Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Thiên An Môn, hai mươi năm sau

Collapse
X

Thiên An Môn, hai mươi năm sau

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thiên An Môn, hai mươi năm sau


    Thiên An Môn, 20 năm sau
    Nguyễn Mạnh Trinh


    Tháng sáu, năm 2009, hai mươi năm sau ngày thảm sát tại Quảng Trường Thiên An Môn, chính quyền Trung Hoa vẫn còn e dè về một biến cố tương tự sẽ xảy ra. Họ vẫn bất chấp nhu cầu đòi hỏi về nhân quyền và bắt bớ những người đã liên quan đến cuộc biểu tình ngày xưa để dập tắt từ trong trứng nước những cuộc biểu tình có thể xảy ra.

    Theo tin từ những thông tấn xã quốc tế, ông Kỳ Chí Dũng, 52 tuổi, người đã bị cụt một chân vì bị trúng đạn trong vụ quân đội Trung Hoa đàn áp biểu tình ở Thiên An Môn năm 1989, đã bị bắt vào ngày 15 tháng 4 năm nay và đem đến một nơi giam giữ của công an đặc biệt ở một trụ sở bí mật ở ngoại ô Bắc kinh. Và, cuộc bắt giữ này có liên quan đến việc tổ chức ngày giỗ hai mươi năm của cố lãnh tụ Hồ Diệu Bang.

    Một lãnh tụ sinh viên khác cũng bị theo dõi chặt chẽ. Ông Giang Kỳ Sinh, từng bị bắt giam nhiều lần nay ở trong tình trạng bị giam lỏng lúc nào cũng bị công an bám sát, tư gia của ông ở tỉnh Giang Tô miền Đông Trung Quốc lúc nào cũng bị công an đặc vụ canh chừng. Theo nhà tranh đấu cho nhân quyền này thì chắc chắn khi ông tới Bắc Kinh để tham gia lễ kỷ niệm 20 năm biến cố Thiên An Môn cũng sẽ bị theo dõi, hoặc có thể bị giam giữ nữa…

    Tháng sáu năm 2004, mười lăm năm sau biến cố Thiên An Môn thi sĩ Shi Tao, trở thành một tù nhân với cái tội là đăng bài thơ kỷ niệm Thiên An Môn. Bài thơ June :

    “Nguyên cuộc đời tôi
    sẽ không bao giờ sống qua được tháng sáu
    tháng sáu khi trái tim tôi ngừng đập
    khi thơ tôi ngưng thở
    khi người tôi yêu dấu
    chết trong vũng máu đang mơ
    Tháng sáu mặt trời lửa dãi thiêu cháy làn da
    Xé toang sự thật tự nhiên của thương tích tôi
    Tháng sáu con cá lao khỏi biển máu đỏ
    Trôi tấp vào chốn khác của giấc đông miên
    Tháng sáu, trái đất quặn mình, sông rạch lặng tiếng
    Chồng chất ngàn ngàn lá thư
    không thể gửi đến cho những người đã chết”


    Shi Tao là một nhà văn, nhà thơ, ký giả Trung Hoa bị kết án mười năm tù với tội danh là tiết lộ những bí mật quốc gia của chế độ Cộng sản ra ngoại quốc. Ông bị bắt ngày 24 tháng 10 năm 2004 khi đang làm công việc biên tập tại Dangdai Shang Bao (Giao Dịch Hiện Đại Tân Báo). Ông cũng đã viết nhiều bài luận thuyết nêu rõ ý nguyện muốn đổi mới thể chế chính trị đã được “posted” trên nhiều trang web của các phong trào tranh đấu cho dân chủ ở ngoại quốc.

    Shi Tao bị bắt và kết án vì đã viết thơ văn đề cập tới ngày kỷ niệm 15 năm Hồng quân Trung Hoa đàn áp và tàn sát những người biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn.

    Việc bắt giữ này cho thấy chủ trương của chế độ Cộng sản muốn kiểm soát hệ thống Internet. Theo báo cáo thì có tới 42 ký giả bị bắt trong năm 2004 mà hơn phân nửa là những người xử dụng Internet để chống chế độ. Ngày 20 tháng 4 năm 2004, chính quyền Trung Cộng phổ biến một chỉ thị thông báo sự cảnh giác về tình trạng những người đòi dân chủ và bị lưu đầy ra hải ngoại sẽ tái hiện trong nước để có hành động nhân ngày kỷ niệm 15 năm biến cố Thiên An Môn. Chỉ thị này cũng ra lệnh cho tất cả các ký giả trong nước tuyệt đối không được đề cập hoặc nhắc nhở đến ngày “4 tháng 6 năm 1989”.

