Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Nhạc Sĩ Anh Bằng qua đời.

Collapse
X

Nhạc Sĩ Anh Bằng qua đời.

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhạc Sĩ Anh Bằng qua đời.

    Nhạc Sĩ Anh Bằng qua đời.
    Đức Tuấn/Người Việt

    ORANGE, CALIFORNIA (NV) – Nhạc sĩ Anh Bằng qua đời lúc 9 giờ tối, ngày Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015, tại tư gia ở Orange Hill, Orange, California, thọ 90 tuổi. Theo tin của người cháu ruột, là ông Trần Thăng.

    Nhạc sĩ Anh Bằng. (Hình: Trung Tâm Asia cung cấp)


    Nhạc sĩ Anh Bằng sinh năm 1925, tại Thanh Hóa. Trong 60 năm sinh hoạt văn nghệ, nhạc sĩ Anh Bằng để lại một di sản âm nhạc đồ sộ, gồm trên 600 ca khúc, trong đó có khoảng 200 tác phẩm được chính thức trình làng. Trong số này, có những ca khúc nổi tiếng, như “Nỗi Lòng Người Đi,” “Đêm Nguyện Cầu,” “Nửa Đêm Biên Giới,” “Anh Còn Nợ Em,” “Anh Còn Yêu Em”...

    Tám năm trước, trước chuyến đi lưu diễn Úc Châu, bác sĩ khám phá ông bị ung thư gan. Sau đó căn bệnh được chữa trị và tạm ngừng. Vài tháng trở lại đây, bệnh tái phát, nhưng chuyển sang loại ung thư khác.

    Đầu tháng 11, khi bệnh trở nặng, ông vào bệnh viện cấp cứu. Lúc ấy, các bác sĩ cho biết thời gian còn lại của ông không còn bao lâu nữa.

    Nhạc sĩ Anh Bằng ra đi để lại rất nhiều đau buồn cho giới ca sĩ, nghệ sĩ, báo chí, truyền thông, và số đông khán giả, những người yêu thích, ngưỡng mộ dòng nhạc của ông.

    Nhật Báo Người Việt sẽ cập nhật và gửi đến độc giả tin tức liên quan đến tang lễ nhạc sĩ Anh Bằng.

    Đức Tuấn/Người Việt

    ~~~~~~~~~~~~~~~000O000~~~~~~~~~~~~~~~

    Để tưởng nhớ nhạc sĩ Anh bằng vừa ra đi, xin mời nghe sáng tác "NHỚ ĐÊM MƯA SÀI GÒN" qua tiếng hát của Xuân Thanh.
    (Theo Xuân Thanh, nhạc phẩm này ở trong list Album mới của cô: "Một Thời Để Nhớ " sắp hoàn chỉnh, nhưng rất tiếc chưa kịp gởi tặng Nhạc Sỉ thì Ông đã ra đi....)



  • #2
    ASIA CHANNEL : "Nhạc sĩ Anh Bằng"

    Comment


    • #3
      Thi sĩ, Kịch sĩ: Anh Bằng

      Thi sĩ, Kịch sĩ: Anh Bằng
      Diệu Tần





      Nhạc sĩ Anh Bằng (1926-2015)

      Nhóm nhạc sĩ Lê Minh Bằng và nhạc sĩ Anh Bằng nổi tiếng, nhưng có lẽ ít người biết Anh Bằng còn là một thi sĩ và một kịch sĩ có tài. Tính tình Anh Bằng vốn ít nói, cũng ít nhắc đến những vở kịch thơ của anh sáng tác từ khi anh còn ở trong quân đội. Ngay từ cuối thập niên 50 anh đã sáng tác kịch thơ. Viết thoại kịch đã khó, vì kịch là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp các bộ môn khác. Viết kịch thơ lại càng khó hơn. Thoại kịch diễn trên sân khấu hoặc diễn trong phòng thu tiếng thu hình, tuy phức tạp nhưng còn dễ hơn là viết và diễn kịch thơ. Những câu đối đáp bằng thơ, buộc tác giả phải ngắt câu thơ thành hai, ba đoạn cho các diễn viên. Nói chung là kịch thơ vừa phải giữ cho vở diễn có được chất thơ, vừa duy trì cho được tính chất kịch cũng phải tuân theo những quy luật, kỹ thuật của kịch. Chẳng hạn như đạo diễn phải chọn các diễn viên có tài diễn xuất lại vừa có giọng ngâm tốt, giọng ngâm truyền cảm.

      Những vở kịch thơ nổi tiếng từ thời tiền chiến như Lên Đường; Kiều Loan của thi sĩ Hoàng Cầm với giọng ngâm số một thời đó là Văn Phú. Rồi kịch thơ Vân Muội; Tâm Sự Kẻ Sang Tần của Vũ Hoàng Chương tại Nhà Hát Lớn Hà Nội khoảng năm 1951, 52, nhà thơ họ Vũ còn thủ vai trong chính kịch do ông sáng tác. Sau này, tôi còn thấy hoạ sĩ Mai Lân (đã qua đời) cùng bà vợ cũng diễn vở Vân Muội năm 1953.

      Lần đầu tiên tôi gặp Anh Bằng là vào năm 1957 tại Huế. Với trách vụ trưởng phòng 5 Liên Đoàn Công Binh, hôm đó tôi ra sân đón ba “kịch sĩ” từ một đơn vị từ Quy Nhơn ra Huế. Đó là Trung sĩ Trần An Bường, hạ sĩ I Bích và cô Tuyết Nhung nhân viên dân chính. Anh Bằng người tầm thước, ít nói vẻ hiền lành, còn anh Bích trắng trẻo, hơi mập. Người tài xế chiếc xe dodge 4×4 hôm đó vô ý lùi xe cán vào chiếc radio của Anh Bằng. Có lẽ anh cũng tiếc của, nhưng không tỏ vẻ gì giận dữ, nóng nảy. Vào năm đó chưa có nhiều máy thu thanh transistor, còn phần lớn là dùng radio chạy điện có những bóng đèn lớn, nên có câu nói đùa: ladô một đèn tức là lời đồn, tiếng đồn.

      Ngay từ khi đó tôi đã thấy được nét trầm tĩnh, hiền hoà, ít nói của anh. Anh Bằng có giọng nói trầm ấm, khi đã “nhập vai”, từ ngữ giới sân khấu cải lương và thoại kịch, tiếng nói anh thiết tha, say mê, lôi cuốn. Tôi đã đoán gần đúng anh người vùng Bùi Chu, Phát Diệm, sau mới biết anh gốc quê ở Thanh Hoá, sinh ở Điền Hộ, Ninh Bình. Anh thường có nụ cười nhẹ, riêng ánh mắt anh rất tươi. Ánh mắt nụ cười này có thể coi như đúng với nhận xét của nhạc sĩ Lê Dinh, là Anh Bằng có số đào hoa. Tài sáng tác nhạc, nụ cười theo với ánh mắt cũng cười, lời nói thiết tha của anh dễ đắm lòng người.

      Tôi được cho biết ba nhân vật từ Qui Nhơn lên có khả năng diễn kịch khá hay, có chút tiếng tăm về tài diễn kịch tại vùng biển dưới đó. Tôi mải lo tờ nguyệt san cho đơn vị nên không chú tâm lắm đến ban kịch mới được thành lập do anh Bường (tên thật của anh) đứng đầu. Coi như tôi giao hẳn ban kịch cho Anh Bằng, chỉ thỉnh thoảng ghé qua chổ tập dượt kịch. Bình thường anh không nói nhiều, nhưng khi tập kịch hoặc hướng dẫn anh chị em trong ban, anh lộ vẻ say mê, mắt anh sáng lên và nói khá nhiều. Khi học kịch và dượt lại cách đi đứng, cách biểu lộ tình cảm bằng nét mặt… tôi chưa thấy được cái hay của vở kịch. Ngay cả buổi tổng dượt trên một sân khấu tạm, tuy đã có trang phục các vai diễn, nhưng âm thanh và ánh sáng yếu ớt nên cũng chưa tạo được sự tin tưởng là sẽ thành công.

      Cho tôi được ghi chép ở đây những chi tiết về ban kịch Liên Đoàn Công binh, cũng như chuyến đi Bến Hải, Hiền lương, chuyện Vùng phi Quân sự mùa hè năm 1957. Bởi trong Ban Kịch và chuyến đi đó có Anh Bằng, cái đinh của Ban Kịch. Hơn nữa anh đã là một lão trượng, tôi cũng chẳng trẻ trung gì, đều mắc tật hay quên, nếu không ghi lại cũng chẳng cò dịp nào nhớ lại được nữa. Chúng tôi đã đi lưu diễn bờ nam sông Bến Hải, làm công tác tuyên truyền của một đại đội Võ trang Tuyên truyền hoặc đại đội Văn nghệ của Cục Tâm lý chiến. Các bạn nói đùa hơi ngoa là nhờ có ban kịch mà dân Huế và dân chúng miền Trung biết đến Liên đoàn 2 Công binh Chiến đấu. Cho đến bây giờ một số các bạn sỹ quan lớn tuổi còn nhắc đến những kết quả đẹp của ban văn nghệ lính thợ, nghề tay trái của Công Binh ở Huế.

      Ban kịch công binh LĐ 2 đi lưu diễn sau đi suốt từ Quy Nhơn cho đến tận những xóm ấp hẻo lành sát vĩ tuyến thứ 17. Khán giả vùng nam vĩ tuyến 17 hoan hô chúng tôi nhiệt liệt, chính quyền quận, xã gửi thư khen tặng và cám ơn. Anh em ban kịch Công binh chúng tôi đi trình diễn lưu động khắp các xã điểm, đặc biệt là Hồ Xá, Hướng Lập sát sông Bến Hải là nơi chưa một ban kịch nào từ Sài Gòn, từ Huế đặt chân tới, cũng như vùng Hương Hoá, Khe Sanh sát biên giới Lào. Đâu đâu chúng tôi cũng được đón tiếp nồng nhiệt và được tán thưởng, quý mến.

