bà thương tình ném cho nó một cái quần cũ của cậu Phú rồi bảo nó ra sông tắm rửa mà mặc vào. Nó được ông tổng Bá đem về chăn trâu nhưng chỉ được mấy hôm thì bị đuổi vì để trâu đi lạc mất. Từ đó nó chỉ còn một cách để sống là bẻ bí trộm gà. Cái việc ấy thì nó giỏi hơn chồn cáo. Ai mất của cũng nghi cho nó nhưng chưa ai bắt được nó bao giờ.

      Những buổi học tâp làm người ta sáng mắt ra. Rằng nó sống lêu bêu khổ cực cho dù có bẻ bí trộm gà cũng là do cái xã hội cũ đầy dẫy bọn tham quan ô lại cấu kết với địa chủ bóc lột tận xương tuỷ nó. Rằng cách mạng sẽ làm cho nó nên người bỡi nó là thành phần cốt cán trong sạch nhất. Ngay cả ông Khứ cũng phải học tập nó vì cái cơ ngơi bề thế của nhà ông trên ruộng dưới vườn, bò heo lúc nhúc đầy chuồng, dù có hạ cái thành phần xuống cho hợp với chức vụ của ông thì thấp nhất cũng là trung nông bậc trên. Còn cô Thảnh và cả nhà cô tuy được hai chữ tiến bộ nhưng lại đi kèm với cái tiếng địa chủ nên cũng không hơn được nó.

      Giữa lúc cái thành phần ụp xuống xóm làng một cách nặng nề ngột ngạt thì cũng có kẻ luồn lách hết sức tài tình giúp cho ông phó Ba độc diễn những màn kịch mà không sợ đụng đến chính sách. Một buổi sáng ông lại ỏn ẻn nói bằng giọng mũi và ông uốn éo thế nào không biết mà người ta tưởng như có một con rắn đang trườn ra khỏi cổ họng. Ông để một ngón tay lên má, nháy con mắt bên phải mấy cái ra cái điều mắc cỡ thẹn thùng. Rồi ông khuỵu xuống một chân chống tay trên gối lê bước như một con vịt què là ai cũng biết ông đang đóng giả con Liễu dẹo. Nó cũng như thằng thủ ngữ Đực, đúng là cố nông đến mấy đời. Nó sống lây lất với một cái mẹt đựng kim chỉ và những viên mực tím bán cho học trò. Vậy mà nó đã có chồng như một người danh giá được chính cô Thảnh hội trưởng hội Phụ nữ đứng ra chủ hôn. Chồng nó là con trai ông phó tuần, người đã cho ông Tư Kỉnh mượn hai con trâu đực giả làm xe tăng. Chính vì có cả một bầy trâu và vì chịu khó đi cày thuê cho nhiều người nên ông tậu được ruộng. Giờ ông đang nơm nớp lo sợ bị đẩy lên bậc cao hơn tức là phú nông. Ông nói gần như lạy cho thằng con ông chịu lấy con Liễu dẹo để may ra được hạ xuống cái thành phần.

      Nhưng bất ngờ đến nỗi khó tin là ngay cả ông Hương kiểm nổi tiếng yêu chó hơn cả vợ con, cũng đã tiến bộ kịp thời khi gả con gái út cho thằng thủ ngữ Đực. Thế là cái anh chàng trước đây ai cũng gọi bằng thằng một cách khinh miệt, thì từ nay đàng hoàng bước vào một ngôi nhà lá mái hai chái ba gian, được cô vợ lặng lẽ kỳ cọ cho bao nhiêu là cáu ghét, được mặc quần áo bằng đũi và ba ngày sau bữa tân hôn được ông Khứ tươi cười đên bắt tay chúc mừng.

      Tuy nhiên, trước đó nó cũng phải một phen sợ thót tim vì bị cái đám dân quân ôn dịch phá đám. Số là để cho cuộc đổi đời thực sự có ý nghĩa, ông Khứ bảo bọn họ làm cho nó một cái nhà bên cạnh trụ sở. Nhà vách đất lợp tranh. Có lẽ vì làm nhanh cho kịp ngày cưới và vì làm ẩu nên trong đêm tân hôn, một tấm vách đã ngã nhào suýt đè chết cả vợ lẫn chồng.

      Thực ra như ông Phó Ba nói, cả chục đứa tranh nhau dòm qua cái cửa sổ không có màn che đã làm cho bức vách bằng đất trộn rơm còn nhão bấy không chịu nổi sức nặng của cả lũ. Một tiếng rầm giữa đêm khuya khiến hai vợ chồng tưởng như trời sập. Cô vợ, cũng may là hãy còn mặc đủ quần áo, đã chạy như ma đuổi về phía nhà ông hương kiểm, theo sau là thằng thủ ngữ Đực vưà chạy vừa chửi lũ dân quân không tiếc lời. Ông phó Ba đã không quên diễn lại cái cảnh có một không hai ấy và dân xóm Miễu lại được một trận cười no bụng để quên đói.

      Trong những buổi học tập chuẩn bị phóng tay phát đông quần chúng, cô Thảnh là người thể hiện mối căm thù giai cấp mãnh liệt và sâu sắc nhất. Cô nói tới cảnh lấn bờ lấn ruộng của địa chủ, cảnh tá điền bị bóc lột phải bán vợ đợ con, cảnh cho vay nặng lãi cắt cổ, cảnh mùng một Tết có người tới dọn bàn thờ ông bà ông vải…Cô nói suốt từ đêm này qua đêm khác, từ chuyện của làng An Định, An Đông đến chuyện các làng trong huyện trong tỉnh, từ chuyện nước ta đến chuyện nước bạn Trung Hoa. Cô kể lại câu chuyện của Bạch Mao Nữ mà nước mắt lúc nào cũng ràn rụa. Đó là một cô gái bị chủ bóc lột hành hạ thậm tệ phải trốn vào trong hang. Lâu ngày không có ánh mặt trời nên lông tóc đều trắng. Những người đi săn đã tưởng cô là vượn bạch…suýt bắn chết đem về nấu cao!

      Có người nhẹ nhàng vặn lại, nhà cô cũng là địa chủ, trong nhà chưa ai đụng tới cái cày cây cuốc mà vẫn ăn sung mặc sướng no đủ quanh năm, thì cô lồng lộn chống chế rằng, khi đi theo Cách mạng là gia đình cô đã từ bỏ giai cấp phản động rồi, đã đứng hẳn về phía nhân dân tiến bộ. Nếu bảo vẫn còn phát canh thu tô, vẫn còn nuôi trai bạn trong nhà (người làm công) thì đó không phải là bóc lột mà tự nguyện. Tuy họ làm giúp việc cho nhà cô nhưng chính họ là những người làm chủ. Không bị ai la mắng đánh đập, ruông lúa làm ra họ được lấy trước phần mình rồi mới đến phần nhà cô. Vả lại nhà cô ai cũng làm Cách mạng nên phải có người giúp đỡ Cách mạng chớ.

      Đúng là không ai cãi được và cũng không ai dám cãi. Cái mũ Việt gian phản động sẵn sàng chụp lên đầu bất cứ ai dám chống lại. Đó là chưa nói tới cái thòng lọng “khả năng” ném vào cổ anh không biết lúc nào. Trong các vụ bình bầu về thuế nông nghiệp, nếu anh ở các thành phần bậc trên thì dù có bay lên trời hay chui xuống đất, cũng không cách gì thoát khỏi cái dây thòng lọng ấy. Như nhà ông hương kiểm, thuế được tính theo ruộng và theo khẩu là 500 ký, nhưng khả năng tức là cái nguồn lương thực tiền bạc có thể đóng là 5 tấn. Ông tổng Bá thì khả năng gần như vô tận. Khi ông Khứ hỏi: 5 tấn được chưa? Không ai trả lời thì ông nói: chưa hả? Vậy thì 10? Cũng chưa hả? 15? cũng chưa à? Thôi thì 20 cho chẵn! Có đồng ý không? Nhiều tiếng rời rạc. Ông bảo: to lên để ghi vào biên bản chứ! Thế là người ta cùng gào: Đồng ý! Có mất mát gì của mình đâu mà lo!

      Cứ tung dây thòng lọng ra như thế, rốt cuộc địa chủ phú nông phải nộp thuế cả trăm tấn trong khi cả làng thu hoạch chưa được vài chục. Từ đấy, một đội thiếu niên với thùng thiết mõ tre và phèng la kéo tới các nhà phú nông địa chủ hò hét vang trời, kêu cả tên họ ra mà chửi là ù lì, ngoan cố ! Chỉ với một trò ấy thôi cũng đủ làm cho Hương kiểm, Hương bộ, Chánh tổng, Lý trưởng phải chạy đôn chạy đáo từ họ hàng bên nội bên ngoại, từ bên nhà vợ nhà chồng cho đến người quen bất kể thân sơ, sống chết gì cũng phải đóng cho đủ. Thiếu 1 ký cũng không xong. Mà đóng đủ rồi vẫn còn sợ tái bình bầu, tức là nâng khả năng lên thêm nữa. Nói tới “khả năng” nhiều người đến tận bây giờ vẫn còn sợ run.

      Dĩ nhiên những ai là bần cố nông chẳng những đã khỏi đóng thuế mà còn góp phần đẩy khả năng của địa chủ lên tận trời. Họ chính là quyền uy của Cách mạng. Khi nói tới hai tiếng nhân dân tức là nói tới họ. Nhân dân căm thù tức là họ căm thù. Nhân dân hành động tức là họ hành động. Tùy theo từng chiến dịch phong trào mà người ta cho phép các thành phần trung nông được dự phần. Còn địa chủ và phú nông thì không.

      Phóng tay phát động quần chúng tức là liên kết các thành phần nhân dân lại để cô lập, bao vây và tiêu diệt giai cấp bóc lột. Nhà ông Tổng Bá đương nhiên là cái đích ngắm đầu tiên. Chẳng những đưa ông lên ngồi trên cái mức thuế cao chót vót mà còn tung ra tấm lưới liên quan để không một ai dám giao tiếp. Ai giúp nhà ông cày bừa, gặt hái, mua bán đổi chác, ngay cả chào hỏi cũng bị kết tội là liên quan với địa chủ. Vì vậy chẳng ai dám tới gần đến nỗi cũng không dám đi ngang trước ngõ nhà ông.

      Suốt nhiều đời ky cóp được hai mươi mẫu ruộng, ông cho những người làm rẽ ăn chia gọi là tá điền. Ngày trước bọn họ mang ơn ông. Còn bây giờ ông là kẻ thù, chẳng ai dám làm tay sai nô lệ cho ông nữa. Ông xin hiến tất cả, nhưng ông Khứ bảo của nhân dân chứ của gì ông mà hiến. Ông xin được tịch thu thì ông Khứ lại bảo chưa có lệnh, khi nào cải cách ruộng đất không cần đợi xin cũng cứ tịch! Hai mươi mẫu ruộng mà không được thuê mướn thì biết đến bao giờ mới làm xong! Mà làm không xong thì lại mang tội bỏ ruộng hoang, tức là phá hoại kinh tế, không thua gì tội Việt gian phản động. Ông như ngồi trên lửa. Chưa bao giờ ông thấy sợ ruộng đất như lúc này. Thế là ông treo cổ lên xà nhà. Nhưng cái xà như cũng sợ “liên quan” nên gãy làm đôi, ném ông rớt xuống đất. Vợ con ông chỉ sụp xuống lạy xin ông ráng sống chứ không dám khóc.

      Cũng may bà vợ ông là một người vừa gan dạ vừa mưu trí. Bà kéo cả dòng họ và cả thuê mướn những người ở Phú Phong xuống cày cấy giúp. Lúc đầu họ làm ban đêm trốn núp thụt thò vì ông Khứ cho dân quân đuổi bắt. Nhưng sau bà nhờ những người An Vinh, An Thái võ nghệ đầy mình thì ông Khứ và đám dân quân lặn mất. Nhờ vậy, hai mươi mẫu ruộng cũng đã được cày cấy xong. Nhưng cũng chỉ cứu được cái tội bỏ ruộng hoang chứ không cứu được cái tội thiếu thuế!

      Một buổi chiều, trước sân trường bình dân, nhiều anh chị dân quân ngồi đập mảnh chai trộn với đá ong, rải đầy trên hai cái vòng tròn to hơn mặt thúng. Một cái chạc tre đỡ một cái nắp vung để ngửa đựng đầy dầu với những cái tiêm bông chờ sẵn. Phía sau là cái bục cao cho chủ tịch đoàn.

      Đêm nay là đêm đầu tiên phóng tay phát động quần chúng để hỏi tội thiếu thuế của vợ chồng ông Tổng Bá. Không cần ông Tư Alô chõ miệng vào cái loa thiết mà gào, cũng không cần đánh kiểng. Ngay khi mặt trời vừa lặn là cả làng đã kéo tới đông đủ. Chỉ có trẻ con chạy giỡn lăng quăng còn người lớn thì ngồi yên lặng. Mùi thuốc lá nồng nặc. Những đóm lửa sáng lên liên tục.
      Một lúc sau vợ chồng ông tổng Bá bị đưa tới quỳ trên hai cái tấm thảm mẻ chai đã được các anh dân quân làm sẵn. Lập tức tiếng rào rào nổi lên như sóng. Người ta tưởng đêm nay hai vợ chồng ông sẽ bị giết.


      Chủ tịch đoàn gồm một anh trai cày một bà bếp và một anh thợ rèn đại diện cho giai cấp công nhân. Mọi người ồ lên chưa hết ngạc nhiên thì ông Khứ đã trịnh trọng giới thiệu:
      – Kính mời đồng chí chủ tịch của chủ tịch đoàn lên chủ toạ!

      Đầu tóc được húi ngắn gần như cạo trọc, áo bốn túi như các đồng chí Trung Quốc, thủ ngữ Đực xuất hiện trước dân làng như từ trên trời rơi xuống. Cả làng đang ngẩn ngơ thì ông Khứ hô to: Hoan hô chủ tịch đoàn và mọi người cùng thét lên hoan hô như một bầy ngựa đã được kéo dây cương. Đợi cho tiếng hoan hô lắng xuống, ông Khứ tuyên bố Toà án nhân dân được lập ra để xử tội những kẻ chống lại nhân dân. “Thưa chủ tịch của chủ tịch đoàn, ông Khứ nói, đây là hai kẻ ù lì ngoan cố. Còn những 15 tấn lúa chưa chịu đóng. Xin Toà hãy ra một bản án nghiêm khắc để chứng tỏ sức mạnh của nhân dân".

      Đồng chí thủ ngữ Đực liền hắn giọng nói như quát:
      – Thằng Tổng Bá kia, sao mày chưa chịu đóng thuế ?
      – Dạ thưa thuế cao quá đóng không nổi!

      – Hai mươi tấn mà cao à? Của cải nhà mày có cả trăm tấn. Không lúa thì vàng. Số vàng bòn rút của nhân dân từ đời ông đời cha giờ mày chôn dấu ở đâu?
      – Dạ thưa cúng hết trong Tuần lễ vàng rồi!

      – Mấy chiếc kiềng, mấy chiếc cong mà hết à?
      – Dạ thưa hết thiệt rồi!

      Đột nhiên có tiếng hô: Đả đảo địa chủ ù lì ngoan cố! Cả làng đáp lại: Đả đảo! Tiếng hô mạnh như tiếng gầm của hàng trăm con sư tử. Dường như ai cũng cố gào thật to, nhất là những người mà số phận của mình có thể sẽ bị quỳ trên đống mẻ chai như thế.

      Đồng chí thủ ngữ Đực liền ra lệnh :
      – Về nhà nó tìm vàng!

      Thế là cả làng rùng rùng kéo nhau đi.

      Nhà ông Tổng Bá trước kia to như cái đình sau khi bị Pháp đốt chỉ còn trơ lại cái mái đất. Ông lại dùng đất đắp thêm bên ngoài, chỉ chừa một cái lỗ chun ra chun vào như cái hang. Ông Khứ liền hô: Tiến lên anh em như hồi phá đình. Chính ông đập vỡ cái lỗ cho rộng ra rồi cầm đuốc chui vào trước. Ông nghi ngờ trong các bức vách bằng đât có dấu vàng và mọi người không một chút ngại ngùng liền đâp ra nát vụn. Rồi họ phá cả cái chõng tre vì nghi ngờ dấu vàng trong ruột. Tìm mãi không có gì người ta bèn cạy nhũ vàng trên các bức hoành phi! Nhưng cũng chẳng phải là vàng thật.

      Đồng chí thủ ngữ Đực liền tuyên án:
      – Không có vàng, vậy là tẩu tán hết rồi. Chính cái bọn xuống làm ruộng ở Phú Phong đã đem đi. Cái tội này là do con vợ của thằng Tổng Bá. Toà quyết định, vợ chồng nó phải nộp gấp đôi tức là 40 tấn! Được chưa? Lại một tiếng gầm: Được rồi!

      Đoàn người kéo đi bỏ lại bà Tổng Bá gào lên trong nước mắt và máu chảy ra từ hai cái đầu gối bị quỳ :
      – Trời ơi! Sao mà oan nghiệt như thế này!

      (còn tiếp)
      Last edited by KiwiTeTua; 10-27-2017, 07:36 PM.

      Comment


      • #4
        Những Tháng Năm Cuồng Nộ 9 - 13

        9. Cuộc chiến chống giai cấp bóc lột được tiến hành theo hai bước. Bước thứ nhất là đấu lý tức là hỏi tội địa chủ. Bước thứ hai là đấu lực tức là bắt chúng đền tội.

        Năm ngày sau cái đêm tìm vàng không có, người ta đem hai cái giỏ bội mạ xung quanh lót đầy gai bàn chải đến xúc hai vợ chồng ông Tổng Bá khiêng đi như khiêng heo. Vẫn hai tấm thảm mẻ chai hãy còn những giọt máu khô đang chờ đợi họ. Lại thêm có hai cái hố tròn và trên cây xoài có hai cái thòng lọng.

        Mấy cán bộ chẳng biết ở cấp nào đều mặc áo đại cán bốn túi. Hoá ra họ là những người đã giác ngộ đồng chí Thủ ngữ Đực. Họ chỉ thiếu cái mũ cát két là giống hệt các đồng chí Trung Quốc anh em. Thủ ngữ Đực vẫn được ngồi bảnh choẹ trên ghế chủ tịch đoàn. Cả chục cây đuốc được các anh dân quân đứng cầm oai vệ. Lửa cháy phập phù. Vợ chồng ông Tổng Bá như hai tội nhân ở cửa thứ mười của thập điên Diêm vương. Trong không khí nghiêm trang sặc mùi chết chóc ấy, bỗng dưng tên tôi được kêu lên:
        – Lê văn Được , Lê văn Được đâu lên sân khấu có việc cần!

        Lần đầu tiên tôi được gọi đích danh chứ không phải thằng Chó Đẻ như mọi khi. Tôi run bắn người, chẳng hiểu mình có tội gì. Tôi định chạy trốn thì có người nắm áo lôi lên. Tôi được đưa tới ngồi bên cạnh cô Thảnh và mấy cán bộ mặc áo đại cán. Mọi người há hốc miệng ra nhìn tôi, nhất là lũ trẻ con chẳng hiểu nổi vì sao một thằng phải bú sữa chó như tôi lại được ngồi bên cạnh những người mà mỗi lời nói của họ là một mệnh lệnh. Cả tôi cũng vậy, suýt đái ra quần vì sợ và kinh ngạc.

        Đêm đấu lý bắt đầu.
        Sau khi ông Khứ khúm núm xin ý kiến và được các cán bộ gật đầu, ông liền dõng dạc nói:
        – Rõ ràng là vợ chồng thằng Tổng Bá này quá ù lỳ ngoan cố. Năm ngày qua không nộp được một cân lúa. Tội của chúng mày là phải chết

        Ông ngước nhìn cái thòng lọng, mọi người hồi hộp nhìn theo tưởng chừng như có hai cái xác đang treo lủng lẳng trên đó. Đợi cho nỗi khiếp sợ ngấm sâu vào mọi người, ông Khứ lại nói tiếp:
        – Tội chết đã rõ rồi phải không, thưa nhân dân ?
        – R….õ…

        Một tiếng gầm đáp lại. Ông Khứ hả hê nói tiếp :
        – Nhưng chúng mày chưa được phép chết. Chúng mày phải trả lời những tội ác của chúng mày trước nhân dân. Xin Toà hãy cho phép những ai đã từng bị nó hành hạ, áp bức bóc lột lên hỏi tội và được quyền trả thù.

        Đồng chí Thủ ngữ Đực nói như học thuộc lòng :
        – Tòa đồng ý!

        Lập tức có người bước tới trước mặt vợ chồng Tổng Bá đang gục đầu chờ đợi. Đó là bà Năm hàng xáo (buôn gạo). Bà nói:
        – Nó ác lắm. Khi bán lúa nó biểu tôi leo lên lẫm xúc lúa. Lẫm cao quá phải leo thang. Khi tôi leo lên được thì ở dưới nó cất thang. Nó ép tôi phải mua với giá thật cao, nếu không nó kêu Chánh tuần tới bắt vì cái tội ăn trộm lúa.

        Nói xong bà phun một bãi nước trầu vào giữa mặt. Nước trầu đỏ như máu chảy ngoằn ngoèo.
        Người thứ hai là bà Dĩa. Từ trên ghế Chủ tịch đoàn bước xuống. Bà vừa nghiến răng vừa dí tay vào trán bà Tổng Bá :
        – Con mẹ này ghen đáo để. Nó nghi chồng nó lấy tui. Lúc tui đang nấu cơm, nó lấy đũa bếp nóng dí vào háng.

        – Thì bây giờ đè nó ra mà dí lại đi! Một kẻ nào đó nói xỏ xiên làm cho mọi người cùng cười ồ.

        Không khí bớt căng thẳng. Có tiếng của đồng chí Thủ ngữ Đực:
        – Tội của vợ chồng nó nhiều lắm. Chỉ có mấy chuyện vặt vãnh này thôi sao?

        Trong khi mọi người nhìn nhau chẳng biết phải kể tội lão Tổng Bá như thế nào để chứng tỏ là đã thấm nhuần chính sách, thì cô Thảnh đứng lên. Miệng cô nói: còn chớ, tay cô bất ngờ nắm lấy tay tôi dắt tới trước mặt ông tổng Bá. Cô nói:
        – Hãy mở mắt to ra mà nhìn cho kỹ. Mày có biết thằng này là thằng nào không?

        – Chó đẻ! Chó đẻ!

        Lũ trẻ con được dịp hò reo thích thú. Nhưng cô quát:
        – Nó là con của mày. Tội ác của mày sờ sờ ra đấy. Mày chối tội à? Chị Chén đâu, mời chị ra đây.

        Từ trong đám đông một người được đẩy ra. Đó là một người đàn bà chừng 40 tuổi. Bà ta thâp nhỏ và dường như nỗi sợ hãi trước đám đông làm cho bà ta loắt choắt như một đứa bé.
        – Chị biết Lê văn Được chớ?
        – Dạ biết.

        – Chính chị đẻ nó ra?
        – Dạ!

        – Tại sao chị thả nó xuống sông?
        – Dạ sợ làng bắt tội!

        – Ai là cha nó?
        – Dạ…

        – Trước nhân dân chị cứ nói đi, chẳng việc gì phải sợ
        – Dạ thưa ông Tổng Bá!

        – Sao chị lại có con với nó?
        – Dạ …

        – Sao?
        – Dạ bị hiếp!

        Vậy đó! Ai mà ngờ được ông Tổng Bá là cha tôi và cái bà Chén em bà Dĩa kia lại là mẹ tôi! Cả làng như hoá câm trước cái sự thực quá bất ngờ. Người ta hết nhìn tôi đến nhìn ông Tổng Bá rồi nhìn bà Chén. Nhiều người lắc đầu nghiêng tai nói thầm với nhau. Trước sự im lặng đầy ngờ vực ông Khứ lại gào lên :
        – Đả đảo địa chủ! Và cả làng như nhảy dựng lên cùng hô: Đả đảo! Đả đảo!

        Như thế ngoài cái tội trốn thuế, ông Tổng Bá còn thêm cái tội hãm hiếp. Ông Tổng Bá thề có trời đất chứng giám, ông không làm cái chuyện bậy bạ ấy. Nhưng cũng như cái khả năng về thuế nông nghiệp, người ta bảo ông có tội là phải có tội. Có điều cái tội của ông không phải là tội dâm ô ác đức như người ta thường nói mà là xúc phạm đến giai cấp đáng kính của bần cố nông. Bỡi vì hai chị em bà Dĩa chỉ có một cái nhà nhỏ như lỗ mũi và cả đời chỉ thay nhau làm bếp cho nhà ông.

        Ngay khi biết được cái mầm sống của giai cấp bị bóc lột suýt bị chết đói nếu không có một con chó cái hy sinh lũ con để cứu sống, các vị cán bộ mặc áo đại cán đang ngồi lơ mơ vặt lông mũi bỗng vây lấy tôi rồi nâng lên khỏi đầu, hét lên như bắt được vàng:
        – Hoan hô giai cấp vô sản!
        – Hoan hô em bé dũng cảm!
        – Đả đảo địa chủ gian ác!

        Nhưng cô Sáu tôi bất ngờ từ trong đám đông lao ra như con chó cái của nhà ông Hương bộ. Cô nói như ra lệnh:
        – Thả nó ra! Chính nó là con tôi!

        Cùng lúc cô tát như té nước vào mặt bà Chén. Cô gào lên:
        – Mày là đồ rắn rít! Đồ cứt đái!

        Chưa bao giờ tôi thấy cô hung dữ như lúc ấy. Ngay cả khi ông Khứ cho dân quân đến tịch thu mía, cô cũng không quyết liệt đến như vậy.

        Cái màn đấu tố ông Tổng Bá coi như bị bể dĩa. Cái mũ “hiếp dâm“ mà người ta định chụp lên đầu ông đã bị cô Sáu tôi lật ra ném xuống đất. Người ta liền dựng lên một màn khác. Lần này là cụ Cử Vân. Cụ là người thực sự danh giá vì cụ đã đậu Cử nhân, đã từng làm quan. Nhưng người ta bảo cái danh giá đó chính là tội ác. Tội của cụ là làm tay sai cho giặc và cho cả phong kiến.

        Lần này là đấu lực. Đó là một đêm tháng Mười Một. Trời lạnh như cắt. Mưa lay bay nên càng lạnh thêm. Người ta không bỏ cụ vào bội mạ nhét đầy gai như vợ chồng ông Tổng Bá mà để một người nắm chòm râu bạc dài tới ngực của cụ lôi đi như lôi một con trâu đã xỏ mũi. Đường đất trơn trượt, mấy lần cụ té ngã, nhưng không ai dám nâng dậy. Chẳng những thế ông Khứ còn kéo ngược cụ lên như nhổ một bụi mì.

