Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Chuyện Áo Quần

Collapse
X

Chuyện Áo Quần

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Chuyện Áo Quần

    Chuyện ÁO QUẦN

    Ái Ưu Du

    Mẹ của Hoài từ Huế ngồi xe đò vào Đà Nẵng thăm các con. Ngay lúc nầy, Hoài gặp lại bầy chim nhỏ ở chốn cũ, tiếng đàn chim hót líu lo vang vọng lại từ tận quê nhà tít tắp xa mù xa, nghe sao mà thương lạ thương lùng!
    Mẹ lấy hột sen, khoai lang, sắn mì, chuối già hương, tiêu, ớt bột, bánh bột lọc nhưn tôm thịt, vân vân… đem đặt trên bàn. Nay, có bao nhiêu quà bánh nhặt nhạnh tom góp ở trong vườn, chắc chắn là cha mẹ không dám ăn, mà bòn mót tha đi hết làm quà cho con cháu, cho lối xóm rồi đa. Đó là kết quả tốt đẹp do sức cần lao nhẫn nhục của cha mẹ sớm chiều vất vả ngược xuôi bên vồng sắn nương khoai, mà có.
    Thắng đến nhà. Ô! Bất ngờ ghê. Thắng vào chào mẹ nàng, rồi chàng lên phòng khách. Mẹ mỉm cười đôn hậu, nhìn chàng chăm chú, như thể... mẹ muốn cân nhắc. Đôi má Hoài hây hây, nàng chột dạ quýnh quáng rù rì bên tai mẹ:
    - Mạ đừng ngó rứa. Không có chi, con mắc cỡ.
    - Chi lạ rứa. Ai nói chi, mà lo xa, rào đón rứa con.
    Mẹ cười, nguýt yêu con gái. Mẹ lúc nào cũng vui, khuôn mặt mẹ thật thà, hiền lành đôn hậu. Tấm lòng mẹ rộng mở, chất phác giản dị đầy khoan thứ. Nhất là tính mẹ nhân hậu, thương người, không riêng gì mẹ thương gia đình, mà mẹ thương hầu hết bà con, xóm làng cơ cực. Hễ ai kêu than, xin xỏ cái gì, nếu có khả năng là cha mẹ cho đi không ngần ngại, chả hối tiếc. Mà mẹ cho hậu hỉ, xứng đáng, tốt lành. Chứ không bao giờ mẹ cho của thừa mứa. Ui chao! Cha mẹ sao xứng đôi về lòng nhân ái đến vậy không biết!
    Thắng đá lông nheo với Hoài, anh ta cứ chớp chớp mắt cười cười:
    - Các anh kia tính rủ mấy em đi loanh quanh.
    - Loanh quanh? Anh không muốn em bị đòn chứ.
    - Ơ. Anh em mình đi phố, mà bị đòn gì! Em đi với anh Đan mới sợ ăn đòn, à em.
    - Ấy. Anh Đan thì thật là đồng hương, đồng hội, đồng thuyền à nha.
    - Coi chừng đấy. Có ngày nổi máu xung thiên lên, anh canh cả giàn trọng pháo, bắn vào nhà Tổ, thì tan nát hết họ hàng nhà mình bây giờ!
    - Trời ơi! Anh học đâu cái cảnh... nồi da xáo thịt vậy không biết. Anh em chúng ta, bồ tèo nhau cả. Khó dễ nhau gì vậy? Điên rồi. Em ớn anh quá.
    Hai xe jeep đang chờ ngoài cổng, Trúc chạy vào năn nỉ mẹ cho phép Hoài đi chơi tí. Hoài dúi mái tóc thơm mùi bồ kết vào lòng mẹ, một tay nàng mò tìm vú mẹ. Mẹ cảm thấy nhột khi nào con xin phép mẹ cái kiễu ấy. Mẹ hất tay Hoài ra, nguýt yêu con gái, liếc nhìn Thắng, mẹ nhỏ nhẹ nói:
    - Ừ. Cho con đi xí thôi nà.
    - Dạ, con cám ơn mẹ.
    Hoài cùng bạn ra cửa. Xe chạy mấy vòng quanh đường Độc Lập, rồi quẹo qua Phan Chu Trinh. Các anh đổi ý muốn đi câu cá trên sông Hàn. Tám người thuê hai chiếc thuyền nhỏ và nhẹ khua mái chèo, neo cặp sát thuyền bên nhau, họ thả lỏng tay câu. Thuyền lững lờ trôi trên sóng lăn tăn.
