Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch hoá hồ sơ Hoàng Sa

Collapse
X

Bạch hoá hồ sơ Hoàng Sa

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Bạch hoá hồ sơ Hoàng Sa



    Hoa Kỳ Bạch Hóa Hồ Sơ Hoàng Sa

    Chính phủ Hoa Kỳ đã cho tiết lộ hai tài liệu mật liên quan đến quan điểm của Hoa Kỳ về Hoàng Sa và Trường Sa, đó là biên bản hai cuộc họp về vấn đề Ðông Dương ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974 do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ trì.

    Trước khi trình bày về tài liệu này, để độc giả có thể nắm được vấn đề một cách dễ dàng, chúng tôi xin nói qua về tương quan lực lượng giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và quân đội Trung Quốc khi biến cố Hoàng Sa xảy ra và lý do tại sao Hoa Kỳ từ chối không yểm trợ cho Hải Quân và Không Quân VNCH chống lại Trung Quốc.

    Tương quan lực lượng

    Tính đến năm 1975 Hải Quân VNCH có quân số lên tới 39.000 người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 vùng Duyên Hải, hai vùng Sông Ngòi và một hạm đội Tuần Duyên với 83 chiến hạm đủ loại. Những chiến hạm có thể chiến đấu trên biển gồm các loại sau đây: 2 khu trục hạm, 7 tuần dương hạm, 8 hộ tống hạm, 9 tàu đổ bộ và 4 tàu trợ chiến. Với lực lượng như thế, Quân Lực VNCH không thể huy động để chống lại được quân Trung Quốc trên biển hay sao?

    Sở dĩ QL/VNCH không thể chống lại Trung Quốc vì các lý do sau đây:

    1. Quân đội Trung Quốc vượt trội hơn Quân Lực VNCH về cả hải quân lẫn không quân. Trong trận Hoàng Sa, lực lượng hai bên chênh lệch một cách rõ rệt: Trung Quốc đã sử dụng một lực lượng Hải Quân hùng hậu gồm hơn 16 chiếc đủ loại, từ tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến hai 2 chiến hạm loại Hainan 281 và 282, 2 chiến hạm loại Jiangnan 27 và 274 và 4 phi tiển đỉnh Komar mang số 133, 137, 139, 145. Trong khi đó, lúc đầu HQ/VNCH chỉ có tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16. Những ngày tiếp theo VNCH mới tăng cường thêm các chiến hạm HQ 4, HQ 5 và HQ 10.

    2. Trung Quốc đã huy động cả hải lục không quân để áp đảo, trong khi VNCH không thể huy động không quân vì Hoa Kỳ từ chối giúp đỡ (chúng tôi sẽ nói sau).

    3. Vì quyết chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc đã hoạch định một kế hoạch hành quân chu đáo: khi lâm trận, họ đã áp dụng chiến thuật “cài răng lược” khiến HQ/VNCH không thể xoay trở được khiến bị trúng kế địch.

    Tuy các chiến hạm Trung Quốc chỉ trang bị đại bác 100 ly (3.9 in.) hay đại bác 85 ly (3.5 in), còn chiến hạm HQ 16 của VNCH có đại bác 127 và HQ 10 có đại bác 76,2, nhưng Trung Quốc áp dụng chiến thuật bám sát các chiến hạm của VNCH trong khoảng cách gần, nên đại bác của HQ/VNCH không sử dụng được.

    Cho dù cuộc chiến xảy ra ở tầm xa, HQ/VNCH cũng không thể thắng được vì khi thực hiện “Việt Nam hóa” chiến tranh theo đúng lịch trình của kế hoạch “Accelerated Turnover to the Vietnamese” (ACTOV), Hoa Kỳ có giao cho VNCH một số chiến hạm nhưng họ đã gỡ đi các giàn phóng phi đạn được trang bị trên đó, trong khi nhiều chiến hạm Trung Quớc có trang bị giàn phóng phi đạn và được không quân yểm trợ.
    Tóm lược các diễn biến

    Các bài viết về trận đánh Hoàng Sa có quá nhiều với những cách nhìn khác nhau, chúng tôi chỉ xin ghi lại các nét chính.

    Trong cuốn hồi ký “Can trường trong chiến bại”, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân Vùng I Duyên Hải, người chỉ huy trận đánh Hoàng Sa, kể lại rằng ngày 15/1/1974, trung tá Lê Văn Thự, hạm trưởng tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 được lệnh đưa địa phương quân và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa thay toán ngoài đó đã hết nhiệm kỳ. Có hai sĩ quan công binh đi theo để sửa cầu tàu. Ông Jerry Scott, thuộc văn phòng Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Ðà Nẵng, cũng xin cho một viên chức Mỹ là Gerald Kosh đi theo để biết Hoàng Sa. Nhưng khi người nhái của VNCH đổ bộ lên các đảo Duncan và Drummond thì đụng ngay một toán quân Trung Quốc ở trên đó.

    Ngày 17-1, chiến hạm HQ 16 báo cáo hai tàu đánh cá của Trung Quốc không tuân lệnh ra khỏi lãnh hải VNCH. Sau đó, lại có thêm hai tàu Trung Quốc chở quân tới gần đảo và đã có nhiều cờ Trung Quốc trên bờ. Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn đã phái thêm khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 do trung tá Vũ Hữu San ra tăng cường. Sau đó hai chiến hạm Trần Bình Trọng HQ 5 và Nhật Tảo HQ 10 cũng được gởi ra Hoàng Sa. Chiều 18-1, các chiến hạm của hai bên chạy kế ngang nhau và chỉa súng vào nhau.

    Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã liên lạc với Bộ Tư Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn xin cho biết có đơn vị nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ ở trong vùng hay không. Tin tức xác nhận các chiến hạm Hoa Kỳ đang ở rất gần các chiến hạm VNCH.

    Lúc 10 giờ ngày 19/1/1974, đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy chiến thuật (OTC) tại mặt trận, đang ở trên soái hạm Trần Bình Trọng HQ 5, báo cáo các chiến hạm hai bên đang ở vị trí quá gần nhau trong thế “cài răng lược”. Toán đổ bộ của chiến hạm HQ 16 được lệnh trở ra chiến hạm. Khi toán đổ bộ đang dùng thuyền cao su chèo ra khơi thì trận chiến bùng nổ.

    Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải được tùy viên quân sự Hoa Kỳ cạnh Hải Quân Vùng I cho biết có khoảng 17 chiến hạm Trung Quốc và 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa. Ông ta cũng cho biết các phản lực cơ chiên đấu của Trung Quốc sắp cất cánh từ đảo Hải Nam để tấn công các chiến hạm của VNCH tại Hoàng Sa.

    Trận hải chiến chỉ kéo dài trong hơn 30 phút. Các chiến hạm VNCH không đuổi theo các chiến hạm Trung Quốc và các chiến hạm Trung Quốc cũng không đuổi theo các chiến hạm VNCH. Không chiến hạm nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ tiến vào nơi có cuộc giao tranh.

    Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10 bị bắn chìm, thiếu tá Ngụy Văn Thà với 24 quân nhân khác bị tử thương, 26 người mất tích, 23 thủy thủ trôi dạt được tàu của hãng Shell vớt.

    Hai khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Trần Bình Trọng HQ 5 bị hư hại, mỗi chiến hạm có hai chiến sĩ bị tử thương.

    Tuần dương hạm HQ 16 do trung tá Lê Văn Thự chỉ huy, bị trúng đạn nghiêng một bên, được lệnh quay về Ðà Nằng, có một chiến sĩ bị thương và 16 chiến sĩ khác trôi dạt trên thuyền cao su về đến Quy Nhơn.

    Có 43 người đã bị bắt làm tù binh, trong đó có ông Gerald Kosh, được đưa về Quảng Châu, sau đó được trao trả cho VNCH qua Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế.

    Về phía Trung Quốc, hộ tống hạm Kronkstad 274 bị chìm, hộ tống hạm Kronkstad 271 và hai trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng, các sĩ quan chỉ huy là Vương Kỳ Uy, Triệu Quát và Diệp Mạnh Hải đều bị tử trận.

    Mỹ từ chối yểm trợ

    Có một điều quan trọng mà phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại không biết đến, đó là Hoa Kỳ đã từ chối yểm trợ VNCH trong trận chiến Hoàng Sa.

    Ngày 18/1/1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng Sa. Phó đề đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã hỏi đại tá Kussan, tùy viên quân sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi cơ chiến đấu của Việt Nam khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có thể hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin tiếp tế nhiên liệu được không ? Phó đề đốc Thủy cho biết Ðà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý, do đó, phi cơ chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để có thể vừa đi vừa về, nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể tác chiến được.

    Sau khi trao đổi với Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, đại tá Kussan đã trả lời cho phó đề đốc Diệp Quang Thủy như sau: Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp tế cho Quân Lực VNCH vì hai lý do sau đây:

    Lý do thứ nhất, Hiệp Ðịnh Paris cấm Hoa Kỳ không được tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam (điều 4).

    Lý do thứ hai, Luật War Power Act ngày 2/9/1973 cấm Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự ở Ðông Dương. Vì thế, các chiến hạm Hoa Kỳ không thể tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đấu cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ có thể cứu giúp quân đội VNCH khi bị các tai nạn mà thôi. Tuy nhiên, đó phải là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do chiến đấu, các chiến hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.

    Cần lưu ý, trong thời gian còn chiến tranh Việt Nam, Bộ Chỉ Huy Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military Assistance Command, Vietnam – MACV) là cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất của Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, sau Hiệp Ðịnh Paris, cơ quan này bị hủy bỏ và được thay thế bằng Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Defense Attach Office – DAO) kể từ ngày 28-1-1973, do đó không còn các cố vấn Mỹ nữa mà chỉ còn các tùy viên quân sự.
    Quan điểm của Hoa Kỳ quá rõ

    Như chúng tôi đã trình bày ở trên, theo tài liệu Hoa Kỳ vừa công bố, trong hai cuộc họp do ngoại trưởng Kissinger chủ trì ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974, tức sau khi Hoàng Sa bị mất, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa đã được đưa ra bàn cãi. Nội dung tài liệu này đã được đài BBC trình bày ngày 3/10/2011, chúng tôi xin ghi lại những điểm quan trọng sau đây:

    1. Về trận đánh Hoàng Sa

    Ðô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề”.

    Ngoại trưởng Kissinger: “Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của họ [Nam Việt Nam]?”.