        Ra tới sông, người ta nhét cụ vào giỏ, từ trên cầu thả xuống nước. Đợi nước ngập tới cổ người ta kéo lên. Rồi lại thả xuống. Lại kéo lên. Cứ thế có đến chục lần. Trong ánh đuốc lập loè và trong gió bấc hun hút, cụ run lên bần bật giống như mấy con chó trong trận đại sát cẩu.

        Rồi người ta lôi cụ ra khỏi giỏ. Cái quần sũng nước đứt dây tuột xuống. Cụ xấu hổ đưa tay định kéo lên nhưng một gã dân quân liền xỏ cây gậy vào giữa, nên cụ đành gục đầu mà đứng trần truồng trong tiếng cười ầm ĩ của bọn trẻ con. Thực khác xa với cảnh đăng khoa ngày nào. Sau khi nhận áo mũ của vua ban, cụ được hai hàng cờ lọng rước về làng trong tiếng trống nhạc tưng bừng. Giờ cụ bị điệu về không có lấy một miếng vải để che những chỗ đáng che, run rẩy bước đi giữa hai hàng gậy gộc của đám dân quân và giữa tiếng thét gào đả đảo.

        Về đến nhà, cụ bị bắt quỳ giữa sân. Người ta hỏi trong bao nhiêu năm làm quan vơ vét của cải để ở đâu. Cụ không nói được và người ta cũng chẳng thèm nghe cụ nói, liền xông vào nhà. Ngưòi ta lục tung gối mền, đập vỡ các chậu cây cảnh, xé nát những cuốn sách mà cụ quý còn hơn vàng. Ngưòi ta lục lọi gần như suốt đêm thỉnh thoảng lại đến nắm chòm râu của cụ giựt ngược lên hỏi để đâu? Khi dã chán chê định bỏ về, thấy cụ nằm còng queo trên đất, ông Khứ liền đá một cái vào cái mông teo tốp, cụ vẫn nằm im. Ông ta lại nắm râu lôi dậy nhưng cụ vẫn quặt quẹo như bún. Lúc ấy người ta mới biết là cụ đã chết tự bao giờ!


        Thế đấy, hết những đêm đấu lý là những đêm đấu lực. Sẽ không còn chửi rủa hỏi tới hỏi lui mà là đấm, là đá, là thoi, là đạp, là nện vào lưng vào đầu những gốc tre chẻ làm tư như cọc phòng không. Mỗi làng không chỉ một đứa mà hết đứa này đến đứa khác. Hết địa chủ thì đôn phú nông lên. Hết phú nông thì đôn trung nông bậc trên. Triệt hạ tất như xén hàng rào. Khi đó xã hội sẽ công bằng vì chỉ còn một giai cấp duy nhất là quần chúng lao động. Y như một sân đá bóng, chỉ trồng một thứ cỏ duy nhất và luôn luôn được cắt xén cẩn thận. Người ta tính ra trong làng có đến vài chục người. Thế là đạt và vượt chỉ tiêu!

        Nhưng bỗng có lệnh: Dừng!
        Chẳng phải vì thương địa chủ mà vì tập kết.

        Đúng như ông Khứ và cô Thảnh nói, ta đã hoàn toàn chiến thắng. Cái chiến dịch Điên Biên Phủ xa xôi ở tận miền Bắc đã kết thúc trong thắng lợi. Thằng Pháp và Mỹ đã phải ngồi vào bàn hội nghị Giơneo và đã phải chia cho ta một nửa nước. Có điều cái phần được chia nằm ở phía bên kia sông Bến Hải nên bộ đội và cán bộ phải tập kết ra Bắc. Dĩ nhiên là tạm thời thôi vì hai năm sau có bầu cử và ta nhất định sẽ bầu cho cụ Hồ, tức là nhất định thắng!

        Thế là người ta xoay ra dỗ dành. Nào là tuy hai năm nhưng chỉ có 14 tháng. Cán bộ đi rồi cán bộ sẽ về. Vì vậy phải kiên định lập trường. Không được mềm yếu ngã theo giặc. Không nộp thuế. Không đi lính. Không họp chợ. Không đi học. Khác hẳn với những đêm học tập phóng tay phát động quần chúng để đấu tố, cả ông Khứ và cô Thảnh đều ăn nói nhỏ nhẹ dịu dàng. Các vị lại ân cần trả lời những câu hỏi xóc họng mà trước đây dẫu có cho vàng cũng không dám. Chẳng hạn: Ai được đi? Ai phải ở lại? Tại sao được đi và tai sao phải ở lại? Hoặc là: thằng Tây có súng ngắn súng dài, có xe tăng đại bác còn nhân dân chỉ trơ khất có mỗi hàm răng… thì làm sao đấu tranh? Đấu tranh như thế thì biết tránh đâu!

        Cả làng ai cũng cười vì ông Phó Ba chêm vào một tiếng nói lái. Nhưng sau đó ai cũng hoang mang lo sợ. Suốt chín năm đả đảo, đánh trộm đánh lén. Giờ phải chường mặt ra với thằng Pháp thì biết sống làm sao đây? ai cũng mệt mỏi bơ phờ. Các anh dân quân ném gậy vào bếp làm củi đun. Cái loa thiết ông Tư Alô chẳng hơi sức đâu mà chỏ miệng vào. Ông Phó Ba nói, tình trạng này giống như một đứa con gái lỡ dại, bụng đã phễnh ra rồi mà cái thằng xỏ lá quất ngựa chạy mất.

        Nhà ông chánh nhạc tức cụ Bầu Kiên là một nhà Cách mạng nên được đi cả nhà ngay cả thằng cu Thắng mới sinh. Mấy con dê không thể đem theo được thì giết thịt cho cả xóm coi như đãi một bữa cuối cùng. Ông Khứ được đem theo đứa con 10 tuổi, nhưng bà vợ phải ở lại vì cái bụng mang thai lặc lè. Bà vợ ông sợ xanh mặt mỗi khi nghĩ tới cái cảnh Tây nó thọc dao vào bụng lôi đứa nhỏ ra ngoài.

        Nhưng tội nghiệp và buồn cười nhất là các vị đã được mời lên ngồi trên ghế chủ tịch đoàn. Ông phó Ba nói rõ ràng là ngồi chưa nóng cái đít chớ có lâu la gì mà giờ đây cũng phải són đái trong quần. Đồng chí thủ ngữ Đực dớn dác chạy đôn chạy đáo, quắn quít như chó lạc mất chủ. Gặp ông Khứ hỏi :
        – Sao tôi không được đi?
        – Trên bảo ở lại

        – Trên là ai?
        – Là cấp trên chứ là ai

        – Đ … mẹ mấy thằng cấp trên!

        Gặp cô Thảnh cũng hỏi :
        – Sao dồng chí được đi mà tôi không được đi?
        – Đồng chí phải ở lại.

        – Để Tây nó cắt cổ à!
        – Có nhân dân sợ gì!

        – Đ … mẹ, tao đái vào cái nhân dân đó!

        Còn hai chị em bà Dĩa thì thẫn thờ ngồi ôm nhau mà khóc. Hai bà không sợ thằng Pháp mà sợ vợ chồng ông tổng Bá. Ước gì chui được xuống đất!

        Không còn ông Khứ. Không còn cô Thảnh. Không học tập. Không biểu tình. Không hoan hô đả đảo… quang cảnh trong làng buồn như cái bến sông lúc cô tôi sống một mình.

        Sau những năm tháng làm quần quật, nào đào hầm vót chông, nào bắt sâu diệt chuột, nào dân công tải đạn, nào chống cái này diệt cái kia…Giờ người ta lại không biết việc gì làm cho hết ngày. Đàn ông sáng ra đồng rảo một vòng rồi xách cuốc về nhà vun mấy cái gốc mì sau đó lên võng nằm thở ra. Đàn bà sau bữa cơm khoai nhiều hơn gạo lại ngồi bắt chí cho nhau. Thỉnh thoảng đưa con chí đực lên miệng cắn nghe cái cốc. Đứa nhỏ lê la sau lưng kéo cái vú teo nhách dài thòng của mẹ ra, cố kiếm vài giọt sữa.

        Ai cũng lóng ngóng lờ khờ, tóc xơ xơ, mặt tai tái, mắt vàng vàng. Cả làng như một dàn bò ngần ấy năm bị đét vào đít, chạy và chạy mịt mù nhưng vẫn không tìm ta đồng cỏ. Tối đến không nhà nào đỏ đèn ngay cả những nhà tạm gọi là giàu. Người ta thu mình trong bóng tối như những con vật bé nhỏ thu mình trong hang. Giặc Pháp chưa tới nhưng cái bóng hung ác của nó được ông Khứ và cô Thảnh tô đậm suốt chín năm làm cho mọi người ai cũng khiếp sợ. Giống như những đứa trẻ bị dụ vào rừng rồi bỏ mặc, một tiếng động nhỏ trong đêm tối cũng làm cho chúng khóc thét lên.

        Những cành tre kẽo kẹt cọ vào nhau nghe như tiếng xích sắt của xe tăng. Gió hất cái vạt áo trên bụng, ai đó trrong đêm giật mình rú lên, cứ tưởng là bàn tay lông lá của giặc chạm vào. Không biết khi một tử tội chìa cái cổ ra chờ cái lưỡi dao có giống như những đêm ở làng lúc này không?
        Đợi chờ! Đợi chờ! Đâu có phảỉ chỉ mấy trăm dân ở An Định mà còn cả triệu người của bốn tình Nam, Ngãi, Bình, Phú đếu sống trong thấp thỏm hãi hùng. Trong khi đó, ông Khứ và cô Thảnh cùng những đứa con ưu tú của Cách mạng đang đứng trên boong tàu Ba Lan thở phào nhẹ nhõm.

        10. Dù có hồi hộp lo sợ đến mấy thì cái ngày tiếp thu không mong đợi ấy cũng tới. Nhưng chẳng có Tây trắng Tây đen, chẳng có súng ngắn súng dài. Cũng không có đốt nhà hãm hiếp như ông Khứ và cô Thảnh nói. Chỉ có độc một cây cơ màu vàng ba sọc đỏ ai đó lặng lẽ đem cắm trước Uỷ ban. Mấy ngày sau cũng chính ông Tư Alô chõ miệng vào loa mời đồng bào đi dự mit ting mừng Ngô Thủ Tướng.

        Lại thấy những chiếc áo dài đen lâu nay cất kỹ được các ông hương bộ, hương kiểm, chánh phó lý rụt rè đem ra mặc. Ông Phó Ba không còn hài hước chọc cười thiên hạ nữa mà cố tình làm mặt nghiêm tuyên bố: Bảo Đại vẫn còn làm vua và Ngô chí sĩ sẽ thay ngài lo việc nước. Còn ông, cái nhiệm vụ đầu tiên là cầu đảo cho cả làng được bình yên sau cái vụ cướp chính quyền của Việt Minh Cộng Sản.

        Ông bèn cho những người mới hôm nào là dân quân du kích dọn dẹp sân đình và đến nhà ông Khứ đòi lại cái án thờ. Đây là cái án được các thợ Bắc chạm trổ rất tinh xảo mà trước đây làng đã phải mua đến mấy trăm bạc. Ông Khứ, hồi đó, sau khi đã hất các bài vị xuống đất, liền âm thầm đem về nhà mình để các vị thần bá láp kia không còn chỗ mà về nữa. Bây giờ người ta mới biết rằng ông tuy không tin có thần thánh gì nhưng vẫn tin có ông bà tổ tiên và cái việc mời các cụ về ngồi lên cái chỗ sang trọng như thế là một việc làm chính đáng.

        Đã mấy đời làm nghề phù thuỷ, cho nên việc cúng tế tẩy trừ đối với ông phó dù bị ngăn cấm trong suốt chín năm vẫn rất quen thuộc. Không biết tự bao giờ và đặt ai làm, người ta thấy hai hình nhân, một nam và một nữ được ông đem đặt bên cạnh cái án thờ. Hình nhân nam mặt mày bậm trợn, mồm lún phún râu, còn hình nhân nữ thì má phấn môi son nhưng hai hàng chân mày xếch ngược, mắt trắng dã trông rất dễ sợ.

        Ông Tổng Bá mặc áo thụng xanh đứng ra làm chủ tế. Sau khi khấn một tràng dài, ông lạy ba lạy rồi nhường quyền trừ ma tróc quỷ cho ông Phó Ba, nay được gọi là trưởng thôn. Ông phó Ba liền vung tay bắt quyết, miệng đọc thần chú, rồi lấy roi dâu đánh lên mình mỗi hình nhân mười roi. Lần đầu tiên tôi được nghe những tiếng lạ lùng: An mani á dư hồng! An mani á dư hồng! được lập đi lập lại mãi. Sau đó người ta đem hai hình nhân bỏ vào bè chuối thả xuống sông, coi như đã xua đuổi hết tà ma ra khỏi làng! Cô Sáu bảo hai cái hình nhân đó là ông Khứ và cô Thảnh.
        Như vậy thằng địa chủ Bá lại được thưa gửi bằng ông, đồng chí thủ ngữ Đực lại bị gọi bằng thằng. Mọi sự lại như cũ!

        Lúc này những ai có thân nhân ở Nha Trang hay Sài Gòn lại khá lên như một con bệnh vừa được cứu sống và cho uống thuốc bổ. Chỉ cần đi vào đó một bận là khi trở về có cả đồng hồ, xe đạp. Thằng Khánh được bịt cả răng vàng, lúc nào cười cũng sáng lên như có chớp.

        Vì được miễn thuế, nên những nhà nhiều ruộng chỉ trong một vụ mùa là lúa đã đầy nhà. Hai mươi mẫu ruộng đã từng làm cho ông Tổng Bá chết dở sống dở, giờ lại mạnh mẽ nâng ông dậy. Những kẻ trước đây không thèm làm nô lệ cho ông giờ rón ra rón rén đến xin được làm rẽ. Người ta bảo thà làm nô lệ mà có hột cơm ăn, còn hơn làm chủ mà bữa nào cũng phải húp bột mì vừa chua vừa loãng như nước mũi! Cũng có người lo sợ rằng hai cái hình nhân mà ông phù thủy Ba làm phép đẩy ra biển kia biết có linh nghiệm hay không. Chỉ mười mấy tháng nữa thôi hai cái hình nhân ấy mà sống lại thì ông Tổng Bá sẽ bị đập chết và những người có liên quan thì biết sống ở đâu!

        Nhưng mà thôi, sống được ngày nào thì cứ sống. Trước đây phải dấu đút ăn trộm ăn lén, giờ đây muốn ăn gì cứ ăn, muốn mặc gì cứ mặc, muốn mua gì cứ mua! Và thực là lạ lùng, cái thứ mà mọi người rất muốn mua lại là chó! Những con mực, những con vàng, những con vện, những con đốm… chúng mày ở đâu? Cái cơn nhớ ấy bùng lên dữ dội khi thằng Hậu con ông Hương mục (coi việc chăn nuôi trâu bò trong làng) đem về từ Sài Gòn hai con chó Nhựt một đực một cái. Người ta kéo đến xem vòng trong vòng ngoài còn hơn cả xem Sơn Đông mãi võ. Nhiều người tranh nhau mua. Ông Hương kiểm đã phải mất một cặp gà và 300 ký lúa mới đổi được. Thấy quá hời, thằng Hậu lại đi vào Sài Gòn và trở thành một anh buôn chó có tiếng. Một năm sau nó sắm được xe, cất được nhà, cưới được vợ mặc dù mang cái tên khó nghe là Hậu chó.

        Như thế trong làng có hai đứa nhờ chó mà sống được và ăn nên làm ra. Nó là chủ trại nuôi, bán chó còn tôi thì làm công. Những con chó nó đem về từ miền Nam không phải xinh xẻo như hai con chó Nhựt, mà là những con ốm đói, ghẻ lở, lẽ ra phải chui vào nồi rựa mận. Con nào cũng nằm buồn rầu ủ ê không buồn sủa lấy một tiếng. Công việc của tôi là đem ra sông tắm rửa từng con một, rồi ve uốt dỗ dành để nó chịu ăn. Đối với ai khác thì đó là một công việc hết sức dơ bẩn và cực nhọc. Nhưng với tôi lại là một niềm vui. Dường như cái dòng sữa chó trong tôi đang thức dậy và lũ chó cũng nhận ra rằng, tôi với chúng cũng là đồng loại chỉ khác là biết nói tiếng người.
        Lũ chó được tôi chăm sóc chẳng mấy chốc đã trở nên phổng phao xinh đẹp. Chúng lại còn biết làm vài trò đơn giản như đứng hai chân sau, co hai chân trước như một đứa trẻ biết vòng tay để chào mừng. Cái việc đưa một chân ra để bông dua thì dễ quá, chỉ một vài miếng thịt mỡ là tập được ngay. Nhìn lũ chó sởn sơ béo tốt, thằng Hậu đã phải khen: Mày đúng là thằng chó đẻ, giỏi thiệt!

        Tuy nhiên cái công việc bán chó ấy cũng không phát được lâu. Chỉ một năm sau là nhà nào cũng có chó. Những con chó cái đã đẻ ra hàng loạt con chó con. Người ta không mua nữa mà là xin, cùng lắm thì đổi một con gà. Đó là chưa kể cái nguồn chó trong Nam đã bị những người Bắc di cư tóm vào các quán thịt cầy mọc lên nhan nhản. Thằng Hậu dẹp trại nuôi chó xoay ra nuôi gà đá. Cái món này thì nó không cho tôi đụng vào. Nó bảo, cái máu chó của mày làm cho lũ gà chạy biến. Vào độ mà chạy là có nước bán nhà!

        Lúc này tôi mười bảy tuổi. Đêm nằm trở giấc đã muốn ôm một ai đó vào lòng. Những khi ngồi trước gương cho thợ cắt tóc, tôi lại nhớ tới lời cô Sáu “trông mày cũng lịch sự trai “. Tôi chỉ mỉm cười một mình vì ngoài chị Thảo chưa có ai thèm nắm lấy tay tôi. Nhớ lại hồi cả làng đêm nào cũng kéo nhau ra sân đình tập nhảy Xôn-đố-mì, một điệu nhảy của Trung Quốc anh em. Cứ một trai một gái đâu mặt vào nhau, hết đá chân phải lại đá chân trái, điệu nhảy mà ông phó Ba gọi là Tao-đá-mày. Đưá nào cũng bắt được cặp chỉ có tôi là không. Tụi con gái chẳng đứa nào chịu. Chúng nó bảo tôi hôi mùi chó! Bây giờ làm cái nghề nuôi dạy chó, chắc không khi nào tôi lấy được vợ!

        Cái ông vua Bảo Đại có lẽ là ông vua bấp bênh nhất trong lịch sử. Năm bốn lăm, khi trao ấn kiếm cho Cách mạng, ông nói cứng “thà làm dân của một nước độc lập, còn hơn làm vua của một nước nô lệ“. Thế rồi nghe đâu công dân Vĩnh Thụy trốn qua Pháp và lại làm vua nước Nam tại Pháp. Những năm ấy nghe nói ông chỉ đi săn và đi nhảy đầm. Mọi việc trong nước đã có Thủ tướng lo. Chẳng biết ông Ngô Đình Diệm làm thế nào mà bỗng dưng được suy tôn lên làm Tổng thống, còn ông bị truất phế rơi xuống làm dân. Cuộc đời như thế người ta gọi là lên voi xuống chó.

        Để mừng Quốc Khánh và suy tôn Tổng thống, người ta bày ra cái cảnh lần đầu tiên thi xe hoa. Mỗi thôn một xe cùng thi tài ở sân vận động của xã. Các vị chức sắc ở thôn An Định vò đầu bức tóc nghĩ mãi mới ra được cái xe hoa như thế này. Hai cái xe đạp tháo ghiđông để có bốn bánh xe. Một cái khung hình chữ nhật bọc vải trắng vẽ những cảnh sơn thuỷ và mai lan cúc trúc. Trên cao là cái tháp nhỏ có hình Ngô tổng thống mặc quốc phục khăn đóng áo dài. Chung quanh kết cờ ba sọc, tối đến có đèn chớp nháy. Vậy là đẹp, là có ý nghĩa. Nhưng xe đạp đâu có chạy được nếu không có người đạp. Chẳng lẽ cho thanh niên chạy trước kéo hay đi sau đẩy? luộm thuộm quá coi không được. Các vị cãi nhau suốt.

        Đang lúc lúc lúng túng không biết cho xe chạy bằng cách nào thì ông hương kiểm bỗng nói: sao không cho chó kéo? Mọi người ngớ ra một lúc rồi cùng ồ lên: Phải! Phải! Để chó kéo coi ngộ à! nhưng một con kéo sao nổi mà nhiều con chạy loạn xạ thì ngã mẹ nó chiếc xe còn gì!

        Rốt cuộc, người ta lại nhớ đến tôi, rằng chỉ có tôi với cái miệng từng ngậm vú chó mới có thể dạy được chúng kéo cái xe để giật giải. Dĩ nhiên là tôi không chối từ cái vinh dự có một không hai ấy. Tám con chó đực béo tốt nhất làng đã được chọn. Chúng là những con chó đã được tôi chăm sóc ở trại thằng Hậu ngày nào, nên khi gặp lại tôi chúng rít lên ư ử, ngoáy tít đuôi mừng rỡ. Cứ tưởng cái việc tập chạy thành hàng chỉ một buổi là xong. Không ngờ, người và chó cùng mệt phờ ra mà chẳng tập được gì. Chẳng con nào chịu con nào. Chúng cứ gầm gừ suốt, sểnh ra là chúng cắn nhau!

        Đã ba ngày rồi mà chúng vẫn cứ ăng ẳng sủa nhặng cả lên. Cho mấy đứa nhỏ cầm gậy lùa vào hàng, chúng lại càng lộn xộn. Cứ cái nước này thì đành phải cho bò mà kéo như bên Trung Lương. Nhưng rất may, có thằng Hậu đến xem và mách nước. Nó nói: Bây giờ tao thấy mày cũng ngu như chó! Có đến Tết mày cũng chẳng dạy được nó chạy thành hàng. Lũ chó đực với nhau mà mày không biết à? Chúng cắn nhau miết. Hãy kiếm bốn con chó cái tới đây. Cứ một đực một cái cặp với nhau, tao bảo đảm với mày là chạy tới chỗ nào cũng được.

        Thằng Hậu đúng là Hậu chó. Bốn con chó cái đến là bốn con chó đực trở nên ngoan hiền dễ bảo. Chỉ nội trong ngày hôm sau là đã có thể kéo chiếc xe không chạy khắp làng.

        Ngày Quốc khánh đến. Bảy chiếc xe hoa đủ kiểu và đủ màu sắc của bảy thôn làm cho buổi lễ đông vui hơn bao giờ hết. Thôn Trung Lương, ý chừng lấy câu “dĩ nông vi bản” nên đem cả một cỗ xe bò với mấy chàng nông dân mặc quần áo bà ba đen vác cuốc và mấy cô thôn nữ đánh má hồng tô môi đỏ tay cầm liềm. Các cô nàng mắc cỡ thẹn đỏ mặt, nhưng mắt vẫn long lanh vì biết rằng có nhiều người đang nhìn mình. Thế nào sau cái lễ này cũng được nhiều người đi hỏi làm vợ. Thôn An Dân, một chiếc ghe với những tay chèo đang hò bá trạo. Thôn Kim Bình với hai con rồng chầu cái mặt nguyệt ở giữa có ảnh Tổng thống. Thôn Kim Đức là một chiếc máy bay có hai phi công đi chân đất. Bọn trẻ con tinh quái núp dưới hai cánh lẩy roi quất vào hai chân khiến máy bay nghiêng ngửa như sắp thả bom. Nhưng lạ nhất, vui nhất là thôn An Định với tám con chó vừa đực vừa cái đeo luc lạc kêu rỏn rẻng. Đi đầu là tôi được ông Hồng lính Tây cho đội mũ kêpi mặc áo đeo ngù vàng, hông đeo kiếm giả cứ như sĩ quan của trường võ bị nào đó bên Pháp. Làng An định được hoan hô nhiệt liệt. Người ta suýt giẫm đạp lên nhau vì chen lấn để xem cho rõ. Khi giải nhất được trao cho làng thì tôi một lần nữa lại được các vị chức sắc công kênh như các vị cán bộ ngày nào.

        Nhưng có lẽ vì ganh ghét, một ai đó đã mách lẻo với ngài quận trưởng rằng, để chó kéo xe có hình Tổng thống là phạm thượng! Các vị chức sắc chưa kịp uống rượu mừng đã phải hớt hơ hớt hải kéo nhau lên quận để giải bày với ngài cái lòng trung thành khuyển mã của họ đối với Tổng thống. Ông phó Ba cho dù có tài trừ ma bắt quỷ cũng đành phải uốn lưỡi đến bảy lần và đi bằng hai đầu gối mới gỡ được cái tội đáng chém. Quận trưởng là một người Huế. Ngài nói: răng mà dỡn mặt rựa ? Thôi tha cho, cậu Cẩn mà biết được thì chẳng còn chỗ mà đội mũ mô! Sau này người ta nói, ngài quận trưởng sợ chính cái đầu của ngài chứ không phải đầu của ông thôn trưởng.

        Sau cái lần chết hụt ấy, ông Phó Ba giờ là thôn trưởng thề rằng chẳng dại gì bày ra cái trò ngu ngốc như vừa rồi. Ông thì sợ cụp râu, nhưng tôi có lẽ mặt đang vênh lên vì trong bộ đồ sĩ quan giả ấy, tôi được mọi người xuýt xoa khen đẹp. Cô Sáu tôi rất hảnh diện. Trong cái tết năm ấy, bên cạnh những luống cải đầy hoa, bà vừa nói vừa cười: sắp đi hỏi vợ được rồi đấy, con à!
        Nhưng, Khi Ngô Đình Diệm đã chắc ngôi Tổng Thống thì cũng là lúc chiến dịch “TỐ CỘNG “ bắt đầu. Trước tiên, ngài nhổ toẹt vào cái hiệp định Giơneo. Ngài bảo ngài không ký nên chẳng việc gì phải thi hành. Ngoài kia Cọng sản muốn làm gì thì mặc Cọng sản. Miền Nam là của ngài, gốc rễ của nó còn là ngài nhổ sạch.