    Chiến ngồi chung với Thu, Hoài; anh ta nói:
    - Đi câu, mà Hoài và em mặc áo dài lướt thướt, coi bất tiện làm sao à!
    - Anh nói đi phố, đi xem ca nhạc. Bây giờ anh còn kêu la nỗi gì hử?!
    Hoài giận hờn, cầm hai tà áo dài cột vào giữa háng, coi y như đóng khố. Nàng tinh nghịch ghê. Thế là các anh chị nhao nhao lên về chuyện áo mí quần:
    - Ối giời. Áo mí khố. Xem thằng Quang ấy. Nó ngồi trong lu nước quen rồi, cứ đánh bố nó cái quần sọt, thì có chết con cá nào đâu nà.
    Hồng lên tiếng:
    - Giá biết trước là đi câu, em sẽ mặc áo quần tây là xong. Hay húi luôn đầu trọc với cái váy cụt, cho anh Chiến vui lòng hỉ!
    Chiến cười khoái chí:
    - Các cô nào có biết, việc cắt tóc ngắn, mặc quần áo ngắn được đồng bào ta hưởng ứng nhiệt liệt ấy nhe. Vào thời kỳ l906, bọn thực dân Pháp đối đãi ác nghiệt với dân tộc mình, họ hà khắt ghê gớm. Pháp dùng chính sách trực trị kềm chế, khủng bố, đàn áp gắt gao. Các cô biết không? Ngày 19 tháng 9 năm 1903. Lính chiến đấu của ta, mà Pháp gọi là Khố Xanh, Khố Đỏ ấy. Tức là lính mặc quần xanh quần đỏ, mà họ kêu là "Khố", để tỏ vẻ khinh bỉ miệt thị dân mình. Pháp bắt dân mình ở trần, mặc xà lõn, đóng "khố" hầu chạy cho nhanh. Vì sợ mặc quần dài có hai ống nó vướng víu. Khiến sự bất mãn về cuộc sống gian khổ, và mối thù giai cấp càng tăng càng cao, làm thức tỉnh người dân hồi ấy đã vùng lên mạnh mẽ. Tuy vậy tôi thích đàn bà thời ấy ăn mặc rất kín đáo, tính tình đoan trang lắm.
    Tùng móc mồi xong thả xuống nước, anh nói:
    - Để tôi nói cho các bạn nghe: Chuyện ăn mặc ở Việt Nam ta hồi đó như thế nào nhé: Tự ngày xưa, dân An Nam ta có truyền thống ăn mặc gọn gàng, kín đáo, và đẹp mắt. Đàn bà con gái thì mặc chiếc áo cánh bên trong, đeo yếm thắm cột bốn dải thắt ra sau gáy và lưng. Đi đâu xa, họ mặc thêm cái áo dài the tứ thân ra ngoài. Váy đen dài khiêm tốn chấm tới mắt cá. Họ mang guốc mộc.
    Phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, vì mặc "khố" dài lướt thướt, rộng thùng thình, đi đứng có phần vướng vít, trở ngại, khó khăn. Nên họ cắt bớt "khố" ngắn lại, cho “khố” ngắn bớt, cao trên mắt cá chừng vài gang tay. Rồi thì… phụ nữ mặc chiếc váy mới, thấy dài không ra dài, ngắn không ra ngắn, họ cảm thấy dị dị kỳ kỳ, khó coi, khó chịu sao ấy. Nên các bà các cô tân thời bèn làm một cuộc cách mạng nữa: Họ mặc "khố" ngắn tới đầu gối cho nó... gọn.
    Các bạn nhìn nhau cười cười. Tay nầy trầm ngâm, thâm trầm ngầm ngầm mà đấm chết voi, chắc là có vấn đề gì đây. Tùng thủng thẳng nói tiếp:
    - Tưởng như vậy là yên thân chiếc "khố đầm". Nào ngờ, đời Vua Lê, Càn Vương hay Chiêu Thống gì đó. Tôi quên mất. Đại khái là đời vua Lê. Mỗi lần Ngài ngự giá hay thân chinh đi đó đây thăm dân cho biết sự tình, thì vua thấy "liềng bà con cấy" ở ngoài đường ngoài chợ không mấy kín đáo, người nào người nấy cũng đưa hai ống quyển (“lem dem” ít gợi cảm), đen không ra đen, trắng không ra trắng. Hai ống quyền cứ mông mốc màu tro, và nhất là vua lo cho sức khỏe của bá tánh, thấy họ không giữ ấm thân thể mà thương. Đôi khi vua thấy họ ngồi chò hỏ ngoài ruộng ngoài rẫy, họ vô tình bỏ quên "cái sự đời em ra" phơi nắng phơi mưa; mà thật tình họ lo lam lo làm không hay biết có gió lùa.
    Tiến tiếp lời:
    - Khà khà! Anh Tùng nói đúng. Hồi đó có ai biết mặc “xì níp” đâu. Hê hê!
    - Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? À, à... Phụ nữ ta xưa nay vốn nổi tiếng là đoan trang nết na thuỳ mị, ăn mặc kín đáo. Bỗng dưng cái “khố" nay bị "hớt" lên quá đầu gối, thì họ ngượng ngùng cũng khó chịu ha. Nhất là khi Vua ngự giá đó đây, thì họ càng lo sợ, bẽn lẽn, run lập cập; Vì sợ, vì đói, vì rét, hay vì e thẹn? Tôi chả biết. Họ cứ té lăn chiên đổ đèn, giơ hai cẳng chân khẳng khiu quơ quơ lên trời. Rồi thì ngọn gió vô tình lại tốc ngược chiếc "khố đụp" lên quá... bẹn. Tô hô tơ hơ “cái sự đời em” ra.
    Mặc các bạn cười chảy nước mắt, nghiêng ngã người trên thuyền. Vương Gia Tùng bác sĩ "đẹp giai" nhà ta thì tỉnh queo, ảnh không cười. Nhìn ảnh, họ càng mắc cười kinh khủng. Tùng ung dung và duyên dáng kể tiếp:
    - Vua Lê là người khá hào hoa, thanh lịch, văn nhã và đầy nghệ thuật vị nhân sinh, ngài nhìn cái cảnh trái tai gai mắt đó nhiều lần, coi cũng chướng quá, nên vua đã xuống chiếu nghiêm cấm "liềng bà con cấy" không được mặc "khố đụp". Không mặc váy! Á à tôi quên. Ngài không dùng tiếng "khố" miệt thị, càng không nói tiếng "váy" văn chương tân thời, mà Ngài nói:
    - "Mặc quần không có hai ống" nghe văn nhã hơn.
    - Thế là phụ nữ bắt đầu mặc lại quần không có hai ống, dài xuống mắc cá chân. Có yên đâu. Phải rồi! Chưa yên. Tôi nhớ có lẽ không nhầm, đúng một trăm sáu mươi ba năm sau. Vua Minh Mạng thứ 9 đã ban một chiếu dụ khác, cấm chỉ "liềng bà con cấy" không được mặc "váy đụp" tổn hổn tển hển như thế. Mà phải mặc quần phải có hai ống hẳn hoi. Thế là "quần có hai ống" ra đời từ đó.
    Nào, bi chừ các cô thích mặc thứ gì? Mặc "khố", "Quần có hai ống", hay là mặc "Váy đụp". Hỉ ?
    Các cô quê xệ che mặt cười khúc khích. Còn các cậu thì khoái chí lêu lêu các cô và cười ha ha ha thả thuyền câu theo dòng nước. Các bạn chuyện trò vui vẻ, họ kể nào là chuyện Đại Đế Napoléon Bonaparte. Chuyện Ludwigvan Beethoven nhà soạn nhạc lừng danh; họ lại chuyển qua chuyện Michael Faraday, nhà bác học lỗi lạc. Kể cả những chuyện tiếu lâm khôi hài vui hết biết.
    Hoài mỉm cười xin thầm hỏi:
    - Chuyện áo quần “tíu lâm” có thật, và chuyện đại đế Napoleon Bonaparte lừng danh như thế. Quý vị thích nghe chuyện nào. Thưa quý vị? Còn Hoài thì … ỏn ẻn thỉ thủ tự thú nhận:
    - Em chả… “thíc” đại đế đại điếc chi cả; mà em chỉ thích mặc “quần không có hai ống” thôi đấy ạ!!!