      Ban kịch chúng tôi có tôi, trưởng đoàn, phụ tá là Anh Bằng với chừng mười người vừa nhà binh vừa dân chính. Anh Bằng là đạo diễn, thủ vai chính, và kịch bản cũng do anh soạn. Một nhiếp ảnh viên kiêm thủ vai ông già là Ngô Bá Nhượng, cô Tuyết Nhung, có các diễn viên phụ như HS I Bích, HS Vương Đức Long thủ vai nữ khi cần, HS Bầu lo phông màn và chuyên thổi harmonica bằng…môi, một dân chính chuyên chơi đàn guitar điện, v.v…

      Tôi và Anh Bằng dẫn ban kịch ra Quảng Trị, theo lời yêu cầu của tòa tỉnh địa đầu giới tuyến. Trên một xe GMC đã biến cải thành một sân khấu lưu động đi khắp lãnh thổ tỉnh như kẻ nhàn du, cưỡi ngựa xem hoa, nghĩ rằng vui tươi thoải mái như ngồi trên bánh xe lãng tử. Xe đến thị trấn Đông Hà (bây giờ là tỉnh lỵ Quảng Trị), chúng tôi dừng lại ăn cơm trưa, Đây là lúc chúng tôi bắt đầu hiểu được cái thời tiết khắc nghiệt Quảng Trị. Gió tây từ Kham-Muộn, Xà-vằn-nà-khẹt bên Lào thổi qua nóng hầm hập, khô khốc, tạt cát vào quần áo vào thân thể, ngứa ngáy khó chịu. Chỉ nội thứ thời tiết kỳ lạ ngày thật nóng đêm rất lạnh cũng đủ cho chúng tôi hiểu được nỗi vất vả gian truân, nét oai hùng và nỗi oan khiên, kinh hồn của các chiến sĩ và đồng bào sau này tại vùng lửa đỏ địa đầu giới tuyến.

      Chúng tôi vượt Hương Trà, Hương Điền, qua Hải Lăng đến thị xã Quảng Trị (bây giờ gọi là Triệu Hải). Ra đến sát sông Bến Hải và được phép bước lên đầu cầu chúng tôi mới thực sự trực diện với người ngợm và lãnh thổ bên kia sông thuộc cộng sản. Tôi còn nhớ trên sân khấu nhỏ nền đất trên bờ sông vĩ tuyến 17 đêm đầu tiên tại Hồ Xá. Hai bên bờ sông chỉ cách nhau khoảng 300 mét, chúng tôi thấy rõ cảnh nghèo nàn của đồng bào bờ bên kia. Tuy chỉ qua bốn năm thôi, thôn xóm bờ Nam đã hồi sinh, trù phú mặc áo trắng, quần tây. Dân bờ bắc mặc quần áo màu chàm bạc phếch, không có bóng một chiếc xe đạp, chiếc xe gắn máy nào. Cán bộ cấp kha khá thì đi ngựa, trong khi Cảnh sát Dân sự bên này lái xe díp Wyllis màu xanh lá cây bóng loáng.

      Tiện đây cũng nhắc sơ qua chuyện xưa để anh Anh Bằng nhớ lại, chuyện thi đua có cột cờ cao hơn ở cây cầu Hiền Lương giữa Nam và Bắc. Bên này có cột cờ cao hơn thì bên kia sẽ nâng cột cờ cho cao hơn. Năm chúng tôi ra thăm cầu được cho biết cuộc thi đua đã chấm dứt. Nghe nói có một kỹ sư miền Bắc nhân vụ cột cờ cao thấp, lấy cớ phải lùi lại đứng ngắm xem cờ đỏ đã cao hơn cờ vàng chưa đã cố ý bước lui rồi quay đầu chạy qua vạch kẻ chia đôi cầu. Theo lệ của Ủy ban Kiểm soát Đình Chiến Quốc tế, hễ ai bước qua lằn kẻ đó coi như đã chọn lựa miền. Chưa kể những chuyện vượt sông vĩ tuyến tìm tự do, khiến chúng tôi nhớ lại chuyện nhà văn Vũ Anh Khanh lỡ theo chủ nghĩa, rồi tập kết ra Bắc, sau đó giác ngộ, biết mình lầm vượt sông đã bị bắn chết giữa dòng.

      Chuyện khác nữa là chuyện đua nhau sơn chiếc cầu lịch sử ranh giới Bắc-Nam, vào khoảng năm 61-62. Có lẽ nhằm mục đích tuyên truyền, diễn trò yêu chuộng hoà bình, cộng sản bất ngờ dở chứng sơn cầu. Chiếc cầu này vốn là loại cầu dã chiến Bailey một tầng kép, do quân Pháp phóng khoảng năm 52-53, có màu xám nhạt. Miền Bắc tập trung nhân công cho cạo rỉ sét trước và khởi sự sơn cầu. Miền Nam bị bất ngờ nhưng phản ứng kịp, chỉ kẹt nỗi khởi công sau, luống cuống việc cạo rỉ sét, cạo bằng thủ công thì rất chậm. Một chuyến máy bay quân sự chở cấp tốc những thùng dung dịch tẩy rỉ sét rất lẹ, Anh em Công Binh (lại Công Binh!) nhào vô xịt thuốc, gửi vũ khí ngoài vùng phi quân sự, lăn xả vào công tác xịt thuốc tẩy sét (bán rẻ rề ờ các tiệm True Value, Orchard) và dùng máy ép hơi cỡ lớn sơn xì vừa nhanh vừa đẹp. Nguyễn Văn Dần, bạn cùng khoá Thủ Đức với tôi chỉ huy công tác thi đua sơn cầu. Nhân công phía bắc, có lẽ cũng là bộ đội mặc áo dân thường, ngạc nhiên và tức tối vì không có thuốc tẩy xịt, rồi diễn ra vài cuộc đấu khẩu bất ngờ giữa người hai bên chiến tuyến.

      Rút cuộc Bắc chậm hơn Nam vì thua kém về kỹ thuật. Điểm khác nữa là màu sơn, Bắc sơn nửa cầu bằng màu xanh, ra điều yêu chuộng hòa bình, không hiếu chiến. Miền Nam không thể theo đuôi sơn tiếp nửa bên mình cùng màu xanh được. Cũng không thể sơn màu đỏ đối chọi, bởi đó là màu sắt máu, màu chết chóc, cuối cùng chiếc cầu mang màu nửa vàng, nửa xanh ngộ nghĩnh!

      Ngay từ hồi chiều, chúng tôi đã nghe được bên đó có tiếng loa kêu gọi dân đi họp. Một cảnh sát dân sự cho biết đó là mánh khoé của bờ Bắc. Khi nào có những cuộc viếng thăm lớn của các phái đoàn Sài Gòn, chúng thường tập trung dân tại một điểm nào đó, không cho dân thấy được phái đoàn bên này. Trái lại, chúng có tổ chức ban ngày những cuộc đấu bóng chuyền từ Hà Nội, Hải Phòng vào, chúng tôi để đồng bào tự do đứng coi. Đêm đó bên bờ Bắc không một người dân được đứng xem, chỉ có ba đốm lửa thuốc lá lập loè. Đó là mấy cán bộ đứng quan sát, nghe ngóng để lập báo cáo với “trên”.

      Tại môt thôn hẻo lánh trên thương nguồn con sông chia cắt, gần biên giới Lào-Việt chúng tôi đã có một kỷ niệm khó quên. Màn hai kịch Nát Tan diễn được nửa chừng đang hồi gay cấn thì trời đổ mưa, mưa mỗi lúc càng nặng hạt hơn, diễn viên bị ướt lạnh, khán giả cũng bị lạnh vì đội mưa. Tôi vội nói qua micro vì trời mưa quá xin tạm ngưng, bớt mưa chúng tôi sẽ xin tiếp tục. Khán giả lên tiếng liền: Xin cứ diễn! Tôi nói Chúng tôi sợ rằng đồng bào bị mưa ướt hết! Khán giả hô to: Không sao, chúng tôi chịu ướt quen rồi. Anh chị em kịch sĩ tài tử, tay ngang tuy rét run đã gồng mình diễn cho hết vở kịch giữa những tràng pháo tay nồng nhiệt. Anh chị em tuy bị ướt lạnh nhưng trong lòng cảm thấy niềm tin yêu, hứng khởi ấm áp vô cùng. Đêm đó chúng tôi được thôn cho bồi dưỡng cháo gà nóng hổi, thơm phức. Người phụ trách thông tin thôn cho hay chưa bao giờ dân thôn này được xem văn nghệ trình diễn kể cả thời VC có mặt tại đây và cũng chưa bao giờ được xem một vở kịch có ý nghĩa và xuất sắc đến thế. Sáng sớm hôm sau có hai bà già mang khoai, sắn luộc và cơm nắm đến đãi chúng tôi và yêu cầu ở lại diễn thêm một đêm nữa. Chúng tôi đành phải từ chối vì chương trình lưu diễn đã ấn định trước rồi.

      Tôi và Anh Bằng, qua nửa thế kỷ, cho tới bây giờ không còn nhớ chi tiết vở kịch thơ “Nát Tan” hai màn cũng như vở thoại kịch “Đứa Con Nuôi”, thoại kịch này đã đoạt giải nhất về Kịch nghệ do Bộ Thông Tin tổ chức. Tôi và Anh Bằng cho đến nay chỉ còn nhớ nội dung chính… Bi kịch thứ nhất mô tả mảnh đời một anh vệ quôc quân bị thương, phải đi nạng, anh đã hiểu mình bị lừa bịp, bị lợi dụng. Về tới nhà đúng lúc một tên cán bộ xã đang đòi cưỡng ép vợ anh, trong lúc chị ta còn bế đứa con nhỏ. Kết cục là anh ta giết tên kia, đốt mái lều và cùng vợ chạy trốn đi tìm tự do. Vỏ kịch này đựơc trình diễn lưu động từ Cam Lộ rồi vào Hương Hoá, rồi trở ra theo quốc lộ 1 ngược lên vùng phi quân sự.