        Lại rầm rập những cuộc biểu tình hoan hô Ngô Tổng Thống và đả đảo Cọng sản. Lại những đêm học tập mà ông Khứ và cô Thảnh được nhắc tới như những tên Việt gian ôm chân Tầu cộng. Thằng Thủ ngữ Đực và hai chị em bà Dĩa bị điệu ra trước đình y như vợ chồng ông Tổng Bá và cụ Cử Vân. Tôi cũng bị lôi ra như là tòng phạm. Bọn tôi bị trói giật cánh khủyu, đem lên quận.
        Chúng tôi bị quẳng vào nhà giam đã chật cứng người. Chưa bao giờ tôi phải chịu cái cảnh hôi thối ngột ngạt như lúc này. Mùi cứt đái, mùi đờm dãi, mùi hơi người dai dẳng và đặc quánh. Chỉ vài phút sau là tôi nghe da thịt mình cũng hôi hám y như họ. Cả bọn hệt như những con chó mà thằng Hậu đã mua về. Chúng tôi nằm vật lên nhau, chẳng một ai lên tiếng thở than. Nỗi sợ hãi to lớn đã bóp nghẹt cổ họng mọi người.

        Sáng hôm sau người ta lùa chúng tôi ra sân để hỏi tên tuổi quê quán. Tuy ngồi trong nắng, nhưng được hít thở khí trời, nên dù sợ xanh mặt nhưng xem ra cũng còn có chút tươi tỉnh để mà thưa gửi, chứ không đến nỗi phải đái trong quần. Người ta lùa đàn ông một bên, đàn bà một bên. Giữa, lúc nào cũng có người cầm súng sẵn sàng nhả đạn. Bốn góc là bốn cây tiểu liên và tám con mắt đăm đăm. Một buổi sáng dài lê thê với những tiếng quát nạt, tiếng chửi thề xen lẫn tiếng dạ run rẩy. Nắng lên cao, nhiều người vừa đói vừa sợ gục xuống. “Đù mẹ, giả chết hả? Con kia tên gì? Thằng kia tên gì? Xong rồi! Qua bên kia. Đù mẹ, Cộng sản gì nhiều quá! “
        Đến lượt tôi người ta hỏi
        – Tên gì?
        – Dạ Lê Văn Được

        – Cha?
        – Dạ không biết.

        – Mẹ?
        – Dạ cũng không!

        – Thằng này ngộ, ở dưới đất chui lên à?
        – Dạ ở dưới sông!

        – Bộ muốn giỡn mặt tao hả?
        – Dạ bị thả trôi sông!

        – Ai thả?
        – Dạ không biết!

        Đến lúc này người ta đá tôi một cái.
        – Đù mẹ, cái gì cũng không biết mà biết theo Cộng sản!

        Đến lượt bà Dĩa.
        – À, con mụ này, có phải mẹ thằng nhỏ kia không?
        – Dạ không

        – Tên gì ?
        – Dạ Lê thị Dĩa.

        – Em là Chén hả ?
        – Dạ

        – A, chén dĩa mà cũng biết làm Cộng sản, ngộ quá hén.

        Đến lượt Thủ ngữ Đực.
        – Thằng này coi bộ giống Cộng sản quá. Đù mẹ, tên gì ?
        – Đực.

        – Cái gì Đực?
        – Thủ ngữ.

        – Thủ ngữ là cái quái gì?
        – Không biết

        – Thế ai đặt tên cho mày?
        – Không biết

        – Con hoang hả?
        – Ừ!

        – Mày không biết nói dạ à?
        – Ừ!

        – Mày theo Cọng sản từ bao giờ?
        – Không theo Cọng sản. Chỉ theo lão Khứ và con mụ Thảnh.

        – Thằng đó con đó ở đâu?
        – Ở ngoài Bắc

        – Đi tập kết rồi hả?
        – Ừ!

        – Sao mày không đi?
        – Tụi nó không cho đi.

        – Vậy theo tụi nó làm gì?
        – Để được chia nhà chia ruộng.

        – Ngon hả, được mấy cái?
        – Không có cái nào.

        – Vậy còn theo nữa không?
        – Chửi cha nó chớ theo.

        – Ừ, thằng này nói nghe được đó. Cho mày điếu thuốc đây.

        Nó cầm lấy điếu thuốc ngửa mặt lên trời hít lấy hít để. Thế là nó tưởng sắp được tha, mặt đã bắt đầu vênh lên. Nhưng nhiều ngày sau, nó vẫn bị giam, ăn ngủ lẫn lộn cùng với cứt đái. Lại thêm nỗi nhớ vợ khiến nó nổi điên la hét suốt đêm. Người ta lôi cổ nó ra đánh cho mấy bạt tai. Nó liền đánh lại. Người ta tộng nó vào thùng tônô đem phơi nắng. Nó ú ớ ít lâu rồi im bặt. Ai cũng tưởng nó chết khô trong đó. Nhưng tối đến, cái thùng sắt lạnh làm cho nó tỉnh lại. Nghe nó thều thào xin nước, một người lính đùa dai bảo không có nước chỉ có rượu thôi uống không? Nó nói, thiệt hả? Đúng là Quốc gia chơi ngon hơn Cộng sản. Câu chuyện của nó cứ như chuyện tiếu lâm, ở cái nhà tù này ai cũng biết.

        Tiếp theo là những ngày dài tơi tả, những đêm dài bần dập vì bị tra khảo. Những đá, những đạp, những thụi, những bịch, những tiếng thét chói tai, những tiếng kêu ằng ặc không lúc nào ngớt ở phòng bên cạnh. Người nào bị gọi cũng cúm rúm co ro.

        Không một ai ưỡn ngực hiên ngang trước quân thù như cô Thảnh và ông Khứ thường bảo. Đến khi thả về người nào cũng máu me xệch xạc. Những ai chưa bị gọi, tuy thể xác còn lành lặn, nhưng tinh thần đã bị tra khảo tàn tạ. Mỗi cú đá cú đạp ở sát vách bên kia cứ dội thẳng vào đầu, vào ngực của những người đang chờ đợi trong tuyệt vọng ở phía bên này. Thà bị đánh chết giấc mê man không biết gì, chứ ngồi mà chờ đến lượt mình thì cứ như bị tra khảo gấp đôi, gấp ba lần. Nhiều người chưa bị gọi mà mắt đã trợn ngược như bị trúng gió. Nhiều người không ngớt rì rầm Cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát. Tôi thì rất lạ. Nỗi sợ hãi làm cho tôi xuất ra một thứ nước nhầy nhầy. Chao ôi! Lúc đó chúng tôi chẳng phải là người, mà khổ thay cũng chẳng phải là con vật. Chúng tôi là những thứ rác rưởi mà người ta muốn dọn sạch mà chưa có cách gì dọn được!

        Trong khi đó ở bên ngoài, cái chiến dịch Tố Cọng càng dữ dội ác liệt hơn khi người ta tìm thấy trong các ngôi mộ liệt sĩ ở Qui Nhơn không phải là những hài cốt quy tập từ các chiến trường mà là những hòm đầy lưụ đạn, những khẩu súng tháo rời. Rồi những kho muối, kho gạo cất dấu trong núi rừng.

        Lại bầm dập! Lại tả tơi!

        Bây giờ, không đấm đá thụi bịch, mà là nước xà phòng đổ vào miệng, điện dí vào chỗ kín để truy tróc tận gốc rễ những bí thư, những huyện uỷ, tỉnh uỷ…Đau quá! Khiếp hãi quá! Đành phải khai! Nhưng cái đám đàn ông đàn bà lơ ngơ láo ngáo này, có ai biết gì đâu mà khai! Thì đành khai bậy! Đầu óc đảo điên, cứ nhớ được tên ai là khai tên đó. Khai bạn khai bè, khai anh khai em. Khai luôn cả cha mẹ! Cứ một người phải khai ít nhất hai ba tên. Số người bị băt vì thế tăng lên gấp đôi, gấp ba. Rồi những người ấy bị đánh đau cũng phải khai ra những ai chợt nhớ. Thế là một trại không đủ. Hai trại rồi ba trại cũng không đủ. Người ta phải dùng dây thép gai quây ra ở bãi Trường thi lùa bọn họ vào như trâu bò. Dạo ấy có làng bị bắt đến một nửa, nhất là làng kiểu mẫu như làng An Định. Ngoài cái bè lũ bốn tên trong đó có tôi, còn có các bà vợ của bộ đội, vợ cán bộ không đủ tiêu chuẩn đi tập kết, những đại biểu nông dân, phụ nữ, những anh dân quân hung hăng…

        Lệnh trên đưa xuống là phải tìm cho ra những tên Cộng sản gộc đang thay tên đổi họ còn ở lại để đòi Tổng tuyển cử. Nếu không bí thư thì cũng là chủ tịch, nên đồng chí thủ ngữ Đực dù chỉ làm chủ tịch có hai đêm cũng đúng phóc là gộc rồi! Mà gộc bự nữa vì là chủ tịch của Toà án nhân dân. Thế là gã lập tức được đưa ngay lên tỉnh, có xe chạy trước mở đường và xe chạy sau hộ tống. Gã không bị tống vào xà lim mà được cho ở vila, được hút thuốc thơm và được uống rượu Tây, cho xứng với chức danh của gã. Ngài tỉnh trưởng nghĩ rằng đây là một con cá lớn, biết đâu còn có cả một bầy, nên ngài đã ân cần dụ dỗ. Chính ngài đã đưa tay ra bắt và vỗ vai thân mật như bạn lâu ngày mới gặp nhau. Vì thế gã đã khai thêm chị em bà Dĩa và tôi cho đủ một bộ tứ.
        Tin rằng sắp hốt trọn ổ cả một “Toà án nhân dân“, ngài tỉnh trưởng vui còn hơn bắt được vàng. Nhưng khi nhìn thấy hai chị em bà Dĩa, chỉ là hai mụ nhà quê đang run rẩy nép vào nhau như hai con chó đói và tôi hỉ mũi chưa sạch, thì ngài lắc đầu bảo: Bỏ mẹ! Ngữ này mà gộc à? rồi ngài ra lệnh thả bọn tôi ra chỉ giữ lại đồng chí thủ ngữ Đực, chắc là để đùa chơi giải buồn.

        Khi về đến làng nhiều người không dám nhìn chúng tôi. Chỉ có lũ nhỏ chạy theo hỏi “Mày bị thiến rồi hả Chó Đẻ“. Tôi lầm lũi bước đi không buồn giận gì chúng. Được đi trên dường làng, được về với bến sông và sắp gặp lại cô Sáu, tôi thấy cuộc đời vẫn còn cho tôi quá nhiều ưu ái. Những ngày qua chắc là cô buồn lo rất nhiều. Hôm bị trói giật cánh khuỷu lôi đi, tôi nghe cô kêu tên tôi ai oán như bà phó lý kêu tên cậu Phú. Sắp gần đến chỗ rẽ qua cầu, hai chị em bà Dĩa nép vào một bụi cây bên đường. Hai bà không quên những cái tát của cô khi dám nhận là đã sinh tôi ra. Ở trong tù, tôi có hỏi hai bà sao dám vu oan giá hoạ cho người khác thì hai bà đều bảo là do ông Khứ và cô Thảnh sắp đặt. Và cũng như thằng thủ ngữ Đực, được hứa sẽ cho thứ này thứ nọ, còn hứa đem ra Bắc để gặp cụ Hồ!

        Từ ngày ông Khứ đi tập kết, cô tôi lại bán mía bên cầu. Dù lúc này có chất mía thành đống cao như cái nhà cũng chẳng ai thèm hỏi tới. Lúc tôi về tới bên này cầu, nghe bọn trẻ con kêu chó đẻ, cô liền ném cây liềm xuống đất chạy qua. Tôi lao tới ôm lấy đôi vai gầy guộc của cô. Tôi khóc thành tiếng và cô cũng vừa khóc vừa hỏi tôi: con có bị đánh nhiều không? Tôi nói: chưa, con chưa bị đánh, nhưng con sợ lắm. Buổi tối hôm ấy bà phó lý tới thăm đem cho một bát cháo gà. Chưa bao giờ tôi được ăn một bát cháo ngon đến thế. Hai bà hỏi tôi đủ thứ chuyện trong tù. Tính ra tôi đã ở tù hai mươi bốn ngày và nếu nói như cụ đồ Ngân, nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại, thì tôi đã trải qua mấy chục cái Thiên thu!

        Nhớ lại những ngày trong tù, tôi thấy rùng mình. Nhưng tôi cũng nhận ra tôi đang trưởng thành. Những gì tôi đã thấy, đã nghe, đã chịu đựng chỉ là màn giáo đầu của vở tuồng đời dài lê thê mà số phận đã sắp đặt, không chỉ của riêng tôi mà của cả những người dân ở vùng Nam Ngãi Bình Phú.

        11. Chiến dịch Tố Cộng vẫn tiêp diễn. Đây là cơ hội cho những mối tư thù, những hơn thua ganh ghét ở xóm làng. Hồi chín năm ai cũng sợ cái mũ phản động, liên quan. Giờ đây người ta còn sợ hơn nếu phải đội cái mũ thân Cộng. Chỉ cần giành nhau một cái măng tre ở góc vườn, hay buồng chuối mà gốc ở bên này ngọn ở bên kia là hai bên đã có thể chụp cái mũ khốn nạn lên đầu của nhau. Nói chi đến chuyện được vợ hay mất vợ. Kẻ thua cuộc vì tình có đủ cách để tống kẻ thắng vào tù. Chỉ cần đem một miếng vải đỏ có gắn ngôi sao dắt đâu đó đằng sau nhà, rồi đi tố cáo là coi như cái giường tân hôn sẽ đầm đìa nước mắt. Mặc dù tiếng chuông chùa Thiên An vẫn không ngừng ngân nga, nhưng cái không khí sân si thù hận vẫn không dịu đi một chút nào. Gần một nửa làng bị bắt thì nửa kia coi như kẻ thù.

        Ông Tổng Bá sau 14 tháng vẫn thấy cái đầu mình hãy còn nằm trên cổ, như cá mắc cạn bỗng gặp con nước về, cái chiến dịch Tố Cộng đã nâng ông lên cái chỗ còn cao hơn ngày trước. Bây giờ ông là thân hào nhân sĩ, tuy không nhận một chức gì, nhưng cái uy quyền vẫn bao trùm lên đám chức dịch. Đám con cháu nhà ông, trừ cậu Khánh đã bị điên thật, coi việc trả thù như một mệnh lệnh của lòng hiếu thảo. Bọn nhỏ thì hết lên mả nhà ông Chánh Nhạc đái ỉa, lại đứng trước ngõ nhà ông Khứ chửi rủa tục tĩu. Bọn lớn hơn như thằng Mậu thằng Tài, thì lùng tìm hai chị em bà Dĩa đến nỗi cả hai phải trốn lên An Khê làm rẫy cùng với Thượng. Bà Năm hàng xáo, người đã lỡ phun một bãi nước trầu vào mặt ông Tổng Bá thì trốn biệt xuống cõi âm sau một cơn đau không lấy gì làm nặng lắm. Còn tôi, trong một đêm đi nghe máy hát đã bị chúng trùm mền đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Cô tôi phải nhờ bà Biện Ngữ sắc cho mấy ấm thuốc võ. Thuốc đắng đến tê người, trong uống ngoài thoa, phải mất cả tuần mới đi lại được.

        Làng nào cũng có những cuộc trả thù như thế. Ngày trước ai đứng ra đấu tố địa chủ thì giờ này không nằm trong tù cũng nằm trong nhà thương. Có nơi nửa đêm người ta đốt nhà có người đi tập kết. Bà vợ ông Khứ sợ quá phải bỏ cả ruộng vườn bồng con về tá túc với cha mẹ ở An Đông.

        Tối đến, các chị vợ có chồng đi tập kết phải đến trụ sở thôn mà ngủ. Không chăn chiếu, không mùng màn, bọn trẻ con bị muỗi cắn suốt đêm khóc ngằn ngặt. Những gã dân quân tự vệ lấy cớ canh chừng thỉnh thoảng lại quét đèn pin vào những chỗ hớ hênh. Giống như ngày trước bị gắn vào ngực cái thành phần địa chủ, bây giờ bọn họ bị gắn cái thành phần thân cọng, chẳng còn ai dám lui tới hỏi han. Họ sống âm thầm như cái bóng, trông họ xanh xao ốm yếu nhưng lòng họ lại mạnh mẽ hướng về phương Bắc. Có thể nói hồn của họ ở ngoài kia mà xác ở trong này.

        Một hôm cả làng bỗng giựt mình khi nghe tin thằng Thủ ngữ Đực sẽ bị đem bắn ở đông cây Sanh. Khi ngài tỉnh trưởng giữ nó ở lại, ai cũng tưởng ngài đùa chơi rồi cũng sẽ thả nó ra. Chắc ngài cũng biết quá rõ cái ngữ như nó thì cọng sản gộc thế nào được. Nhưng thả nó ra thì chiến dịch Tố Cộng coi như thất bại à? Phải có cái mà trình lên Tổng Thống chứ! Thế là người ta đem rượu ra cho nó uống. Có rượu thì tội lệ gì nó cũng nhận tuốt. Còn đánh nó thì đừng hòng, chẳng những nó đánh lại mà còn dũng cảm chịu chết chứ không khai. Vì vậy nó bị đưa ra Toà với đủ tội danh nào giết cụ Cử Vân, nào chôn sống một Tiến sĩ ở Chánh Danh, nào Dân biểu Quốc Hội, nào Chánh án Toà án Nhân dân… Phải mất một buổi sáng mới đọc hết bản cáo trạng của nó. Sau cùng người ta kết án tử hình, chỉ khác là đem về làng bắn chứ không đút đầu vào máy chém.
        Hôm đưa nó về làng có cả một đoàn xe đi hộ tống. Người ta phải xốc nách nó lôi ra khỏi xe vì nỗi sợ chết đã làm hai chân nó sụm xuống. Một đàn ruồi nhặng tranh nhau bám theo sau. Đáy quần của nó ướt sũng. Nó bị cột vào cọc, mà phải cột nhiều bận vì nó không tài nào đứng nổi. Người ta bịt mắt nó mặc dù đôi mắt đã sưng húp gần như không thấy gì.

        Ngài Quận trưởng đọc lệnh xử bắn, sau khi Tổng Thống đã bác đơn ân xá. Ngài nói, nó phải chết để trả thù cho những người vô tội đã chết dưới bàn tay Cọng sản. Mười hai viên đạn dễ dàng ghim hết vào người nó. Ngày mai các nhựt trình ở Sài Gòn sẽ loan tin cho cả nước biết một tên Cọng sản gộc nằm vùng đã bị bắt và đền tội.

        Nhưng ngoài dân làng An Định, nào ai biết đó là cái gã không cha không mẹ, sống bằng nghề đòi nợ thuê, bẻ bí trộm gà, đương nhiên là cả trộm chó nữa. Để có thành tích chống Cộng, người ta đã thổi phồng gã lên với đủ các chức vị oai phong, vô tình biến gã thành một anh hùng. Vì vậy, mười mấy năm sau, tên của gã được dùng để đặt tên cho cây cầu bê tông bắc qua Trung Lương. Có điều người ta đổi chữ Đực thành ra chữ Đức. Cầu anh Đức nghe cũng hay hay nhưng chẳng ai biết anh Đức là anh nào!

        Cái chết của Thủ ngữ Đực không ngờ đã làm dịu bớt những hận thù không đáng có. Người ta thấy rằng ai cũng có thể bị bắn. Ai cũng có thể bị gắn lên ngực cái chức Bí thư Tỉnh uỷ, Huyện uỷ…và đoàng ! Người ta thôi bới móc chụp mũ lên nhau nữa. Ai lo phận nấy, gầm mặt xuống mà kiếm hạt lúa củ khoai. Dân đen tự bao đời chẳng là dân đen! Cô Sáu bỗng dưng thở dài nói ra một câu như vậy.

        Có lẽ ở các nơi cũng có những Thủ ngữ Đực bị chém hay bị bắn như thế. Người ta tin là đã giết hết những tên Cộng sản gộc rồi, nên thả bớt những người dân vô tội. Tổng Thống là người có đạo, nên ngoài việc cai trị dân còn có bổn phận mở mang nước Chúa. Ngoài những người theo đạo vì yêu hàm râu của Chúa hơn hàm râu của Bác, còn có cả những người buộc lòng phải đặt cây thánh giá lên bàn thờ nhà mình để khỏi bị chụp cái mũ Cộng sản lên đầu. Hai chị em bà Dĩa nhờ theo đạo mà đã ung dung trở về làng.

        Sau chín năm kháng chiến cơ cực và sau những năm tố cọng, cuộc sống đã có ít nhiều thay đổi. Những người có nhiều ruộng đã bắt đầu xây nhà. Các ông Tổng Bá, Phó Ba, Hương kiểm, Hương mục… cho người ra sông xúc cát đúc gạch táplô. Chỉ sau ít tháng đã thấy tường quét vôi vàng, mái lợp ngói đỏ. Một cái biển chữ số 1960 màu đỏ được gắn trịnh trọng trước nhà như một con triện xác định cái năm tháng đáng nhớ của cả một đời người. Những ai chưa xây được nhà thì cố sắm xe đạp. Và chuông xe đạp cùng với chuông càrem kêu leng keng khắp đường làng. Sau bao nhiêu năm nghe lời thầy giảng bài, giờ tôi mới chứng nghiệm được rằng, nước đá đúng là cứng như đá nhưng lại tan ra dưới ánh mặt trời. Bọn con trai cùng lứa tuổi tôi đã đi hỏi vợ. Những đám cưới đi qua cầu thường dừng lại khá lâu để thợ chụp hình làm kỷ niệm. Các sòng xóc dĩa, bầu cua chật cứng đàn bà trẻ con chen nhau chơi trò đỏ đen. Thỉnh thoảng một chiếc ghe con, chẳng phải câu đêm cũng chẳng phải thả lưới, lượn lờ dưới gậm cầu. Khi thằng Mậu, khi thằng Tài, cũng có lúc ông phó Ba ngó trước trông sau bước xuống rồi mất tăm ở một khúc sông vắng nào đó. Cô Sáu bảo đó là ghe đổ tiêm la, còn bà vợ ông thì gào lên cho cả làng cùng biết là ông đi chơi đĩ!

        Nhưng cái sắc màu thanh bình chỉ vừa mới phớt qua xóm làng đã bị cái bóng ma cọng sản làm cho u tối. Những chiếc xe đò đã bị giật mìn, cờ búa liềm đã được treo ở chỗ nọ chỗ kia và Tổng Thống suýt bị bắn chết ở Ban Mê Thuột. Những đám mây đen của chiến tranh đã kéo tới và cái hơi lạnh chết chóc của nó đã thổi tới mọi nhà.

        Lệnh tổng động viên được Tổng Thống lập tức ban hành. Bọn con trai cả nước được các cổng quân trường mở rộng cửa đón chào. Bài hát đi quân dịch là thương nòi giống suốt ngày vang lên ra rả. Xe GMC đến tận đầu làng đón bọn chúng tôi lên quận khám tuyển.

        Trừ những đứa thiếu cân như tôi, bị què hay chột như thằng Thịnh, còn tất cả đều phải đi quân dịch. Những cặp vợ chồng mới cưới vừa bén hơi nhau đã sụt sùi nước mắt chia ly. Và chưa đầy mười hôm, hai con vợ thằng Hùng và thằng Vĩ đã phải khóc chồng. Hai đứa đó vừa mới tới Dục Mỹ chưa bắn viên đạn nào đã bị pháo kích toi mạng. Mới hôm nào, bọn chúng trong phòng khám còn nghịch đo cái ấy lẫn nhau, giờ đã không bao giờ trở về làng nữa!

        Lại nghi ngờ! Lại bắt bớ! cọng sản đâu chỉ ở miền Bắc mà ở cả miền Trung và miền Nam. Không chỉ ở trên núi trên rừng mà ở ngay trong làng trong xóm. Phải tách chúng ra và phải phát súng cho dân đánh lại chúng. Thế là người ta biến mỗi làng thành một pháo đài.

        Cũng như trước kia, mọi người phải đi phá thành đào đường để chống giặc Pháp, giờ phải lên núi chặt cây để rào làng chống Cộng. Nói thì dễ, nhưng đi cả ngày trời mới tới được núi, mà núi toàn là núi trọc, thì kiếm đâu ra cây bằng bắp chân dài ba thước! Mà cũng đâu chỉ một vài cây! Cứ tính theo nhân khẩu, nghĩa là mới khóc oe oe cũng phải kiếm cho ra cây để rào đủ mười thước! So ra cái khổ nộp cây còn hơn cả cái khổ nộp thuế nông nghiệp. Ngày trước, địa chủ phú nông lo sợ bao nhiêu thì giờ các anh bần cố nông lo sợ bấy nhiêu! Nghe nói Mỹ viên trợ cho mỗi nhà 70 ngàn nhưng tiền chưa thấy mà Cộng sản đã tới rồi nên phải cấp tốc rào làng. Phải vay, phải mượn, phải cầm cố hay bán cả ruộng vườn.

        Lúc này mới thấy cái tài của thằng Hậu chó. Nó dẹp ngay cái trại gà, dông tuốt lên An Khê thuê Thượng chặt cây đóng bè thả về làng. Cái bến sông ở địa đầu thôn Trung Lương bỗng chốc trở thành một cái chợ cây, kẻ mua người bán còn tấp nập hơn cả những phiên chợ Tết. Không chỉ mỗi làng An Định cần cây mà cả xã, cả huyện. Cây về bao nhiêu là bán hết bấy nhiêu. Nó làm ăn phát đạt đến nỗi phải thuê cả chục người vác cây, trong đó có tôi. Khi ấp chiến lược hoàn thành, không ai tính được là nó đã thu vào bao nhiêu tiền. Trừ nhà ông tổng Bá, còn nhà nào cũng phải nợ nó, nếu không nợ tiền thì cũng nợ lúa. Nó chỉ trong một vài tháng đã trở thành một đại địa chủ vì nhiều người phải cầm thế hay bán hẳn ruộng cho nó. Bây giờ tiếng nói của nó còn mạnh hơn cả tiếng nói của ông tổng Bá. Nó còn chơi ngon, ngã một lúc hai con bò và mấy con heo để khánh thành ấp chiến lược. Ấp An Định là ấp duy nhất được ngài quận trưởng vinh dự tới cắt băng khánh thành. Trước các vị hào lý khăn đóng áo dài, trước đám dân quân tự vệ, trước hai hàng thanh niên nam nữ cọng hoà, ngài quận trửơng đã trao cho nó cái bằng khen có hai con rồng chầu lá cờ ba sọc do chính tay ngài tỉnh trưởng ký tặng.

