Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Câu Chuyện Về Người Đạp Xích Lô - Sơn Khê

Collapse
X

Câu Chuyện Về Người Đạp Xích Lô - Sơn Khê

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Câu Chuyện Về Người Đạp Xích Lô - Sơn Khê

    Câu Chuyện Về Người Đạp Xích Lô

    Tác giả Sơn Khê


    Trên đường dài ta thu dần khoảng cách
    Rút thời gian cho những khách ngược xuôi


    Sau bảy năm tù gần chết về tội làm quan. Ông được Cách Mạng khoan hồng cho về để địa phương tiếp tục giáo dục để mau chóng trở thành con người mới, con người XHCN. Trong thời gian 6 tháng bị quản chế, ông làm “nhà báo” rất âm thầm.

    Một hôm, “đột xuất” được giấy mời của Công an kêu sáng mai đúng 8 giờ lên Phường “làm việc” với lý do cho biết sau. Suốt đêm, nằm trằn trọc nhắm mắt để đó, bao nhiêu ý nghĩ hắc ám quanh quẩn trong đầu nhưng ông không tài nào đoán ra lý do Công an cho gọi. Sáng hôm sau, tiếng gà đầu xóm vang lên ông bật dậy bắc ghế ra sân ngồi trầm ngâm bên điếu cầy và ngọn đèn dầu loe loét, kéo một hơi thuốc tiếng nước réo rắt phập phồng. Thả làn khói bạc phếch vào trong khoảng trời còn mờ sương ông càng lo âu chưa biết chuyện gì sắp xảy đến cho mình. Hay là bỏ trốn !

    Chỉ nghĩ thôi người ông đã run lên!.

    Một làn gíó hắt ngang làm ông rùng mình, hết nhìn ra đường xem có ai thấy mình đang “nghĩ ” không, lại nhìn vào cái đồng hồ hai cửa sổ không người lái trên tay, mới có 6 giờ.

    Còn hai tiếng nữa.

    Thời gian như dừng trôi.

    Rồi cái gì đến cũng phải đến. Đúng 7 giờ, ông đã có mặt tại Công an dù giấy mời ghi là 8 giờ. Ông trình giấy cho anh Công an trực, rồi ngồi chờ đến 9 giờ sáng thì cán bộ Công An Chấp Pháp mới đến. Ngay vừa khi chạm mặt anh Chấp Pháp, nhìn cặp mắt lươn ti hí của cán bộ anh lo lo, nhưng may sao Cán bộ nở nụ cười khoe hàm răng vàng khè tươi tỉnh. Một tia nắng ban mai vàng ấm soi vào cơ quan khiến mọi âu lo trong người ông tan biến khi ông “phát hiện” thái độ vui vẻ ân cần bất chợt của anh Công an Chấp Pháp điều hiếm có trước đây những lần ông lên Phường trình diện. Cán Bộ chỉ tay vào ghế mời ông ngồi và bắt đầu lấy trong cặp táp ra một xấp giấy tờ đặt lên bàn làm việc. Bằng động tác nhanh nhẹn bắt chước Cán Bộ, và đúng tác phong con người mới, ông ngồi co chân lên ghế. Thỉnh thoảng đưa tay ngoáy lỗ mũi sau những câu trả lời …vốn người hiền lành dễ bảo, luôn chấp hành tốt mọi quy định của địa phương và kết quả sau 6 tháng ông được Cán Bộ tuyên bố xả chế.

    Điều kiện Phường quy định sau khi xả chế ông được phép tạm trú 6 tháng để tìm việc làm, và muốn xin thường trú muốn có hộ khẩu tại địa phương, phải là công nhân viên nhà nước, nếu không thì ông bị buộc làm đơn xin tình nguyện đi kinh tế mới. Ông ôm nỗi lo này ngày ngày đi lang thang xin việc nhưng lý lịch xấu, không hộ khẩu nên không cơ quan nào nhận.