    Ái Ưu Du

  • #2
    Bài thơ của Ái Ưu Du

    Có bài thơ tả về "phụ nữ Việt Nam" dễ thương như sau:


    Ra ngỏ anh vừa trông thấy bóng nàng,
    Nụ cười em kiều diễm nhất thôn trang.
    Anh vẫn mê xuân thắm nép bên tường!
    Thân thon tóc mướt huyền dài tha thướt.

    *

    Đôi mắt thu bồn. Anh ước mơ từ…
    Vì em gót son đi về tư lự.
    Xinh đoá hồng nhung tâm tưởng an thư.
    Dẫu trăm năm anh nồng nhiệt tương tư.

    *

    Mắt em nhìn là rung lên vạn ý.
    Môi chưa hé nhưng đã nói muôn lời.
    Gói tâm tư theo từng áng mây trôi.
    Tha thiết lắm. Anh trao tình em nhỏ...

    _ * _

    Ái Ưu Du

    Comment


    • #3
      Chiếc áo Gấm

      CHIẾC ÁO GẤM


      Tôi cố gắng giằng co, quyết giành lại chiếc áo gấm cũ với định mệnh. Dù thời gian trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai tách bạch ra đôi bờ cuộc sống.
      Không ai có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run, tôi cài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm. Nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.
      Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo uốn lên uốn xuống, gãy khúc quanh co ven đồi thông ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, mà cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc ghé ghé thẹn thùng, e ấp trêu chọc chàng, và say đắm nhìn Luật. Hai bàn tay tôi nhẹ nhàng, khéo léo khép vạt áo veston của chàng, cài hộ Luật mấy nút áo, cho chàng bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể.
      Ngày bị vào tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét nầy lại, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương chàng viết dày cui. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng, về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình lý tưởng, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương mưa gió, chiếc áo của chàng đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian.
      Ấy vậy mà tôi vẫn nâng niu giữ gìn tấm áo từ hồi chưa cưới nhau, mãi trân trọng ấp ủ tình luyến nhớ, thương mong tận đến bây giờ. Và tôi hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời đang xáo trộn chao đảo. Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: Phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ cũng có.
      Giờ nầy Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị đi tập trung trong tù rồi! Chàng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng chơ vơ lạc lõng giữa chợ đời muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh, cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn với những tủi hổ vô vàn, và những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu.
      Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vào gờ đá, hay lặng lờ êm ả thong dong trôi chảy ra biển cả. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực, run rẩy dâng tràn!? Nay tôi đang mặc chiếc áo ấy của chàng mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình, buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, tôi không cài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm.
      Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình, xếp lớp lớp trên kệ sách phủ bụi vàng ít khi được mở ra xem. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua từ quyển mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi. Như những áng mây xám lưng đồi bay qua bầu trời mùa thu. Như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi.
      Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi. Nay tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường vượt qua mọi chông gai thử thách. Chỉ bấy nhiêu thôi. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
      ***

      Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, tôi được anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In, (khu đất thuộc cuối vùng Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối khốn cùng của vùng kinh tế mới khô cằn. Chỉ nhiều muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng, rắn, rết vô số. Chúng chuyên bu bám người để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le tre rừng, ta ăn vào cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước chết toi.
      Tôi lặng người rất lâu, mà không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động tuôn chảy từng dòng, dội ngược vào tim mình. Hình như tôi đang nghẹt thở, chết dần chết mòn. Tôi không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò ân hận đớn đau lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng có xe hơi riêng, hay có thể mua vé máy bay về với mẹ, qùy xuống bên mép giường cầm tay mẹ, ôm chặt lúc mẹ hấp hối.
      Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ mẹ lâm chung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát chẳng dễ dàng gì chờ mua vé đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ hơn 300 cây số.
      Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, sụt sùi, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng:
      ***

      Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại, (tức ông bà cố ngoại của con tôi) ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát. Thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi trong triều đình vua Khải Định, Huế.
      Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo ở đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược. Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng.
      Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con. Đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn mẹ, và người thân. Đó là việc vặt, trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói là hầu như suốt cuộc đời mẹ, chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi, ngưng nghỉ tay chân. Cái số mẹ cực thân đến thế mà!
      Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng. Mẹ dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút rồi quên ngay. Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm. Mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn cũ, trông mẹ giống thầy bói mù sờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường.
      Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen, nhỏ như cái chén kiểu, nhưng khá nặng, thân hình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách đồng xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ lấy cây chìa vôi têm vào mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao, còn lỗ miệng bình vôi thì teo tóp dần, mà trôngt nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
      - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó mới loe ra kinh khủng nè.
      - Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng từ bỏ hết. Kể cả chồng, con, cháu, chắt dấu yêu, bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi, âm thầm về bên kia cuộc sống mới.
      ***

      Bà chị dâu của tôi kể lại rằng:
      - Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa xa xôi; anh chạy vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị loay hoay dọn dẹp nhà cửa.
      Mẹ nằm im trên giường rất lâu, không động đậy nhúc nhích. Chị Ngọ thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm. Nhà anh chị quá nghèo, đi kinh tế mới họ chỉ có mấy nhúm quần áo, vài bao bố son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi. Chồng đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế.
      Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, và mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bằng bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền.
      Chị e dè hỏi thăm:
      - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
      Chị Ngọ không thấy mẹ trả lời, chị liền cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vào cánh tay mẹ:
      - Mệ ơi! Con nấu cháo, cho mệ ăn nghen.
      Mẹ tôi lừ đừ mở mắt, cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt ra phía con dâu, thều thào:
      - Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
      - Dạ. Mệ đau, không ăn được măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con đi ra chợ xép, mua chút gạo, con về nấu cháo. Mệ ráng chờ. Con nấu mau lắm.
      - Thôi con. Để dành gạo nấu …cho thằng Cu Nâu …có chút nước hồ mà uống, thay cho sữa mẹ không có… Con à.
      - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.
      Thế rồi, mẹ tôi ư hữ quay mặt vào trong vách. Non giờ sau mẹ từ từ nhắm mắt, và dần dần thiếp vào giấc ngủ nghìn thu muộn phiền. Mẹ đã đói khát năm năm rồi, và trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành ăn chén cháo trắng với muối hột. Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ ra đi đúng vào ngày Tết Đoan Ngọ.
      Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xưa, thì mẹ tôi ưa mua hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm. Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, cho con cháu từ xa trở về hân hoan sum họp gia đình vui vẻ. Mẹ nói:
      - Các con, cháu, ăn bánh tro, ăn cơm rượu, uống chút nước cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.
      Nay mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nỗi âu lo vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề.
      Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm, họ đã cùng nhau đến lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn mặc nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non, điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Mà xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất của đời con gái, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu.
      Nay thì người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm của ba đã trao tặng mẹ. Họ đặt xâu tràng hạt vào bàn tay mẹ lạnh giá, và để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ ra bên ngoài.
      Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím, cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông thơm mùi nhựa mới hèn mọn. Không bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả, ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng.
      Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người đến trong thềm nhà. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình. Họ nghỉ đi rừng, đi rẫy, nhịn đói nhịn khát, cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, đơn điệu, bơ vơ. Mẹ tôi nằm xuống, và vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, với cây thánh giá gỗ, tấm bia mộ gỗ đơn sơ, ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn:
      Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85 t.
      Thật đông nghẹt người đói khát hèn mọn lủi thủi trở lại lối cũ, trên con đường đất đỏ gồ ghề mẹ đã đi qua. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt, khi nghĩ về mẹ. Thời gian lật đật qua đi, tôi luôn tất bật bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình vẫn không đủ sống.
      Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo chỉ có ba chân rung rinh như răng rụng. Còn một góc bàn thì kê tấm táp lô sứt mẻ, thay thế một chân bàn què.
      Bà Nga hàng xóm nói:
      - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy mẹ cô chưa kịp về, thì bầy ruồi ốm đói đã trúng mánh, bu tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Cô làm gì có ghế, cho mẹ ngồi chơi xơi nước. Ơ! cô bắt mẹ mặc áo gấm, ngồi ăn giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!
      Bà Nga líu lo nói huyên thuyên, và cười sảng khoái chẳng ngại mất lòng. Tôi nghe mãi mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà ông vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù. Giọt khóc bầy con lù đù vất vưỡng long đong ở ngoài tù. Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lầm than cơ cực. Khổ đến nỗi tôi không tiền không bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về cùng hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tình nghĩa thiêng liêng mong manh hơn khói sương, nối liền giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa.
      ***