      Còn vở thoại kịch Đứa Con Nuôi diễn lại chuyện một gia đình giàu có, nhân từ có môt đứa con nuôi, thương nó như con đẻ. Nó trở thành một cán bộ trở về làng đấu tố cha mẹ nuôi. Nó đòi lấy con gái út của vợ chồng nạn nhân sau đó là những tình tiết éo le, ngang trái và sau cùng đạo lý, tình thương đã thắng gian tà. Kịch Đứa Con Nuôi đã được trình diễn ra mắt tại bến Văn Lâu tại Huế thành công rực rỡ. Chúng tôi dự định chỉ diễn một đêm thôi, nhưng theo đề nghị của ty Thông Tin Huế và được khán giả yêu cầu nồng nhiệt, anh chị em phải diễn liên tiếp ba đêm. Anh chị em ban kịch mệt đừ, bù lại là niềm vui, được thấy rõ tinh thần thù ghét cộng sản được hoan nghênh quá sức. Khán giả miền Trung khó tính hơn khán giả miền Nam, khán giả Huế còn kỹ tính hơn nữa. Khán giả cho biết là quá chán những màn hài kịch vô thưởng vô phạt, nghèo nàn nhạt nhẽo kiểu hâm nước mắm, thiếu nội dung chống cộng. Người mệt nhất vẫn là Anh Bằng, anh đóng vai chính, tinh thần căng thẳng, phải nói, phải la hét, phải vận dụng trí não, tài năng mức tối đa.

      Có tận mắt chứng kiến phản ứng náo nức, hừng hực căm hờn chủ nghĩa hoặc sâu lắng trầm tư, những giọt lệ của khán giả vùng giới tuyến, Thừa Thiên vào đến những thôn xóm xa xôi vùng trước đây chịu sự cai trị sắt máu chế độ như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,… mới thấy lòng dân năm 57, 58 ủng hộ tự do dân chủ ra sao. Có đi sâu sát, lăn lộn với đồng bào nông thôn mới thấy được tinh thần chống cộng của dân chúng, lòng yêu mến người lính cộng hoà lên cao đến mức nào. Nhận xét này có anh Anh Bằng và anh chị em trong ban kịch nhận biết rõ sau hơn một tuần ngắn ngủi sống sát đồng bào.

      Như trên tôi đã dẫn, viết thoại kịch để diễn trên sân khấu đã khó, viết kịch thơ để diễn khó hơn, thủ vai chính diễn kịch thơ loại tranh đấu càng khó hơn nữa. Anh Bằng đã thực hiện thành công được chuyện đó. Tôi nghĩ là nhờ khán giả thời bấy giờ hưởng ứng, tán thưởng với tâm lý, tâm thức như đã nói ở đoạn trên. Càng về những năm sau, tâm lý, tâm thức đám đông, rõ hơn là lập trường, quan điểm đã biến chuyển. Lỗi đó không phải do sai lầm của đám đông mà là lỗi của những người có trách nhiệm.

      Tiếp theo chuyến đi đó, theo yêu cầu của các đại đội Công Binh miền Trung, ban kịch đi lưu động suốt từ Huế vào đến Qui Nhơn. Cũng từ đó Anh Bằng được các Ty Thông Tin biết tiếng, qúy mến và Đại đội 2 Văn nghệ thuộc Nha CTTL nghe danh. Sau cùng thì anh được gọi vào Biệt Đoàn Văn nghệ trung ương của Nha (thời đó chưa mang tên Tổng Cục CTCT). Tôi đi tu nghịêp, rối đến Anh Bằng nhận lệnh vào Sài Gòn, ban kịch dần dần tan rã.

      Sau này người viết kịch và diễn kịch Trần An Bường nổi tiếng Quân Khu I trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng, khi không còn khoác áo nhà binh. Anh gặp đúng thời cơ, môi trường thuận lợi ở Sài Gòn, càng hoạt động, sáng tác nhạc mạnh mẽ. Trước đó anh là một phụ tá cho tôi, là diễn viên nòng cốt, một người đạo diễn trong ban kịch, năng khiếu văn nghệ của anh phát triển ngay từ bước khởi đầu này.

      Nhạc của anh, nhất là nhạc hùng, nhạc chiến tranh đầy kịch tính. Thí dụ rõ nhất là Huynh đệ chi binh, hơi nhạc hùng mạnh, dứt khoát và biến chuyển mau lẹ như những “xen” đột biến trình diễn trên sân khấu. Chỉ riêng bài hát ấy lời và nhạc đơn giản nhưng đã nói lên tâm hồn nhân ái rộng mở của anh, nói đến tình bạn chiến đấu, tất cả đều là anh em, kể từ Binh Nhì lên đến Đại Tướng.

      Trong 86 bản nhạc của tác giả Anh Bằng phần lớn là thơ phổ nhạc, nói cách khác là đưa nhạc vào thơ. Thơ của các thi sĩ nổi danh tứ tiền chiến cho đến những áng thơ của các nhà thơ sau 54 cho đến nay tại xứ người. Nếu tính kỹ ra có lẽ đến 50 bản nhạc là chính lời thơ của anh. Thơ và nhạc, nhạc với thơ đã trộn lẫn nhau, quấn quýt nhau không rời. Đó là đặc điểm cõi thơ, cõi nhạc sâu sắc, thâm trầm của Á Đông. Do đó tôi nghĩ rằng thơ làm cho nhạc lãng mạn, bay bổng hơn, nhạc đã khiến thơ nổi lên bằng âm thanh trầm bổng, du dương, réo rắt. Và cũng có thể nói muốn sáng tác nhạc hay nên biết, phải biết làm thơ. Một bản nhạc hay, nhưng nếu nhạc sĩ mượn thơ thi sĩ thì bản nhạc mới chỉ có một nửa hay hai phần ba của nhạc sĩ còn phần còn lại là của thi sĩ kia. Năm mươi bài thơ của Anh Bằng, thí dụ chưa phổ nhạc, có thể in thành tập thơ nho nhỏ, và giá trị nghệ thuật thơ không kém ai.

      Chúng ta hãy ngâm, ngâm nga thôi đã, khoan hãy hát, những lời thơ của “Thi sĩ Anh Bằng” thơ tình yêu rất nồng nàn:

      Anh! Tình em như lửa cháy
      mà anh vẫn lạnh lùng
      Vẫn như mùa đông tuyết rơi
      Anh! bây giờ anh ở đâu
      Em gọi trong giấc mơ
      Em buồn trong gió mưa

      (Anh không lại)

      Anh Bằng làm thơ lồng tình quê hương với tình yêu nam nữ, thơ 4 chữ rất mới và hay có thua gì thơ Phạm Thiên Thư:

      Vào đây tiểu thư, ngồi trong lớp học
      Đắp đôi tay ngà trên bâu áo bạc
      Mang ngoài nắng vào, tà dài mấy nhịp
      Qua cầu gió bay, qua cầu gió bay
      …………………..
      Em mang áo dài, đi hài xám tro
      Anh nhìn ngẩn ngơ, ơ, ơ, ơi tình
      Anh nhìn ngón chân, như là hoa hậu
      Như là quê hương, như là quê hương

      (Áo dài quê hương)

      Phần lớn thơ nhạc Anh Bằng tán tụng tình yêu, nhưng là người đã khoác áo chiến binh, anh có những áng thơ diễn tả nét bi hùng của chiến tranh:

      Chuyện một đêm khuya, nghe tiếng nổ vang rền
      Chuyện một đêm khuya, ôi máu đổ lệ rơi
      Chuyện một đêm khuya, nghe tiếng than trong xóm nghèo
      Mái tranh lửa cháy bốc lên ngun ngút trời cao
      Bà mẹ đau thương như muối đổ trong lòng
      Chạy giặc ôm con qua những cảnh lầm than

      (Chuyện một đêm)

      Man mác trong thơ nhạc Anh Bằng là nỗi nhớ quê hương đất nước:

      Màu trăng nơi đây
      Đục hơn trăng Sài Gòn nhiều
      Trời đêm lặng sao
      Nhưng khác trăng Sài Gòn nhiều
      Biết không anh, biết không anh
      Ở đây trăng sao rất buồn, rất buồn

      (Cõi buồn)

      Nếu Anh Bằng không gặp môi trường thuận lợi về lãnh vực nhạc, tôi có thể nói rằng, giả thử gặp môi trường, gặp bạn bè bên sân khấu kịch nghệ hoăc giới “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” biết đâu anh chẳng nổi danh kịch sĩ, thi sĩ?

      Hiện nay anh ở dưới nam Calfornia an hưởng tuổi già, sau những thành công tốt đẹp trong lĩnh vực âm nhạc. Nay anh đã 84 tuổi, tinh thần minh mẫn, vẫn yêu đời, vẫn chú ý đến ca nhạc, vẫn thích nói chuyện với bạn bè. Nhưng anh có gửi điện thư cho tôi biết mắt anh kém lắm, tai nghe cũng khó khăn dù đã có máy trợ thính, nên anh nói đùa với bạn bè: “Nghe tôi nói thôi, đừng có nói với tôi, vì tôi không “thèm” nghe đâu”. Muốn nói chuyện với anh, ở xa thì dùng máy vi tính, gặp gỡ thì người đến thăm phải viết ra giấy kiểu bút đàm một chiều.

      Tôi rất qúy mến Nhạc sĩ, thi sĩ, kịch sĩ Anh Bằng, đa tài, năng khiếu vượt trội. Tôi rất qúy mến Anh Bằng một người bạn, một cộng tác viên nhiệt tình, một người anh lớn tuổi trong văn học nghệ thuật, ngoan đạo, hiền hoà, yêu đời, yêu người.

      (sangtao.org)

      Comment


      • #4
        Nhạc sĩ Anh Bằng - Những sáng tác bất hủ

        Comment


        • #5
          ASIA CHANNEL : Thuy Duong & Anh Bang (full show)

          Comment


          • #6
            Anh Bằng Và Tôi



            Anh Bằng Và Tôi
            Lê Dinh



            Đầu năm 1966, một ngày vào khoảng giữa trưa, lúc tôi đang làm việc trong phòng Sản Xuất, đài Phát thanh Sài Gòn, có một anh quân nhân, mặc sắc phục, lên lầu tìm gặp tôi. Nhìn người khách lạ không quen biết, nhưng qua phù hiệu của Biệt đoàn Văn nghệ, tôi cũng đoán được đây là một người thuộc giới văn nghệ. Anh tự giới thiệu anh là nhạc sĩ Anh Bằng. Qua cái bắt tay thân thiện chào hỏi, anh mở tờ giấy cuộn tròn đang cầm trên tay - đó là một bản nhạc - đưa tôi xem để nhờ tôi "lancer" giùm. Chữ "lancer" trong giới nhạc sĩ sáng tác, được coi như là « phổ biến ».