    Shi Tao bất chấp lệnh cấm trên và viết rồi dùng Yahoo email của mình gửi cho các website của phong trào ”Asia Democracy Foundation”

    Chính quyền Trung Cộng phát giác ra sự kiện trên và nỗ lực kiếm tìm ai là người đã làm công việc đó. Họ đòi hỏi những dữ kiện như account number và IP adress của người gửi từ văn phòng của công ty Yahoo có văn phòng ở Hong Kong. Văn phòng này cung cấp ngay mà không cần biết để làm gì. Và, công an đã tìm ra Shi Tao và bắt giam ông.

    Luật sư của Shi Tao, Guo Guoting, đã chứng minh trước tòa án là việc bắt giữ Shi Tao là trái luật lệ và xâm phạm đến những quyền tự do căn bản của con người. Kết quả là chứng chỉ hành nghề luật sư của ông bị Bộ tư pháp ở Thượng Hải rút lại một năm và bị quản thúc tại gia.

    Những tổ chức nhân quyền trên thế giới nỗ lực can thiệp nhưng xem ra chẳng có kết quả gì. Công ty diện toán Yahoo cũng bị phê bình gay gắt và tạo ra một trường hợp có thể tạo thành tiền lệ giúp các chế độ độc tài truy đuổi những người dùng Internet để nói lên nguyện vọng của mình. Những công ty như Google, MSN, Yahoo... đã bị những phê bình về vấn đề trên.

    Ngày 28 tháng 8 năm 2007. Nghị viện Hoa Kỳ đã có một buổi điều trần của Jerry Yang, người sáng lập của công ty Yahoo và đã bị chất vấn khá nghiêm khắc. Hành động cung cấp những dữ kiện cá nhân như email account hoặc IP address cho công an là hành động vô lý không tha thứ hoặc chấp nhận được.
    Tổ chức World Organization for Human Rights đã kiện công ty Yahoo vì việc tiết lộ dữ kiện điện thư đã làm Shi Tao bị cầm tù ở Trung Quốc.
    Jerry Yang của công ty Yahoo đã viết thư cho bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Yang Jiechi để xin ân xá cho Shi Tao và Wang Xiaoning.
    Nhưng, chưa có kết quả và cả hai người chiến sĩ tranh đấu cho tự do dân chủ vẫn còn bị ngồi tù…

    Trở lại với bài thơ Tháng sáu của Shi Tao. Ông ghi lại những cảm xúc của mình, nghĩ về những người đã chết. Ở một trường hợp nào đó, thơ đã thành một vũ khí để tấn công giặc ác. Dù chẳng phải “ở trong thơ có thép” mà chỉ có những giọt lệ bùi ngùi, chỉ có sự tưởng niệm thành kính nhưng thơ đã đi vào lòng người và là biểu hiện của kẻ sĩ không khuất phục cường quyền Môn, một biến cố làm rung chuyển cả chế độ Cộng Sản Hoa Lục và làm cả thế giới quan tâm. Một chuỗi biến cố tiếp theo đã đánh thức cả lương tâm thế giới. Một sinh viên đơn độc một mình đứng chặn cả một đoàn chiến xa bất chấp những họng súng đại bác chực chờ nổ súng, những sinh viên khác bị bắn xối xả, hàng ngàn người vừa chết vừa bị thương. Cao trào đòi đa nguyên đa đảng tuy bị đàn áp nhưng cũng nói lên xu hướng chính trị của cả một dân tộc đông hàng tỉ người đang bị chế độ độc tài sắt máu cai trị. Cuộc thảm sát Thiên An Môn là một cột mốc trong lịch sử Trung Hoa, đánh dấu một thời đại tồi tệ nhất mà con người bị bóp nghẹt mọi quyền tự do. Mùa xuân năm 1987, Chủ tịch nước Hồ Diệu Bang bị cách chức vì có sự khác biệt sâu xa trong việc hoạch định đường lối chính trị. Ông chủ trương cởi mở về mặt chính trị và rất bao dung với những phong trào tranh đấu của sinh viên và trí thức nên được nhiều người hâm mộ. Ông tìm cách phục hồi danh dự cho các nạn nhân của cuộc Cách Mạng Văn hóa năm 1965-1966. Ông rời bỏ lối suy nghĩ cực tả, thay đổi tư duy và nghĩ rằng con đường đa nguyên đa đảng là tốt nhất khi hoạch định một con đường cho tương lai của dân tôc Trung Hoa. Ông còn dũng cảm và dồn nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ những ẩn khuất của cuộc Cách Mạng Văn Hóa và bảo vệ những nạn nhân những người bị oan khuất trong biến cố này trước những thế lực bảo thủ muốn bưng bít che dấu.