    Ðô đốc Moorer: “Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và các đảo khác cũng có cùng vấn đề – đó là lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng đó”.

    Ngoại trưởng Kissinger: “Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng Sa?”.

    Ðô đốc Moorer: “Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo; họ tiến đến và đưa khoảng 75 người lên đảo Duncan (Quang Hòa). Ðó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt Thiềm. Họ phải đối đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam phải rút sang các đảo gần đó. Bốn tàu Nam Việt Nam và khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó có trận hải chiến trong khi quân Nam Việt Nam rút lui”.

    2. Quan điểm của Hà Nội

    Ngoại trưởng Kissinger: “Phản ứng của Bắc Việt trước toàn bộ vụ việc là thế nào?”.

    William Colby, giám đốc CIA: “Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm dưới vĩ tuyến 17 và vì thế không có ảnh hưởng đến họ. Nói chung, họ không đưa ra lập trường, không theo bên nào”.

    William Smyser, thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia: “Nó đặt họ vào tình thế tế nhị. Họ không nói gì cho đến khi đã xong chuyện, và rồi chỉ nói họ lên án việc dùng vũ lực”.

    Ngoại trưởng Kissinger “Tôi biết họ nói gì rồi, nhưng họ thực sự cảm thấy thế nào?”.

    Ðô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng.

    William Colby: “Bắc Việt có thể muốn có mỏ dầu tại đó”.

    Ông Clements, thứ tưởng quốc Phòng: “Ðừng quá mơ mộng về khả năng có dầu tại các đảo đó. Ðó vẫn là chuyện trên trời. Hiện chẳng có gì ở đấy cả, chỉ là tương lai thôi. Hiện nay dầu hỏa ở đó không khả thi. Chỉ là tiềm năng”.

    Ðô đốc Moorer: “Người Pháp nắm giữ các đảo trong thập niên 1930 cho đến khi Nhật chiếm trong Thế chiến. Năm 1955, người Pháp từ bỏ chủ quyền các đảo và Nhật đã làm như thế năm 1951. Nam Việt Nam và Trung Quốc kể từ đó cùng nhận chủ quyền. Philippines có tuyên bố yếu ớt, nhưng chỉ là trên giấy.

    Sau đó, Ðô đốc Moorer xác nhận lại với Henry Kissinger: “Chỉ thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực”.

    3. Chuyện bảo vệ Phillippines

    Trong một cuộc họp ngày 31/11/974 tại Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, ngoại trưởng Kissinger được thông báo: “Không có dấu hiệu Trung Quốc định tiến về Trường Sa. Dẫu vậy, có sự lo ngại đáng kể từ phía Nhật, Philippines và đặc biệt là Nam Việt Nam, mà theo tin báo chí thì hôm nay đã gửi đoàn 200 người ra chiếm một số hòn đảo lâu nay không ai ở trong khu vực Trường Sa.

    “Ðài Loan đã chiếm ít nhất một đảo và Trung Quốc cũng vậy.

    “Trong bối cảnh này, Philippines đã hỏi Mỹ liệu Hiệp Ước An ninh Mỹ – Philippines có được áp dụng hay không nếu quân Philippines kéo ra Trường Sa và bị Trung Quốc tấn công”.

    Các quan chức Mỹ có mặt trong cuộc họp đồng ý rằng không có câu trả lời rõ rệt và họ muốn để ngỏ sự mơ hồ trong câu trả lời cho Philippines.

    Một người trong cuộc họp, ông Hummel, nói: “Tạp âm xung quanh các tuyên bố của chúng ta về những hòn đảo này hẳn đã đủ cho người Philippines hiểu rằng chúng ta không có ý định hay chúng ta không muốn”.

    Ngoại trưởng Kissinger kết luận: “Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ”.

    Một vài nhận xét

    Qua các sự kiện vừa được trình bày nói trên, chúng tôi có một số nhận xét như sau:

    1. Hoa Kỳ không muốn can dự vào các tranh chấp về chủ quyền trên Biển Ðông vì sợ đụng chạm với Trung Quốc, nơi Hoa Kỳ có rất nhiều quyền lợi.

    Mặc dầu trong chuyến viếng thăm Á Châu vừa qua, tổng thống Obama đã cho các quốc gia trong vùng hiểu rằng Mỹ sẽ “bao vây” Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quân sự, nhưng trong cuộc họp báo hôm 8/12/2011 tại Bắc Kinh, kết thúc cuộc đối thoại quốc phòng thường niên Mỹ-Trung, bà Michele Flournoy, thứ trưởng bộ quốc phòng Hoa Kỳ, khẳng định việc Washington tăng cường các liên minh quân sự tại Á Châu không nhằm mục đích “ngăn chặn” Trung Quốc.

    2. Giữa Philippines và Mỹ có hiệp ước ngày 30/8/1951 bảo vệ các hòn đảo, tàu thuyền và máy bay của Philippines trên Thái Bình Dương khi bị tấn công, nhưng khi có đụng độ, Philippines có thực sự được bảo vệ hay không là vấn đề khác. Ngoại trưởng Kissinger đã nói rất rõ: “Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ”.