            Tuy không quen với Anh Bằng trước đây, nhưng tôi rất có cảm tình với cái tên Anh Bằng, với ca khúc "Nếu vắng anh" của anh, viết theo ý thơ của Nguyên Sa, đã được giọng ca tha thiết của Lệ Thanh gửi vào lòng nhiều thính giả, trong đó có tôi.

            "Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió
            Nếu vắng anh, ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố
            Nếu vắng anh, ai đón em khi tan trường về
            Kề bóng em ven sông chiếu chiều, gọi tên người yêu..."


            Với cảm tình sẵn có, tôi vui vẻ mời Anh Bằng ngồi để nói chuyện về bài nhạc mới mà anh đưa tôi xem để nhờ phổ biến. Nơi tôi làm việc được coi như là nơi gặp mặt của tất cả các anh chị em văn nghệ sĩ, từ các trưởng ban cho đến các ca sĩ, nhạc sĩ tân cũng như cổ nhạc, các nhạc sĩ sáng tác, nhạc công, kịch sĩ, thi sĩ... cộng tác với đài phát thanh. Theo một lịch trình đã định sẵn, các vị trưởng ban tân nhạc, cổ nhạc Trung Nam Bắc, thoại kịch, ca kịch, các ban thi văn... cùng các nghệ sĩ trong ban của họ lần lượt đến đài để thu thanh trước những chương trình sắp phát thanh. Các nghệ sĩ bạn bè đến sớm, trước giờ thu thanh vài mươi phút, cũng thường đến phòng tôi nói chuyện, hoặc thỉnh thoảng, lúc rỗi rảnh, tôi cũng bước qua phòng vi âm để trò chuyện đôi câu với anh chị em ca nhạc sĩ. Vì vậy nên tôi có cơ hội được quen biết tất cả anh chị em nghệ sĩ cộng tác với đài Phát thanh và việc đưa một sáng tác mới để nhờ ca sĩ hay trưởng ban "lancer" giùm cũng không khó khăn gì. Vả lại, các ban nhạc cũng cần những sáng tác mới hay, để thay đổi món ăn, không làm nhàn chán tai thính giả.

            Trở lại bài hát vừa viết xong của Anh Bằng, đó là bài "Hẹn Anh Đêm Nay", một bài hát rất buồn, viết với âm điệu Si thứ, và là lời nhắn nhủ của một cô gái gửi cho người yêu là một quân nhân sắp trở ra chiến trường ngày hôm sau, sau khi hết hạn phép... Tình bạn giữa Anh Bằng và tôi bắt đầu từ lần gặp gỡ đầu tiên này. Và rồi ngay chiều hôm đó, chúng tôi hẹn nhau đến nhà Minh Kỳ để tôi giới thiệu Anh Bằng với Minh Kỳ, người tôi quen biết từ nhiều năm rồi.

            Lúc mới bắt đầu biết nhau, chúng tôi đều có những sáng tác riêng rẽ và cũng được nhiều người biết đến. Minh Kỳ, người lớn tuổi nhất, đã có những bài như Nha Trang, Nhớ Nha Trang, Nha Trang Chiều Mưa, Chị Hằng, Xuân Đã Về... Anh Bằng đã có Nếu Vắng Anh, Lẻ Bóng... còn tôi, giới ngưỡng mộ cũng biết tôi qua những ca khúc Tấm Ảnh Ngày Xưa, Ga Chiều, Cánh Thiệp Hồng, Ngang Trái, Tình Yêu Trả Lại Trăng Sao... Tuổi tác của chúng tôi xấp xỉ nhau, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau, cho nên chúng tôi dễ kết thân với nhau, và từ đó đi đến việc thành lập Nhóm Lê Minh Bằng (tức 3 tên Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng ghép lại), mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của ông Nguyễn Tất Oanh ít lâu sau.

            Anh Bằng, tên thật là Trần An Bường, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại Ninh Bình. "An Bường" nếu đọc lên cũng nghe trài trại như "Anh Bằng" và vì vậy anh lấy biệt hiệu là Anh Bằng. Tôi nhớ vào dịp Tết năm 1969, một số văn nghệ sĩ được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu mời vào tham dự buổi gặp gỡ vui Xuân tại dinh Độc Lập – trong đó có Anh Bằng và tôi – Tổng thống Nguyễn văn Thiệu bắt tay từng người.

            Khi đến bắt tay Anh Bằng, TT Thiệu vừa cười vui vẻ vừa nói: “ Anh Anh Bằng khôn lắm, ai cũng phải gọi Anh Bằng bằng “ anh ” hết. Anh Bằng cũng cười và nói: “Đúng thế!” Tất cả anh chị em nghệ sĩ đều vỗ tay và cười rộ.

            Tính anh rất hiền lành, vui vẻ nhưng, so với chúng tôi, anh rất ít nói. Mà những người ít nói thường hay được lòng của phái nữ. Anh lại có duyên dáng trong lời nói, cái duyên dáng đáng yêu đó đã bộc lộ trong một số lời ca của anh. Chúng ta còn nhớ:

            "... Từ lâu, tôi biết câu thời gian là thuốc tiên
            Đời việc gì đến sẽ đến
            Những ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên".

            (Sầu lẻ bóng)

            Hoặc như:

            "Đời như cánh chim bay ngàn phương
            Chia tay rồi đây, mỗi người đi một đường
            Chuyện tâm tình thôi đành dở dang,
            Siết tay nhau một lần, kết chặt tình bạn thân.
            Chúc nhau, nâng ly lần cuối
            Cầu mong cho bọn mình tuy xa mà tình chẳng rời
            Quên buồn, quên sầu tìm vui mà sống
            Nhớ nhau, mỗi năm thu sang về đây ba đứa nghe mưa chiều thu"

            (Ly Cà Phê Cuối Cùng)

            Trong việc giao thiệp hàng ngày, anh cũng thuờng ít xuất hiện và nếu có xuất hiện cũng thường hay làm thinh và nếu nói thì những lời nói nào anh đưa ra cũng duyên dáng và vì lẽ đó mà anh rất... đào hoa. Bạn bè thường bảo rằng anh có duyên ngầm. Vì cái duyên đó mà có rất nhiều cô mến anh, thích anh và rồi yêu anh, và anh cũng yêu lại người ta, nhưng anh không bỏ bê gia đình, vẫn chăm lo, săn sóc người vợ anh cưới từ khi chưa di cư, ở thị trấn Điền Hộ, tỉnh Ninh Bình. Bỏ quê hương, anh cùng gia đình vào Nam tìm tự do sau hiệp định đình chiến, chia đôi đất nước năm 1954. Năm 1975, thêm một lần nữa chạy trốn Cộng sản, anh di tản trước cùng cô con gái nhỏ và những cậu con trai, và vừa khi đủ điều kiện để bảo lãnh gia đình, anh đã bảo lãnh vợ và con gái qua Mỹ để sống hạnh phúc cho đến ngày nay. Ở địa hạt tình cảm, Anh Bằng là người trái ngược với Minh Kỳ, cho nên chúng tôi thường hay nói Anh Bằng là người ướt át nhất và tuy là người tình cảm mà không mất cảm tình khi vì hoàn cảnh, chia tay với ai đó bởi vì anh đã "nhắn nhủ" qua bài "Sầu Lẻ Bóng":

            "Người ơi, khi cố quên là khi lòng nhớ thêm...".

            Hờn giận người ta thế nào được khi người đó vẫn còn nhớ đến mình.

            Trong vấn đề sáng tác, bộc lộ sự thương yêu qua lời ca tiếng nhạc là chuyện thông thường của người nhạc sĩ sáng tác, nhưng anh cũng thường hay bộc lộ sự hờn giận qua nét nhạc và lời ca. Ca khúc "Người Thợ Săn Và Đàn Chim Nhỏ" của nhóm Lê Minh Bằng, mà chúng tôi ký dưới tên Vương Đức Long, lời ca do Anh Bằng viết, để nói lên việc đối xử không mấy tốt đẹp - đôi khi hơi tàn bạo - của một vài cảnh sát viên, tuy nói là bạn dân, nhưng thường hay có thái độ hằn học, không đẹp với dân chúng, đặc biệt là người sử dụng công lộ và nhất là những phụ nữ mua gánh bán bưng... Trong óc tưởng tượng của anh – một vài người cảnh sát không phải là bạn dân - khi có cây súng trên tay, mà anh xem như người thợ săn và hà hiếp dân chúng mà anh so sánh như đàn chim, để rối anh viết lời ca:

            "Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng
            Còn một bầy chim vô tình vẫn hót líu lo đùa chơi
            Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây
            Chim chết chim lạc bầy..."


            Trong một phút hờn dỗi ông Giám đốc hãng đĩa Sóng Nhạc - hãng đĩa mà anh em chúng tôi cộng tác - anh có ý nghĩ để lời ca sau đây vào bài "Trở về cát bụi" của nhóm Lê Minh Bằng, coi như lời nhắc nhở ông Nguyễn Tất Oanh trong tư cách đối xử với anh em - qua lời ca - như sau:

            "... Sống trên đời này, có đây rồi lại mất
            Cuộc sống mong manh, nhắc ai đừng đổi trắng thay đen
            Làm người sang giàu, đừng vì bạc tiền bỏ nghĩa anh em..."


            Trong công cuộc làm ăn, đôi khi cũng có những sự hiểu lầm, những vướng mắc nho nhỏ, cho nên chuyện lủng củng giữa anh em chúng tôi với ông Giám đốc hãng đĩa Sóng Nhạc cũng không tránh khỏi. Một người hờn giận, không nói ra mà chỉ bày tỏ bằng lời ca, nhưng ông Sóng Nhạc nào có biết, tuởng đâu rằng nhóm Lê Minh Bằng viết bài "Trở Về Cát Bụi" không phải để "nhắn nhủ" mình, mà là một bài ca nghiêng về giáo lý của nhà Phật, cuộc đời là hư không, khi nhắm mắt không đem theo được gì. Và ca khúc "Trở Về Cát Bụi", được coi như một "lá thư ngỏ" gửi ông Nguyễn Tất Oanh lại là một bài hát đem lại cho ông khá nhiều về tài chánh qua số đĩa hát tiêu thụ, với giọng ca thu đĩa lần đầu tiên của Elvis Phương và sau đó, tiếng hát của Thế Sơn làm sống lại ca khúc này ở hải ngoại.