        Rồi cũng giống như thời ông Khứ, người ta liền diễn tập cho ngài quận trưởng và các vị quan khách xem dân làng An Định chiến đấu chống Cộng sản. Đám dân quân và thanh niên nam nữ cọng hoà lập tức nép vào các hàng rào chiến lược. Những thân cây rừng vót nhọn chỉa ra hai bên như những cái lưng của con kỳ đà khổng lồ. Kẻ súng người dao lăm lăm trong tay. Tất cả sẵn sàng chờ cọng sản. Thế rồi một đứa bé từ dưới sông hớt hãi chạy lên miệng la to: Cọp về làng! Cọp về làng! Tiếp theo là một bọn cởi trần mặt bôi đầy lọ nghẹ từ các soi bắp chui ra, bọn chúng chưa kịp leo qua rào đã bị đám dân quân và thanh niên thanh nữ cọng hoà trói chặt. Một hồi trống dài báo tin thắng trận và cũng là lúc buổi diễn tập kết thúc để mọi người vào tiệc. Trong rượu thịt mọi người chếnh choáng tâng bốc lẫn nhau. Ngài quận trưởng hết lời khen ngợi tài tổ chức của quân, dân, chính, làng An Định. Ông thôn trưởng Văn văn Ba hứa suốt đời tận tuỵ trung thành với Ngô Tổng Thống và ngài Quận trưởng.

        Nhưng ấp chiến lược thực ra giống như một cái một cái rông nhốt bò. Cái hàng rào như kỳ đà xù lưng trông có vẻ hung dữ là thế, nhưng đứa trẻ nào chẳng leo qua được huống hồ là cọng sản. Dân quân tự vệ, kẻ có súng, người thì không. Mà súng thì cũ rích từ đời nảo đời nao, bắn được một phát lại phải dùng cây thông nòng. Tối đến, cả bọn đi rảo một vòng rồi về uống rượu hay nói chuyện gái. Thế thì Việt cộng có muốn vào cứ việc ngang nhiên mà vào, việc gì phải leo trèo cho khổ thân!

        Mặc dù vậy, tiếp theo An Định là các thôn các xã khác cùng hoàn thành. Rồi cả huyện cả tỉnh và cả nước cùng hoàn thành. Cố vấn Mỹ đi đến ấp nào cũng đều đưa lên một ngón tay cái. Tổng Thống vốn thấp, chân ngắn, cực chẳng đã ngài mới đi kinh lý cùng với quan cố vấn vì cái sải chân của nó dài gấp đôi, khiến ngài bước theo muốn hụt hơi. Đã có tướng ngũ đoản lại có thêm nốt ruồi son trên mặt, nên mọi người đều tin rằng ngài có tướng quý nhân và trường thọ. Nhờ Chúa mà ngài đã có thể bình định xong cái nạn Cọng sản. Dĩ nhiên chẳng ai dám nói cho ngài biết rằng, ấp Chiến Lược vừa khánh thành hôm trước thì hôm sau ở cái làng An Định xa xôi này, ông Tổng Bá đã bị giết.

        Đó là một buổi sáng. Như biết được cái thói quen dậy sớm tắm sông của ông, một người có lẽ cũng không xa lạ gì đứng trên bờ kêu tên cho ông ngẩng mặt lên. Ông có hơi bất ngờ vì nghe gọi và càng bất ngờ hơn khi thấy một họng súng đen ngòm chỉa thẳng vào mặt. Ông chưa kịp la lên thì một tiếng nổ đã rền vang trên mặt sông. Ông ngã xuống trong nước và trôi vật vờ cho đến khi một người đứng nhá (cất vó) kinh hoàng khi thấy xác ông tấp vào.

        Hai ngày sau, bà vợ ông Thôn trưởng đã chết giấc khi thấy cái bản án tử hình Văn văn Ba gắn trước cửa.

        Cái bóng ma vô hình đã thực sự lởn vởn khắp mọi nhà. Nó đến lúc nào không ai biết, nó đi lúc nào cùng chẳng ai hay. Nhưng trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái, trên trời dưới đất đâu đâu cũng có nó. Từ đây, mọi người lại co rúm như làng đang có dịch!

        Trai tráng trong làng còn sót lại đứa nào cũng vội vàng đăng lính để nhận một ít tiền thưởng. Ra trận, sống chết chưa biết thế nào, nhưng còn hơn chui rúc trong ấp chiến lược cứ như trâu bò. Sáng nào cũng tập họp điểm danh vì sợ buổi tối cọng sản mò về bắt lên núi. Rồi suốt đêm đi canh đi tuần, lỡ vướng phải mìn, nhẹ thì mất một giò, nặng thì banh xác. Vả lại dẫu có đi xa con vợ nhà quê, nhưng được đi đó đi đây, mỗi lần xuống phố thấy bao nhiêu là gái mắt đen da trắng quần áo lượt là cũng đã con mắt. Những đứa đi trước về phép kể cho nghe đủ thứ chuyện, mà chuyện nào cũng mê ly nghe thèm rõ dãi. Trong làng chỉ còn lại những đứa quặt quẹo, những nông dân vừa kéo cày vừa kéo cả gánh nặng gia đình, những người già hai mắt trũng sâu vì mất ngủ và các chị vợ lính. Các chị nhớ chồng thì ít mà nhớ măngđa thì nhiều. Đến nhờ tôi viết thư, chẳng còn ai chê tôi hôi mùi chó nữa. Có nàng lại còn bảo tôi dẽ thương hơn cái anh chồng ưa nạt nộ của mình.

        Ông Phó Ba tức ông Thôn trưởng từ khi trông thấy cái bản án tử hình đã không còn thiết tha gì nữa đến cái chức Trưởng thôn. Đã mấy lần ông xin từ chức, nhưng ngài Quận trưởng bảo dẫu có từ chức thì cọng sản nó cũng không tha. Như ngài, đã lỡ cỡi lưng cọp thì đành chiến đấu tới cùng. Với lại ta có biết bao nhiêu súng đạn, làm thế nào mà thua cọng sản được. Nói rồi ngài cho ông một khẩu súng lục, bảo tối lên phố ngủ, lại có dịp xa con vợ già …hơ hơ, đấy, sướng thế, việc quái gì mà sợ!

        Chẳng riêng gì ông Phó Ba mà những người có máu mặt trong làng, cứ trời chạng vạng là kéo nhau lên phố. Ấp chiến lược gần như trống không chẳng còn ai canh giữ. Thỉnh thoảng cọng sản từ bên kia sông đánh trống khua mõ kêu tên Văn văn Ba ra chửi. Bà vợ ông phó Ba và những người có chồng đi phố ngủ giờ lại lo sợ khốn khổ y như các bà vợ cán bộ và bộ đội đi tập kết trước đây.

        12. Trên đời này, cái việc xem tướng là dễ nói cho người ta nghe nhất, mà cái sai cũng nhiều nhất. Ngài Tổng thống mới đó được khen là quý tướng đã bị quân đảo chánh bắn chết cùng với em trai trên một chiếc xe thiết giáp. Nền cọng hoà do ngài thiét lập coi như mất cái đầu. Những cuộc chỉnh lý vì thế diễn ra liên miên, hết Dương Văn Minh đến Nguyễn Khánh. Hết Nguyễn Khánh đến Nguyễn Cao Kỳ. Chẳng ai ngồi yên trên cái ghế tổng thống. Nhiều người bảo hai anh em ông Diệm chết oan mà lại chết nhằm ngày thiêng, nên hễ ai mon men leo lên, chưa kịp ngồi nóng đít đã bị lắc cho ngã nhào.

        Nhưng đó là ở Sài Gòn, còn ở làng An Định thì chẳng ai thèm tranh cái ghế trưởng thôn. Ông Văn văn Ba vẫn cứ nhấp nha nhấp nhỏm, tối lên phố ngủ và để cho bớt sợ đã chui vào mùng một bà hàng vải nào đó. Bà vợ mây lần định lên xé xác con quỷ cái đó ra. Nhưng ông phó Ba thề sống thề chết rằng chỉ chui vào đồn cảnh sát mà ngủ chứ chẳng chui vào nhà ai. Cái cục ghen của bà vì thế cứ to ra, ấm ức mãi không tiêu được. Mấy tháng sau, trước khi mất bà bảo con kêu ba mày lại. Cứ tưởng bà trăn trối điều gì, không ngờ bà đem hết sức tàn, tát cho ông mấy cái rồi mới chịu nhắm mắt.

        Các vị Tướng lãnh cứ mãi lo đảo chánh và chống đảo chánh, gần như chẳng còn ai ngó ngàng gì đến những vùng nông thôn xa hút như làng An Định. Ngài quận trưởng tuy nói chiến đấu đến cùng nhưng cũng chỉ lẩn quẩn ở trên phố. Ông Phó Ba thì chỉ giỏi trừ ma tróc quỷ. Nước lã và roi dâu chỉ phù phép được mấy mụ đàn bà mắc đàng dưới chứ làm sao đuổi được cọng sản. Vì thế họ không thèm co rút trong núi nữa. Một ngày nào đó họ làm lễ ly sơn, quyết rời bỏ núi rừng để lấn chiếm đồng bằng.

        Trước tiên họ cô lập những đồn bót lẻ tẻ, cắt đứt liên lạc rồi tiêu diệt. Sau đó họ gom dân lại, phá ấp chiến lược, đốt trụ sở. Họ khua mõ đánh trông suốt đêm làm cho dân ở những làng bên cạnh phải hốt hoảng gồng gánh đồ đoàng dắt díu nhau chạy đến những làng còn treo cờ ba sọc. Chẳng mấy chốc, con sông chảy qua làng đã trở thành ranh giới giữa cộng hòa và cộng sản.
        Đến lúc này quận mới diều xuông một đại đội Địa phương Quân và Tiểu khu yểm trợ cho một khẩu đội pháo đóng ở gò Na. Cô cháu tôi phải rời bỏ cái chòi tranh cũ nát qua bên này sông nếu không muốn đạn bắn cho tan xác.

        Phía bên kia cộng sản cứ tối đến là đốt lửa đánh trống khua thùng thiết. Những ngọn đuốc lập loè trong đêm giống như ma trơi trong những tối trời mưa. Phía bên này thỉnh thoảng rót qua vài quả đại bác giữa đồng không mông quạnh. Cuộc chiến cứ nhì nhằng như thế, chẳng bên nào dám vượt qua sông.

        Ngài Thiếu Tá Quận Trưởng vì thế phải đổi đi chỗ khác. Quận trưởng mới là một Đại uý trẻ. Ngay ngày đầu nhậm chức ông đã một mình lái xe jeep xuống thẳng trận tuyến. Không cần cận vệ, chỉ mặc có mỗi áo giáp, ông cầm súng đi băng băng qua bên kia sông. Ông xem xét địa hình một hồi rồi quýêt định kéo quân qua đóng giữa đồng. Ông cho đặt mìn cờlaymo khắp nơi. Ông bảo giữa đồng cát trắng xoá này cọng sản có giỏi thì cứ mò vào. Chỉ cần bấm một phát là chết như rạ, chưa nói tới đại liên sẽ quét ngã như sung rụng.

        Những ngày sau ông cho quân đi lùng sục các làng. Ông bảo cứ nằm yên thì trước sau gì cũng bị chúng làm thịt. Chi bằng ra tay trước. Nhưng suốt một ngày chỉ bắt được vài cụ già run rẩy mắt hấp him gần như bị mù. Ông đành bảo lính cho ăn rồi thả họ ra. Hôm sau, lính bắt được hai tên CS mặt non choẹt. Vừa định đem về quận thì bị một đám đàn bà con nít vây chặt. Đàn bà thì cố giựt súng, con nít thì cắn vào tay. Những tên lính ngơ ngác đành phᚣi bắn chỉ thiên. Nghe súng nổ họ dạt ra một chút rồi lại sấn tới. Đang lùng nhùng như chơi trò giật cờ thì liên tiếp mấy quả đại bác rơi sau lưng họ. Cả bọn hoảng hốt xô nhau chạy.

        Cái sự dũng cảm và cái máu ngang tàng của Đại uý Quận trưởng thế mà được việc. Cộng sản không còn dám rấn tới. Ranh giới giữa cộng sản và cộng hoà được đẩy dần xuống chân núi. Dân lại lũ lượt trở về. Những lá cờ ba sọc lại tung bay rực rỡ. Chính Đại Tá Tỉnh Trưởng xuống tận đồng cây Sanh để trao mề đai và gắn lon Thiếu Tá.

        Cuộc đời binh nghiệp của ông tưởng đang lên như diều gặp gió, không ngờ lại đứt dây giữa chừng! Một hôm, trên đường về quận, vẫn một mình một xe với cây tiểu liên gác trong lòng, ông đã phải trả giá cho lòng dũng cảm thiếu cẩn thận của mình. Lúc xe qua gò Na, từ trong những bụi duối một thời là hang ổ của Năm Quầng, Sáu Quẳng, một trái B.40 vọt ra làm nổ tung chiếc xe định mệnh. Ông chết đi, những thôn làng vừa được tái chiếm đã ngã rạp theo như lúa ngã ngoài đồng. Bao nhiêu ấp trưởng, ấp phó lần lượt bỏ trụ sở. Đêm đêm cộng sản lại nổi lửa đốt hết ấp chiến lược này đến ấp chiến lược khác. Dân chạy loạn tới đâu cọng sản tràn theo tới đó.

        Một đêm tháng Ba nhưng còn buồn hơn cả đêm tháng Mười. Lính đã rút đi không còn ai lảng vảng bên những cô gái chưa chồng. Ấp trưởng ấp phó và một vài anh dân quân tự vệ cũng theo chân họ hoăc là lên phố hoặc đến ngủ ở các làng gần Quốc Lộ. Những đứa bé đã được bà nội hay bà ngoại kéo vô nhà bắt phải đi ngủ sớm. Chỉ còn những chị vợ bộ đội chờ chồng trong mỏi mòn. Chó không sủa, gà không gáy. Giống như những đêm mà cán bộ bỏ làng đi tập kết. Trong cái yên lặng đến nguội lạnh ấy, ông Khứ và cô Thảnh đến thăm từng nhà. Họ chào hỏi ngọt ngào. Họ hỏi thăm trong bao nhiêu năm qua sống ra sao. Họ xin lỗi đã không giữ trọn lời hứa là trở về sau hai năm. Họ bảo vợ xa chồng, cha mẹ xa con, ông bà xa cháu là do đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ của họ và của cả toàn dân lúc này rất nặng nề vì phải chiến đấu với kẻ thù hùng mạnh và nguy hiểm hơn. Nhưng họ bảo nhất định thắng. Nhất định phải đánh cho Mỹ cút đánh cho nguỵ nhào!

        Sáng hôm sau cái tin ông Khứ về làng đã làm cho mọi người thấy như sắp sống lại cái thời chín năm. Lại đào hầm, lại vót chông, lại đi dân công tải đạn, lại biểu tình hoan hô đả đảo và nhất định là phải có khả năng ! Thế là cả nhà ông phó Ba thuê hẳn một chiếc xe chở tất cả đồ đoàng lên phố. Bà hàng vải sau khi bà phó Ba mất đã có thể đường hoàng giúp đỡ con cháu ông một cách nhiệt tình. Bà cho hẳn một cái nhà kho để các cháu ăn ngủ được thoải mái. Còn ông thì bà rất muốn cái miệng tiếu lâm ở bên cạnh để giúp bà đỡ buồn. Các ông Hương kiểm, Hương mục, Chánh tuần, Phó tuần cũng dọn sạch đồ lên phố chỉ chừa lại cái nhà không. Các ông vẫn chưa đi hẳn vì hãy còn đồng ruộng trâu bò. Nhà ông Tổng Bá thì chính ông đã phải trả nợ máu bằng chính máu của mình rồi. Bà Tổng sau cái chết oan nghiệt của chồng, giờ già sọm lú lẫn. Thằng Mậu, thằng Tài đã đi lính biệt kích. Chỉ còn cậu Khánh dở điên dở khùng, lúc nào cũng mang trên lưng mấy cái xương đầu chó mà tụi dân quân gặm xong quẳng đi. Thỉnh thoảng cậu lại bày ra giữa cầu, thắp nhang khấn vái rồi đọc văn tế do chính cậu làm.

        Gần một nửa làng bỏ đi. Rất nhiều nhà bỏ không, ai muốn vào ở cũng được, nhưng cô Sáu vẫn cứ về lại cái chòi của mình. Cô bảo ở đó quen rồi, có sông nước bên cạnh làm việc gì cũng dễ. Bây giờ cô lại đi mót lúa, chẳng đầu cơ tích trử thứ gì nên cũng chẳng phải lo ông Khứ tịch thu. Khi thằng Thủ ngữ Đực chết thì chỉ còn mỗi một mình tôi là nghèo trơ khất và vẫn bị gọi bằng thằng. Cái tên thằng Chó Đẻ chắc vẫn còn theo tôi cho đến tận già.
        Khi ông Khứ và cô Thảnh về thăm làng thì cũng có nghĩa là các làng khác cán bộ đi tập kết đã trở về. Lực lượng cọng sản mạnh lên trông thấy. Họ thành lập MTGPMN, cờ của họ bây giờ là nửa xanh nửa đỏ. Họ lại đánh trống, khua chiêng, gõ thùng thiết. Các ấp chiến lược liên tục bị đốt cháy. Dân chạy loạn kéo nhau đi kìn kìn. Họ dồn đuổi quân cọng hoà chỉ còn giữ được các thị trấn và tình lỵ.

        Một đêm sau khi ông Khứ và cô Thảnh về chừng mười ngày thì toàn bộ hàng rào chiến lược của làng An Định bị đốt cháy. Thực ra, cũng như các cây cọc phòng không, chỉ loè chơi trước các máy chụp hình và máy quay phim chứ giết được ai, giữ được cái gì. Đó là chưa kể sau khi ông Diệm bị giết, ấp Chiến Lược đổi thành ấp Tân Sinh thì cũng chẳng còn vị Tướng nào thèm ngó đến nữa. Nắng mưa, cả trâu bò và con người làm cho nó xiêu vẹo nghiêng ngã, nhiều đoạn người ta lấy trộm gần hết. Nên cọng sản đốt là để biểu dương lực lượng chứ đâu phải đốt mới vào được. Chỉ tiếc bao nhiêu tiền của công sức mồ hôi chỉ để làm giàu cho thằng Hậu và cọng sản đốt coi chơi. Cây khô gặp lửa cháy còn nhanh hơn cả nhà ông Tổng Bá bị Tây đốt. Lửa rùng rùng, hung dữ và tàn nhẫn như khi lửa tràn qua cánh đồng đang mùa lúa chín. Lửa khói trùm cả làng khiến nhiều người hốt hoảng chạy ra sông như những con chuột khi cháy nhà.

        Đã đến lúc người ta đành bỏ rơi cái làng này. Từ trên cao máy bay phát lệnh di tản. Mọi người phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Sau đó sẽ oanh kích tự do. Ai không đi coi như theo Việt cộng! Mọi người nhốn nháo thu dọn đồ đạc. Tiếng heo gà kêu, tiếng trẻ con khóc. Tiếng gọi cha gọi mẹ xao xác. Không làm sao nói hết được cảnh hỗn loạn của dân làng. Mà tội nghiệp thay, những người còn lại đều là những người nghèo. Tài sản của họ chỉ có cái xoong méo và mấy cái quần áo rách. Họ buồn bã rời làng, lếch thếch đi về phía cái quầng sáng của ánh đèn phố quận.

        Trong cảnh nhốn nháo ấy cô Sáu tôi vẫn ra sông đãi mớ lúa vừa mót được. Cô bảo, ai chạy đâu thì chạy, tao cứ ở đây. Cộng sản cũng là người chứ có phải ma quỷ gì đâu mà sợ. Khi thấy tôi có ý muốn đi, cô bảo, ừ mày cũng nên chạy đi. Không chừng lên trên đó biết đâu mày lại tìm được mẹ. Nhưng tôi lòng dạ nào mà để cô ở lại một mình. Vả lại lên đó biết lấy gì mà sống. Trong khi ở đây lúa chín tràn bờ chưa ai gặt, cá lội đầy sông, rau cỏ đầy vườn. Cứ nghĩ tới đó thì dù ngày mai hay ngày mốt có oanh kích tự do cũng đâu có gì đáng sợ. Con sông đó, đồng ruộng kia, chỗ nào trốn núp mà không được.

        Thế là cả làng chỉ có cô cháu tôi và cậu Khánh điên là ở lại. Khi thấy tôi, cậu nói : Ta là Tổng thống, mi là Thủ tướng. Này nữ công dân kia nghe ta ra lệnh: Hãy nấu cơm cho ta ăn! Dù không có lệnh, cô Sáu tôi vãn vui vẻ nhóm lửa nấu cơm. Tôi xuống sông bắt cá còn cậu thì ngồi trên cầu nói lảm nhảm như đang đọc thơ. Một lúc sau, cơm vừa chín tới, cá rô nướng thơm lừng, cô Sáu bày mâm bát ra giữa cầu lúc này không còn ai qua lại cho Tổng Thống và Thủ Tướng cùng ăn. Cô tôi ngồi hầu bên cạnh. Không phải cô tôi đùa, cũng không phải nghĩ mình quá nghèo nên không dám ngồi cùng mâm với cậu là con nhà giàu. Cô tôi hầu thực sự vì đối với cô, cậu Khánh, thầy Hiên, cụ Cử Vân là những người cô quý trọng dù điên hay tỉnh. Những người có chữ trước hết là những người đạo đức, những người được sinh ra để dạy điều hay lẽ phải cho người khác. Và chuyện đỡ bát xới cơm, rẽ cái xương con cá cho cậu ăn đâu phải lúc nào cũng làm được. Cô tôi sẽ rất vui nếu ngày nào cũng được nấu cơm cho cậu ăn.

        Nhưng đó là bữa cơm duy nhất mà người khách kỳ lạ cùng ăn với tôi trong đời. Ăn xong, cậu lịch sự cảm ơn nữ công dân, dặn thủ tướng phải chăm sóc cho bà rồi vác mấy cái xương đầu chó đi về phía cuối làng. Cô Sáu nói, cậu ấy giả bộ điên đó. Người khôn như thế mà điên à? Ngẫm nghĩ một lúc cô lại nói, mà cũng mong cho cậu điên thật. Cha mẹ bị hành hạ như thế không điên sao được! Sau đó ít lâu nghe nói cậu chết trôi, đúng cái bến sông cha cậu bị bắn.

        Đêm hôm đó là một đêm rất dài. Dù không nói ra nhưng tôi và cô Sáu đều hồi hộp. Không biết hết hai mươi bốn giờ thì cuộc sống sẽ ra sao. Cảnh vật yên lặng đến rợn người. Những con chó con gà bị bỏ sót lại cũng im thin thít. Ai cũng bảo năm 2000 là tận thế. Chẳng biết đêm ấy có giống như đêm nay? Tôi có cảm tưởng mọi người đều chết hết, cả quốc gia và cọng sản, chỉ còn lại hai cô cháu tôi sót lại ở cái bến sông này. Đáng lẽ phải mừng vì được sống sót, tôi lại thấy kinh hoàng vì được sống. Dường như khi còn lại một mình, tôi phải gánh chịu cả bao nhiêu khổ đau bất hạnh của những người đã chết.

        Hôm sau đúng 12 giờ là đủ hai mươi bốn tiếng. Cô tôi chẳng buồn nấu cơm và tôi cũng không thấy đói. Trời trong xanh không một chiếc máy bay. Cũng không có tiếng đại bác xé gió mà đi nghe chíu chíu. Chẳng có vẻ gì là một cuộc oanh tạc hay pháo kích sắp xảy ra. Trọn cả một buổi chiếu chúng tôi sống bình yên như những cây cau cây chuối, như đồng lúa chín đang gục đầu chờ người gặt. Bỗng dưng tất cả trở nên thanh bình êm ả. Không cộng sản, không quốc gia, chỉ có đất trời, cây cỏ, đồng lúa và những con người tầm thường như chúng tôi. Cuộc đời như thế dản dị quá, đáng sống quá!

        Những ngày hôm sau vẫn bình yên. Chỉ có lúa mỏi mòn chờ người gặt. Cô tôi cứ đi mãi giữa ruộng đồng. Mùi thơm của lúa như rủ rê mời mọc cô. Những gié lúa níu lấy chân cô. Lúa đòi được đem về nhà. Nhưng một mình cô làm sao gặt hết bao nhiêu ruộng. Với một người cả đời đi nhặt từng hạt thóc như cô, thì cái cảnh cả một đồng lúa chín rục không người gặt làm cho cô hết sức đau lòng.

        Một buổi sáng, sau khi tìm được một cây liềm tốt cô tôi liền đi gặt một mình. Cô bảo được bao nhiêu cũng được, chẳng lẽ bỏ cả cho lên mạ. Với lại cô cũng muốn kiếm rạ đánh một ít tranh để lợp lại cái chòi đã quá dột. Tôi lóng ngóng vì chưa được gặt bao giờ. Cô bảo đợi cô gặt xong sẽ vác giúp cô đem về chòi. Trong khi chờ đợi, tôi đi bắt cá ở một con mương cạn nước gần đó. Cá không ai bắt nên rât nhiều. Tôi bắt mê mãi. Cô gặt cũng mê mãi. Có lẽ trong bao nhiêu năm chưa bao giờ chúng tôi thấy hạnh phúc như lúc này.

        Đúng lúc ấy một chiếc máy bay trực thăng bay tới, cái cánh quạt to lớn của nó quay tít ở trên trời. Tiếng kêu to và chậm của nó chỉ làm cho người ta khó chịu chứ không làm người ta sợ. Tôi ngửa mặt lên nhìn định đưa tay ra vẫy, nhưng một đường sáng vừa đỏ như lửa mà cũng vừa trắng như bạc phóng thẳng xuống cánh đồng. Trong tiếng nổ phành phạch, tôi chỉ nghe một tiếng rẹt rẹt như muối nổ trong nồi rang. Không hiểu là cái gì nhưng tôi cũng vội vàng ngã nhào xuông bùn. Thế rồi nó bay đi, tiếng phành phạch nhỏ dần.

        Tôi lên tiếng gọi cô để khoe mớ cá vừa bắt được. Nhưng tôi chẳng nghe tiêng cô ừ hử và cũng chẳng thấy bóng dáng cô đâu. Chẳng lẽ máy bay trực thăng như chim đại bàng đã tha cô đi mất. Tôi tìm đến chỗ cô gặt. Cô nằm co quắp trên ruộng lúa như đang ngủ. Tôi lay cô dậy. Một giòng máu ứa ra từ trên ngực. Thôi thế là hết rồi, cô tôi đã chết!