    Bản tin của đài VOA ngày 24/6/2011 cho biết trong cuộc họp ngày 23/6/2011, ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, nói với ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario rằng Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Philippines giữa lúc xảy ra vụ tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa. Nhưng tờ Philippines Daily Inquirer dẫn lời giáo sư Pacifico Agabin, cựu khoa trưởng luật khoa của Ðại học Philippines, cho biết nội dung của bản hiệp ước ký năm 1951 ghi rõ Mỹ không tự động bảo vệ Philippines một khi có xung đột trên biển Ðông. Ðiều 4 của hiệp ước này quy định trong trường hợp xảy ra tấn công trên Thái Bình Dương, tổng thống Mỹ phải được sự chấp thuận của Quốc hội mới tiến hành điều quân.

    3. Hoa Kỳ từ chối tiếp tế xăng cho các phi công VNCH để tác chiến ở Hoàng Sa và nói rất rõ lý do tại sao Hoa Kỳ không thể làm như vậy. Ðiều này chứng tỏ Hoa Kỳ không còn muốn dính líu gì đến miền Nam Việt Nam nữa. Nhưng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ đưa lên cầm quyền ở miền Nam, quá yếu kém về chính trị, không thể hiểu được như vậy. Ông cứ nằng nặc đòi thêm viện trợ và cuối cùng chơi trò “tháu cáy”, rút khỏi Cao Nguyên và miền bắc Trung phần, để Mỹ hoảng sợ miền Nam mất, phải nhảy vào. Nhưng Mỹ đã không can thiệp khiến miền Nam bị sụp đổ một cách nhanh chóng, gây tang thương cho không biết bao người. Tôi ấy trời khó dung và đất khó tha.

    4. Tất cả các sự kiện được trình bày nói trên cho thấy cả Việt Nam lẫn Philippines phải tự lo lấy thân phận mình, đừng trông chờ ở Mỹ.

    Nguồn: Ethongluan.org
    Mời bạn ghé thăm nhà:
    http://thovanyenson.com

  • #2
    Chỉ thị số 45-CT/TƯ/Đảng CSVN

    Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Khôi ‘’hồi đáp’’ chỉ thị 45/TƯ của CSVN sặc mùi trơ trẻn…
    Nguyễn Ngọc Khôi



    Lời bạt của Nguyễn Ngọc Khôi MD: Thư gửi VNEXPRESS về Nghị Quyết 36 và Chỉ Thị 45 của bộ chính trị cộng sản Việt Nam. Rất tiếc là tờ báo này của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam nên không thể có cuộc đối thoại thẳng thắn, trực diện với họ. Họ không có quyền đối thoại ngay thẳng, thật thà với chúng ta.
    Tuy nhiên, tôi vẫn thấy cần viết lên những nhận định riêng để rộng đường dư luận. Tôi không mong gì họ có phương tiện đọc được những dòng này. Hoặc có đọc thì cũng ngậm câm cái miệng, không thể trả lời, vì trả lời sao được khi (họ) còn là bồi bút cho chuyên chính độc tài và khoác loác ? Vậy xin phép anh em cho tôi được phép viết cho họ vài lời dù không mong gì họ có thể đọc.

    Trước khi đọc bài trả lời của tôi dưới đây, xin quý vị cùng anh em xem Chỉ thị số 45-CT/TƯ về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TƯ của bộ chính trị khóa 9 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới phía dưới (1)


    oOo

    Thư gửi Ông (Bà) Xuân Hoa VNEXPRESS
    Tôi có cơ hội đọc bài đang trên VNEXPRESS ngày thứ ba, 26.5.2015 nói về việc bộ chính trị kêu gọi ngưởi Việt ở nước ngoài xóa bỏ mặc cảm, định kiến.

    Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi bộ chính trị của các anh có gan viết những dòng điêu ngoa, giả nhân giả nghĩa này. Dù biết các anh không thể đọc những dòng tôi viết, tôi vẫn muốn nêu lên đây những lỗi sai ngữ vựng cùng văn phong của bộ chính trị các anh:

    ‘’Định kiến’’ ? Tại sao lại định kiến ? Tất cả những gì đảng cộng sản Việt Nam đã làm cho dân Việt khốn khổ còn đầy đủ tang chứng. Sao có thể gọi là định kiến. Nếu cộng sản Việt Nam thật tâm yêu nước, xóa bỏ hận thù, nếu đừng hứa đi học tập cải tạo 1 tháng rồi cầm tù kẻ thua trận hàng chục năm, xử tử hay bỏ họ đói thì ai cần phải có định kiến với cộng sản làm gì ? Nếu không thảm sát người dân Huế năm Mậu Thân thì ai cần giữ định kiến là người cộng sản tàn bạo hơn loài muông thú ? Ai cho phép các anh đòi hỏi chúng tôi khép lại quá khứ khi các anh giết người không gớm tay ? Đánh đập kẻ thù không thương tiếc ? Ai cho phép các anh đòi chúng tôi khép lại quá khứ khi hàng chục ngàn thương binh Việt Nam Cộng Hòa, cụt tay, cụt chân bị các anh đuổi ra khỏi các Quân Y Viện khi các anh vào chiếm miền Nam và cho đến bây giờ họ còn sống vất vưởng trên hè phố Sài Gòn, mà các anh đã đổi thành Thành Phố Hồ chí Minh.