            Cũng nằm trong ý nghĩ lồng vào bài hát những lời cảnh tỉnh con người, như một bài ngụ ngôn, Anh Bằng có soạn riêng ca khúc "Huynh Đệ Chi Binh" để - theo lời anh nói - gián tiếp khuyên mấy ông "chóp bu nhà mình" đừng có xào xáo nhau nữa, mà phải họp sức chung lo chống kẻ thù chung là CS. Mà thật vậy, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Điệm năm 1963, liên tiếp trong nhiều năm sau, tình hình chính trị miền Nam thật vô cùng rối ren. Nay đảo chính, mai chỉnh lý và nhất là vào giai đoạn cuối của đất nước, hai vị Tổng thống và Thủ tướng, đều là người của quân đội, đã không đoàn kết với nhau mà lại còn hục hặc nhau luôn, cho nên Anh Bằng mới viết ca khúc "Huynh Đệ Chi Binh", mong rằng sẽ đến tai các ông quan lớn nhà binh này:

            "Huynh đệ chi binh là gì hở anh Hai
            Huynh đệ chi binh là..., là... huynh đệ chi binh.
            Từ người đơ dèm cùi bắp
            Và rồi đi lên thượng cấp đều là huynh đệ chi binh.
            Tiến thối có nhau là huynh đệ chi binh
            Sướng khó có nhau là huynh đệ chi binh..."


            Năm 1979, khi gia đình chúng tôi định cư tại thành phố Montréal được gần 1 năm, Anh Bằng cứ tha thiết bảo tôi bỏ tất cả ở Canada để qua bên Mỹ, tái lập lại tên Lê Minh Bằng (mặc dù chỉ còn 2 người) với lý do anh muốn hoạt động lại trong ngành âm nhạc, xuất bản, ra băng đĩa và tổ chức những chương trình nhạc hội. Anh nói anh ít ăn ít nói, không có tài xã giao, ít giao thiệp mà chỉ biết có sáng tác thôi cho nên anh muốn tôi qua để làm cái đầu tàu hoạt động trở lại như ngày trước. Nhưng đi thế nào được khi mà ở bên này, gia đình chúng tôi cũng đã ổn định được đời sống một phần nào rồi, vợ chồng tôi đều đã có việc làm, 3 đứa con cũng đã vào trường... cho nên tôi không làm theo lời yêu cầu của Anh Bằng. Lúc đó là Anh Bằng đang dùng nhà để xe của anh để làm phòng thu thanh và đã thực hiện những băng cassette với tên Lê Minh Bằng, để cho Trung tâm Thanh Lan (Thanh Lan lớn, có cửa hàng băng nhạc ở Bolsa) độc quyền phát hành, rồi sau đó anh đổi tên nhà sản xuất thành những tên như Sóng Nhạc, Dạ Lan rồi Asia và những băng cassette này rất được thính giả ái mộ cho nên thương hiệu của Anh Bằng càng ngày càng phát đạt cho đến khi chị Anh Bằng qua, anh mới đi đến thực hiện chương trình sản xuất Video Asia trước kia và DVD Asia bây giờ.

            Bước sang lãnh vực thực hiện video, với sự góp sức của gia đình, thương hiệu Asia tiến lên thấy rõ, một phần nhờ lúc đó chưa có nhiều công ty khác ra cạnh tranh, một phần, Anh Bằng là nhạc sĩ sáng tác cho nên bài bản chủ lực vẫn trội hơn hết và ngoài ra anh còn một số vốn rất phong phú là những sáng tác của Lê Minh Bằng. Công việc của Trung tâm Asia tiến triển rất khả quan, nhưng vì tuổi già càng ngày càng chồng chất cùng với bệnh lãng tai bắt đầu chớm phát, Anh Bằng không thể giữ vững tay lái con thuyền Asia nữa, cho nên anh chuyển giao quyền cai quản Trung tâm Asia lại cho cô con gái Thy Vân của anh trông coi.

            Ở hải ngọai, có nhiều đài phát thanh và đài truyền hình hơn, nhiều phòng trà và nhiều đại nhạc hội hơn, nghĩa là có nhiều phương tiện để lancer nhạc phẩm hơn truớc 1975, nhưng có điều trở ngại là những cơ sở này có tính cách địa phương, chỉ phổ biến trong phạm vi gần, thật giới hạn mà thôi. Phương tiện phổ biến đại chúng là một số ít trung tâm băng nhạc, trong đó có Asia và Thúy Nga. Hai trung tâm này đều mong muốn có những nhạc phẩm xuất sắc (nghệ thuật nhưng phải ăn khách) để giới thiệu với khán thính giả, nhưng tìm đâu ra viên ngọc quý trong biển cát. Do đó, hai trung tâm này phải chọn những sáng tác trong tổ chức của mình, một số những nhạc phẩm xưa mà phần đông khán thính giả còn mến chuộng, một số ít tác phẩm của những tác giả mới và một số của những tác giả trong nước. Vì vậy, TT Asia đã tổ chức cuộc thi sáng tác nhạc phẩm mới, đó là cơ hội rất tốt cho những nhạc sĩ mới có thực tài, có những sáng tác mới muốn được nguời đời biết đến.

            Sức sáng tác của Anh Bằng rất sung mãn. Sau khi ra khỏi nước, anh viết riêng một mình những ca khúc mới mà chúng ta đã nghe và không thể nào quên được như Khúc Thụy Du (thơ Du Tử Lê), Cõi Buồn, Mất Nhau Mùa Đông, Tango Dĩ Vãng, rồi ít lâu sau, một loạt bài phổ thơ như Chuyện Giàn Thiên Lý, Hồi Chuông Xóm Đạo, Bướm Trắng, Chuyện Hoa Sim... Nói về việc phổ thơ - như chúng ta đã biết - trong lãnh vực này, Anh Bằng là người nhạc sĩ phổ thơ nhiều - nhiều nhưng hay - trong số những nhạc sĩ thành công trong khuynh hướng này như Phạm Duy (Tiễn Em, Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà), Văn Phụng (Các Anh Đi, Một Lần Cuối), Song Ngọc (Chân Quê). Anh Bằng là người đem nhạc vào thơ rất bền bỉ, trước 1975 cũng như sau này. Những bài thơ nổi tiếng thời tiền chiến của Nguyễn Bính (Bướm Trắng), Hữu Loan (Chuyện Hoa Sim), Thái Can (Anh Biết Em Đi Chẳng Trở Về), Yên Thao (Chuyện Giàn Thiên Lý), Hồ Dzếnh (Anh Cứ Hẹn ), Phạm Thành Tài (Anh Còn Nợ Em)... được Anh Bằng khéo léo diễn tả bằng âm thanh là một chứng minh khả năng phổ thơ của Anh Bằng.


            Nói về sức sáng tác của Anh Bằng, tôi còn nhớ trước 1975, mỗi lần có một chiến dịch nào do chính phủ đề ra, như "Người cày có ruộng", "Kêu gọi nhập ngũ tòng quân", "Tố Cộng" (nói lên sự dã man tàn ác của CS, như pháo kích vào trường học, liệng lựu đạn vào rạp hát...), "Chiêu hồi" v.v..., tôi cho Anh Bằng biết hôm trước, hôm sau là anh có ngay một bài hát thuộc loại chiến dịch, tuyên truyền nhưng không phải là những bài không được thính giả chú ý. Chẳng hạn những bài viết cho chiến dịch chiêu hồi như Bóng Đêm (Em chắp hai tay quỳ gối nguyện cầu, Cầu cho hai đứa mình sống bên nhau...), Đôi Bóng (Tình thương gửi theo gió chiều, nhờ trao đến cho người yêu - Rừng sâu suốt đêm thâu, người đi đã bao lâu mà không biết tương lai về đâu..."), Nếu Hai Đứa mình (Nếu hai đứa mình không về cùng chung lối đường, Thì dù trăng sáng cũng là màu trắng khăn tang...), Nhật Ký Của Hai Đứa mình (Thức trắng đêm nay viết lại nhật ký của hai đứa mình...), Nếu Ai Có Hỏi (Nếu ai có hỏi bao giờ chúng mình gần nhau), Giấc Ngủ Cô Đơn (Nửa đêm nhớ anh, nằm nghe mưa khóc bên mành)... toàn là những bài viết cho chiến dịch chiêu hồi, lời nhắn gửi tha thiết của người vợ hiền, của người yêu nhỏ gửi những người trai lầm đường, lạc lối hãy quay về với yêu thương, về với người vợ hiền, với đàn con dại, với người yêu bé bỏng - mà phần nhiều lời ca những bài loại này do Anh Bằng viết - đã mau chóng trở thành những bài chan chứa tình cảm lứa đôi cho nên sức tiêu thụ rất mạnh.

            Một khía cạnh khác của vấn đề sáng tác mà chúng ta tìm thấy ở Anh Bằng là óc hài hước của anh. Tôi còn nhớ, khi còn làm băng cassette, Anh Bằng có thuê một nhân viên người Mỹ đề dán nhãn, làm hộp băng. Ít lâu sau, trong một dịp qua Cali thăm Anh Bằng, tôi không thấy anh Mỹ này nữa, tôi mới hỏi anh thì được anh cho biết là anh đã sa thải người đó vì, theo lời anh nói, ngày xưa Mỹ nó cho tôi nghỉ việc, bây giờ tôi cho Mỹ nó nghỉ việc lại. Nhưng tôi biết đó là anh chỉ nói đùa thôi. Trong số nhiều bài nhạc của ban AVT với Lữ Liên, Vân Sơn và Tuấn Đăng trình bày trên sân khấu đại nhạc hội trước 1975, có một số bài do Anh Bằng sáng tác. Không có óc hài hước, khó mà viết được những bài như Tập lái Vespa, Đánh cờ người v.v...