        Tôi nhớ lúc đó tôi không khóc. Tôi chỉ ngồi ôm cô trong lòng. Tôi vuốt mái tóc đã chớm bạc của cô, vuốt đôi mắt mờ đục có một con mắt chột. Tôi cũng vuốt lại quần áo cô. Lúc này tôi mới thấy những miếng vá, những chỗ sắp bục ra. Dường như suốt bao nhiêu năm tôi chưa thấy cô mặc quần áo mới bao giờ. Một lúc sau nước mắt tôi mới lặng lẽ rơi trên áo cô. Tôi khóc không thành tiếng. Rồi khóc nức nở và sau cùng tôi gào lên giữa cánh đồng: Mẹ ơi !

        Tôi gọi Mẹ ơi là phải thôi vì còn ai trên đời này thương tôi như cô. Tôi gọi Mẹ ơi vì đó là tiếng kêu đã nén trong lồng ngực tôi suốt bao nhiêu năm. Tôi cõng xác cô về lều. Suốt ngày và suốt đêm hôm đó tôi ngồi bên cạnh cô. Bắt chước người trong xóm khi có người chết, tôi cũng nấu cơm, luộc trứng (may mà có một cái trứng) rồi vắt để trên đầu cô.

        Sáng hôm sau tôi chọn một mô đất cao ở bên cầu để đào huyệt. Tôi đào mãi đên chiều mới xong. Không có hòm, tôi phải dùng rơm và lá cây để lót cho cô nằm. Thật khổ tâm khi phải xúc đất đổ thẳng trên mình cô. Đất rơi lộp bộp làm cho tim tôi đau nhói. Trước đó, tôi đã muốn cạy đại môt vài cánh cửa trong những căn nhà bỏ hoang, để che chắn cho cô. Nhưng nghĩ tới tính cô không tham của ai, tôi không dám. Không chừng cô đội mồ lên để mắng cho tôi một trận.
        Tôi ở lại đốt lửa đủ ba hôm rồi lạy cô ba lạy rời khỏi làng. Đến bây giờ tôi mới hiểu được thế nào là vành đai trắng. Dọc đường đi, các thôn làng nằm thiêm thiếp không một bóng người. Một vài con chó đói, vài con gà hốt hoảng chui vào bụi khi trông thấy tôi. Đây là nơi đất chết, muốn trút bao nhiêu bom bao nhiêu đạn cũng được. Cứ thấy có cái gì động đậy là bắn. Cô Sáu tôi đã là nạn nhân đầu tiên của vùng đất khốn khổ này!

        Đến cái trạm gác đầu tiên ở gần đường Quốc lộ, tôi nghe lính ra lệnh dừng lại, đưa tay lên. Tôi răm rắp làm theo. Bọn họ trói thúc tôi rồi giải lên quận. Nếu không có ông ấp trưởng Ba lúc đó đang chờ nhận gạo phát cho dân đứng ra bảo lãnh thì tôi đã bị nhốt vào trại giam. Sẵn đó ông bảo tôi làm giùm sổ sách. Ít lâu sau ông muốn đưa tôi lên làm ấp phó, nhưng tôi chẳng dại gì mà nhận cái bản án tử hình đang chờ sẵn.

        Dân di tản của làng An Định và các làng khác tấp vào hai bên đường quốc lộ như rác rưởi dạt vào bờ trong mùa nước lụt. Họ xúm xít chen chúc nhau trong những mái lều làm bằng thùng đồ hộp, mỏi mệt, lờ khờ như những con dế bị trẻ con ngắt mất râu. Các ông hương, ông lý, chánh phó tuần gặp nhau chỉ còn biết giương cặp mắt mất ngủ ra mà nhìn. Chẳng ai buồn chào hỏi như những khi gặp nhau ở đình làng. Cái thời các ông khăn áo chỉnh tề ngồi vuốt râu ở chiếu trên đã xa hun hút. Trông cái cảnh các ông chìa cái bị ra đựng gạo mới tội nghiệp làm sao. Cứ như những người ăn xin! Quận phát cho mỗi nhà mười tấm tôn, nhưng cây gỗ không có nên cũng chẳng biết đến khi nào mới dựng nổi một cái nhà. Các chị vợ lính vì chưa có địa chỉ nên chẳng nhận được thư chồng. Với đứa con quặt quẹo trên tay, các chị đã chẳng làm được gì. Có bao nhiêu tiền đều đổ hết vào tiền thuốc.

        Trong khi đó dân ở phố nhiều người giàu lên bất ngờ. Gạo mắm, chén bát, thau chậu, những vật dụng tối thiểu của cả ngàn người. Muốn bán giá nào chẳng được. Những đồng bạc hiếm hoi của dân di tản rơi dần vào túi họ. Biết kêu ai, trách ai!

        Tôi không mẹ không cha, không vợ không con, lúc này lại đỡ khổ. Những đứa khác nếu không cõng mẹ cõng cha đi nhà thương thì cũng nhếch nhác với vợ đau con ốm. Trông đứa nào cũng già khú, ốm tong ốm teo. Nhiều đứa trốn quanh trốn quất ở làng, giờ dạt lên phố, chịu không nổi cái cảnh đêm đêm bị ruồng bắt cũng đành đi lính xây dựng nông thôn hay nghĩa quân. Chưa khi nào, từ lúc lập làng cho đến giờ, dân An Định lại phiêu dạt tứ tán như lúc này.

        Hoà bình! Thống nhất! Ai chẳng muốn. Nhưng cái cuộc chiến dai nhách như kẹo cao su này thì biết đến bao giờ!

        13. Đâu phải chiến tranh chỉ đem đến đói nghèo chết chóc. Chiến tranh còn đem đến cơ hội làm giàu cho một số người. Cơ hội thì đầy ra đấy nhưng đã dễ mấy ai biết nắm lấy. Chỉ có một ít người mà ngay cả cha sinh mẹ đẻ cũng không ngờ. Thằng Hậu chó, đúng là một thằng giỏi nắm bắt thời cơ như thế.

        Ngay từ lúc mà mọi người chỉ mong được ăn cơm trắng không độn, được mặc một cái áo không hở trước hở sau là đã thấy sướng lắm rồi, thì nó đã biết phải làm gì để được ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn. Cái việc buôn chó của nó chắc gì những người học giỏi tài cao mà nằm nghĩ ra được. Chỉ cần thấy ông hương kiểm sẵn sàng bỏ ra 300 ký lúa và một cặp gà để đổi lấy hai con chó nhỏ là nó dã hiểu ra rằng, cái việc làm giàu đâu có khó. Ai cũng biết chỉ có đi buôn mới giàu nhưng buôn chó mà làm giàu thì chỉ có nó mới nghĩ ra. Rồi khi mọi người muốn phát điên lên vì phải kiếm cây rào ấp chiến lược, thì nó đã chẳng ngại gì mà không đi phá rừng để đem cây về bán. Cái vố đó nó thu vào bằng mấy đời ky cóp của nhà ông tổng Bá. Thay vì tậu ruộng, xây nhà, vênh vang lên mặt với người trong làng bằng cách vung tiền ra mua chức nọ chức kia, nó lại đem tiền mua một lúc mấy căn phố ở Quy Nhơn. Thế rồi, trong khi ông tổng Bá bị bắn, ông hương kiểm và nhiều người giàu có khác cơ nghiệp tan tành chỉ ngồi mà khóc than, thì nó sắm ô tô, học nói tiếng Anh bập bõm để đi thầu rác Mỹ. Gọi là rác nhưng trong đó bao nhiêu là cam táo, là sắt thép chì đồng. Khi Mỹ đổ bộ lên Quy Nhơn quá nhiều và mấy lần Việt cộng chặn xe bắt nộp tiền chuộc mạng thì nó đếch có dại gì chạy xe vào chỗ chết. Nó bắt nhân tình nhân ngãi với một con điếm già ở Sài Gòn đứng ra mở bar bán rượu cho lính Mỹ. Giờ nó chỉ có mỗi một việc là ngồi uống uýtki pha coca thu tiền.

        Làng An Định bị đốt, nó chỉ mất có mỗi cái nhà trước kia là trại nuôi chó. Chẳng việc gì nó phải tiếc thương như các ông già lẩm cẩm. Tuy vậy, nó cũng không phải là đứa quên gốc gác bản làng. Khi biết tin dân làng phải bỏ cả nhà cửa ruộng vườn trôi dạt lên phố quận, nó đã mua đến mấy xe gạo, cả chăn chiếu mùng màn lên phát cho dân. Nó chơi ngon còn hơn cả chính quyền. Gặp tôi nó rất mừng, tháo ngay chiếc đồng hồ đang đeo trên tay cho tôi. Nó bảo: được lắm, mày cứ tạm giúp việc cho bác trưởng ấp rồi tao sẽ có việc cho mày. Mà việc ngon ăn lắm nghe. Nó nháy mắt rồi đi không quên để lại bao thuốc Salem cho tôi.

        Thế đấy, ai chửi Mỹ thì mặc ai, với nó có Mỹ là có tiền. Nó hơn tôi có vài tuổi nhưng lọc lõi khôn ngoan còn hơn cả bố tôi. Chẳng học hành gì nhiều mà sau mười năm, nó đã xa cách tôi một trời một vực. Nhiều người bảo nó gặp thời và chỉ giỏi bợ đít Mỹ. Nhưng một hôm chính nó đem lên một thằng bác sĩ Mỹ để khám bệnh cho cả làng. Nó còn bảo thằng Mỹ đưa các ông cụ đang khổ sở vì bệnh thấp khớp hay bệnh tim bệnh gan gì đó vào tận nhà thương Mỹ để điều trị. Một tuần sau nó đưa các ông cụ về. Cụ nào cũng đi đứng vững chải cứ như chưa hề biết đến bệnh tật là gì.

        Khi việc phát tôn gạo xong, nó nói với ông ấp trưởng đem tôi xuống Quy Nhơn. Nó cho ông ấy một cây thuốc, một chai uýtki và không quên nói nhỏ vào tai ông khi nào khoẻ nó sẽ đưa ông xuống bar nó uống rượu. Lần đầu tiên được ngồi trên xe Huê kỳ chạy vù vù tôi thấy mình bỗng dưng khác lạ. Cứ như được thay hình đổi dạng trong chớp mắt. Những căn lều xập xệ của dân di tản cứ lùi xa rồi mất hút. Những tháng năm khổ cực của tôi cũng đang trôi theo. Tôi nhẹ người khi thoát khỏi cái cảnh ngày nào cũng thấy bao nhiêu người sống trong sợ hãi tuyệt vọng. Tôi hỏi nó: Mày đem tao xuống để làm việc gì? Nó cười: Còn làm việc gì nữa! Tao nói thật mày đừng giận nghe. Không biết có phải vì mày bú sữa chó hay sao mà tao thấy mày rất thật thà. Phải nói là rất trung thành. Mày sẽ giúp tao giữ tiệm, chỉ có vậy thôi! Nghe nó nói tôi cảm thấy thật là buồn. Nhưng cái thân phận của tôi đã buộc chặt vào với loài chó thì còn biết nói gì hơn!


        Cái bar của nó nằm giữa một con phố chính. Mặt trước trang trí như một cái cửa động. Nghĩa là không vuông vức mà nhiều góc cạnh lồi lõm. Bên trong, trần nhà biến thành vòm động với những miếng cạt tông làm cho méo mó đi để giả đá. Dấu kín trong các hốc là những ngọn đèn mờ xanh đỏ. Nó bảo tụi Mỹ thích cái vẻ âm u như vậy. Theo lời nó thì cái bar Lucky là đẹp nhất thành phố. Phải mời kỹ sư và hoạ sĩ ở tận Sài Gòn ra làm cả tháng mới xong.

        Khi tôi bước vào thì bar chưa có khách. Một vài cô ả mắt xanh môi đỏ như các hình nhân của ông Phó Ba đang ngồi dũa móng chân. Mụ nhân ngãi của nó già đến nỗi tưởng chừng hai người là mẹ con. Sau này tôi biết được mụ đã từng là chủ chứa ở Bà Hom bà Quẹo gì đó. Mụ đã khoe với đàn em rằng, có lần thiếu gái, chính mụ đã tiếp cả một trung đội lính Lê Dương. Trước mặt mọi người mụ vẫn má má, con con với thằng Hậu, nhưng khi trong bar chỉ có hai người thì mụ vít cổ nó xuống hôn lấy hôn để. Thằng tình nhân bất đắt dĩ phải cố hết sức bình sinh mới thoát khỏi hai cánh tay núc ních của mụ. Khi tôi hỏi kiếm đâu ra con mụ quỷ quái như thế thì nó bảo, làm cái nghề này mà không có mấy con mụ đó thì mấy ả ranh kia ai trị cho nổi.

        Lúc đầu mụ nhân ngãi và mấy ả cave chẳng ai thèm ngó ngàng gì đến tôi. Khi thì thêm nước đá, khi thêm rượu, khi thêm một cái Sài Gòn tea, tôi lẩn quẩn trong bar như một anh bồi già. Chỉ đến khi thằng Hậu bảo tôi là em họ chưa vợ thì mụ điếm già kia mới chu miệng liếc xéo tôi và các ả thì kêu anh Ba, anh Ba dễ thương quá hén.

        Suốt ngày mụ con con má má ngọt xớt với mấy ả. Mụ khen ả này sửa cái mũi quá đẹp, ả kia bơm ngực coi đã con mắt quá. Mụ chê ả nọ quá kẹo không chịu mua váy mới. Mụ ôm hôn các ả bảo ráng đi con, bữa nay đầu tháng ráng moi cho được nhiều đô. Nhưng các con chớ dại đổi hết tiền của má. Má mà biết được thì các con sống không nổi với má đâu. Còn các ả thì bá vai choàng cổ rồi sà vào lòng mấy thằng Mỹ mặt non choẹt hay già khú kêu ‘ai lấp diu “. Có đến hơn hai chục ả làm cái nghề chẳng tốn một giọt mồ hôi nào. Ả nào cũng đẹp, cũng xếch xy. Tụi Mỹ cao to ôm các ả vào lòng như ta ôm một con chó Nhựt hay một con mèo.

        Tụi Mỹ, nếu dưới cái nhìn của các ông già ở làng An Định thì trên đời này không có ai ngu bằng. Ai đời một ly trà nguội ngắt mà phải trả đến 70 đồng, tức là cả chục giạ lúa. Mà đâu phải một hai ly gì cho cam. Những ngày đầu tháng có đứa trả đến mấy trăm ly. Thực ra ly trà vàng vàng giống màu rượu uýt ky pha coca, gọi là Sài Gòn tea, thằng Mỹ biết là láo quá đi chứ nhưng nó vẫn vui vẻ trả tiền vì nếu không thì chẳng có ả nào chịu ngồi với nó. Và muốn được ngồi lâu, được kề môi áp má thì phải chi từ vài chục đến cả trăm tích kê. Đôi khi gặp ả có bùa ngải là có bao nhiêu đô trong túi đều móc ra hết. Ly trà nhạt thếch lúc ấy lên đến cả ngàn đô. Bảo sao các ả không chịu làm nghề gì khác ngoài nghề bán bar và chủ ăn chia đến những bốn phần bảo sao thằng Hậu không giàu!

        Nhưng bar không phải là nhà thổ và tụi Mỹ đến đây cũng không như đến nhà thổ. Chúng đến bar để được nói dù các ả không hiểu hay hiểu rất ít, để được khóc vì nhớ mẹ, nhớ cha, để được vuốt ve đôi chút vì nhớ vợ con hay nhớ người yêu. Mặc dù trong bar nhạc lúc nào cũng xập xình và ca sĩ thường kêu dé dé như bị ai bóp cổ, nhưng rất ít khi tụi Mỹ hò hét nhảy nhót. Nếu có đứa nào say sưa đập phá là tụi MP tóm về trại ngay. Bọn chúng sợ MP còn hơn dân mình sợ cảnh sát.

        Sau những ngày lội sình, những cuộc hành quân, hay những trận càn bị phục kích đứa nào sống sót trở về mà không rúc vào bar. Những lúc ấy trông chúng thật tội nghiệp. Chúng để mặc cho các ả xoa đầu xoa cổ, bẹo tai bẹo mũi. Chúng gục đầu vào lòng các ả khóc rấm rứt như một đứa trẻ lên năm. Đối với chúng giờ đây, một nơi cách xa đến nửa vòng trái đất, các ả là quê nhà, là mẹ, là vợ, là người yêu! Và lúc đó mụ nhân ngãi già của thằng Hậu cũng bước ra khỏi quầy kẹp một gã sồn sồn nào đó mà dỗ dành. Cái tài nựng nịu của mụ thì khỏi phải chê. Mụ kéo cái đầu hói của gã áp sát vào hai cái bầu ngực khổng lồ của mụ, xoè hai cánh tay to bệu ra ôm gã như muốn nâng lên, rồi mụ đưa năm móng tay chuốt nhọn ra cào trên lưng trên cổ, thỉnh thoảng ngửa mặt gã ra hun đánh chụt một cái. Như thế, thằng Mỹ to như con bò mộng làm gì mà chẳng mê tơi. Nó cứ tưởng là đang ở trong vòng tay của vợ mình. Cũng không hẳn chỉ có những gã già nua cục mịch là mê mẩn mụ. Khi các ả đã có đủ cặp thì một thằng mặt búng ra sữa không tìm được ai cũng sẵn sàng để mụ ôm vào lòng và tưởng mụ là người tình bé bỏng ở quê nhà.

        Các ả cùng làm một nghề mà cả nước ai cũng chê, cùng ăn uống ngủ nghê với nhau, lẽ ra phải thương nhau như chị em, nhưng thực ra là châm chọc và tranh giành nhau một cách ngấm ngầm. Đương nhiên làm nghề này là phải đẹp. Nhưng đẹp vẫn chưa đủ. Phải biết cách moi tiền, phải làm cho thằng Mỹ trút hết cả ví mà vẫn vui vẻ. Cái bí quyết ấy các ả đều biết là nhờ ngải. Có ngải dù xấu cũng thành đẹp. Ngải làm cho thằng Mỹ đút tiền vào ngực của ả mà như gửi tiền vào nhà băng để lấy lãi. Ngải tinh tường ở chỗ là biết rõ đứa nào có nhiều tiền. Một bọn ba bốn đứa cùng vào bar, cả đám cùng ùa đến níu kéo, nếu ả nào có ngải linh thì chọn được một thằng nhiều tiền nhất, sẵn sàng xé cả chục cái tích kê một lần. Còn ả nào không có hay ngải hết linh thì dù có đẹp như hoa hậu, xếch xy như nữ tài tử xi nê cũng chẳng có đứa nào chịu xé cho cái tích kê nào, có khi nó uống quịt phải bỏ tiền túi ra đền, nếu không con mụ chửi như tát nước vào mặt

        Xem ra các ả cũng chẳng sung sướng gì mấy. Ngoài tiền chuộc ngải, tiền kiếm bùa Miên, các ả còn phải nuôi cha mẹ, anh em chạy loạn, phải nuôi chồng hờ là bọn macô. Ít lâu sau hết thời đành kiếm một thằng Mỹ già nào đó làm chồng. Khi về nước nó lại sang tay cho đứa khác.
        Các chủ bar thì chỉ muốn cái con bò sữa là lính Mỹ ấy là của riêng mình. Bọn họ chơi nhau đủ kiểu. Mà cái đòn phép tàn độc nhất là yểm bùa. Một buổi sáng, thằng Hậu và con mụ cho bồi lục tung hết cả bàn ghế, cứ tưởng là tìm cờ xí truyền đơn của Việt cọng. Hai đứa xem xét từng cây đinh đóng vào ghế, từng mảnh giấy nhỏ, từng cái bóng đèn con. Một hồi chúng tìm được một mảnh giấy vẽ ngoằn ngoèo những hình vẽ trông như những con trùn đỏ, những mũi tên dấu dưới bàn thờ ông địa. Đúng là bị yểm bùa rồi! Hèn nào đang nườm nượp khách bỗng trở nên vắng hẳn, trong khi các bar bên cạnh Mỹ đen Mỹ trắng cứ kìn kìn chui vào. Mụ nắm chặt mảnh giấy nghiến răng thề sẽ trù yếm lại cho tàn mạt, cho lụn bại phải cuốn xéo đi.

        Mụ đe nẹt các ả, đòi kêu lính bắt hết bọn bồi. Mụ rít lên: con nào, thằng nào đem bùa bỏ vào nhà tao, nói mau? đồ bạc ác, ăn cây nào rào cây nấy chớ. Sao tiền Mẽo tiền đô biết kiếm ở đây mà nghe lời của bọn rắn độc yểm bùa để cùng chết đói nhăn răng ra à? Những cuộc chiến khi dữ dội, khi ngấm ngầm làm cho các bar thù nhau như quốc gia thù cộng sản!

        Bên cạnh bar Lucky có một căn phố dành riêng cho các ả. Tại đây, các ả ngủ nghê tắm táp… các ả làm đủ trò nhưng không được dắt Mỹ về. Ả nào muốn đi đêm thì cứ việc tới khách sạn. Thường thì cửa đóng suốt. Các ả ngủ đến tận trưa, khi bọn đầu bếp đem cơm đến mới chịu mở cửa. Gần như suốt cả buổi chiều các ả đến tiệm làm tóc để thợ chải cho tóc dựng lên, phun keo cho bết lại, rồi mang cả cái đầu cao vồng như nồi cơm điện đi tới bar.

        Có lần thằng Hậu bảo tôi qua đó lôi mấy ả dậy để khai báo gì đó với cảnh sát. Một cảnh tượng chẳng đẹp chút nào so với vẻ kênh kiệu như một bà hoàng khi các ả đến bar. Quần áo chăn màn, đồ lót vứt tứ tung. Các ả gần như trần truồng nằm ngủ mê mệt. Trắng lôm lốp cứ như mấy con heo cạo lông chờ mổ bụng. Các ả không thèm mắc cỡ khi thấy tôi, cứ nằm ườn ra đó nói dấm dẳn: Về đi, muốn khai gì qua đây khai. Có tí tẹo chứ nhiều nhỡi gì mà bắt khai hoài. Cả bọn cùng cười hăng hắc.

        Nhưng một lúc sau các ả ăn mặc tươm tất, ké né đi qua như những gái nhà lành. Một điều dạ hai điều thưa cứ như nói với bố chồng. Ai cững biết rõ là các ả sợ cái mũ Việt cộng chụp lên đầu! Việt cộng thì không chịu làm cái nghề này nhưng rất biết lợi dụng các ả. Khi thì một lá cờ xanh đỏ, khi thì trái lựu đạn, nếu không bị nổ tung thì bar cũng bị đóng cửa, chủ bị bắt, thế là cơ nghiệp tan tành. Cho nên tuy tiền vào như nước nhưng thằng Hậu lúc nào như cũng đang ngồi trên thùng thuốc nổ. Phải nhờ đến an ninh quân đội, cảnh sát chìm mới đủ sức thanh lọc được Việt cộng trà trộn.

        Người làng An Định nghe thằng Hậu làm chủ bar cứ tưởng nó ngủ ả này đến hết ả khác, không thua gì hoàng đế Bảo Đại. Nhưng nó bảo chuyện làm ăn mà bậy bạ như thế thì có nước dẹp tiệm. Ngoài mụ điếm già đôi lúc nhớ lại thời oanh liệt chọc phá nó chút đỉnh cho đỡ buồn, bọn cave chẳng đứa nào dám giỡn mặt. Cũng chẳng có đứa nào dám âm mưu giựt nó làm chồng. Có mà đi đời nhà ma với con mụ ấy. Nhưng với tôi thì nhiều ả sấn tới. Các ả thích cái vẻ nhà quê khờ khạo, thà cặp bồ với tôi còn hơn mấy gã ma cô lúc nào cũng vòi tiền, không có nó đánh cho sưng mặt.

        Thế rồi thằng Hậu nói sao đó mà cả tiệm coi tôi như của lạ. Mụ điếm già cứ liếc xéo về phía tôi cười tủm tỉm. Các ả cũng ý tứ nheo mắt hùa theo. Làm như cái mũi của tôi bỗng dưng dài ra!

        Mụ nhân ngãi của thằng Hậu một hôm đến sớm. Lúc ấy khoảng 8 giờ. Tôi vừa ăn sáng xong chưa kịp dọn dẹp. Mụ đi lên đi xuống như đang tìm bùa yểm. Buổi sáng chưa mở máy lạnh nên không khí trong bar rất nóng. Mụ đi vào nhà tắm mở nước nghe rào rào. Tôi đang loay hoay với mấy cái chén dĩa thì nghe mụ gọi: “Được ơi! Tìm cho má cái khăn!” tôi hỏi khăn nào thì mụ nói khăn nào cũng được. Tôi đem một cái khăn Mỹ đang treo trên dây cho mụ. Mụ hé cửa chìa tay ra. Nhưng thay vì cầm lấy khăn thì mụ chụp lấy cổ tay tôi lôi vào. Như một con mãng xà kéo con mồi vào hang.

        Tôi chưa kịp chống đỡ thì mụ đã vật tôi nằm xuống sàn gạch. Hai cái vú to bè như hai cái bao cát chống đạn đè xuống ngực tôi. Cái màu trắng lôm lốp như tôi thấy hôm nào, giờ lại trắng hơn nhưng bềnh bệch cùng với mùi nước hoa gắt gắt chua chua làm cho tôi vừa ngộp thở vừa buồn nôn. Với tất cả đòn phép lão luyện trong nghề mụ đã làm được cái điều mụ muốn làm. Như cái lần bị bắt lên quận, nỗi sợ hãi đã làm cho tôi phọt ra nhanh chóng khiến mụ chưng hửng. Mụ đẩy tôi qua một bên cầm vòi nước xả tồ tồ. Trước khi ra ngoài, mụ nói: “Lần đầu hả? Mới bóc tem hèn gì! Thôi để bữa khác má đền cho!”

        Trời ạ! Nghe “má đền cho! “ tôi sợ còn hơn bị bắt lại vào tù. Cái cảm giác như bị mộc đè khiến tôi kinh hoàng, chắc cũng giống các cô gái bị Tây hãm hiếp. Từ đó, tôi thấy những ngày trong bar sao mà nhớp nhơ hạ tiện. Dù sao tôi cũng là một thằng đàn ông, chẳng lẽ cứ để một mụ điếm già kẹp vào nách! Tôi không nói những điều suy nghĩ của tôi cho thằng Hậu. Tôi chỉ nói, tao không ghét gì mầy nhưng tao muốn đi khỏi nơi đây. Nó cười bảo: Trông cái mặt hí hửng của con mụ là tao biết đã có gì rồi. Con trai mà sợ gì. Nhưng mày không muốn ở nữa thì cũng được. Có điều, tuổi của mày là tuổi quân dịch. Mày đi đâu mà không bị tóm. Bây giờ thiếu cân thiếu ký, đuôi què mẻ sứt gì cũng tóm hết. Thà đăng lình. Để tao coi. Rồi sẽ tìm một chỗ lẩn quẩn đâu đây. Bây giờ mà ra chiến trường là toi mạng!