    Ông nghe nói: Có việc Công an mới cấp hộ khẩu thường trú. Lên cơ quan xin việc lại đòi có hộ khẩu … Ông không biết bây giờ ông phải làm gì trước …

    Ngày vào tù đâu ai có hộ khẩu mà vẫn được thường trú, đâu ai cần xin việc làm cũng được việc làm tìm đến tận chỗ nằm. Bây giờ, ông là một công dân của chế độ, chẳng lẽ đời sống còn khổ hơn thằng tù của chế độ hay sao? Biết thế cứ trong tù lại sướng vì chẳng phải lo gì cả vì có nhà nước lo …

    Sau dò hỏi nhân dân, ông được biết đây chính là lề lối làm việc đầy thông minh sáng tạo của chế độ mới, và phong cách điều hành tổ chức này mới nói lên được tính ưu việt của chế độ XHCN: Ông cần phải học tập nơi quần chúng để nắm vững đường lối lãnh đạo của Đảng. Nhờ thế, ông hiểu được: Muốn có trong tay tờ “Giấy Chứng Nhận: Cán Bộ, Công Nhân Viên” còn dễ tìm hơn …cháo. Chỉ cần bỏ ra một chầu nhậu bia hơi, lẩu móng bò và gói thuốc Ba số với bất cứ anh Thủ Trưởng của bất cứ cơ quan nào trong thành phố là có ngay. Bởi lẽ dưới chế độ bao cấp, thủ trưởng nào khá là nhờ con dấu.

    Tùy giá trị mỗi loại giấy tờ mà giá cả cao thấp khác nhau. Mọi giây tờ chứng nhận dưới chế độ XHCN: Hộ Khẩu, Hôn Thú, Khai sinh, Bằng cấp, Thẻ Đảng, Gia đình vẻ vang … có tiền là có tất cả. Một chân lý ai cũng biết, Hồng hơn chuyên; đôi lúc văn bằng học vị thật, và người có tài năng thật nhưng lại không được dùng … Mang mặc cảm người tù chế độ, như chim bị đạn, đời sống ông luôn bị khủng bố. Hễ ông thấy ai đi ngang nhà liếc xéo vào là trái tim ông đổi nhịp đập thùng thùng. Ông tưởng đang bị an ninh cho người theo dõi. Ông vốn không hèn, nhưng được “cải tạo” sống dưới chế độ cs phải làm vẻ, giả bộ hèn và rồi nay ông hèn thật lúc nào ngay chính ông cũng không biết!. Do đó, ông nào dám nghĩ chuyện hối lộ mánh mung Cán Bộ. Đi xài giấy tờ giả để qua mặt Công an!

    Có người chỉ mánh cho ông là hàng tháng cứ việc cà phê cà pháo cho Công an địa phương là xong ngay chứ khó gì. Địa phương xem thế mà lại có quyền hơn Trung ương:”Phép vua thua lệ làng!” Ông nghe thoáng, vội vàng khua tay lắc đầu không không. Rồi tự nhủ: Công an “Nó” tưởng mình ngu nên gài người thử mình xem đã thực sự cải tạo tiến bộ chưa …!” Lừa ai chứ lừa ta sao nổi ha … ha…ha…ông cả cười thích chí và tự phục lăn sau khi tự nhủ dù sau nhiều năm tù mình vẫn chưa lú lẩn như mấy ông già. Tinh thần vẫn cảnh giác vẫn sáng suốt trước mọi mưu kế của Công an …

    Từ đó hễ ai chỉ vẽ cho ông điều gì trái với pháp luật ông đều nghĩ Công an cho người gài để bắt ông. Nhờ đó ông nức tiếng là một công dân gương mẫu của địa phương. Trong một lần họp tổ dân phố, có người đề nghị biểu dương ông trong danh sách “người tốt việc tốt ” của Phường. Ai cũng quý mến ông nhưng chỉ riêng Công an khu vực nhìn ông với cặp mắt không mấy thiện cảm làm ông đâm lo …