    Thành phố Hồ chí Minh, tên anh hùng của các anh sao có nhiều người khốn khổ đến như vậy ? Làm sao chúng tôi khép quá khứ khi các anh còn để những lở loét do chiến tranh gây nên còn vất vưởng trên đường phố Sài Gòn của chúng tôi ? Và cả trên mặt các anh nữa, với những lời tuyên bố ồn ào, đạo đức giả ? Ai cho phép anh khuyên chúng tôi quên quá khứ khi cán bộ của các anh lấy mỗi người hàng chục lượng vàng để làm lơ cho người liều chết bỏ xứ đi trên những con thuyền mỏng manh để rồi 90 phần trăm làm mồi cho cá mập ?

    Ai cho phép các anh đòi hỏi chúng tôi phải bỏ định kiến khi mà những ngày đầu của phong trào Cải Cách Ruộng Đất, người nạn nhân đầu tiên bị xử bắn lại là một ân nhân của các anh, một người đàn bà ? Bà đã mang hết của cải, vàng bạc ra cúng ‘’Cụ’’ và ‘’Cách Miệng’’ của các anh. Chưa hết, khi bỏ hình hài của bà vào áo quan, bọn cán bộ mất dạy thay mặt các anh đứng lên thây người ta giộng xuống như bỏ vào va-ly. Các anh còn nhớ tên bà nạn nhân bất hạnh nay không hay các anh lâu ngày đã quên rồi ? Để tôi nhắc các anh: Đó là Bà Nguyễn Thị Năm, có cửa tiệm Cát Hanh Long ở Hải Phòng. Thời đầu cách miệng, Bà Năm nuôi ăn ở trong nhà những tên như Trường Chinh, Võ nguyên Giáp, Lê đức Thọ v.v...Thế mà chúng và ‘’Cụ’’ của các anh bất nhân bất nghĩa không cứu vớt. Lúc đó tôi mới 10 tuổi. Giờ đây, tôi trên 70. Thế mà tôi vẫn còn ‘’định kiến’’ đấy các anh ạ.

    ‘’Mặc cảm’’. Tại sao chúng tôi lại mặc cảm với các anh dù thua trận ? Người thành Athènes thua người thành Sparte, họ có mặc cảm đâu ? Vì văn hóa Athènes so với văn hóa Sparte một trời một vực. 25 thế kỷ rồi mà nhân loại vẫn nhắc Athènes và văn hóa của họ với những lời nể vì và quý trọng. Có ai nhắc tới văn hóa Sparte nữa đâu ? Văn hóa Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi hơn các anh nhiều lắm. Các anh cứ hỏi những chiến sĩ trong quân đội các anh khi vào đến Sài Gòn bị ngộp như thế nào khi đứng trước sự giàu có không những về vật chất mà về tinh thần của dân Sài Gòn ?
    Lính của các anh khi vào đến Sài Gòn, chiếm nhà dân, thấy cái cầu tiêu ngồi của dân Sài Gòn, có chút nước phía dưới, bèn thả cá trong đó. Trình độ như vậy, việc gì chúng tôi lại mặc cảm với các anh ?

    Khi Nguyễn minh Triết sang thăm Hoa Kỳ, được vào nhà Trắng, anh ta mặc một bộ âu phục nhưng vì lạnh, thay vì mặc áo choàng manteau, anh đánh một cái áo len bên trong, trông như ngố rừng mới ra tỉnh. Các anh thử kiểm soát lại cái hình chụp thời đó xem tôi nói có đúng không. Lại nữa, khi đi thăm Đại Học Harvard, đứng cạnh một bức tượng, ‘’ngài’’ còn với tay lên vịn chân bức tượng, giống như ‘’sến’’ của chúng tôi chụp hình hay có thói với tay vịn lên cành hoa.

    Nguyễn tấn Dũng trang phục khá hơn. Nhưng khi sang thăm Pháp, lúc đó Thủ Tướng Pháp tên là Jean-Marc Ayrault. Khi đọc tiếng Pháp thì phải đọc ‘’Mác Ê Rô’’, Thủ Tướng nhà các anh lại đọc diễn văn gọi ông Thủ Tường Pháp là ‘’Monsieur Maquereau’’. Maquereau tiếng Pháp là Ma Cô. Đài truyền hình Pháp chế riễu Thủ Tướng các anh trong suốt một tháng. Tôi không trách Nguyễn tấn Dũng vì ông ta xuất thân là Y Tá của các anh (không phải Y Tá của chúng tôi giỏi hơn nhiều). Nhưng Trưởng Ban Nghi Lễ của các anh đâu ? Giáo Sư Tiến Sĩ, Phó Tiến Sĩ khét danh Ngoại Ngữ của các anh đâu mà để Thủ Tướng ứng xử thảm hại như vậy ? Mất thể diện Quốc Gia!
    Các anh có bao giờ thấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu xử sự như vậy đâu ? Họ trang trọng, học thức hơn các ‘’vị lãnh đạo’’ của các anh nhiều. Vậy làm sao chúng tôi lại phải ‘’mặc cảm’’ với người cộng sản được ?

    Chính quyền các anh cho tên thứ trưởng (tép riu) Nguyễn thanh Sơn sang Hoa Kỳ vận động ngoại giao người Việt Hải Ngoại. Khi được vô tuyến truyền hình phỏng vấn, hắn mặc mộ bộ đồ quần nọ áo kia, bụng phưỡn ra, áo hở cổ, không cà vạt (coi YouTube), ngồi vắt chân như anh hàng thịt. Thử hỏi các vị làm tại Bộ Ngoại Giao thời Đệ Nhất hay Đệ Nhị Cộng Hòa của nước tôi có dám trang phục như vậy mà còn mong giữ được việc không bị đuổi không ? Dĩ nhiên quen với phong tục trang nhã, chúng tôi có định kiến, chúng tôi không thể có mặc cảm với tên Nguyễn thanh Sơn, chỉ có thương hại.