            Những ngày đầu mới tỵ nạn ở Mỹ, Anh Bằng chưa bắt tay trở lại vào nghề cũ cho nên anh phải bươn chải để lo cho đời sống của gia đình gồm có 2 cậu con trai và cô con gái nhỏ, tất cả đều còn ít tuổi, phải trở lại ghế nhà trường. Anh xin được một chỗ làm trong một hiệu bán dụng cụ sắt thép, được buổi sáng thì buổi chiều, chủ cho anh nghỉ vì anh bắt đầu bị bệnh lãng tai, chủ nói một đàng, anh làm một nẻo. Thí nghiệm với vài ba chỗ mới nữa, kết quả, anh cũng chẳng làm được bao lâu. Càng ngày, bệnh lãng tai của anh trở nên thật trầm trọng hơn, dù có đi bao nhiêu bác sĩ chuyên khoa về tai mũi họng, dù có máy thật đắt tiền gắn liền vào tai - được điều chỉnh cho thích hợp với âm sắc và cường độ của từng giọng nói của mỗi người - nhưng anh chỉ còn nghe được chừng 10%. Có những sự việc rất buồn cười xảy ra vì việc mất dần khả năng thính giác của anh. Năm 1990, anh sang Montréal tham dự lễ thành hôn con gái của tôi, anh đi từ phi trường Los Angeles, dừng ở New York rồi sang Montréal. Theo như dự định, phi cơ sẽ đến phi trường Dorval (Montréal) lúc 17:00, tôi lên phi trường lúc 16:30 để đón anh. Chờ đến 17:00 hơn, chẳng thấy bóng anh đâu, dù trên màn hình ghi chuyến bay của anh đã đến. Đợi thêm 15 phút, rồi nửa tiếng, rồi một tiếng rưỡi nữa, vẫn không thấy bóng dáng anh. Điện thoại về nhà, tôi được bà xã tôi cho biết là cô con gái của Anh Bằng có gọi qua nói "ba con đi lạc rồi thím ơi". Thật ra, thay vì ngồi luôn trên phi cơ ở phi trường New York để chờ đợi tiếp tục đi Montréal, Anh Bằng hỏi ông Mỹ ngồi bên cạnh có phải đây là Montréal không, và anh bảo khi nghe ông Mỹ này trả lời "Yes" cùng lúc thấy thiên hạ lần lượt ra khỏi phi cơ, Anh Bằng cũng lụt tụt xuống theo. Đến khi biết được chuyện nghe lầm thì phi cơ đi Montréal đã bay lâu rồi. Thành ra đêm đó, Anh Bằng phải ngủ lại New York để chờ chuyến bay sáng hôm sau, còn tôi lủi thủi trở về nhà, đón khách mà không có khách. Về đến nhà, tôi được điện thoại của Thy Vân gọi qua cho biết là ba của cô sẽ đi chuyến bay New York - Montréal vào lúc 9:15 sáng hôm sau. Cũng may mà đến hôm sau mới là ngày tổ chức lễ thành hôn của con gái tôi.

            Cũng liên quan đến việc mắc bệnh lãng tai này là một chuyện kể của anh, nghe như một chuyện cười: Thời kỳ anh bị mất khả năng thính giác là lúc anh vẫn còn lái xe. Một hôm, trên đường đi công chuyện về, cũng vì mắt anh hơi kém, anh vượt đèn đỏ và xe cảnh sát có đèn chớp đuổi theo phía sau. Anh vẫn phom phom, từ từ và ung dung chạy hoài, theo đường lên núi để về nhà. Một lát, lại có thêm một chiếc xe cảnh sát thứ hai cũng chạy phía sau xe trước. Anh vẫn không hay biết gì. Khi anh lái xe về đến nhà, mở cửa bước ra khỏi xe, anh mới biết phía sau anh có 2 chiếc xe cảnh sát đuổi theo. Có lẽ cảnh sát nghĩ rằng họ sẽ phải đối phó với một tay khủng bố dữ dằn lắm thì phải. Cuối cùng, anh bị mất bằng lái và từ đó, đi đâu anh cũng phải có nhân viên của TT Asia đưa đón

            Có người hỏi bị khiếm khuyết thính giác có ảnh hưởng gì đến việc sáng tác của anh không? Theo chỗ tôi biết, cũng có trở ngại đôi chút nhưng không ảnh hưởng gì đến việc sáng tác. Tư tưởng, ý nhạc, hồn nhạc từ óc mà ra, và theo đó, anh ghi lên giấy. Tay anh ghi một câu nhạc lên giấy là anh đã có âm điệu câu nhạc này trong đầu, hay nói ngược lại, âm điệu của câu nhạc mà anh có trong đầu được anh chép lại trên giấy. Một nốt nhạc để trên giấy, anh đã biết nó cao thấp, trầm bổng, ngắn dài thế nào rồi và một dòng âm thanh liên tiếp ghi lại trên giấy, anh đã biết nó uyển chuyển, du dương, êm đềm, hay hoặc dở thế nào rồi. Còn việc viết lời ca thì dù lãng tai cũng không bị chi phối gì cả. Bằng cớ là những sáng tác gần đây như "Khóc mẹ đêm mưa" vẫn trau chuốt, vẫn rất là Anh Bằng, không có gì để cho chúng ta bảo rằng khiếm khuyết thính giác gây trở ngại cho việc sáng tác của anh. Chỉ có một điểm trở ngại duy nhất là nếu nghe CD hay xem DVD mà không có bản nhạc trong tay, Anh Bằng chẳng hiểu ca sĩ đang hát bài gì, ngọai quốc hay VN, bài nhạc hay hoặc dở. Nếu có bài nhạc cầm trên tay thì khá hơn, nhưng cũng không nghe được âm thanh trầm bổng của ca khúc. Vì thế, có lần Anh Bằng nói đùa, nhưng là sự thật, rằng: “Cả thế giới này không còn nhạc phẩm nào, không có ca sĩ nào lọt tai tôi nữa, mọi chuyện đều bỏ ngoài tai”

            Có nhiều người cho việc tin tử vi là tin dị đoan, nhưng tử vi không phải là dị đoan - mà là một khoa học, chúng ta phải công nhận, như nhiều nhà tử vi đã nói - nếu thầy tử vi học có căn bản, tới nơi tới chốn thì tử vi rất đáng cho ta lưu ý. Nhiều sự việc nhiệm mầu đã xảy ra thật khó giải thích, liên quan đến tuổi Thìn, một tuổi mà các thầy tử vi nói là rất tốt trong việc lấy vợ gả chồng. Người tuổi Thìn đem đến may mắn cho người phối ngẫu, khiến cho gia đình ăn nên làm ra. Trong phạm vi gia đình (cũng như trong phạm vi bạn bè), chúng ta chắc cũng đã có chứng kiến sự thành công trong gia đình mà một trong hai người, vợ hoặc chồng, là người tuổi Thìn. Gia đình Anh Bằng cũng nằm trong trường hợp này. Từ ngày sang Mỹ, lúc ban đầu, Anh Bằng cũng lận đận lao đao như đa số người tỵ nạn khác. Nhưng từ ngày chị Anh Bằng (tuổi Mậu Thìn - 1928) qua Mỹ cùng với cô con gái lớn, với số vốn nho nhỏ vay mượn của bạn bè, với khả năng sáng tác của Anh Bằng, cùng với sự phụ sức của tất cả con cái, Anh Bằng đã tiến lên một bước, lập nên Trung tâm Băng nhạc Asia, một trong vài trung tâm băng nhạc lớn hiện nay ở hải ngoại. Cho đến ngày nay, Thy Vân vẫn là người điều khiển tổng quát - cùng với Trúc Hồ trong phần vụ giám đốc âm nhạc - Trung tâm băng nhạc Asia và đã giữ vững uy tín trong nhiều chục năm nay. Trung tâm băng nhạc Asia được thành hình và bắt đầu đi vào hưng thịnh từ khi Anh Bằng có người phối ngẫu là chị Anh Bằng nhúng tay vào.

            Tôi bắt đầu cho ra nguyệt san Nghệ Thuật từ tháng 4-1994. Trong 3 năm đầu, thường bị lỗ lã, mỗi tháng phải lấy thêm tiền nhà để châm vô mới có đủ trả tiền nhà in, mặc dù những người cộng tác không có chút thù lao nào. Đã biết lỗ nhưng không hiểu sao tôi vẫn tiếp tục làm, âu đó cũng là cái nghiệp, nghiệp văn nghệ. Đến tháng 3 năm 1999, trong một chuyến qua thăm Anh Bằng, anh có nhã ý đề nghị ủng hộ Nghệ Thuật tấm hình bìa và nhờ vậy mà Nghệ Thuật kéo dài sự sống được cho đến tháng 4-2007, thời điểm mà tôi thấy đã quá mệt mỏi sau 13 năm làm báo cho nên tôi quyết định đình bản tờ Nghệ Thuật. Trong 7 năm sau của tờ Nghệ Thuật, nhờ có sự yểm trợ của Asia cho nên khỏi phải bù đắp tiền nhà, nếu không thì Nghệ Thuật chắc cũng phải chết dở sống dở. Nghệ Thuật nhớ mãi sự ủng hộ của một người bạn cũ, trước sau vẫn nhớ đến anh em, mặc dù xa mặt nhưng không cách lòng.

            Anh Bằng là một con chiên rất ngoan đạo. Ngày trước, khi anh còn khỏe, khi thính giác anh chưa có vấn đề, anh thường hay sang Montréal thăm gia đình chúng tôi. Mỗi bận ghé qua Montréal là anh yêu cầu tôi chở anh đi viếng một thánh đường rất nổi tiếng nằm trên sườn phía Bắc của một ngọn núi nhỏ có tên là Mont Royal của thành phố Montréal, đó là thánh đường Saint-Joseph. Du khách nào đến thành phố Montréal mà chưa viếng thăm thánh đường Saint-Joseph, có thể coi như chưa đến Montréal. Lên đến tận đỉnh cao của thánh đường, Anh Bằng xem rất sung sức, anh dừng lại ở tầng có mộ ông thánh Saint André, đốt đèn cầu nguyện ở bàn thờ các thánh rồi mới ra về. Nếu tôi không đưa anh đi viếng thánh đường Saint Joseph thì cũng phải đưa anh đến một nhà thờ nào đó gần nhà, để anh cầu nguyện.