        Một tuần sau, nó đem một thằng Mỹ đến gặp tôi. Nó nói xì xồ vừa bằng miệng vừa bằng tay. Thăng Mỹ kêu Dét, Dét ! rồi vỗ vai tôi nói Ô kê ! Thằng Mỹ đi rồi, nó nói với tôi: Mày sẽ làm lính chó, tức là quân khuyển. Mà quân khuyển của Mỹ nghe. Nó ô kê rồi. Thứ hai đây trình diện.
        Tôi cũng ô kê. Làm lính chó cũng được, đâu có sao! Chó với tôi từ lâu đã là bè bạn mà!

        (còn tiếp)
        Last edited by KiwiTeTua; 11-08-2017, 02:57 AM.

        Comment


        • #5
          Những Tháng Năm Cuồng Nộ 14 - KẾT

          14. Trại biệt kích Mỹ nằm sát biển. Bốn bề từng từng dây kẽm gai. Bốn cái tháp canh ban đêm có đèn pha tự động quay bốn hướng. Mỹ không xây lô cốt bằng bê tông kiên cố như Pháp. Nó dùng bao đựng cát làm tường. Đạn bắn bao nhiêu cứ việc găm vào. Đánh giặc như Mỹ thật là sang. Từ tôn ván, từ búa kiềm, từ thùng đựng nước đá cho đến cả tăm xỉa răng, giấy chùi đít cũng đem qua từ Mỹ. Tại Việt Nam nó chỉ mua có mỗi đá cây để xếp trong lô cốt cho đỡ nóng. Và đương nhiên là cần những ả bán bar, không có các ả chắc là chúng đã đòi về hết.

          Tuy là trại Biệt kích Mỹ nhưng lính Mỹ ít hơn Việt. Mà Việt chính gốc cũng ít hơn Nùng. Sậm đen, to cao, cỡ như bọn tôi chúng vật như nhái. Biệt đội Quân khuyển chừng hai chục người và mười con chó. Đây là những con chó đặc chủng. Có tên chó cha, chó mẹ, có ngày sinh tháng đẻ, có tên trường lớp và tên thầy. Rồi ngày chó vào lính, đơn vị, chiến công, quân hàm. Có con mang lon Đại uý.

          Tôi không phải như mấy đứa trong làng đi lính Cộng Hoà. Khỏi phải tập dậm ghẹ, tập chạy tập bò. Chỉ tập tháo ráp và tập bắn. Nhưng chúng tôi cực hơn vì phải chịu trận với chó. Đây là những ngày mà nhiều đứa phải bỏ cuộc vì bị tra tấn bỡi những hàm răng sắc nhọn, những cái táp như hàm cá mập, những cú lao vào như cả một khúc gỗ từ trên dốc lao xuống.

          Để tránh thương tích, chúng tôi được trang bị nào găng da, nào áo giáp. Hai tay và chân được nịt chặt như những đòn bánh tét. Và với thân mình được gói kín như thế, bài tập đầu tiên là giả làm Việt cộng để cho những con chó cao to và hung hãn như những con sư tử táp vào tay, đớp vào chân, tộng vào ngực. Khi bọn tôi ngã nhào xuống đất, chúng lập tức cắn vào quần áo lôi đi. Cái hay là chúng không cắn vào cổ, nếu không chúng tôi đã tiêu ma từ lâu rồi. Sau những bài tập như thế, chúng tôi ê ẩm cả người. Đứa nào cũng nằm vật ra thở dốc. Chẳng đứa nào đứng dậy nổi để mang khay đi nhận phần ăn.

          Bài tập thứ hai đỡ hơn. Không phải giả VC cho nó cắn mà tập cầm dây da chạy theo nó để tìm V.C. Sức nó chạy như ngựa, chạy theo không kịp nó lôi ngã như voi kéo gỗ. Sau buổi tập, mặt mũi chân tay đứa nào cũng trầy trụa đầy đất cát. Có đứa ngã gãy răng.


          South Vietnam, 1967. Two sniffer dogs, Justin and Cassius and their handlers. The dogs were responsible for locating Viet Cong fighters and enemy installations. Picture: Australian War Memorial CAM/67/0411/VN

          Sau cùng là học chăm sóc. Thực ra là học hầu hạ nó! Học tắm táp, học chải lông. Học lo cho nó ngủ, học dẫn đi chơi, ngay cả cách dẫn nó đi ỉa cũng phải học. Nhưng bài học quan trọng nhất là phải học cách bảo vệ nó khi Việt cộng liều mạng tấn công như ném lựu đạn hay ôm cả mìn lao vào.

          Có lẽ nhờ cái dòng sữa chó đã chảy sẵn trong tôi, nên dù với chó Tây tôi cũng không sợ vãi đái ra. Tôi thấy thích những con chó Tây hơn chó ta vì nó đẹp, thông minh và rất có kỷ luật. Mặc dù tôi rất nhỏ con và không biết tiếng Mỹ, tôi cũng làm quen được với nó khá dễ dàng. Có lẽ tại tôi yêu nó nên nó cũng yêu lại tôi. Một khi đã thân quen, tôi và nó rất hiểu ý nhau. Tôi thường nhìn vào mắt nó và nó cũng nhìn sững vào mắt tôi. Nếu tôi khẽ liếc về bên phải là nó chạy ngay về bên phải, liếc trái là chạy về trái. Nếu nó làm gì quá quắt, tôi chỉ cần lắc đầu là nó xì tốp ngay.

          Bọn Mỹ không ngờ tôi làm chủ bọn chó nhanh như vậy. Sau khi đã tếch qua tếch lại nhiều lần, bọn chúng khen tôi là năm bờ oan và giao cho tôi chăm sóc con Giêm. Đó là một con chó Đức thuần chủng từ bao nhiêu đời. Trong huyết quản không có một tí tẹo nào chó Anh hay chó Pháp. Con Giêm cao to như một con bò nghé, nhưng nó mạnh mẽ và săn chắc hơn. Cái ngực của nó như đá tảng, bốn chân thuôn đẹp như chân hươu. Nói đến chiến công của nó thì cũng phải hết cả trang giấy này. Chỉ biết là nó có hàng chục cái huy chương và nó đang mang cấp bực Đại uý, còn tôi chỉ là binh Nhì!

          Công việc của bọn tôi cứ đều đều nếu không phải ra trận. Sáng đem nó đi ỉa đái, tập thể dục, ăn sáng bằng thức ăn đóng hộp gọi là đót min (mà nhiều đứa bên Biệt Kích tưởng là thịt chó đóng hộp). Trưa ăn thịt bò Mỹ tươi và có cả đồ tráng miệng. Xong, đi ngủ. Có cả nhạc cho dễ ngủ! Con nào không chịu ngủ thì có xương nilon gặm cho đỡ buồn. Chiều dắt đi dạo như một nhà quý tộc. Rồi tắm táp chải chuốt chờ bữa tối. Trước khi đi ngủ còn xem phim hoạt hình! Đời chó mà như thế thì đời người cũng ít ai bằng! Kẻ hầu hạ trung thành và tận tuỵ là bọn quân khuyển chúng tôi. Nếu không có cuộc chiến tranh dai nhách chết tiệt này, nếu không bị ruồng bắt như bắt chó thì chẳng đứa nào chịu làm cái nghề không chút vẻ vang này cho dù là lãnh tiền đô.

          Nhưng dù có giàu sang và yêu chó như nước Mỹ thì cũng chẳng ai chịu bỏ công, bỏ của ra để huấn luyện những con chó khơi khơi như thế, nếu nó không có một cái mũi biết đánh hơi cọng sản. Trong những trận càn, khi lực lượng của địch bị quét sạch trên mặt đất, người ta đem chó tới để theo cái mũi của chúng mà dò tìm những địa đạo, những hầm bí mật. Chẳng có ai biết được dưới những luống khoai bụi chuối hay ao hồ sông suối có những kẻ đang dấu mặt như con sâu rút mình trong cái kén để chờ cơ hội phản công. Cũng chẳng ai ngờ được rằng dưới chân mình đang đứng, dưới chỗ mình đang ngồi hay dưới cái ang nước cũ kỹ với cái gáo dừa úp hờ kia là cả một căn hầm nuôi dấu cán bộ cốt cán. Chỉ có chó vơi cái mũi trời cho tinh nhạy hơn cả rađa là biết được ngay chỗ nào có kẻ địch đang lẫn trốn. Dù ngụy trang khéo léo đến đâu chó cũng tìm ra được. Ngụy trang chỉ có thể qua được mắt người chứ không thể qua được mũi chó, nhất là cái mũi ấy được đào tạo qua trường lớp và được thử thách qua nhiều trận chiến. Vì vậy, Việt cộng rất ghét bọn quân khuyển chúng tôi. Từ xa, chúng tôi đã bị bắn nheo cu. Đến gần chúng tôi bị ném lựu đạn, bị nổ tung vì bom cảm tử. Chó thì có hàm răng vô địch, bộ binh có carbin, còn chúng tôi chẳng có gì để tự vệ ngoài một sợi dây da buộc vào cổ chó!

          Sau bao nhiêu cuộc chỉnh lý và đảo chánh, Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ kết hợp thành một liên danh đắc cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Báo chí gọi đây là một cuộc hôn nhân chính trị. Vì “cưỡng hôn” nên cơm không lành canh không ngọt là chuyện đương nhiên. Dù vậy, dưới sức ép của viện trợ Mỹ, hai người cũng mạnh tay hơn với cọng sản. Khắp bốn vùng chiến thuật nổ ra những cuộc hành quân liên miên để tái chiếm những vùng đã bị mất. Những toán Biệt Kích được thả dù xuống miền Bắc để đánh thẳng vào hậu phương địch. Bọn họ được huấn luyện đặc biệt. Trước tiên phải là người gốc Bắc. Bọn họ phải học làm việc, học đi đứng nói năng y như người miền Bắc. Ngoài ra họ còn phải học cách sống một mình trong rừng sâu khi bị lạc. Sau khi thuần thục họ được thả phía sau lưng địch để phá cầu đường, kho đạn, tàu thuyền. Mỗi lần đi gọi là nháy sô coi như không có ngày về nên họ được lãnh tiên tử rất lớn. Vì vậy, nếu anh nào bỏ xác ngoài đó thì thôi, anh nào trở về coi như được sống lại. Rủng rẻng trong túi nhiều tiền, họ ăn chơi cho bõ những ngày phải đối mặt với cái chết. Gái ghiếc là chuyện thường tình. Họ còn chơi cả thuốc phiện trắng. Tôi có quen một tay người Nùng. Anh ta lấy bớt thuốc ra rồi đổ cái thứ bột chết người ấy vào xe đầu lại. Anh ta cho tôi một điếu hút thử. Tôi chẳng thấy Tiên Phật nào cả, chỉ thấy ngây ngây dại dại, cả đêm cứ tưởng đã ngủ rồi mà thật ra là thức trắng. Sau đó ít lâu, anh ta chết vì bị mục xương chứ không phải vì nhảy sô.

          Những cuộc bình định tái chiếm nông thôn đã kéo theo bước chân của bọn tôi. Những thôn làng không người ở xác xơ, những ngôi nhà bị đốt cháy, những cánh đồng cỏ dại cao lút đầu. Cứ tưởng là những vùng đất chết. Nhưng dưói cái cây kia là một họng súng đang hướng cái đầu ruồi về phía bọn tôi. Con đường đất buồn bã đầy rác rơm cũng đang dấu kín những hầm chông. Và ở đâu đó trong lùm tre, những đôi mắt chỉ huy của cán bộ vẫn không ngừng quan sát. Nhưng cái mùi hơi người mà chúng tôi chẳng nhận được gì thì lũ chó đã đánh hơi như khi bụng đói mà ta nghe mùi chiên xào! Thế là hộc hộc, vừa sủa chúng vừa lao tới, chúng tôi cũng phải lao theo. Cái mũi chúng như một máy dò mìn, rà rà hết bờ cây này, bụi cỏ nọ, sau cùng là rít lên báo hiệu cái nơi cần phải tìm. Miệng hầm chẳng khó khăn gì đã được tìm ra. Những con người xanh xao lốp ngốp bò lên. Nếu không chịu lên thì lựu đạn cay thả xuống, và nếu chống trả thì hàng chục trái lựu đạn ném xuống không thương tiếc!

          Có một lần chúng tôi bị đánh liều mạng. Bắt được hơi người, con Giêm quá hăng lao tới. Bất ngờ mảng cỏ được nâng lên và một trái lưụ đạn ném thẳng vào trước mũi nó. Tôi vội đá trái lựu đạn văng ra xa và nằm đè lên mình nó. Cả hai thoát chết trong gang tấc. Tôi bị thương nhẹ ở vai, nhưng con chó không hề hấn gì. Lần đó tôi được bọn Mỹ thưỡng cho một món tiền. Không ngờ câu chuyện đó đến tai thằng Mậu, con ông Tổng Bá. Nó đến trại tìm thăm tôi. Nó cứ tưởng tôi không biết hai anh em nó đã trùm mền đánh tôi một trân tơi bời. Nó nói: “Tao tưởng con mụ Thảnh và lão Khứ nhồi nhét mày thành một thằng cọng sản như thằng thủ ngữ Đực rồi chớ. Không ngờ mầy cũng ngon lắm. Thế nào Việt cộng nó cũng treo giải cho ai lấy đầu mầy. Nó đã treo giải đầu tao rồi đó. Đầu tao nó treo là phải. Nè, mầy coi đây! “. Rồi nó lấy trong bọc ra khoe với tôi mười mấy cái tai cắt được của cọng sản. Những cái tai khô quéo quắt như nấm tai mèo với những sợi lông trắng trông rất dễ sợ. Nó đưa cho tôi cầm nhưng tôi rụt tay lại. Nó cười: “ Mầy sợ à? Tao thề trước mộ ông tao là phải cắt đủ 100 cái, tức là phải giết đủ 100 thằng. Chừng đó tao sẽ đem đốt trước mộ ông tao như ngày xưa người ta cắt đầu kẻ thù để tế cho người chết. Mầy tin tao làm được chớ? Chiến tranh còn dài quá mà!”

          Sau đó ít lâu tôi nghe nó bị Việt cộng bắt được trong một lần phục kích. Nó bị mổ bụng moi gan và cái gan ấy bị cắt nhỏ đúng 100 miếng. Không biết để ăn cho hả giận hay để tế cho những người đã bị nó cắt tai. Cứ cái kiểu trả thù như thế, rồi con nó lớn lên sẽ trả thù cho cha nó như thế nào? Nghĩ tới mà rùng mình!

          Cứ tưởng những cuộc bình định đã đẩy dần cọng sản về tận núi rừng. Không ngờ họ lặng lẽ xâm nhập thành phố. Tết Mậu Thân, như thường lệ hai bên ngưng chiến để đồng bào ăn Tết. Phố xá chật kín người. Người ta tạm quên chiến tranh để chúc mừng nhau đã sống thêm được một tuổi. Đêm giao thừa pháo nổ không ngừng. Càng chết chóc, càng lo sợ người ta càng đốt pháo. Lẫn trong tiếng pháo là tiếng súng của những người lính xa nhà. Đạn bắn chỉ thiên vẽ những đường lửa đỏ trên nền trời đêm. Ai cũng muốn xua đi cái năm cũ đầy máu lửa để đón một năm mới may ra có được hòa bình.

          Quá nửa đêm tiếng pháo thưa dần nhưng tiếng súng lại vang lên dòn dã. Những người lính có chút hơi men cọng với nỗi buồn càng bắn dữ hơn. Nhưng lẫn trong tiếng tạch tạch có cả tiếng nổ của B.40 và tiếng A.K đanh gọn. Nhiều người đang ngơ ngác hỏi nhau thì có tiếng máy bay u u trên cao và những trái hoả châu sáng rực cả thành phố.

          Đến lúc này ai cũng biết là bị Việt cộng tấn công. Họ đánh vào Tiểu Khu, vào toà Tỉnh Trưởng và Đài Phát Thanh. Té ra họ cạo trọc đầu giả nhà sư, mặc quần áo đẹp giả trai gái đi hái lộc. Họ dấu súng trong áo cà sa, dấu cờ và truyền đơn trong áo dài. Họ đã làm được cái điều rất khó làm trong binh pháp là gây bất ngờ.

          Lúc đầu quân Cộng Hoà bị choáng. Nhưng sáng ra các đơn vị liên lạc được và yểm trợ lẫn nhau, bắt đầu phản công. Chỉ trong một ngày là cộng sản bị đánh bật ra ngoài. Họ cố rút đi trong đêm, nhưng một số bị kẹt lại do không rành đường. Họ đành chui rúc trong các ống cống, các mương nước thải chờ đêm tối thoát ra. Phần nhiều họ đã chết vì bị thương mất nhiều máu. Lúc này lũ chó của cả trại được tung ra và chúng cắn áo kéo họ ra như những con mèo tha chuột. Người nào cũng cởi trần chỉ mặc một cái quần đùi, ngang hông lủng lẳng một cục cơm vắt.

          Kinh ngạc làm sao, trong số ấy có xác của ông Khứ. Ông ta bị thương nằm kẹt giữa hai bức vách của hai căn nhà nằm sát một con mương. Ông cố trườn ra mép nước, gục đầu xuống uống một hơi rồi chết. Tôi làm sao quên được ông với cái mũi khoằm và cái miệng dẩu. Mái tóc lúc nào cũng cắt xiên qua bên phải như vừa bị ai lấy dao đè ra chặt. Ông ta trắng hơn, mập hơn, nằm đó với cục cơm vắt bị thiu và cái bụng chương lên vì uống quá nhiều nước. Vậy là sau bao nhiêu năm thét gào, hết ra Bắc lại vào Nam giờ bị kéo ra công viên để cho mọi người nói cười chỉ trỏ. Thật chẳng ra làm sao!

          Việt cộng không chỉ tấn công thành phố Qui Nhơn mà khắp cả nước. Báo đăng họ đánh vào cả toà đại sứ Mỹ. Tại Huế họ cố thủ đến những cả tháng mới chịu rút ra. Bên nào cũng hô chiến thắng, nhưng nếu tính cả hai bên tròng cái Tết Mậu Thân điên cuồng ấy chắc cũng đến vài vạn người. Thật không ai hiểu được vì sao cái dân tộc này lại hận thù và giết nhau đến thế. Có người bảo do dân Hời trù yểm. Những ngọn tháp còn đứng mãi kia như những lời nguyền.

          Sau Tết Mậu Thân dường như người ta nhìn vào đâu cũng thấy Cộng sản. Đây là thời cơ cho cái mũ thân cọng chụp lên đầu bất cứ ai nếu người ta muốn. Và thằng Hậu đã bị chụp cho một cái mũ khổng lồ là làm kinh tài cho Việt cộng!

          Một buổi chiều trong ngày lễ Phục sinh, cả chục Cảnh Sát ụp vào bar lôi nó đi trước sự ngơ ngác của các ả cave và bọn lính Mỹ. Bar Lucky bị lục lọi, bị niêm phong. Mụ nhân ngãi già của nó vơ vội ít quần áo tư trang nhét vào vali bay tuốt vào Sài Gòn chẳng bao giờ dám trở lại. Các ả cave nháo nhác cố bám vào những thằng lính Mỹ. Lúc này chỉ mong được nó nhận làm vợ hờ để khỏi bị vạ lây. Bọn Mỹ khi hiểu ra có đứa khoái chí hét lên: Ai lấp V.C Hâu !

          Như thế là cơ nghiệp của nó cũng đã tan tành! Nó đã khôn hơn các ông tổng Bá, ông hương kiểm khi nó bỏ làng mà đi. Nhưng nó không đủ khôn lanh để bỏ cái miền đất mà một đưá bé mới sinh ra cũng bị kết tội là cọng sản như cái ở cái vùng Nam, Ngãi, Bình, Phú này. Nếu nó ở Nha Trang hay Sài Gòn, chưa dễ ai chụp được lên đầu nó cái gì. Đã vậy nó lại còn mua cả mấy xe gạo, vải vóc thuốc men lên phát cho dân nên dễ bị nghi ngờ là tiếp tế cho Cọng sản. Nó cũng tưởng quen biết nhiều, gái trong bar toàn là gái tuyển, chẳng mấy chốc nó sẽ đánh bạt hết những cái bar lép nhép kia để trở thành ông trùm của cả một con phố ăn chơi. Nó đâu biết rằng từ lâu nó đã ở trong tầm ngắm của những thế lực trùm hết cả miền Trung.

          Toàn bộ tài sản của nó bị tịch biên. Nó bị quẳng ra ngoài Côn Đảo như một tay cộng sản thứ thiệt.

          Các ông già ở làng An Định thở dài bảo giàu sớm quá là không bền, xưa nay vẫn vậy! Nghĩ đến cách ăn ở có trước có sau của nó các ông đều cảm thấy ngậm ngùi. Lúc này có muốn gửi cho nó một hộp sữa hay một gói thuốc cũng không cách gì gửi được. Cái tin nó bị bắt làm cho tôi bàng hoàng không ngủ được đến mấy đêm. Cứ y như hồi tôi thấy ông cử Vân nằm chết trần truồng trên đất lạnh. Một đằng thì tán gia bại sản vì tư thù ganh ghét. Một đằng thì gục ngã vì hận thù giai cấp. Cả hai đối nghịch nhau, nhưng lại giống nhau vì cái mục đích triệt hạ con người.

          Lúc này tôi thấy nhớ làm sao cái ngã ba Trung Lương. Cô cháu tôi đã sống những ngày thật êm đẹp. Chúng tôi đói nghèo, có bị khinh khi đôi chút, nhưng trời mây sông nước là của chúng tôi. Nhớ những tối đầy sao, những đêm trăng mát lạnh. Nhớ những lúc cô cháu xuôi thuyền trên sông. Nhớ bữa cơm cuối cùng ngồi ăn với cậu Khánh điên ở trên cầu. Tôi cũng không làm sao quên được cái chết oan ức của cô. Giờ này không biết cái mô đất bên cầu có còn không hay là đã bị nước lụt cuốn trôi.

          Tôi cũng thấy nhớ chị Thảo, nhớ cái đêm mưa chị thiếp ngủ trong lòng tôi, nhớ mùi thịt da thơm ấm của chị. Tôi thường đi rảo khắp thành phố để mong được gặp chị. Biết bao người con gái hao hao giống chị đã từng làm tôi nôn nao muốn khóc. Nhưng đến gần lại không phải là chị. Bây giờ chắc là chị đã đi lấy chồng và theo chồng ở một nơi nào đó rất xa.

          Chiến tranh vẫn cứ tiếp diễn và leo thang ra tận ngoài Bắc. Cuộc hoà đàm Paris suốt một năm trời mà chỉ có thoã thuận được một cái bàn hình bầu dục. Cộng sản lại pháo kích vào thành phố và cộng hoà vẫn nối tiếp những trận càn. Đám quân khuyển đi theo sục sạo đến thở không ra hơi.

          Một ngày đầu tháng sáu, cuộc càn quét đi qua các làng An Định, Trung Lương. Mới có năm năm mà cái làng cũ đã không còn nhìn ra. Bao nhiêu nhà nếu không bị đốt thì cũng ngã nghiêng xiêu vẹo. Cỏ cây lau lách mọc đầy như rừng. Cây cầu gỗ do ông tổng Bá bỏ tiền ra bắc đã bị sập. Căn lều của cô tôi dĩ nhiên là cũng không còn. Cánh đồng cây Sanh qua bao mùa lụt cát trải rộng đến tận bờ tường chùa Thiên An. Người ta tin chẳng có hầm hố gì dưới những lớp cát ấy nên không dẫn chó qua sông. Tôi cũng không thể giao chó cho ai, nên đành đứng bên này nhìn qua. Cái mô đất chỗ cô tôi nằm hãy còn lại bên đầu cầu. Trong đám cỏ cây rậm rạp dường như có một cây khế đang ra bông. Chắc xương thịt của cô đã theo cây khế đó mà ngoi lên nhìn tôi.

          Lục soát hết An Định, xuống An Dân rồi qua Trung Lương. Một ngày dài, chó và người đều mệt lã. Lúc này mà V.C tấn công chắc là bọn tôi tiêu đời. Đúng lúc ấy cái mũi của đại uý Giêm phát hiện trong bụi tre gai có hơi người. Nó giằng dây xích lao tới. Nhờ nó người ta lần ra được một ống thông hơi làm bằng gốc tre dấu rất khéo và tìm được miệng hầm nằm dưới một lớp lá tre khô. Người ta bảo lên khỏi hầm. Nhưng chẳng ai chịu lên và người ta thả xuống một trái lựu đạn cay. Thế là trong lớp khói cay xè đến ngột thở, cả chục V.C lớp ngớp bò ra.

          Thật không ngờ, cô Thảnh trắng bệch như con mụ nhân ngãi của thằng Hậu, mặt đầy nước mắt nước mũi vẫn cố hét lên: Đả đảo đế quốc Mỹ! Và khi thấy tôi đang cố giữ không cho con chó Giêm muốn bứt dây để lao tới, cô phun vào mặt tôi một bãi nước bọt, rít qua hai hàm răng: đồ chó đẻ ! Thật khác xa với lúc cô cầm tay tôi dắt đến trước mặt ông tổng Bá để chỉ cho ông ta thấy cái tội ác bằng xương bằng thịt do ông gây ra. Và cũng chính vì cô đem tôi ra để làm nhục ông mà tụi thằng Mậu, thằng Tài đã đánh tôi một trận để trả thù. Nếu còn sống và nếu gặp cô ở đây chắc là nó không tha cái tai của cô!

          Cùng với các đồng chí, cô bị đưa về tiểu khu, bị đưa qua An ninh Quân đội để khai thác và sau cùng chắc chắn cô bị đưa ra Côn đảo. Ở đó cô sẽ gặp thằng Hậu đang đội cái mũ thân cọng. Chẳng lẽ hai người là đồng chí?!