    Ngày 15 tháng 4 năm 1989, Hồ Diệu Bang qua đời vì bịnh tim. Sinh viên tụ tập ở Thiên An Môn để biểu tình đòi dân chủ và tưởng niệm ông lên tới hơn 200 ngàn người. Trong nội bộ của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản cũng bất đồng ý kiến về việc giải quyết tình hình nóng bỏng này. Phe đòi áp dụng biện pháp mạnh, đàn áp sinh viên do Lý Bằng cầm đầu và được sự ủng hộ của Đặng Tiểu Bình. Phe ôn hòa chỉ có một mình Triệu Tử Dương. Và kết cuộc, xảy ra biến cố Lục Tứ ngày 4 tháng 6 năm 1989. Triệu Tử Dương bị cách chức và ở tù tại gia đến khi chết.

    Hai mươi năm sau, ngày 19 tháng 5 năm 2009, cuốn hồi ký được xuất bản ở Hồng Kông với tựa đề “Prisoner of The State” (Quốc Gia Đích Tù Phạm). Trước đó đã có những bài viết ghi lại từ những đoạn ghi âm trong 30 tiếng đồng hồ và tiết lộ nhiều chi tiết quan trọng. Triệu Tử Dương mô tả các biến cố trong cung đình Trung Nam Hải trong thời điểm dẫn đến cuộc thảm sát Thiên An Môn. Ông cũng đánh giá về Đặng Tiểu Bình mà ông gọi là “đại sư phụ“ nhưng thực chất chỉ là một bố già Mafia lũng đoạn chính tình với những quyết định độc đoán. Và ông tự nhận chính mình là người hoạch định đổi mới cho Trung Hoa chứ không phải là Đặng Tiểu Bình. Ông cho đến lúc nhắm mắt vẫn không những xác định quan điểm cải tổ kinh tế mà còn ghi chép lại những chuyển biến nội tâm của ông về hướng dân chủ sau khi bị cầm tù tại gia. Ngày 19 tháng 5 năm 1989, Thủ tướng Triệu Tử Dương và người bí thư là Ôn Gia Bảo (thủ tướng bây giờ) xuất hiện ở Thiên An Môn kêu gọi sinh viên trở về nhà. Với gương mặt đầm đìa nước mắt ông khuyên nhủ những người biểu tình như một người cha nói với con cháu rằng đời sống họ còn dài đừng làm những việc hy sinh vô ích. Lúc đó ông đã biết cuộc tàn sát sắp xảy ra và Bộ Chính Trị đã điều động quân đội và chiến xa của hai quân đoàn 27 và 28 phần đông là người thiểu số để tham dự vào cuộc tàn sát…

    Triệu Tử Dương khi đến lúc chết vẫn là một người tù của chế độ Cộng Sản Trung Hoa. Thậm chí, có người như giáo sư Tôn Văn Quảng đi viếng mộ của ông đã bị công an đánh đập dã man…

    Một thi sĩ khác, Bei Dao trong suốt hai chục năm trời lúc nào cũng ám ảnh khôn nguôi về cái ngày Lục Tứ đẫm máu ấy.

    Bei Dao là bút hiệu của một sinh viên Trung Hoa Zhao Zhenkai, là một nhà văn nhà thơ rất nổi tiếng trên thế giới. Ông là một trong hàng đầu danh sách những người được chọn lựa cho giải Nobel văn chương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển trong vài năm gần đây. Bút hiệu Bei Dao có nghĩa là ‘Bắc Đảo‘ - Northern Island, là một trong nhiều tên mà ông đã dùng trong thời gian đã qua ở Trung Quốc để tránh sự theo dõi của chính quyền Cộng Sản. Là một trong những lãnh tụ sinh viên của ngày nổi dậy mùng 4 tháng 6 năm 1989 tại quảng trường Thiên An Môn, ông phải chạy trốn và lưu vong sang các nước Tây phương. Ông đã sinh sống ở bẩy quốc gia, kể cả Thụy Điển, Đan Mạch, Đức, Pháp, Hoa Kỳ. Những tác phẩm của ông được dịch ra nhiều ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức ngữ…