    Tội nghiệp cho Nguyễn thanh Sơn. Hắn ta cũng cố gắng làm theo nghị quyết số 36 của các anh. Cũng có thiểu số về thăm Trường Sa, Hoàng Sa với hắn (khi Trung Cộng đi ngủ không canh gác). Cũng có thiểu số đón gió bàn tới chuyện Hòa Hợp, Hòa Giải. Môi trường Dân Chủ nó thế. Không phải cái gì cũng phải ‘’nhất trí’’ như các anh. Nhưng chỉ là thiểu, thiểu số. Ngay trong báo các anh, các anh chỉ dám đăng lên hình các em du học sinh, con cháu các anh ở Nhật. Nhật Bản không phải là xứ người Việt tỵ nạn cộng sản di trú. Sao các anh không sang miền Nam California, hay miền Đông Hoa Thịnh Đốn, sang Đức, sang Pháp, nơi Nguyễn thanh Sơn hoạt động ráo riết ? Nơi có thật đông đồng bào tỵ nạn cộng sản ? Mỗi lần những nhân vật lãnh đạo các anh đến những nơi trên, đều được chúng tôi tiếp đón bằng cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tình phản đối. Chủ Tịch các anh, thằng Trương tấn Sang, không giết được chúng tôi, chúng tôi thoát khỏi gông cùm cộng sản, hắn trở mặt ‘’nhân nghĩa bà Tú Đễ’’ (tôi còn nhớ câu rất Bắc Kỳ này) cám ơn Tổng Thống Obama đã lo cho dân gốc Việt Nam. Đánh không xong, tha mày làm phúc. Ai nhờ nó (Trương tấn Sang) cám ơn Tổng Thống Mỹ ?

    ‘’Cùng hướng tới tương lai’’: Tương lai nào ? Có phải tương lai làm quận huyện cho quan thầy Trung Cộng không ? Hồ chí Minh, Võ nguyên Giáp lạy Mao Trạch Đông xin viện trợ. Nó gửi Trần Canh qua cố vấn, đánh trận Cao Bắc Lạng. Lã Quý Ba sang cố vấn chính trị, Vi Quốc Thanh sang điều khiển trận Điện Biên Phủ. Giờ này chúng đòi các anh trả nợ. Các anh nhường Cao Nguyên Trung Phần (Tây Nguyên) cho chúng khai thác Bauxite. Tỉnh nào cũng có đặc khu (nơi đặc biệt) cho Tàu Cộng. Người dân không có quyền bén mảng vào. Cả bãi tha ma của chúng cũng không được vào. Tương lai tối quá.

    Chỉ có một lối thoát: Muốn xa Trung Cộng, phải lật đổ đảng cộng sản. Các anh khuyên chúng tôi ‘’nên tin cậy lẫn nhau’’ . Làm sao tin cậy các anh khi các anh bán nước cho Trung Cộng ? Thằng Nguyễn phú Trọng nó có lên tiếng chống Trung Cộng đâu ?
    Cộng sản làm gì có tương lai. Người Ba Lan, Đông Đức, Hung Gia Lợi biết thế. Các anh không biết vẫn theo con đường cụt cộng sản. Làm gi có tương lai ? Làm gì có tương lai khi làm nô lệ cho Tàu Phù ?

    ‘’Chấp nhận những điểm khác nhau’’: Chu choa! Cộng sản chấp nhận quan điểm khác nhau từ hồi nào vậy ? Khởi đầu ‘’Cách Miệng’’ của các anh, người nạn nhân đầu tiên chỉ vì không cùng quan điểm với các anh là Thượng Thư Bộ Học Thượng Chi Phạm Quỳnh. Khi giết ông, các anh nhẫn tâm dùng xẻng đập vỡ đầu ông, các anh hành động như thú. Sau Phạm Quỳnh, biết bao nhiêu người bị các anh thủ tiêu chỉ vì không đồng quan điểm. ‘’Chấp nhận những điểm khác nhau’’ ...lại còn thêm ‘’không trái với lợi ích chung của dân tộc’’. Thế nào là không trái với lợi ích của dân tộc ? Ai định nghĩa thế nào là không trái với lợi ích của dân tộc ? Các anh, chúng tôi hay có Tối Cao Pháp Viện ? Mà các anh có Tối Cao Pháp Viện không nhỉ ? Vậy ai giải quyết khi các anh và chúng tôi không đồng ý ? Hay các anh lại dùng súng thủ tiêu chúng tôi ? Thật là viên thuốc độc bọc đường! Các anh nói cho Mỹ nó nghe, đừng nói với chúng tôi như vậy. Và có lẽ tôi đúng, các anh đang nói, hy vọng làm vừa lòng ông John Mc Cain, mới sang thăm các anh, ông Tổng Thống Obama với hy vọng nước Mỹ sẽ che chở cho các anh khỏi nạn phương Bắc. Sao các anh thơ ngây quá vậy. Hoa Kỳ và Trung Cộng có trò chơi riêng của cường quốc. Việt Nam chỉ là con chốt trên bàn cờ của họ