          Dưới sức ép của nhiều phía, cuối cùng cái hiệp định Paris cũng được bốn bên ký kết. Mỹ và Đồng minh sẽ rút nửa triệu quân ra khỏi miền Nam. Mỹ rút. Bao nhiêu súng ống đạn dược, tàu bay tàu bò, Mỹ giao hết cho Miền Nam. Nhưng với những con chó thì Mỹ đem về. Bọn lính quân khuyển chúng tôi, mười mấy đứa được đưa sang Bộ Binh.
          Thôi nhé, vĩnh biệt Đại uý Giêm! Bái bai !

          15. Tôi được đưa lên Pleiku. Thành phố nhỏ như một tổ chim. Không dường ngang phố dọc. Không nhà cửa nhiều tầng. Con phố chính không quá 100 mét. Chỉ có một vài hiệu buôn, một vài quán ăn và quán càphê. Nhưng ngoại ô là cả một vùng đất đỏ mênh mông với những con đường vàng rực hoa quỳ. Những buổi sớm sương trắng bềnh bồng và những cô gái Thượng xinh xẻo mang gùi trên lưng đi từng hàng dài. Không bị pháo kích, không bị đặt mìn. Chỉ có cái lạnh hiu hiu và bầu trời như xuống thấp hơn ở đồng bằng. Mặc dù chiến sự đang đến hồi ác liệt nhưng nơi đây thật thanh thoát và bình yên.


          Đơn vị của tôi đóng cách thành phố hơn 5 cây số. Nếu không có những bao cát, những hàng rào dây kẽm gai và nhất là không phải leo lên cái tháp canh mỗi tuần vài bận thì tôi đã tưởng mình được đi chơi sau những ngày ngột ngạt ở trong bar thằng Hậu.
          Trung đội tôi có một lao công đào binh. Anh ta tên Hiển, lớn hơn tôi vài tuổi. Anh sống lặng lẽ, ít nói, nên chẳng ai biết nhiều về anh. Chỉ biết anh đã đào ngũ đến lần thứ ba! Tha mãi không xong người ta đưa anh vào quân lao rồi đưa lên đây. Không cấp bậc, không súng, không lương. Anh phải làm những công việc nặng nhọc như tù khổ sai. Rất may, trung uý trung đội trưởng không vì thế mà hành hạ anh. Ông bảo chết nhiều quá, ai không sợ. Thỉnh thoảng ông có cho anh chút tiền tiêu vặt và chúng tôi thường san sẻ thuốc lá cho anh. Anh bị phạt một năm, chịu đựng được hơn năm tháng.

          Bỗng một hôm điểm danh không có anh. Mọi người ai cũng nghĩ là anh lại trốn. Không ngờ anh treo cổ trong nhà tắm!
          Cái chết của anh làm cho tôi ngẩn ngơ. Thà bị bắn gục ở ngoài mặt trận, chứ đút đầu vào thòng lọng sao nó cay đắng quá. Đâu phải anh không muốn sống. Nhưng cái cuộc chiến tranh này nó kéo dài quá lâu. Nó cày nát biết bao phận người. Những người vô tội như cô Sáu tôi, cả những người không ai ưa như ông Khứ, thằng Mậu hay ngơ ngáo như thằng thủ ngữ Đực….Tất cả ngã xuống và rồi sẽ ngã xuống cho đến bao giờ? Cái hiệp định Paris ồn ào kia chỉ làm lợi duy nhất cho những nhà buôn sơn. Khắp nơi người ta đua nhau vẽ cờ trên mái nhà, trên các bức tường mặt phố. Người ta chuẩn bị một cuộc giành dân lấn đất. Chỉ có vậy thôi. Đã ai nhường nhịn ai đâu. Cái bào thai hoà bình chắc cững phải đẻ non thôi, làm sao mà sống được!

          Ngoài cổng lúc ấy lao nhao có người đàn bà hỏi thăm ai đó. Ai cũng tưởng là vợ anh ta đến tìm. Sao mà anh ta linh thiêng đến thế! Biết ăn nói làm sao với người đàn bà tội nghiệp này! Tôi định đi ra gặp chị, nếu cần san sẻ một ít tiền dành dụm để giúp chị. Nhưng không phải là vợ anh ta. Tôi quay vào, bỗng nghe kêu giật ngược :
          – Được ơi, phải em Được đó không?

          Tôi sững sờ quay lại. Thì ra chị Thảo. Tôi cũng kêu lên:
          – Dạ, chính em là Được đây.

          Nếu không có nhiều người chắc là tôi đã chạy ra ôm chầm lấy chị.
          – Thực không ngờ là em ở đây!
          – Em cũng không ngờ là được gặp chị. Em trai của chị ở đơn vị nào?
          – Pháo Binh, ở đâu dưới Pleiku.

          Tôi xin phép trung úy đưa chị đi. Chúng tôi tìm đến đơn vị cậu ta thì được biết pháo đội đã được điều đi nơi khác. Ngày mai chị mới đến chỗ của cậu em. Chị đành phải nghỉ lại ở Pleiku.

          Tôi đưa chị loanh quanh đi dạo phố. Chị nói, con phố gì mà nhỏ quá. Cứ như đi dạo ở làng An Định. Chị hỏi thăm tôi cái làng quê bé xíu nà chị đã từng sống ở đó đến hơn chín năm. Cái cầu tre mỏng mảnh gần trường học mà chúng tôi thường run rẩy bò qua, cái lớp học đầy cóc nhái và rắn rít giữa những hàng tre. Và những con người đã từng cay nghiệt hành hạ nhau ở làng An Định. Những ông Tổng Bá, ông Khứ, cô Thảnh…Khi biết những người một thời rất đáng sợ với trẻ con ấy, kẻ đã chết, người bị bắt…chị thở dài nói:

          – Thật tội nghiệp! Chẳng biết sao họ thù nhau đến thế? Rồi họ được gì? Cho đến giờ chị vẫn còn run khi nhớ lại tiếng nói the thé của cô Thảnh!

          Con phố không đủ dài cho những hồi ức của chúng tôi. Đi mãi cũng chán, chúng tôi ghé vào quán ăn uống qua loa, rồi đi tìm nhà nghỉ. Đó là một khách sạn nhỏ ở một con phố cũng nhỏ chỉ vừa đúng năm căn nhà. Chủ là một người đàn bà kiêm luôn bồi phòng. Bà không hỏi nói gì chỉ lặng lẽ đưa cho tôi một chìa khoá, chỉ tay lên gác. Tôi đưa hai ngón tay. Bà hơi nghi ngờ nhưng cũng đưa thêm một chiếc nữa.

          Nhận phòng xong chị đi tắm. Tôi ngồi hút thuốc ở ban công. Mới hơn 8 giơ tối mà phố xá đã im lìm. Môt vài chiếc xe jeep chạy vụt qua. Đâu đây tiếng máy điện nổ rì rầm. Mới ngày nào mà đã hai mươi năm. Quả thực, nếu chị không kêu đúng tên thì dù có gặp ở ngoài đường tôi cũng không thể nhận ra. Tôi không nói chị đẹp hơn hay già hơn, nhưng so với người con gái đã có lần ngủ quên trong lòng tôi thật khác xa. Ngày ấy chị như chị ruột tôi, còn bây giờ qua cái vẻ hồ đồ của người chủ khách sạn, tôi lúng túng hiểu ra rằng chúng tôi chỉ là hai người đàn ông và đàn bà.

          Tôi định đi xuống phố một lát. Nhưng cửa phòng chị sịch mở và chị tươi tắn đến bên cạnh tôi. Rất tự nhiên, chị đặt tay lên vai tôi, hơi ngửa mặt ra một chút để nhìn cho rõ. Chị nói :
          – Em không khác trước là mấy. Em có biết tại sao chị nhận ra em không ?
          – Dạ không.
          – Tại vì em quá bé và có một cặp mắt rất sáng.
          – Như mắt chó!
          – Đừng nói bậy. Để chị nghĩ coi. Mắt bồ câu thì là mắt con gái. À, phải rồi, như mắt con chồn đèn ấy. Rất tinh khôn mà cũng rất buồn. Không thể nào quên được!

          Hai chị em cùng cười. Thấy tôi cứ mãi đốt thuốc, chị nói :
          – Em hút thuốc hơi nhiều đấy!
          – Dạ em cũng định bỏ mà chưa bỏ được. Đời lính buồn quá chị à.
          – Ơ, chị quên chưa hỏi em. Vợ con ra sao rồi?
          – Em chưa có gì hết.
          – Thật à?
          – Dạ thật.
          – Thế cũng có một cô em nào nhớ tới em chứ?
          – Cũng không.
          – Em dấu chị.
          – Không, thật mà. Chỉ có một người em nhớ tới, luôn luôn nhớ tới nhưng ở rất xa.
          – Ở dâu mà xa?
          – Ở trong chuyện ngày xưa.
          – Thôi đừng đùa nữa!

          Lẽ ra tôi cũng hỏi chuyện chồng con của chị nhưng không hỏi. Thực ra là không dám hỏi. Không hiểu tại sao tôi lại sợ. Có lẽ tại tôi không muốn cái hình ảnh năm xưa bỗng chốc nhòa đi khi biết về chồng con của chị. Nhưng nếu cứ đứng mãi ở ban công, cứ hỏi nói vẩn vơ thế nào cũng có lúc chị tự nói ra, nên tôi khuyên chị đi ngủ sớm để sáng mai đủ sức đi xe. Chị nghe lời vào phòng. Tôi chúc chị ngủ ngon, nhưng chị nói:
          – Chắc chưa ngủ được đâu. Lạ phòng chị hơi sợ. Vào nói chuyện chút nữa đã. Em còn phải kể cho chị nghe trong bao nhiêu năm qua em đã sống ra sao, phải vậy không ?
          – Dạ.

          Tôi vào phòng chị. Cũng một căn phòng nhỏ như phòng tôi. Một chiếc giường nhỏ, một cái bàn, một cái ghế. Chúng tôi phải ngồi trên sàn, tựa lưng vào vách. Y như hồi nào chúng tôi ngồi co ro trong lớp vì đi học quá sớm. Chỉ khác lúc này trời không mưa, đèn sáng và hai người đã trải qua những năm tháng giông bão của cuộc chiến tranh.

          Chúng tôi lại nói tiếp về những ngày còn bé, về cái lớp học chập chờn ma quái trong đêm, những con đường trơn như thoa mỡ, những con đom đóm lập loè, những cọng cam thảo tẩm mật ong….Đêm cao nguyên mát lạnh. Về khua sương giăng trắng. Tiếng máy điện rì rầm nghe rõ hơn và xa xa vọng lại tiếng pháo 155 ly.

          Có một lúc gần như hết chuyện để nói cho nhau nghe. Chúng tôi ngồi lặng ngắm những con thạch sùng đuổi nhau trên trần nhà. Chúng bò ngược mà vẫn nhanh nhẹn như những đứa trẻ chạy chơi trên đất. Thế rồi tôi mơ hồ nghe có tiếng gọi:
          – Được à .
          – Dạ.

          Một bàn tay, đúng là bàn tay của chị chứ đâu phải ai khác nhưng rất lạ bất chợt nắm lấy tay tôi. Nếu bảo một cái cây bị gió thổi rạp cũng chưa chắc đã nhanh bằng. Phải nói là một trái chín đang rụng. Tôi ngã vào lòng chị.
          Phải như tôi ngủ thiếp đi như ngày trước chị ngủ thiếp trong lòng tôi. Phải như một trái hoả châu rơi ngoài cửa sổ. Ừ, phải như vậy thì mọi sự đã không xảy ra. Đằng này chúng tôi như hai thỏi nước đá trong một cái cốc. Chúng tôi đã tan ra và hoà trộn vào nhau.
          …Cho đến khi bừng tỉnh và nhận ra đã làm cái điều không nên làm thì trời đã sáng. Chị giục tôi nhanh chóng trả phòng.

          Chúng tôi ngồi uống càphê ở một quán cóc. Chị tránh không nhìn tôi. Tôi cũng không dám nhìn chị. Nhưng tôi vẫn thấy đôi mắt long lanh ấy, đôi môi nóng bỏng ấy, làn da tươi mát ấy…. Chị đã hào sảng ban cho không một chút dè sẻn. Từ dưới đáy cuộc đời, tôi bỗng dưng được chị nâng lên và cả hai trong một phút giây đã cùng bay lượn trên đỉnh trời cao nguyên lồng lộng.

          Uống càphê xong chị đón một chiếc xe ôm ra bến xe. Tôi rất nuốn đưa chị đi nhưng chị bảo đừng. Chị nói thế nào về trại em cũng bị phạt. Chị bảo anh xe ôm siết ga lao nhanh. Tôi đứng trông theo, bâng khuâng mãi không biết là mộng hay thực.

          Về đến đơn vị, chúng tôi được lệnh hành quân ngay. Có tin quân miền Bắc tập trung một lực lượng lớn ở Ngã ba biên giới. B.52 không còn ném bom rải thảm nữa nên chẳng việc gì họ phải sợ. Tổng thống Mỹ Nixon phải rời Nhà Trắng vì nghe lén. Tổng thống Ford đang nằn nì xin quốc hội chi thêm 700 triệu đô. Trong khi đó, tổng thống Thiệu thề không cho cộng sản về Sài Gòn ăn phở! Dường như lịch sử đang lao vào một khúc quanh nghiệt ngã. Không biết bọn chúng tôi có phải rơi tòm xuống vực? !

          16. Sau bao nhiêu đồn đoán, rốt cuộc quân miền Bắc tấn công Banmêthuột. Dưới con mắt của các nhà chiến lược thì đây là một cuộc tấn công có phần mạo hiểm nếu không muốn nói là tự sát. Bỡi vì quân đoàn II từ Pleiku đánh thốc xuống, quân đoàn dù và thuỷ quân lục chiến từ Nha Trang đánh lên. Có là con voi chín ngà cũng không thoát khỏi vòng vây. Nhưng không hiểu sao người ta vẫn bảo cọng sản chỉ dương đông kích tây để đánh Pleiku! Đến khi cái buôn làng giàu có nhất Tây nguyên bị đánh chiếm hoàn toàn thì mọi quyết đưa ra đều đã quá muộn!

          Banmêthuột bây giờ giống như thiên linh cái đã bị điểm trúng huyệt. Chẳng những các quyết định đưa ra đã quá muộn mà còn quá sai tưởng chừng như u mê lú lẫn. Thay vì phải quyết giành lại cho bằng được dù phải ném vào đó cả sư đoàn như ở cổ thành Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa, thì người ta lại quyết định di tản chiến thuật! Nghĩa là tạm thời bỏ cao nguyên để lui về giữ vùng duyên hải. Năm sau bầu cử tổng thống Mỹ đánh chiếm lại cũng chưa muộn! Thế là một cuộc di tản quân sự ồ ạt chưa từng có đã diễn ra!

          Để tránh bị truy kích và phục kích, người ta không đi dường Quốc Lộ 19 xuống Quy Nhơn mà đi đường tỉnh lộ 7 xuống Tuy Hòa. Người ta cho rằng như thế là đã đánh lừa được cộng sản.

          Cả một quân đoàn với bao nhiêu xe pháo lính tráng vợ con, cùng cả vạn dân tứ xứ lên lập nghiệp ở cao nguyên, đùn đẩy chen chúc nhau trên tỉnh lộ có từ hồi Pháp thuộc, đã từ lâu không dùng đến đầy ổ gà ổ voi nhiều chỗ đứt đoạn.

          Lúc đầu có công binh đi mở đường, thiết giáp đi đoạn hậu, trên cao trực thăng quần đảo. Nhưng khi ra khỏi thành phố chừng vài mươi cây số, bắt đầu xuyên qua rừng thì bị đánh thọc sườn. B.40 lao thẳng vào xe. Rồi lựu đạn ném như vãi cát. A.K nổ cồng cộc từng tràng. Lửa và khói mù trời. Tiếng súng nổ. Tiêng thét gào. Tiếng rên xiết kêu la tuyệt vọng. Một cảnh hoảng loạn chưa từng thấy. Dân hốt hoảng giẫm đạp lên nhau. Lính vứt súng đi tìm vợ con. Cả một quân đoàn thiện chiến giờ như một con rồng bị thương đang cố trườn mình ra biển!

          Trước đó, cuộc hành quân của chúng tôi chưa được mấy ngày đã được lệnh khẩn cấp phải quay về. Chúng tôi không kịp về trại mà phải xuống Pleiku để di tản ngay. Lúc đầu còn đi theo từng trung đội, sau mạnh ai nấy đi. Chẳng mấy chốc chúng tôi lọt giữa một rừng người hốt hoảng. Người ta tranh nhau leo lên xe, chẳng cần biết là lính hay dân. Rồi người ta cướp xe, cán cả lên người bị thương mà đi. Phía trước có cầu bị sập. Phía sau không cần biết cứ đùn đẩy tới trước. Cả một đám người lúc nhúc loi nhoi, tới không được, lui cũng không. Pháo địch lại rót tới không thương tiếc! Máu và thịt tung lên đỏ thắm như xác pháo.

          Mình đầy máu me, tôi bị hất tung lên cao rồi rơi xuống bìa rừng. Bị choáng một lúc. Khi tỉnh lại tôi nhận ra rằng, nếu cứ nhập vào cái đoàn người vừa đói khát vừa điên dại đó, trước sau gì tôi cũng bị xéo nát. Tôi tìm tới một gốc cây nghỉ mệt, mặc cho đoàn người xe pháo tuyệt vọng vẫn cứ bò qua.

          Tôi chập chờn trong cái đêm kinh hoàng nhất của đời mình. Hơn cả lúc cô Sáu tôi chết. Cái khủng khiếp không hẳn do đạn bom chết chóc mà là một nỗi tuyệt vọng to lớn làm cho cả đầu óc và chân tay tưởng chừng rũ liệt.

          Sáng ra, đoàn người đã đi suốt đêm bỏ lại con đường đầy những súng ống giày mũ và những xác chết không còn nhận ra mặt người. Đau xót làm sao là hãy còn những đứa bé xao xác đi tìm cha mẹ. Tôi định gom chúng lại dẫn đi. Nhưng lúc ấy có nhiều toán du kích xuất hiện. Bọn họ đi thu nhặt súng. Tôi lại phải nằm xuống giả vờ chết. Mặc cho những đứa bé dãy dụa khóc la, họ vẫn buộc chúng đi theo họ vào tận rừng sâu. Tôi cố nghỉ là họ không nỡ đem chúng đi bắn để khỏi phải gào lên!

          Thật may là tôi không bị thương tích gì. Tôi nhặt một biđông tìm chút nước. Tôi uống một ngụm rồi cứ phía trước mà đi đại chẳng cân biết đây là nơi nào. Vượt qua những vũng máu, những xác xe tăng đang còn cháy dở, tôi đến gần một con suối. Lúc ấy tôi nghe một tiếng rên. Tôi tìm tới, chắc là có người đang bị thương. Nhưng thật bất ngờ, đó là một người đàn bà với cái bụng to kềnh đang quằn quại vì sắp sinh. Dĩ nhiên là tôi ngồi xuống bên cạnh, dù tôi không biết sẽ phải giúp đỡ chị ta bằng cách nào.
          Tôi chưa dám hỏi nói gì với chị. Trông chị mệt lã. Mồ hôi chảy ướt cả tóc. Bên cạnh chị, một xác chết nằm sấp, chiếc mũ sắt che kín mặt anh ta. Tôi thấy đau nhói ngang ngực. Chắc chắn cái xác ấy là cha của đứa trẻ chưa biết sẽ được sinh ra bằng cách nào!
          Dường như cảm nhận có người ngồi bên cạnh, mắt chị vẫn nhắm, nhưng miệng chị run rẩy thều thào: “Xin đừng bỏ đi! Hãy làm phước giúp tôi!“. Tôi vội lên tiếng để chị yên lòng: Ờ, có tôi ở lại đây, chị đừng sợ. Chị mở choàng mắt, ngạc nhiên khi thấy tôi là một người đàn ông. Chị nói như khóc: Xin anh giúp giùm mẹ con tôi. Tôi gật đầu.

          Liền sau đó, chị cong người lên vì đau. Tôi vội ra sau đỡ lấy người chị. Chị cắn môi đến bật máu để nén tiếng kêu. Tôi chưa thấy một người đàn bà nào trở dạ trong cảnh đau thương tuyệt vọng như chị. Tôi rùng mình nghĩ tới mẹ tôi. Cái đêm mà mẹ sinh tôi ra ở bờ sông chắc cũng trơ trọi, đớn đau và tuyệt vọng như thế này. Tôi thấy thương mẹ tôi quá. Bao nhiêu giận hờn, ấm ức, giận mẹ giận đời, như cục đá to suốt bao nhiêu năm chẹn ngang ngực, bỗng chốc tan ra như nước.

          Bỗng chị qườ quạng nắm chặt tay tôi. Chặt đến nỗi tôi tưởng chừng chị sắp bóp nát nó ra. Hai gót chân chị cày trên đất để tìm chỗ tựa. Người chị như một cánh cung. Chị nín thở rồi bật ra một tiếng “ối”. Chị ngã vật ra. Tôi cũng ngã theo.

          Ơn trời, chị sinh được một cháu bé. Khi tôi đỡ đứa bé trên tay, một thằng cu, nó khóc thật lảnh lói. Tôi mừng đến chảy nước mắt. Cũng là tiếng khóc, nhưng không phải là tiếng khóc của những con người khốn khổ vừa đi qua, mà tiếng khóc mới, ấm và vui quá chừng. Không hiểu tiếng khóc đầu tiên của tôi có được như vậy không?

          Mẹ của cháu tuy mệt, nhưng nụ cười đã làm cho khuôn mặt chị trở lại bình thường, không còn méo mó nhăn nhúm nữa. Chị đỡ lấy con, nhờ tôi đi xuống suối lấy nước. Sau đó, chị chỉ cho tôi một số việc mà các bà mụ phải làm. Tuy lúng túng vụng về nhưng tôi đã làm những công việc kỳ lạ đó không một chút ngượng ngập xấu hổ.

          Sau đó, để yên cho chị rủ rỉ nựng con, tôi lặng lẽ đem cái xác của người chồng đến một gốc cây gần đó. Tôi bẻ lá cây rừng phủ lên người anh, như tôi đã từng lót lá để chôn cô Sáu. Tôi khiêng đá chặn lên để thú rừng không moi xác anh. Tôi cũng dùng đá khắc tên họ anh lên cây để may ra sau này chị biết chỗ mà tìm.

          Khi mọi việc xong xuôi, ngày cũng sắp tàn. Tôi đến gần chị và nhận ra khuôn mặt chị đầm đìa nước mắt. Chị nhìn tôi, nói gân như nấc lên từng tiếng:
          – Anh gì ơi! Mẹ con tôi biết lấy gì đền ơn anh !
          – Trông chị hãy còn mệt lắm. Chị ngủ đi!
          – Anh ấy là chồng tôi.
          – Tôi cũng đoán vậy.
          – Anh ấy bị trúng đạn.
          – Anh chị về đâu ?
          – Về Nha Trang. Chắc còn xa lắm phải không?
          – Tôi cũng không biết nữa, nhưng sẽ cố đưa chị về ít ra là tới Tuy Hòa.
          – Anh khổ với chúng tôi quá. Chắc là Trời Phật đưa anh tới giúp chúng tôi.
          – Chị đừng nghĩ ngợi lung tung. Tôi với anh ấy cùng là lính mà.

          Rất may là anh chị đã chuẩn bị cho đứa con đầu lòng rất chu đáo. Những tã lót và quần áo của cháu bé vẫn còn sạch sẽ thơm tho. Anh là trung uý và chị là giáo viên tiểu học. Thật tiếc là anh không còn sống để được thấy đứa con xinh đẹp của mình chào đời.
          Đêm hôm đó, tôi đốt một đống lửa bên cạnh nấm mồ bằng lá của anh. Gần đó vợ con anh đang nằm ngủ. Xa xa vọng lại tiếng máy bay trinh sát và khu rừng đôi lúc sáng lên dưới ánh hoả châu buồn bã.

          Sáng hôm sau chúng tôi lên đường. Một cuộc hành trình vất vả mà có lẽ suốt đời chị không bao giờ quên được. Cuộc hành trình giữa những xác chết đã bắt đầu hôi thối. Dù can đảm và chịu đưng đến mấy cũng có lúc chị phải bật khóc. Chân chị phồng rộp. Nhiều đoạn tôi phải ghé lưng cõng chị đi. Đứa bé trên lưng chị ngật ngừ vì bị sốt.

          Năm ngày sau, chúng tôi cũng bò được ra khỏi rừng và đến được những xóm làng nghèo nàn thưa thớt. Dù vậy, những người ở đây cũng đã giúp chúng tôi thoát chết.

          Khi tôi đưa được chị đến Tuy Hoà thì cờ MTGPMN đã tung bay ngạo nghễ. Tôi tìm cách đón xe cho chị về Nha Trang. Đứa bé đã biết hấp háy nhìn tôi khi tôi đặt một ngón tay lên trán bé để từ biệt. Chị không nói lên lời, nước mắt lặng lẽ nhỏ xuống mặt con. Tôi chúc chị lên đường bình yên. Còn tôi, con đường trước mặt chắc chắn là không bình yên một chút nào.

          17. Giữa những con phố đầy cờ nửa xanh nửa đỏ, mọi người mệt mỏi trở về sau khi đã cố sức chạy theo quân miền Nam mà không kịp. Hay đúng hơn là cũng không còn biết chạy đi đâu nữa. Lịch sử đang viết tiếp những dòng dữ dội. Hết Phan Rang, Phan Thiết, đến Long Khánh, Biên Hoà rơi rụng như những đồng bạc vô hồn trong tay một con bạc tháu cáy. Sài Gòn bị bao vây bỡi một số lớn những máy cày giả làm xe tăng. Tổng thống một ngày Dương văn Minh chỉ kịp ghi cái dấu chấm nhỏ vào lịch sử bằng cách tuyên bố đầu hàng vô điều kiện!

          Dù sao thì cũng đã hoà bình, tuy rằng con chim bồ câu một cánh thì xanh, một cánh thì đỏ. Từ đây các bà mẹ không phải đêm đêm ra thắp nhang giữa trời, cầu xin Trời Phật chở che cho con trai khỏi phải bị hòn tên mũi đạn. Các chị vợ lính khỏi phải ngất xỉu vì nhận giấy báo tử của chồng. Và lúa chín sẽ có người chờ gặt!

          Trở về!
          Hai tiếng nghe náo nức làm sao!