    Được tôn xưng là nhà thơ lưu vong của thời đại, Bei Dao đã từng tham gia Hồng Vệ Binh dưới thời Mao Trạch Đông trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Thế mà, năm 1969 ông bị cải tạo bẩy năm ở vùng biên giới với công việc khổ sai cưỡng bách lao động trong các công trình xây dựng. Trong thời gian này ông cực kỳ bất mãn với hệ thống chính quyền Trung Quốc và ông ngấm ngầm tham gia vào những tổ chức cầm bút phản kháng. Ông bắt đầu viết văn và làm thơ. Ông xuất bản nhiều ấn phẩm lậu bí mật và đã góp mặt trong một tờ báo có ảnh hưởng rất lớn mặc dù hoạt động rất ngắn, nhật báo của văn chương ở dưới hầm tối ‘Jintan’ – Ngày nay. Ông kể lại mới đầu khi tham gia Hồng Vệ binh ông rất tin tưởng vào khẩu hiệu chính trị đã được tiêm nhiễm qua giáo dục và tuyên truyền. Nhưng khi đi lao động cưỡng bách để xây dựng các xí nghiệp ở vùng biên địa, ông thấy sự nghèo khổ lầm than của dân chúng cũng như lề lối áp đặt chuyên chế của nhóm người lãnh đạo, ông thay đổi thái độ, và thấy rằng chữ nghĩa sẽ có tác dụng để chống lại cường quyền bất công. Ông bắt đầu học từ sách vở và viết như một cách thế để tranh đấu cho sự sống còn của mình. Những truyện ngắn, ghi lại một phần đời sống tuy có nhiều nét buồn thảm nhưng không đến nỗi bi quan. Trong lốc xoáy của thời thế, vẫn có sự tin tưởng vào những giá trị đích thực nhân bản. Thực tế của đất nước Trung Hoa đã cho thấy khoảng cách thật xa giữa đời sống hiện thực và những cái hứa hẹn cũng như những khẩu hiệu đã được vạch ra và tôn sùng.

    Trong thời kỳ cởi trói văn hóa ở thập niên 1980, Bei Dao bắt đầu được nhiều người biết đến và là một trong những khuôn mặt trí thức được coi là phát ngôn viên của phong trào phê phán chính quyền, đòi hỏi tự do dân chủ. Khi sinh viên nổi dậy và chiếm quảng trường Thiên An Môn năm 1989, họ đã đọc thơ và hát nhạc phổ thơ cuả Bei Dao và trang trí bằng những tấm biểu ngữ có những hàng chữ rực lửa;

    Tôi sẽ không quì gối sát mặt đất
    Dù chực chờ dưới tay đao phủ vẫn ngẩng cao đầu
    .

    Bei Dao sinh năm 1949 tại Bắc Kinh trong một gia đình trung lưu. Cha của ông là một viên chức cán bộ chính quyền và mẹ của ông là một bác sĩ y khoa. Trong thời kỳ Cách Mạng văn hóa, ông dù đã gia nhập Hồng Vệ Binh nhưng cũng phải bị đi cưỡng bách lao động ở vùng biên giới.

    Cầm bút với phong cách khai phá tân kỳ, những truyện ngắn của ông nói về những cuộc sống bị hủy hoại và những sự kiện cực kỳ phi lý của cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cuốn sách được xuất bản nhan đề ‘Bodong’ và được dịch sang Anh ngữ ’Waves’. Đây là một tác phẩm được coi như hàng đầu của một chân dung văn học hiện đại Trung Hoa, Sử gia Jonathan Spencer viết trong ‘New York Times Book Review’ đã gọi tập truyện ngắn này là biểu tượng của nỗi niềm chua cay sâu sắc đến mức hầu như không chịu đựng nổi. Hình ảnh những truyện ngắn của Bei Dao thường có sức mạnh lôi cuốn vào những cảnh sống thực, của nhữngngười bị lôi cuốn vào cơn lốc bạo tàn của thời thế. Nó vỡ òa ra những nhân dáng tiêu biểu của thời đại, của một xã hội đầy những sự kiện tàn nhẫn đến phi lý. Cái nhìn của ông trong văn chương không phải hoàn toàn là nỗi thất vọng mặc dù ông đã nhìn và nghe với một thái độ đã được trấn tĩnh sự xúc cảm. Như trong truyện ngắn “The Homecoming Stranger” người cha trở về nhà sau hơn hai mươi năm đầy ải trong các trại tù của chính trị phạm. Hầu như tất cả nỗi cô đơn của những năm tháng phải chịu đựng một mình đã tạo cho người cha một nếp sống trầm lặng. Câu chuyện kết thúc với món quà trang sức mà người cha đã làm trong những năm tháng địa ngục cho người con gái yêu dấu. Chuỗi hạt mà ông đã nâng niu giữ gìn suốt bao nhiêu năm và đã đánh bóng bằng những vật thô sơ như cái bàn chải đánh răng cũ nát. (Hình như chuyện này quá quen thuộc với những người tù cải tạo Việt Nam. Những vòng đeo tay, những lược, những trâm cài đầu, … mà người tù cải tạo làm cho vợ, cho con, có lẽ là chứng tích của lòng nhớ thương gia đình của những người tù. Thế mà, ở văn đàn thế giới vẫn chưa có những trang văn chương dưới đáy địa ngục của người cầm bút Việt nam về sự kiện ấy!).