    Thời gian tạm trú sắp hết, may mắn thay bỗng ông được một bà cửa hàng trưởng, người trong xóm, vốn trước đây nằm vùng biết ông nguời hiền lành đã ngỏ ý giúp đỡ nhận ông vào làm “Cửa hàng chất đốt Thanh Niên” nhưng chẳng có việc gì giao cho ông. Chỉ có tên ông nằm trong danh sách là nhân viên cửa hàng cho bà. Cửa hàng trưởng tháng tháng thay ông lãnh lương và nhu yếu phẩm gạo đường v.v…do trên phân phối xuống cho các cán bộ, nhân viên cửa hàng. Phần ông được cầm trong tay lá bùa hộ mạng là giấy chứng nhận Công Nhân Viên của nhà nước, nhưng ông không được lãnh lương không được cấp phát tiêu chuẩn nhu yếu phẩm. Điều này không can hệ gì, miễn sao ông có giấy chứng nhận là nhân viên chính thức của “cửa hàng” là đủ, không còn lo bị đuổi ra khỏi thành phố, bị đi kinh tế mới. Hai bên đều có lợi. Trước tin vui này ông mừng hơn ngày vợ ông gật đầu khi ông ngỏ ý xin cưới. Ngày địa phương chấp nhận ông ở lại Thành phố đồng thời chính là ngày nghề làm ” nhà báo ” của ông bị đình chỉ. Trong nhà đã hết sạch tiền !. Nhìn quanh đồ đạc quần áo không còn cái nào đáng giá đem bán. Khổ nhất! Vợ ông, sau nhiều năm thân cò lặn lội buôn chuyến lao lực lấy tiền nuôi chồng tù đến nay đã hoàn toàn kiệt sức buồn rũ ngã bệnh không ăn không thuốc, vì mới đây hàng hoá vừa bị Công an kinh tế tịch thu làm hết sạch vốn liếng nợ nần chồng chất đang nằm rũ rượi trên giường trên người chỉ còn da bọc xương. Ông bối rối ngồi bó gối khoanh tay nhìn nhà cửa, nhìn vợ con trước một tương lai đen tối không có một hy vọng dù mong manh …

    Bây giờ cả nhà chỉ còn trông vào đồng tiền ít ỏi lương công nhật của đứa con gái lớn mới lên 10, đã phải bỏ học đi vấn thuốc lá cho một nhà sản xuất lậu thuốc “dzỏm” trong xóm để sông đắp đổi qua ngày. Thằng út 8 tuổi sáng nào cũng thèm thuồng đủ thứ, nó cứ ngồi tựa cửa khóc thút thít khi thấy bà hàng xôi, hàng bún gánh rao lanh lảnh ngang nhà. Nó ra đời mới đầy tháng đã không thấy mặt bố. Và khi ông được về nó vẫn nhìn ông ngỡ ngàng xa lạ chưa nhận ra bố nên niềm vui của nó chỉ quanh quẩn bên mẹ mè nheo vòi ăn. Thế mà giờ này mẹ nó nằm liệt giường trong lúc nó đang đói. Những lúc bất chợt ông bắt gặp cảnh vợ ông cố gượng ngồi dậy lại phải nằm ngay xuống nước mắt trào ra lúc con đòi ăn cơm mà nhà hết gạo, ông không có can đảm nhìn lâu, lẩn ra ngoài tìm điếu cầy làm một bị thuốc lào kéo một hơi mạnh nhả khói rồi nằm bệt ra sàn nhà nghe lòng dâng dần tê tái. Khi men say thuốc tan đi, buồn lo kéo đến, vì không biết đào đâu ra tiền … Những chỗ gia đình thân thuộc bạn bè có thể vay mượn nhờ cậy cũng chẳng ai hơn gì ông. Chỗ nào có thể gõ cửa vay mượn thì ông cũng đã, và ngày nay có những món nợ đã khê, không thể trả nổi nên ông không còn mặt mũi nào nhìn ai để hỏi vay thêm.

    Vào chiều chủ nhật buồn đang lang thang tại bến Bạch Đằng ông gặp một bạn tù đang đạp xích lô. Nó lấy uy tín và danh dự ra giới thiệu ông thuê một chiếc xe chạy ca ngày với giá rẻ. Theo chân nó xem xe, đó là một chiếc xe còn mới xi mạ sáng loáng. Ông mừng chảy nước mắt lúc nghe chủ xe đồng ý cho mướn không phải đặt cọc vì thấy tội nghiệp.