            Một người sinh trưởng nơi một thị trấn nhỏ ở tận miền Bắc, có tên là Điền Hộ, thuộc tỉnh Ninh Bình, một người sinh trưởng ở cuối miền Nam nước Việt, một làng bé nhỏ có tên là Vĩnh Hựu, thuộc tỉnh Cò Công, những tên thị trấn, tên làng xã mà chúng ta chưa chắc tìm được trên bản đồ, hai người cách biệt nhau 7 tuổi, ở hai đầu non nước, thế mà gặp nhau và trở thành những người bạn văn nghệ. Đó là gì, nếu không phải là duyên và cái căn duyên này đưa đến việc hình thành một tình bạn tương thức. Nếu vào ngày đầu năm 1966 đó mà Anh Bằng không tìm đến gặp tôi thì sẽ không có nhóm Lê Minh Bằng, sẽ không có ca khúc Đêm nguyện cầu, hay Linh hồn tượng đá, hay Truyện tình Lan và Điệp để lại hậu thế. Nếu không có chuyện "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" đó, chúng tôi, Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng vẫn là những đồng nghiệp thông thường, coi nhau như bao nhiêu thân hữu thông thường khác, không có sự gắn bó của một nhóm khăng khít, không có tình bạn đồng tâm thắm thiết, tri âm, tri kỷ.

            Tháng 04/2008
            Viết cho ngày Sinh nhật năm thứ 82 của ANH BẰNG


            http://www.luanhoan.net/gocchung/html/gc879.htm

            Comment


            • #7
              Tâm sự cựu học sinh trường nhạc lê minh bắng 1968-1971

              Nhớ Thương Các Thầy: LÊ DINH, MINH KỲ VÀ ANH BẰNG.


              Năm 1968, một người thanh niên Việt nam 18 tuổi, vừa rời quận lẻ lên Sài gòn. Sau tết Mậu thân 1968. Đến lớp nhạc Lê Mình Bằng ghi tên theo học để hiểu biết âm nhạc, tập tành ca hát, hy vọng có cơ hội đóng góp văn nghệ, giúp vui, giải trí cho đời.
              Hoàng Châu đã được xếp vào học lớp nhạc do thầy Anh Bằng đã dạy. Trên lầu hai, nhà của thầy Minh Kỳ, ở đường Hai bà Trưng, Sài gòn. Lần đầu tiên, được hân hạnh diện kiến, và ngồi trong lớp nhạc của ba vị thầy nổi tiếng ở Miền nam Việt nam, thầy Anh Bằng dạy luyện giọng âm nhạc cho 14 anh chị em, gồm 11 chị và 3 nam học sinh, trong đó Lê Hoàng Châu. Cứ mỗi tuần có hai ngày gặp thầy, vào mỗi buổi chiều thứ ba và thứ năm, từ 5 giờ đến 6 giờ chiều. Theo học nhạc trường Lê Minh Bằng được một năm. Hoàng Châu phải gia nhập Quân đội, bị gián đoạn vài tháng ở quân trường, sau ra đơn vị đóng ở Sài gòn, ban ngày làm việc, buổi chiều đi học nhạc LMB tiếp cho đến cuối năm 1971, bị đổi đi Phù Cát, lại bị gián đoạn việc học nhạc.
              Ngoài lớp chiều của thầy Anh Bằng còn có rất nhiều lớp học khác của trường dạy nhạc LMB, do hai thầy Lê Dinh và Minh Kỳ đã đảm trách, số học sinh trường nhạc Lê Minh Bằng đông đảo nhất so với nhiều lớp nhạc của các vị nhạc sĩ nổi tiếng khác (các lớp nhạc đơn độc một nhạc sĩ): Lớp nhạc Đỗ Lễ, Hoài Nam, Nguyễn Đức, Duy khánh, Anh Việt Thu... Lớp nhạc Lê Minh Bằng có gần cả trăm học sinh, đã cung cấp rất nhiều ca sĩ tiếng tăm Miền nam: Trang Mỹ Dung, Mạnh Quỳnh, Giáng Thu... và cung cấp hầu hết các ca nghệ sĩ cho cả chục Biệt Đoàn Văn Nghệ Quân đội VNCH, thời 1965-1975. Lý do phái nữ cần việc làm ca hát, công việc nhàn hạ, vui tươi, phái yếu trẻ đẹp dễ thu hút khán giả, và các chị thi nhau đi học nhạc nhiều hơn nam giới, vì bận bịu phải lo bổn phận của những người quân nhân.
              Còn nhớ những buổi học, vào nhà thầy Kỳ, những lúc lên cầu thang vào lớp học, chúng tôi thường hay gặp mặt, gật đầu chào thân nhân của thầy Minh Kỳ: ông cụ, cô Minh Kỳ, các con của thầy Kỳ, đặc biệt Hoàng Châu còn nhớ chị con cả của thầy Minh Kỳ, chị hơi gầy cao, không được biết quý danh. Không biết chị, gia đình chị và cô Minh Kỳ có mạnh khỏe không? đời sống quý anh chị và các cháu thế nào rồi? Hy vọng có dịp gặp cô Minh Kỳ để hỏi thăm cô, nhất là được tìm hiểu về thầy Minh Kỳ sau ngày 30-4-1975. Tuy chúng tôi đã thường xuyên gặp gỡ thân nhân thầy Kỳ, nhưng rất ít có thời giờ để được trò chuyện với họ.
              Rất cảm mến thầy Minh Kỳ, đã nhiều lần vào lớp, phải dạy thế cho thầy Anh Bằng bận việc không đi dạy học được. Những buổi dạy phụ của thầy Minh Kỳ, thầy hay giảng dạy nhạc lý cho học sinh nhiều hơn luyện giọng, thầy cũng hay tâm sự với học sinh. Cảm mến tấm lòng chân thật của thầy Minh Kỳ, không muốn mang tiếng cho lớp nhạc Lê Minh Bằng vì tiền dạy không kết quả. Mỗi khi sang dạy thế cho thầy Anh Bằng, Thầy Minh Kỳ thành thật, thường hay khuyên nhủ một chị bạn, đã học khá lâu trước Hoàng Châu. Chị đã học nhưng không có phần tiến bộ, thiếu hiệu quả vì nhân dáng, giọng hát thô không sửa chữa được, chị đã trả khá nhiều học phí nhưng không thể có kết quả tốt hơn. Thầy Kỳ là một ông thầy rất thành thật đã nhiều lần khuyên nhủ chị nên thôi học, để khỏi tốn kém tài chánh cá nhân.

              Thầy Kỳ ơi! Tụi em đi học nhạc, 90 % học sinh LMB không nghĩ mình sẽ trở thành ca sĩ nổi tiếng đâu! Học nhạc là để biết hát, sở thích, góp vui cho người khác trong những buổi văn nghệ nào đó, khi mình có dịp để hát, tương đối hát đúng, không kể hát hay. Đến lớp học nhạc có cái vui thú riêng của nó, ít ai biết. Hãnh diện vì đã học từ các thầy giỏi, nổi tiếng, vui thích vì có những bản nhạc mới vừa ra lò, chưa có ca sĩ nổi tiếng nào hát, mình được học hát trước. Vui vì được nghe những anh chị em thân quen, cùng sở thích, trong cùng lớp ca hát, hãnh diện vì vài anh chị trong lớp may mắn, có giọng hát đặc biệt, làm ca sĩ nổi tiếng, quen thân cùng trường. Mình cũng hãnh diện và vui lây khi được kể về các anh chị may mắn thành công đó.
              Tuy học cùng trường nhưng không học cùng lớp với anh chị Mạnh Quỳnh (trước 1975) và Giáng Thu. Nhưng chúng tôi và ca sĩ Mạnh Quỳnh, ca sĩ Anh Khoa (không phải học sinh LMB) đi lính cùng lượt với nhau, vào Không Quân VNCH năm 1969. Theo học Căn Bản Quân sự ở Căn Cứ Biên Hoà. Ca nhạc sĩ Mạnh Quỳnh, Anh Khoa theo ngành Kỹ thuật làm việc dưới đất, chúng tôi theo ngành Kỹ Thuật Phi hành, làm việc trên các loại phi cơ vận tải. Sau khi mãn khoá ở Quân trường Biên Hoà, ca sĩ Mạnh Quỳnh đã về SĐ 4 KQ, Vùng IV Chiến thuật, vừa làm việc cho Không quân, vừa sinh hoạt, ca hát cho đài phát thanh Cần Thơ.
              Không gì vui sướng và hạnh phúc hơn, lúc nào mình cũng ôm một tập nhạc hoàn toàn mới chưa sản xuất và phát hành trên thị trường của cả 3 thầy nổi tiếng Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng. Học trò được ưu tiên học hát trước nhất, những bản nhạc vừa mới sáng tác, đã được các thầy in, quay roneo giấy màu vàng phát cho học trò LMB. Những bản nhạc mới khó quên của thầy Lê Dinh: Hà Tiên, Tuyết Lạnh-Lê Dinh... Chuyện Ba Mùa Mưa-Minh Kỳ... Căn Nhà Ngoại Ô-Anh Bằng...
              Có lần thầy Anh Bằng chưng hửng trong lớp học, cùng cả lớp ngồi cười thoải mái trong một buổi chiều quá vui. Nhớ không lầm, chúng tôi học hát bản nhạc Đám Cưới Nhà Binh mới sáng tác thì phải. Buổi học hôm trước, thầy Bằng mang vào lớp phát bài cho anh chị em cùng dợt sơ bản nhạc, rồi đem về nhà học kỹ trước. Khi vào lớp hát trả bài bản nhạc. Một anh bạn trong nhóm 3 nam học sinh rất táo bạo, đã học nhuần nhuyễn bản nhạc kích động và đã tập dợt sẵn điệu nhảy kích động nhạc thật ngoạn mục, chưa từng có trong lớp. Khi trả bài ai cũng ngồi trên ghế của mình ca hát thầy Anh Bằng đệm nhạc. Đến lượt anh bạn nam giới của tôi (không nhớ tên), anh mạnh dạn đứng thẳng lên chuẩn bị cho cả hai: bài hát đã học thuộc lòng, lẫn vào nhạc, anh sẽ biểu diễn nhảy kích động nhạc của anh cho cả lớp xem. Khiến thầy Bằng há hốc, ngưng đàn suy tư hứng khởi, cả lớp thầy trò cùng cười ồ cổ động, vui vẻ. Khi anh bạn bắt đầu vô nhạc, uốn éo thân người, tay chân giật giật. Thầy Bằng phải bật cười, đệm nhạc theo, rồi cả hai thầy trò cùng hứng khởi, người ca, người đàn, giật lung tung, cả lớp bị lôi cuốn vào bài hát, cùng vỗ tay vừa uốn éo thân người trên ghế ngồi. Không khí sôi động, vui nhộn. Hết bản nhạc hồi nào, Thầy Anh Bằng quên ngưng, còn hứng thú, bặm môi, đánh đàn tiếp thêm một lựợt nữa. Nhiều chị phái nữ cũng ngứa chân, đứng lên nhảy theo hỗ trợ. Không khí quá vui, theo tiếng vỗ tay đồng nhịp. mọi người cười ầm vang cả gian nhà lầu của thầy Kỳ, như một buổi tiệc vui nhộn, mọi người đã vỗ tay tán thưởng anh bạn gan lì của lớp nhạc LMB chúng tôi.
              Năm 1973, chúng tôi đang làm việc trên vận tải cơ C7A Caribou của Không quân VNCH. Nhân một chuyến bay, chuyên chở hành khách Biệt đoàn Văn Nghệ Hải Quân, đã trình diễn giúp vui cho Quân nhân Hải Quân ở Cam Ranh về Sài gòn. Trên chuyến bay, chúng tôi hỏi thăm và làm quen với Ban Văn Nghệ Hải Quân. Nữ ca sĩ Hồng Thiên, trẻ đẹp của Biệt Đoàn Văn nghệ Hải Quân cho chúng tôi biết, chị là một cựu học sinh của Trường Âm Nhạc Lê Minh Bằng. Hoàng Châu hãnh diện, vui vẻ biết được một người cùng trường LMB đang phục vụ trong Biệt đoàn Văn Nghệ của Hải quân VNCH.
              Khi về đến Hậu trạm Hàng Không Tân Sơn Nhứt, Sài gòn. Ca sĩ Hồng Thiên nhờ chúng tôi giúp đỡ, đưa chị về nhà ở quận Gò Vấp. Và chúng tôi đã nhờ một người bạn thân đưa chị về đến nhà an toàn. Từ đó, chúng tôi không có dịp liên lạc với nhau nữa. Không biết chị Hồng Thiên và 13 người bạn học nhạc cùng lớp với chúng tôi hiện giờ ở đâu? Còn ở Việt nam hay ở hải ngoại? Các anh chị có biết tin tức của các thầy LMB hay không? Rất mong gặp lại bạn bè thân quen lớp nhạc LMB thuở xưa!