    Hơn 130 trang sách của “Waves“ là tiếng nói chân thực của nhữngngười bị bóp nghẹt, của một trí thức thấy những giá trị của con người bị suy đồi đến một mức khó tưởng tượng nổi. Những truyện này đã đăng rải rác trong tờ báo xuất bản bất hợp pháp (báo in chui) “Today” từ những năm 1974, rối 1976 và trở lại năm 1979. Đây là những chứng tích của một thời đại đen tối nhất của lịch sử Trung Hoa…

    Là thi sĩ, Bei Dao là một trong những nhà khai phá của ‘thi ca mù sương’ trong sự tăm tối, siêu hiện thực, mới lạ trong ngôn ngữ và tân kỳ trong cách biểu hiện diễn tả để qua mặt những cơ quan kiểm duyệt của Đảng Cộng Sản trong mục tiêu tấn kích chế độ. Những tập thơ được chuyển dịch sang Anh Ngữ gồm “Notes from the City of the Sun”, “The August Sleepwalker”, “ New Directions”, ”Old Snow”, “Forms Of Distance “ và “Landscape Over Zero”’. Tuyển tập mới nhất là “Unlock” gồm bốn mươi chín bài thơ mới viết ở Hoa Kỳ.

    Viết về ‘Unlock’, nhà phê bình Andrew Ervin của Philadelphia Inquirer đã viết : ”Nếu phân loại Bei Dao chỉ đơn thuần là một người cầm bút phản kháng hay lưu vong thì chúng ta đã nhầm lẫn lớn. Ông chỉ đơn giản là một thi sĩ. Thật là không có sự đe dọa lớn lao cho các chủ nghĩa chuyên chế độc tài bằng sự tôn trọng tính chất cá nhân và trong phần nào của đời sống người viết đã làm chủ tiếng nói thanh nhã mà chúng ta đã lắng nghe từ Unlock.”
    Trong tuyển tập thơ “From Old Snow”, tính chất phản kháng được nhìn rõ nét. Trong bài thơ “Requiem” ông đã vinh danh những người đã gục ngã cho tự do ở Thiên An Môn Cũng như trong bài thơ “Prague” thi sĩ đã viết về những bóng ma của lịch sử ở trên đường phố Prague để mọi người tưởng tượng ra bóng ma trên đường phố Bắc Kinh. Ký ức ấy là một biểu hiện của đạo đức và luân lý con người. Sự trao đổi hai chiều người trao và người nhận những kinh nghiệm xương máu của chính trị làm thông hiểu hơn hai mặt của cuộc sống. Có những ký ức, không bao giờ bị tàn phai…

    Bài Thơ Cầu Hồn để chiêu niệm cho những người nằm xuống ngày 4 tháng 6:

    Không phải sự sống mà là nỗi chết.
    Dưới bầu trời tím ngắt của ngày tận thế.
    Đi thành toán.
    Thống khổ dẫn đường về đằng trước thống khổ
    Tận cùng của căm hờn là nỗi hờn căm
    Mùa xuân khô hạn trôi qua
    Đại họa căng ra không đứt
    Con đường trở về có khi là phải biệt xứ

    Không phải thượng đế mà là trẻ thơ
    Giữa âm thanh đe dọa của nón sắt
    Nói lời nguyện cầu
    Những hiền mẫu nuôi dưỡng ánh sáng
    Bóng tối lại làm họ đứt hơi
    Đá tảng lộn nhào, kim đồng hồ quay ngược
    Mặt trời hình méo bầu dục hoàn toàn ngự trị.

    Không phải thân xác các bạn mà linh hồn các bạn
    Thế nào cũng chung nhau ngày sinh nhật mỗi năm
    Các bạn đồng niên tuế.
    Yêu thương đã hình thành từ nỗi chết
    Trong miên viễn bước đồng hành
    Các bạn ôm nhau xiết chặt nhau
    Cuộc thảm nạn ghi tên tử biệt.


    Bài thơ có tiếng nói trầm thống của những đớn đau cố gắng dồn chặt vào ký ức. Nói về cái chết, với những người đồng hành, để tưởng niệm những hy sinh cho tự do dân chủ.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X