      Người đàn bà còn quá trẻ, bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ xót xa khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay, hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Nén sự trầm uất dưới chiều sâu tâm hồn, đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Khi gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng, rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.
      Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi đã từng đi qua đó, nay mẹ con chúng tôi sẽ dắt díu nhau lọt tọt líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn, không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời, còn mấp máy và thút thít, như nghiền nát hiện tại đang phừng phựt cháy trong lòng.
      Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển.
      Trời xanh không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây giăng mắc khắp nẽo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh.
      Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt chơi khăm chúng tôi trắng tay – và đểu giả lật ngửa quân bài ra – Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!

      _ * _


      Ái Ưu Du

      Comment


      • #4
        Cám ơn truyện và thơ của chị aiuudu .
        Cám ơn anh loidieu04 đã post dùm .

        Comment


        • #5
          AUD xin cám ơn quý anh chị: THÙYDƯƠNG - LOIBANGTQLC - VUNIVERCIAL - LOIDIEU04 ...
          đã vui lòng bỏ chút thì giờ quý báu để đọc truyện buồn...
          Chúc quý vị & gia đình luôn an vui hạnh phúc nhé .
          Tình thân (muôn thuở)
          AUD
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • #6
            Chuyện Áo Dài

            Kính thưa quý vị rất thân kính,

            Về Chuyện Áo Quần đúng như thế đấy ạ!

            Dạ vâng! Ngày xưa phụ nữ trang phục như thế, âu cũng là đài các quý phái lắm rồi. Thế mà sau nầy với họa sĩ Cát Tường (Lemur) còn đề xướng ra một "mốt tân thời" khá hấp dẫn khác: (Chiếc áo tứ thân, khăn mỏ quạ, váy xồi guốc mộc... )
            đã được thay vào những chiếc áo dài của phụ nữ, cho thêm phần duyên dáng hấp dẫn và khởi sắc hơn.
            Áo dài gồm đủ kiễu: Kiểu áo dài cổ truyền dài có hai vạt, có nếp ôm vào thân, áo chấm gót chân, cổ áo khi thấp, khi cao, cổ áo kiễu tròn, cổ áo kiễu trái tim, cổ áo kiễu ngang, hở vai xệ đầu ngực, hai vai áo phồng, trên tà áo gắn kim tuyến hay thêu đủ hình hoa hình phượng tuyệt đẹp. Kèm vào áo là chiếc quần dài (có hai ống hẳn hoi) loại vải quần mong mỏng mịn màng, trông thật khả ái xinh lịch và quyến rũ hơn.
            Phải thế không xin thưa quý vị!?

            Comment



            Hội Quán Phi Dũng ©
            Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




            website hit counter

            Working...
            X