          Trên đường về làng, nhộn nhịp những người hồi cư. Vẫn gồng vẫn gánh, vẫn tay xách nách mang, vẫn luộm thuộm rách rưới như ngày nào bỏ cả nhà cửa ruộng đông mà đi. Sau bao nhiêu năm dấp dúi bên hông phố chợ, những con người của đồng ruộng cũng chẳng giàu có văn minh hơn chút nào. Đôi mắt ai cũng mờ đi ít nhiều. Giọng nói còn đục và buồn hơn. Biết sống làm sao đây khi ruộng đồng cỏ lát cao ngập đầu người. Những đồng lương ít ỏi của những đứa con đi lính xẻ chia đã không còn nữa. Trên đầu đứa nào cũng cao lêu nghêu một cái mũ nguỵ quân nguỵ quyền.

          Tôi đã gặp các ông hương kiểm, hương bộ, các ông biện, ông câu… Với cây gậy trong tay các ông run rẩy đi theo con cháu. Chừng ấy năm chạy loạn, chừng ấy năm sống bụi sống bờ, các ông hãy còn liu xiu bước đi đã là may. Đem được cái nắm xương về với quê nhà thì con chim hoà bình màu gì cũng được!

          Đã tới làng rồi đây!
          Tôi lội qua sông leo lên cái mô đất bên cầu. Giữa cây cỏ hoang vu, một cây khế đúng là đã mọc trên chỗ cô tôi nằm. Những bông khế đầu mùa tim tím đang lặng lẽ toả hương. Tôi cứ tưởng mình sẽ phải khóc nức nở khi được quỳ trên mộ của cô. Nhưng thật lạ, tôi lại thấy lòng mình rất ấm áp. Như thể tôi đang gặp lại cô. Tôi nói thầm: Con đã về rồi, thưa Mẹ!

          Trong lúc tôi đang lay hoay thắp nhang cho cô thì có tiếng đạn lên nòng và có tiếng quát :
          – Mày là thằng Được chó đẻ phải không?

          Tôi nói:
          – Đúng, Lê văn Được là tôi.
          – Đi theo tao!

          Tôi nói:
          – Để tôi thắp cho cô tôi cây nhang đã!

          Nhưng bọn họ túm nắm nhang vừa mới đốt ném vào bụi.
          – Đi ngay! Không nhang khói gì hết. Đồ chó đẻ mà cũng bày đặt nhang với khói!

          Tôi bị dí súng vào lưng bắt phải đi đến trụ sở Uỷ ban quân quản lúc này đang che tạm trên nền nhà ông Chánh nhạc. Một người hơn 30 tuổi đầu đội mũ tai bèo, lưng đeo súng colt xô ghế đứng dậy hỏi tôi:
          – Hừ, thằng chó đẻ mày có biết tao không?

          Tôi không trả lời. Thực ra tôi biết. Nó là thằng Khấu con ông Năm Qườn chăn vịt. Ngày trước ở làng người ta gọi đùa ông là thiếu tá vì dưới cây sào của ông lúc nào cũng có cả mấy trăm con vịt đẻ. Bà vợ ông cũng đẻ nhiều như vịt, nhiều đến nỗi ông không nhớ hết tên con. Để khỏi nhầm, ông gọi kèm với một đặc điểm nào đó. Như Sủng lé, Mận còi, Khấu thẹo…Một lần đuổi theo mấy con vịt lạc bầy, ông đã bị nước lụt cuốn trôi. Khấu thẹo thay cha nắm cây sào. Chẳng biết có phải vì lý lịch chăn vịt mấy đời mà nay nó được chăn dắt dân làng An Định lúc này cũng đang lao nhao chẳng khác gì một bầy vịt đói.

          Múa cây colt trong tay như một viên thiếu tá thực thụ, nó nói:
          – Giải phóng đã từ lâu rồi sao mày còn ôm chân đế quốc?

          Tôi nói:
          – Hôm nay mới mùng 10 tháng 5.
          – Tao nói từ khi giải phóng Bình Định kia!
          – Nhưng nay cũng đâu đã hết hạn.
          – Mày cãi lý với tao hả. Nếu không gông cổ mày tới đây, đã chắc gì mày chịu trình diện. Mày có biết cái tội của mày lớn đến chừng nào không?
          – Tôi trốn không được thì phải đi lính vậy thôi. Tôi nào đã bắn chết ai đâu!
          – Mày đem chó khui hầm bắt đồng chí Thảnh và nhiều đồng chí khác mà không bắn giết ai à? Những đồng chí ấy đáng giá cả trăm cả ngàn người. Lại còn đồng chí Khứ nữa. Mày ác đến độ để lũ chó kéo xác cho lũ giặc xem.
          – Ông ấy cố lết ra miệng cống uồng quá nhiều nước nên chết. Tôi muốn cứu cũng không được.
          – Vậy là mày nói đồng chí ấy ngu?
          – Không. Tôi nghe người ta nói bị thương mà uống nước nhiều nước là chết không kịp ngáp.
          Thế là hắn quát:
          – Tống cổ nó vào xà lim.

          Thực ra đó là cái nhà tắm của cô Thảnh đã bỏ hoang từ khi có một thằng phải gió nằm trên mái nhìn trộm. Sau bao nhiêu năm dưới bom đạn chẳng hiểu sao nó vẫn còn! Nó đầy cóc đầy nhái và trên tường đầy những hình vẽ tục tĩu. Tôi bị trói, một tay quặt ra sau lưng, một tay vòng sau ót, hai chân không bị cùm nhưng cột vào một khúc cây nên chỉ có trời mới cứu được. Tôi cố chịu trận suốt đêm.

          Sáng hôm sau chúng đem tôi ra trước dân, thực ra là trước một đám du kích, chỉ lèo tèo vài cụ già ốm yếu. Tôi biết là mình đang bị đem ra đấu tố. Tôi được cởi trói, nhưng bị bắt quỳ chống hai tay xuống đất. Tiếng Khấu thẹo:
          – Bò tới đây!

          Tôi bò tới. Hắn thảy một gói gì hôi hôi trước mặt bảo ăn đi. Tôi không ăn, cả bọn cùng cười. Hắn chế nhạo:
          – Chó mà chê cứt à?

          Tôi im lặng vì biết những gì sắp xảy ra. Đó là sau khi bị làm nhục đủ điều sẽ ăn đấm ăn đá, bị báng súng nện vào đầu, gậy đập vào lưng và sau cùng là bị quẳng xác xuống sông. Y như chó chết.

          Tôi đang chờ đợi cái kết thúc cuộc đời một cách khôn nạn như thế thì có đứa đến nói nhỏ vào tai Khấu thẹo gì đó. Hắn bực bội chửi thề, rút súng bắn lên trời mấy phát. Hắn chỉ thẳng vào mặt tôi, nói:
          – Tội của mày đáng băm vằm ra trăm mảnh chứ không phải chỉ có mỗi lá gan như của thằng Mậu thôi đâu. Trước đây thì mày đã nát xương với tao rồi. Nhưng nay hoà bình thì để Trên xử. Mày đã hại các cụ lớn thì hãy để phần cho các cụ trị mày. Thôi đưa nó lên Huyện. Đồ chó đẻ!

          Bọn chúng không bắt tôi phải đi theo kíểu chó. Nhưng hai tay bị trói, lại có cả tiểu đội du kích áp tải, nên dọc đường đi, mọi người nhìn tôi thương hại như nhìn một tử tội trên đường ra pháp trường.

          Tại Uỷ ban quân quản huyện, tôi được đối xử nhân đạo hơn. Người ta cho tôi ăn, dĩ nhiên là cơm độn. Rồi người ta đưa giấy bút bảo tôi kê khai những tên biệt kích Mỹ. Tôi nào nhớ hết. Vả lại tôi cũng chỉ nhớ mang máng một vài đứa. Tôi định viết hai chữ: không biết, nhưng nhớ lại hồi bị giam ở quận, nếu không khai bậy vài tên sẽ bị đánh nhừ đòn, nên tôi phịa ra cả một danh sách dài với những tên Mỹ và Nùng mà dù có thắp đuốc đến năm 2000 cũng không tìm ra được.

          Có danh sách ấy người ta coi tôi như thằng thủ ngữ Đực dạo nào. Nghĩa là từ tôi sẽ phăng ra bọn biệt kích mà người ta tin là còn được cài lại để chống phá Cách mạng. Tôi được phép mua thuốc hút, được mua bia nếu muốn. Cứ như tiêu chuẩn của cán bộ cao cấp. Nhưng rồi tôi phát hoảng khi nhớ lại rằng, cũng chính vì thế mà thằng thủ ngữ Đực đã bị đem ra bắn bỏ ở đồng cây Sanh!
          Cũng may là người ta có quá nhiều việc phải làm, nào đổi tiền, nào cải tạo công thương nghiệp, nguỵ quân nguỵ quyền… nên người ta quên mất cái danh sách bậy bạ của tôi. Sau đó, người ta đưa tôi đi cải tạo mặc dù tôi không phải là sĩ quan. Tôi bị ghép vào tội ác ôn gây nợ máu với nhân dân. Cái danh sách ở làng An Định đi học tập, chẳng những tên tôi đứng đầu mà còn gạch đít màu đỏ đến những hai lần.

          Đến trại K….

          Một tháng sau, người ta rà soát lý lịch thấy tôi chỉ là một thằng lính chó nên đuổi về. Nhưng vừa về tới làng thì Khấu thẹo bảo tôi bỏ trốn, lại thộp cổ đưa đi. Lại đuổi về. Rồi lại bị áp giải đưa lên. Đá qua đá lại như thế, sau cùng người ta ném tôi vào chung với bọn ma cô đĩ điếm, bọn anh chị cướp giật trước đây.

          Có vào đây mới biết địa ngục là có thật. Nó ở ngay trên cái trần gian này chứ không cần phải xuống tận âm phủ. Chẳng biết do ai đồn thổi mà chúng tưởng tôi đã từng làm chủ bar nên rất giàu. Có đứa còn bảo tôi đi biệt kích Mỹ đã từng nhảy sô ra Bắc nên tiền tử và tiền thưởng để đâu cho hết. Cứ sau khi cán bộ quản giáo vừa quay lưng là chúng lôi tôi ra tẩm quất bằng những cái lên gối muốn ói máu, những cái thúc cùi chỏ đến nghẹn thở. Rồi chúng bắt tôi uống một thứ nước quỷ quái gì đó, nửa như nước đái bò nửa như nước rửa thớt để tôi nôn thốc nôn tháo ra. Không thấy gì, chúng lại bắt tôi uống một thứ nước khác đau thắt ruột, rồi bắt một đứa ngồi xem tôi ỉa có hột xoàn hay không. Chúng hành hạ tôi suốt cả tháng trời đến nỗi chỉ còn là cái xác khô nằm trong xó. Cán bộ tưởng tôi chết cho đem đi chôn. Bọn chúng không thèm đào lỗ, chỉ quăng tôi xuống suối. Có một người mò cá vớt được, cho tôi uống nước gừng và quế. Nhờ đó tôi sống lại được, một mình bò về trại.

          Mãi sau này chúng mới biết tôi là đứa không mẹ không cha, mới sinh đã bị đem thả trôi sông, đi lính chỉ là lính chó! Từ đó, chúng coi tôi như cùng một giuộc, nghĩa là cùng bị cuộc đời chó má chà lên đạp xuống không biết bao nhiêu lần. Chẳng những chúng thôi hành hạ mà còn cho chác, khi miếng đường khi điếu thuốc. Chúng còn bảo khi ra tù chúng sẽ bày cho mánh làm ăn!
          Tôi cố gắng cải tạo thật tốt, nghĩa là cố gắng giữ đúng nội quy của trại. Sáng nhận một củ khoai nhỏ bằng ngón tay để đánh thức cái dạ dày đã ngủ yên. Rồi vác rựa vào rừng để chặt cây hay vác cuốc xuống ruộng tuỳ theo đội. Trưa về, đúng một chén cơm trộn bo bo và một phần tư con mắm thối. Chiều lại đi vào rừng, lại xuống ruộng. Lại một chén khô rốc gọi là cơm và một phần tư cái xác thối gọi là mắm. Tối xem TV để thấy cả nước đang hăng say xây dựng XHCN!

          Sau cùng đến giờ ngủ. Cứ tưởng với cái thân xác đói khát mệt rũ người ra, đứa nào cũng sẽ ngủ như chết. Nhưng trong đêm tối đủ thứ tiếng động lịch kịch. Tiếng rên, tiếng khóc, đôi khi tiếng thét như một đường gươm. Tôi co quắp người bịt tai lại như con trút. Có những cảnh cưỡng dâm khủng khiếp như trong cái buồng tắm của bar thằng Hậu!

          Mặc dù năm nào tổng kết, tôi cũng được coi là tiến bộ, được đề nghị cho ra trại. Nhưng địa phương vẫn cứ bảo là tôi cần phải cải tạo nữa, không chịu nhận. Sau nhiều lần như vậy, quản giáo đâm gắt: cái làng An Định chết tiệt, có giỏi thì lên đây mà cải tạo. Nhờ vậy tôi được cho về sau đúng 5 năm giáo dưỡng! Nếu tính ra thiên thu thì biết mấy ngàn cái thiên thu trong một đời người!
          Khi về đến làng, việc trước nhất của tôi là đến thăm mộ cô Sáu. Lần này thì tôi khóc nức nở như một đứa bé bị lạc mất mẹ. Đến những mười lăm năm kể từ ngày cô mất, giờ tôi mới được bình yên ngồi bên cạnh mộ cô, thực ra là ngồi trên chỗ cô nằm mà chỉ có mỗi cây khế thay cho bia mộ. Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày sống bên cô. Những lần đi mót lúa, đi mua mía và cái áo mới cổ vuông. Đó là những ngày êm đẹp nhất. Tôi thiếu cơm, thiếu áo nhưng không bao giờ cảm thấy thiếu Mẹ.

          Cái chòi của cô đương nhiên không còn. Cái rẻo đất ấy người ta cũng không cho làm nhà. Tôi được anh Cộng trưởng tràng ngày nào giờ là trưởng ban thôn cho ở tạm trong nhà kho của HTX. Rồi tôi được giao cho việc giữ sổ sách, mỗi ngày được 10 điểm, quy ra thóc là được 500 g.

          Mọi việc có vẻ êm xuôi như thế là nhờ Khấu thẹo không còn ngồi trên cái ghế chủ tịch nữa. Anh ta sau mấy năm được cho đi học bồi dưỡng nhưng không qua được cái bổ túc công nông cấp 1 bèn chửi đổng: Đù mẹ, thà làm thằng chăn vịt sướng hơn làm thằng cán bộ. Anh ta lại tậu một bầy vịt và dưới cây sào của anh, bầy vịt ngoan ngoản để cho anh đếm dẽ dàng hơn là làm mấy con tính cọng trừ nhân chia.

          Đời sống ở HTX so ra cũng chẳng khác gì mấy ở trại giáo dưỡng. Cũng sáng đánh kẻng ra đồng. Trưa đánh kẻng về, chiều lại đánh kẻng ra. Lúa thóc đến mùa được đưa hết vào những cái kho to đùng mới cất trên các gò đầy mồ mả. Ban quản trị HTX nắm hết tất cả soi ruộng trong làng, trở thành một đại địa chủ còn to gấp trăm lần ông Tổng Bá. Chỉ khác một điều là anh có thể cầm cuốc đứng nhơi nhơi cho hết giờ rồi về. Và tối đến anh có thể đi ăn trộm!

          Cứ đem theo một cái bao cát rồi nằm sấp trên bờ ruộng mà trườn đi. Chân thì đạp tay thì tuốt. Tuốt, tuốt mãi cho đến khi đầy bao hay chảy máu tay thì thôi. Năm Quầng, Sáu Quẳng mà có sống lại cũng phải cúi đầu bái phục! Ở trại giáo dưỡng tội ăn cắp của tập thể là bị bỏ đói, nhiều lần thì bị cùm chân. Nhưng ở làng thì chẳng ai làm gì anh vì gần như cả làng cùng đi ăn trộm như thế. Biết bỏ đói ai, cùm ai bây giờ! Với lại cũng phải làm ngơ cho người ta sống chứ. Một hạt lúa bây giờ cõng đủ thứ trên lưng. Nào quỹ này quỹ nọ, nào phải mua nông cụ, nào tái sản xuất, nào xây dựng kênh mương và phải nuôi mấy chục người trong Ban quản trị nên công điểm tụt dần mỗi ngày công chưa được vài lạng.

          Còn đói hơn hồi chín năm. Và để có cái áo cho con, cái quần cho vợ, trai tráng trong làng kéo nhau đi buôn. Ngày xưa, chợ là của đàn bà, bây giờ chợ là của đàn ông. Bỡi vì chẳng những phải biết khiêng biết vác mà còn phải biết chạy. Chạy và chạy. Nếu chạy không giỏi thì bị quản lý thị trường và thuế vụ tịch thu! Bây giờ có hàng ngàn ông Khứ đang ngày đêm chực chờ rình rập ở các bến xe, các con tàu, các sân ga, các ngõ vào thành phố…

          Ham vui và cũng đi một lần cho biết Sài Gòn, tôi đã theo bọn họ thử làm con buôn! Với 20 ký gạo buột trên lưng, ăn ngủ nằm ngồi cũng không được rời ra, trông cứ như một cái bướu. Bọn họ, kẻ thì mang giỏ gà, kẻ thì mang heo con. Buồn cười nhất là cái anh bán heo. Anh ta mang hai con heo trên lưng cứ như Phạm Công mang hai con ra trận. Cốt Đột thấy thương quá bèn cắt cho cái đầu rồi bãi binh. Nhưng thuế vụ thì không. Anh ta bị rượt chạy mà không trốn vào đâu được vì hai con heo cứ mãi kêu ét ét !
          Cả bọn trốn vào các nhà gần ga. Khi con tàu mệt nhọc bò tới, có cả trăm con người với đủ thứ lỉnh kỉnh trên lưng cùng đè nó ra mà leo lên. Bọn trên tàu sập cửa, bọn dưới đất liền phá cửa. Một cuộc hỗn chiến như du kích tập đánh xáp lá cà. Kẻ lên được thì chết ngộp trong hơi người, hơi heo gà mắm muối. Kẻ chưa lên thì cố đu theo như những con nhái. Trên mui đương nhiên là đặc kín người. Thỉnh thoảng có kẻ ngủ quên hay qua cầu bị gạt rơi xuống!

          Xe qua Vân Canh như đi vào một cuộc phục kích của thổ phỉ. Một cơn mưa cây và than trút vào các toa. Ai không tránh được thì đành ôm cái đầu máu hay cái tay gãy! Xe qua Suối Dầu là mưa chuối cây. Xe vào Phan Thiết là mắm muối, là cá khô…
          Phì phò, è ạch mãi đến hai ngày đêm, con tàu mới lết nổi tới Sài Gòn. Cái thành phố khổng lồ gần như đang bị bao vây sống lây lất nhờ bọn con buôn đem những thứ không ăn được như lốp xe, vải vóc, thuốc trừ sâu… đổi lấy những thứ ăn được. Một cuộc bán buôn chụp giựt diễn ra dưới sự bố ráp của đủ thứ lực lượng. Tu huýt kêu toét toét…Mặc kệ! Đạn bắn chỉ thiên kêu chóc chóc! Cũng mặc kệ! Bị rượt đuổi như chuột…Mặc kệ tuốt! Vừa chạy vừa bán. Vừa trốn vừa bán. Đang té ngã cũng cứ bán.

          Tôi bị đạp ngã nhào. Chưa kịp ngồi dậy đã bị đè nghiến. Chỉ nghe một tiếng rẹt, cái cục gạo dính chặt suốt mấy ngày trên lưng bỗng biến mất. Khi tôi đưng lên được thì một gã đeo băng đỏ quát vào mặt: Cút xéo đi, đồ con buôn!

          Cái cảnh ấy ngày nào cũng diễn ra dưới ánh nắng mặt trời nóng bỏng và buồn bã của phương Nam.

          Thế rồi, bỗng dưng bức tường Bá Linh kiên cố là thế lại sụp đổ. Các nước Đông Âu rơi rụng y hệt như những thành phố Miền Nam năm 75. Liên xô thành trì Cách mạng vô sản thế giới cũng tan rã theo như tuyết tan trên sông Volga.

          Cả nước bàng hoàng!
          Người ta không còn thách thức: Ai thắng ai ! nữa, mà làm một cuộc Đổi Mới là trả ruộng lại cho dân! Thực ta là chia và tôi cũng được đúng 475 thước. Bây giờ, tôi có nhiều cục đất để ném chó ỉa và không còn bị gọi bằng thằng như trước nữa.

          Nhưng bấy nhiêu ruộng đất đó cũng chỉ đổi đời bằng tiếng gọi ông chứ nghèo vẫn hoàn nghèo. Tôi dành 75 thước cất một cái nhà chỉ lờn hơn cái lều cô Sáu tôi một chút, còn lại suốt năm cặm cụi trên mảnh đất đó như con gà bươi mãi trên cát.

          Những nhà khác được chia nhiều hơn vì có đông nhân khẩu. Nhưng cũng lại đông hơn những cái miệng há ra đòi ăn như những con chim tu hú trong các tổ chim sáo! Và cũng chẳng hơn gì tôi, cũng lại nghèo, có khi còn thê thảm hơn vì ốm đau phải đem cầm thế, bán lần bán hồi rồi cũng lại trắng tay.

          Một ngày tháng ba, một chiếc xe kêu lạch cạch chở một chiếc quan tài về làng. Mọi người nhấp nhỏm kéo ra xem. Té ra, đó là thằng Hậu. Nó không mặc áo đại tang, nhưng trông nét mặt buồn rũ ra, ai cũng biết người nằm trong hòm là cha nó.

          Trong làng, gần như ai cũng mang ơn nó nên hỏi thăm rối rít. Câu chuyện của nó đúng là có một kết thúc quá buồn. Bao nhiêu tài trí, khôn lanh, chỉ trong một buổi sáng đã không gỡ nỗi cái mũ kinh tài cho Việt cọng. Sau 75, một cái mũ khác to hơn, nặng hơn, cái mũ làm tay sai cho giặc, làm nhục phụ nữ Việt Nam anh hùng (mở bar chứa gái), đã đưa nó tới cái vùng ma thiêng nước độc gọi là kinh tế mới. Ở đó với hai bàn tay không, với vợ con đau ốm, nó thực sự quỵ xuống.



          Cũng có lần nó được một vài người quen cũ thương tình cho đi vượt biên. Chiếc thuyền mỏng manh như một cái mo cau cố sức trườn tới hải phận quốc tế. Rất nhiều tàu đi qua, có tàu to như cái xóm Miễu, ban đêm đèn thắp sáng choang. Nhưng chẳng tàu nào chịu dừng, mặc cho nó và những người trên tàu tung mũ nón, kêu gào đến khản cổ. Mãi mấy ngày sau mới có một tàu thả ca nô xuống. Nhưng khi lên tàu, hóa ra là tàu Liên xô! Bọn nó bị đưa vào Đà Nẵng, rồi bị tống giam vì tội phản quốc.

          Ra tù, vợ con nó trôi dạt chẳng biết đi đâu, chỉ còn mỗi ông già nằm thoi thóp mong thấy mặt con rồi mới chết. Có lẽ linh cảm cái tai nạn tán gia bại sản, nên trong những ngày mà nó rủng rỉnh tiền bạc, ông cụ đã dành dụm ky cóp những đồng tiền ăn quà, mua được mấy chỉ vàng. Nhờ vậy, nó mới đủ tiền thuê một chiếc xe than đưa xác ông cụ về quê.

          Sau đám tang nó ở lại làng một vài ngày. Nó có đến nhà tôi một lần, ăn một bữa cơm không độn bo bo và uống một chút rượu mía thay cho rượu úyt ky pha coca. Tôi quá nghèo chẳng biết lấy gì giúp đỡ nó.

          KẾT. Bây giờ đã là năm 2000.

          Mặt trời vẫn mọc. Nắng vẫn vàng như mật ong. Trời vẫn xanh màu xanh muôn thuở. Chẳng có gì là đã đến ngày tận thế. Chúa cũng chỉ hù dọa mà thôi.

          Dù sao được sống đến cái năm mà cả thế giới hồi hộp đón chờ cũng thật là hạnh phúc. Các ông già đã được con cháu lần lượt khiêng qua bên kia sông. Tôi tròn sáu mươi tuổi. Cũng sắp được lên lão làng.

          Từ một đứa bé bị thả trôi sông, trải qua sáu mươi năm, trở thành một ông già thật là dài. Những tháng năm cuồng nộ đã đi qua đời tôi như một bầy ngựa điên. Nhiều lúc tôi tưởng đã bị chúng giẫm đạp cho nát tan. Tôi bị tung lên, bị quật xuống, bị đá qua bên này, bị đạp qua bên nọ.

          Nhưng cuộc đời dù khốc liệt đến đâu vẫn có cách san sẻ riêng của nó. Tôi kể ra đây câu chuyện cuối cùng để kết thúc những trang hồi ký buồn nhiều hơn vui này.

          Một buổi chiều, trời cũng đẹp như chiều hôm nay. Đó là lần giỗ thứ ba mươi lăm của cô Sáu tôi. Đám giỗ ngay tại cái mô đất bên cầu. Bên cạnh cây khế giờ đã xum xuê hoa trái, tôi đặt một đĩa cơm vắt và muối rang, là hai thứ mà cô tôi thích vì cho rằng đó là những thứ quý nhất trên đời.

          Tôi đang lâm râm khấn khứa, bỗng có cảm giác nóng ran một bên má. Tôi quay lại. Đứng trên cầu là một người đàn bà đang lặng nhìn tôi. Hai hàng nước mắt sáng lên trong nắng cùng những sợi tóc bạc.

          Tôi kêu lên thảng thốt :
          – Chị Thảo! Có phải chị Thảo không?

          Chị gật đầu.
          Tôi sụp lạy. Vừa lạy cô tôi, vừa lạy tạ đất trời.

          Khi tôi ngẩng đầu lên, một người con trai cao lớn ở đâu đến đứng sau lưng chị. Tôi nghe tiếng nói như từ trong mơ hay từ một cõi trời nào đưa lại:
          – Chào cha đi con!

          Lần này thì tôi khóc.
          Đứa con trai ôm lấy tôi, áp cái đầu đang muốn nổ tung vì bất ngờ vào cái ngực vững chải của nó. Một lúc sau nó mới ngửa mặt tôi ra, hôn lên cái trán đã bắt đầu nhăn nheo thay cho một lời chào.

          Viết xong lần thứ nhất năm 2004 - Lần thứ hai năm 2009
          Lần thứ ba năm 1011
          Khuất Đẩu
          Last edited by KiwiTeTua; 11-08-2017, 02:56 AM.

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...
          X