    Rõ ràng, cách đây 10 năm, các anh đã đẻ ra Nghị Quyết 36 đối phó với người Việt tỵ nạn cộng sản. Các anh đã không thành công vì không ai tin các anh. Nay lại ra cái Chỉ Thị 45 này. Và rồi còn bao nhiêu Nghị Quyết, Chỉ Thị nữa ? 45, 57, 69, vân vân và vân vân ? Thôi các anh đừng tốn công. Với cố gắng của các anh đã có người dại nghe theo, mang tiền của về làm ăn với các anh, bị các anh lấy luật này luật nọ, tịch thu tài sản của người ta, họ lại mò về Mỹ. Có người mộng về hưu tại quê nhà. Khi đau vào nhà thương các anh, bị Bác Sĩ được các anh huấn luyện vòi tiền, cũng bèn mò về...Mỹ. Tôi biết có một Bác Sĩ rất thành công miền Bắc California, ông thành công và thừa tiền, chỉ muốn về giúp đỡ dân Việt. Ông bèn mua đủ mọi dụng cụ Y Khoa, đủ máy thông động mạch tim. Ít lâu sau, ông ta cũng bị các anh ‘’mời’’ ra đi vì có lẽ ông này ngoài việc giảng dạy chuyên môn, đã trót dạy và nói nhiều về Tự Do Dân Chủ ở Hoa Kỳ nhiều quá ?

    Thôi các anh hãy để tên Nguyễn thanh Sơn trong cương vị thứ trưởng đi. Dù không được việc gì, đó không phải vì lỗi của hắn mà vì chúng tôi hết tin tưởng các anh. Các anh cứ để Nguyễn thanh Sơn trong công việc các anh giao phó. Ít nhất, hắn đã trở thành trò tiêu khiển của chúng tôi. Trưởng thành trong nôi của Việt Nam Cộng Hòa, không phải một quốc gia công an, trải qua 40 năm sống tại các nước dân chủ, làm sao các anh kiếm được người thuyết phục chúng tôi ? Chúng tôi sẽ dạy con cái về cái chính thể cộng sản công an của Cộng Hòa Chủ Nghĩa Xã Hội Việt Nam. Chúng sẽ dạt ra xa cho đến khi các anh tự chôn các anh với những lời láo khoét và tâm hồn chồn cáo. Rồi chúng sẽ về giúp lớp trẻ xây dựng lại một nước Việt Nam hùng cường, tư cách hơn, không học cái điếm đàng, ăn gian nói dối của Tàu Cộng.
    Khi nào các anh có tự do viết những gì các anh nghĩ như tôi đang thoải mái viết lá thư này, các anh báo cho tôi biết, tôi sẽ lại vui lòng tiếp chuyện. Tôi không cấm được các anh viết cho người trong nước vì đó là phận sự do mấy tên đầu nậu Nguyễn phú Trọng, Trương tấn Sang, Nguyễn tấn Dũng của các anh giao phó. Nhưng khi các anh viết như thế này mà gửi ra ngoại quốc, con vẹt JoJo (tôi nuôi con vẹt Phi Châu xám rất giỏi nói tiếng người) của tôi nó kêu lên ‘’Khỉ ơi, xạo quá!!’’. Thôi, xin các anh đừng lấy vải thưa che mắt thánh nữa (lại một câu rất Bắc tôi còn nhớ).

    Chào các anh,
    Nguyễn Ngọc Khôi, SVHD16
    oOo

    (1) Bộ chính trị ban hành chỉ thị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới
    LTS của báo VNexpress- Ngày 19-5-2015, Bộ chính trị ban hành Chỉ thị số 45-CT/TƯ về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TƯ của Bộ chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn Chỉ thị.

    Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TƯ, ngày 26-3-2004 của Bộ chính trị (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 36), công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài có nhiều tiến bộ và đạt nhiều kết quả quan trọng. Đã góp phần tích cực vào việc tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ, động viên người Việt Nam ở nước ngoài nâng cao ý thức tự hào dân tộc, lòng yêu nước, gắn bó với quê hương đất nước, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, vươn lên trong cuộc sống, hội nhập vào nước sở tại.

    Đến nay, một bộ phận lớn bà con đã có địa vị pháp lý, ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội nơi họ đang sống và làm việc. Tiếng Việt được sử dụng là ngôn ngữ chính của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài song hành cùng tiếng nói của nước sở tại. Bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc Việt Nam được bảo tồn và truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng nâng cao, thực sự là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là cầu nối quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước sở tại, đồng thời góp phần tích cực xây dựng quê hương, đất nước.

    Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết 36 thời gian qua còn một số hạn chế, bất cập. Việc ban hành và thực hiện một số cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài bảo tồn, phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc và góp phần xây dựng đất nước còn chậm, chưa đồng bộ, kết quả còn hạn chế. Một bộ phận người Việt Nam ở nước ngoài chưa có địa vị pháp lý ổn định. Một số bà con vẫn còn giữ thái độ định kiến, mặc cảm, một số ít người còn có tư tưởng, hành động không phù hợp với lợi ích dân tộc.
    Những hạn chế, bất cập trên, chủ yếu là do một số cơ quan Trung ương và địa phương nhận thức chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, thống nhất về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, các cơ quan trực tiếp làm công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài phối hợp chưa chặt chẽ, còn chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, bộ máy tổ chức, cán bộ và kinh phí cho công tác này chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

    Trong quá trình nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng cả về số lượng và địa bàn cư trú, có cuộc sống ngày càng ổn định, có tiềm lực về tri thức và kinh tế, có vị trí và ảnh hưởng trong xã hội nước sở tại. Tình hình quốc tế, trong nước và những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới đòi hỏi công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần được tăng cường, hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục phát triển vững mạnh, nâng cao uy tín, tham gia tích cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước sở tại, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    Để phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, Bộ chính trị yêu cầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả những chủ trương, phương hướng công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã nêu trong Nghị quyết 36, đồng thời, tập trung thực hiện thật tốt những nội dung trọng tâm sau:

    1- Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần tiếp tục thể hiện đầy đủ và phát huy tốt truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung…, xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

    2- Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tăng cường hơn nữa sự gắn bó của người Việt Nam ở nước ngoài với đất nước. Mọi người Việt Nam ở nước ngoài đều được khuyến khích, tạo điều kiện trở về thăm quê hương, đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Tiếp tục quan tâm, sớm có giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trên tinh thần cởi mở, chân thành, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Kiên trì vận động, thuyết phục những người còn giữ định kiến, mặc cảm.

    3- Người Việt Nam ở nước ngoài là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Ủng hộ và khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tôn trọng pháp luật và hội nhập vào xã hội nước sở tại, nơi bà con sinh sống. Phối hợp chặt chẽ với các nước có người Việt Nam sinh sống nhằm hỗ trợ bà con có địa vị pháp lý vững chắc, bảo đảm cuộc sống lâu dài ở nơi cư trú. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh, người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.

    4- Tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, phương hướng và nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết 36, đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tháo gỡ vướng mắc, tạo thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài khi về Việt Nam sinh sống và làm ăn, sớm cấp lại quốc tịch cho những người có đủ điều kiện, tạo thuận lợi hơn nữa trong việc sở hữu nhà ở tại Việt Nam, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh, đầu tư, chuyển, nhận và sử dụng kiều hối.
    Thường xuyên tổ chức cho người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp ý kiến và tham gia vào các sự kiện chính trị-xã hội lớn của đất nước.

    5- Rà soát, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật tạo hành lang pháp lý thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư, sản xuất kinh doanh, góp phần vào thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ từ các nước vào Việt Nam và thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Có chính sách thu hút, sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thiết yếu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    6- Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, hỗ trợ dạy và học tiếng Việt hiệu quả, sớm triển khai chương trình, dạy tiếng Việt qua mạng phù hợp với từng địa bàn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu văn hóa, tinh thần của bà con theo truyền thống dân tộc và phù hợp với đặc thù, pháp luật của nước sở tại.

    7- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại bằng nhiều hình thức phù hợp (các kênh phát thanh, truyền hình phục vụ người Việt Nam ở nước ngoài, phát thanh, truyền hình đối ngoại, truyền hình qua mạng IPTV hoặc hệ thống truyền hình của nước sở tại…). Tranh thủ, phát huy các phương tiện truyền thông của cộng đồng nhằm cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho người Việt Nam ở nước ngoài về tình hình đất nước và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Thông qua người Việt Nam ở nước ngoài, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền và vận động bạn bè quốc tế.

    8- Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các hình thức tập hợp, vận động người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là thế hệ trẻ, mở rộng vận động, tiếp xúc những cá nhân có uy tín, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng. Nghiên cứu xây dựng chính sách, hỗ trợ các tổ chức hội đoàn, lực lượng nòng cốt trong cộng đồng, nghiên cứu thí điểm công nhận các chi hội người Việt Nam ở nước ngoài là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam...Đẩy mạnh công tác khen thưởng người Việt Nam ở nước ngoài có công với đất nước và công tác cộng đồng.

    9- Kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế phối hợp triển khai công tác về người Việt Nam ở nước ngoài từ Trung ương đến địa phương theo nguyên tắc thu gọn đầu mối, rõ ràng, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, không làm tăng biên chế.
    Kiện toàn bộ máy Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng chuyên sâu, làm tốt vai trò cơ quan tham mưu, thống nhất quản lý công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

    10- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo rà soát, bổ sung, sửa đổi, xây dựng mới các văn bản pháp luật và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.
    Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo ban hành và tổ chức thực hiện ‘’Chương trình hành động về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36- NQ/TƯ của Bộ chính trị khoá IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2015-2020’’.

    Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy các đơn vị sự nghiệp Trung ương và cấp ủy trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, tổ chức phổ biến, quán triệt và xây dựng kế hoạch triển khai, định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị.

    Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng ủy Ngoài nước, Ban Đối ngoại Trung ương và các ban, ngành, đoàn thể liên quan và các cấp ủy địa phương tổ chức phổ biến Chỉ thị này đến cán bộ, đảng viên, nhân dân và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, chịu trách nhiệm giúp Bộ chính trị, Ban Bí thư theo dõi, định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị.

    Chỉ thị này được phổ biến, quán triệt đến chi bộ để thực hiện.
    Mời bạn ghé thăm nhà:
    http://thovanyenson.com

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X