              xxx

              Cuộc đổi đời 30 tháng tư, 1975, thật bất ngờ, Hoàng Châu vui mừng gặp lại thầy Anh Bằng tại đảo Guam, trại tỵ nạn, vào ngày 12-5-1975. Hai thầy trò tâm sự, lo lắng và quan tâm đến hai vị thầy khả kính Lê Dinh và Minh Kỳ. Hai thầy đều bị kẹt lại ở Việt nam. Với chính sách khủng bố, thù hằn. Hai thầy khó có thể sống yên ổn ở Việt nam, Với cấp bậc của thầy Kỳ trong Quân đội, thầy sẽ không thể sống bình yên ở quê nhà. Hai thầy trò buồn bã tâm sự, suy tư và không khỏi lo ngại cho số phận của hai thầy còn ở lại trên quê hương Việt nam đầy khắc nghiệt.
              Đầu năm 1976, hung tin thầy Minh Kỳ đã qua đời, thật bất ngờ và đau thương cho thầy, vì một cuộc trả thù trong trại tù. Một trong ba thầy đã vĩnh viển ra đi.
              Năm 1983, có dịp sang California 3 tháng. Hoàng Châu đã ghé nhà thăm thầy Anh Bằng. Thầy khá bận rộn với công việc sản xuất băng nhạc mới của thầy. Thầy gửi tặng Lê Hoàng Châu vài cuốn băng Cassette mới nhất của thầy vừa sản xuất, làm kỷ niệm, với giọng hát hàng đầu ở Hải ngoại, giọng ca trẻ Ngọc Lan, do thầy Bằng truy tìm, khuyến khích, dạy dỗ và quảng bá. Giọng hát mới, truyền cảm với nhiều người Việt nam rất ái mộ. Hoàng Châu vui mừng vì thầy Anh Bằng vẫn mạnh khỏe, đã may mắn và thành công hầu hết những công trình xây dựng và hoạt động các Trung tâm Âm Nhạc của thầy ở California.
              Mãi cho đến sau năm 2001, Lê Hoàng Châu mới thực sự biết tin nhạc sĩ, thầy Lê Dinh đã rời Việt nam và đã định cư ở Gia Nã Đại khá lâu. Thầy vẫn giữ im lặng như bản tính trầm lặng của người miền Nam. Rất vui mừng, chúc thầy may mắn đã tìm lại được sự tự do SÁNG TÁC muộn màng trên mảnh đất tự do Bắc Mỹ, sau nhiều năm đã sống buồn khổ trên mảnh đất khốn khó Việt nam.
              Năm 2006, các cựu học sinh Lê Minh Bằng: nữ nhạc sĩ Linh Phương (nhạc sĩ cộng tác viên của nhóm LMB) Hoàng Tường, Minh Đức, Hoàng Châu... đã gặp gỡ cả hay thầy Lê Dinh và Anh Bằng ở thành phố Houston, khi hai thầy nhạc sĩ sang Houston thu hình show ca nhạc Huyền Thoại Lê Minh Bằng ở Houston, do Trung tâm Asia tổ chức.
              xxx

              Hôm nay, ngày 12 tháng 11, năm 2015, hay tin, Thầy Anh Bằng đã ra đi, với đại thọ 89 tuổi (sắp 90 tuổi) Thầy đã đoàn tụ với người bạn cố tri, cố nhạc sĩ Minh Kỳ. Thầy Lê Dinh, một ông thầy có cuộc đời lận đận hơn thầy Anh Bằng, tuy thầy Lê Dinh may mắn, sống thọ hơn thầy Minh Kỳ, Nhạc sĩ Lê Dinh cô đơn còn lại trên thế gian. Thầy cũng vừa tìm lại được vài niềm vui tươi nho nhỏ xung quanh các anh chị em cựu học sinh Trường nhạc Lê Minh Bằng của quý thầy trước năm 1975. Tình thầy trò gắn bó từ đấy: Hiện thời hậu duệ Lê Minh Bằng đoàn tụ khá đông đảo: Kim Phượng (Houston), Hoa Nguyễn (Canada), Hoàng Tường, Hoàng Châu (Houston), Minh Tâm (Cali), Minh Đức (Houston, đã mất), Thêm các ca sĩ khác: Nguyễn Quỳnh, Trường Thanh (Houston), vài học trò mới của thầy Lê Dinh ở Canada... Làm niềm vui cuối đời của một nhạc sĩ Tiếng tăm Lê Dinh.
              Sinh nhật thứ 80 của thầy Lê Dinh đã được quý anh chị ca sĩ Kim Phượng, ca sĩ Nguyễn Quỳnh cùng anh chị em Trường nhạc LMB đã tổ chức linh đình tại thành phố Houston, vào ngày 15 tháng 9, năm 2015 vừa qua. Có sự góp mặt của các ca sĩ hậu duệ Lê Minh Bằng, chị Hoa Nguyễn đến từ Canada và chị Minh Tâm đến từ California.


              Chúng em luôn ghi nhớ công ơn của quý thầy: Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng.

              Cùng cầu nguyện cho thầy Anh Bằng yên nghỉ trên nước chúa. Vui vẻ gặp lại bạn tri kỷ năm xưa, cố nhạc sĩ Minh Kỳ.


              Muôn vàn ghi ơn quý thầy, đã dạy dỗ, tạo dựng và cung cấp những ca nghệ sĩ làm vui cho đời.

              Anh chị cựu học sinh Trường nhạc LMB và Lê Hoàng Châu.
              Xin gửi lời tâm sự đầm ấm này đến quý độc giả xa gần.




              Ảnh tác giả Lê Hoàng Châu, 1973.


              GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM


              ÂM-NHẠC: Hoàng Châu, cùng bút hiệu Đăng Trình, đã sáng tác 15 nhạc phẩm và 20 kịch bản nhạc cảnh, nhạc kịch lịch sử. Các nhạc phẩm đã đăng tải trên Youtube: Thương Tiếc Tha La, Mẹ Chờ Trên Bến, Vác Xác Anh, Giọt Lệ Tháng Tư (do ca sĩ Kim Phượng trình diễn nhạc cảnh), I Am A Sky-Bird (nhạc Anh ngữ)...


              TÀI LIỆU LỊCH SỬ: Bút hiệu Thành Giang, tác giả đã viết nhiều Sử Liệu Chiến tranh và KQ VNCH, các bài viết Việt và Anh ngữ, đã đăng tải trên các diễn đàn và Youtube. Những bài viết đã được các diễn đàn và độc giả đánh giá cao, loại 5 sao: Tinh Long Rực Sáng, Phi Hành Đoàn KQVNCH Cuối Cùng Hy Sinh Cho Tổ Quốc, Máu Nhuộm Không Gian, Nhớ Người Lính Già Đầu Gió, Những Phi Vụ Chết Người, Xác Người Lính Trong Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi... Saigon Death Struggle, Glowing Smart Dragon, A Terrified Evacuation Flight..



              HỘI HỌA: Những sản phẩm hội họạ: Hoàng Châu đã thiết kế những chiến cụ kịch nghệ, phong cảnh sân khấu. Lê Hoàng Châu đã thực hiện các chiến cụ kịch nghệ: Trực Thăng UH-1H (dài 23 feet, gần 8 thước), A-1 Skyraider (5 mét), A-37 (5 mét), 4 phi cơ nhỏ dài một mét rưỡi: AC-119K, F-4, A-37, UH-1 (bay trên sân khấu). 2 Tàu chiến Hải quân PCF (6 mét), một khẩu đại bác 105 ly (5 mét), Cổng Phi Long của Phi trường Tân Sơn Nhứt, và nhiều phong cảnh sân khấu Việt nam.


              Kính mời quý chiến hữu, thân hữu và độc giả vào Youtube và các diễn đàn hải ngọai tìm đọc giải trí trong: Hội Quán Phi Dũng, Liên Hội CCSHTD, Bảo Vệ Cờ Vàng, Hải Ngoại Phiếm Đàm, Nha Trang Association, C-7A Caribou Association và Youtube ...
              Hân hạnh giới thiệu và thông tin.
              Lê Hoàng Châu.

              Comment



              Hội Quán Phi Dũng ©
              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




              website hit counter

              Working...
              X