    Mả cứu bần nhà ông đã phát !

    Ông vội vàng ký tên vào giao kèo thuê xe mà không cần đọc kỹ làm gì những điều kiện ràng buộc trong đó. Ông vui vẻ ký cho mau và đưa ngay sang cho chủ, chỉ sợ chủ đổi ý. Ông không có gì làm điều kiện để giao kèo, chỉ mỗi việc ngoan ngoãn gật đầu làm theo ý chủ muốn. Đã nghèo nếu gặp phải cái eo cũng là chuyện thường tình có gì đáng kể !

    Trời rạng sáng hôm sau ông thức sớm hơn thường lệ, thay bộ cánh tươm tất đạp xe đạp đến nhà chủ nhận xe. Điều trước hết việc ông cần phải làm là tập đạp cho nhuyễn trước khi hành nghề. Ông run run sung sướng vuốt ve chiếc xe với tất cả tấm lồng trìu mến hân hoan như cậu học sinh vừa mới ra râu mép được dịp đi bên cạnh và nắm tay người đẹp đầu đời. Nhẹ nhàng “bế ” xe xuống đường sợ va vào lề đường tróc xi. Ông đẩy xe đến một khúc vắng, rồi hồi hộp từ từ đặt chân leo lên yên. Khi yên vị ông có cảm giác ngất ngưởng sung sướng như đêm tân hôn… rướn người lấy sức đạp. Chiếc xe lắc qua bên trái, ông lái sang bên phải quá đà leo lề xém đụng một bà bán cháo huyết. Nhanh tay ông kéo cần thắng, xe bị ghì mạnh và theo đà lắc nó lật ngang hất ông té xuông đường … Sau vài lần tập đi tập lại quen dần với chiếc xe không. Ông đạp tà tà sang nhà thằng bạn mời nó làm khách để dợt. Tội nghiệp ! Thằng chết nhát ngồi xe ông mà run như cầy sấy. Nói nào ngay, ông mới chỉ biết đạp nhưng chưa biết …thắng. Tay kéo cần phản ứng còn chậm chạp nên lắm khi ông cứ nhè cột đèn đưa đầu thằng bạn thử khiến miệng nó cứ la oai oải… Đã nhiều lần cả ông lẫn nó, cả xe lẫn người bổ càng .

    Vạn sự khởi đầu nan !

    Rồi cũng đến lúc nhờ lòng can đảm và sự tận tâm chỉ bảo của bạn về các kỹ thuật lấy đà, quẹo trái, quẹo phải lên xuống dốc hoặc len lỏi nơi chôn đông người ông “tiếp thu” rất nhanh và nay tay sử dụng con ngựa sắt thành thạo chỉ mất một thời gian ngắn vài ngày. Cái giá phải trả là mình mẩy ê ẩm, đôi chân căng buốt nhất là trên người khá nhiều dấu vết trầy trụa thương tích bầm tím nơi hai ống quyển có để lại vết sẹo làm kỷ niệm … Bây giờ ông từng bước dò sang mức nguy hiểm hơn là cho xe “xâm nhập thực tế” nghĩa là chạy ngay trên lộ chính luồn lách nơi xe cộ đông đảo qua lại trong giờ cao điểm. Ông sung sướng nhận ra sự tiến bộ nhanh chóng nên trong một chiều nắng đẹp ông cùng bạn đến một quán cà-phê sang trọng kêu hai cái phin và hai điếu thuốc có cán để trả ơn thày và mừng ngày ”cách mạng thành công” trong nhiệm vụ mới làm “dân biểu”. Tối đó, ông họp vợ con lại rồi long trọng tuyên bố ngày mai là bước ngoặt lịch sử mở ra một con đường mới là ông nhất định ra nghề.

    Ngày đầu ra xe mới đạp chừng dăm mười phút ông gặp ngay một bà khách vẫy xe ông. Mừng húm! ông đạp nhanh lại bên khách nở ngay một nụ cười xã giao rất tươi. Khách là một bà ăn mặc kiểu nhà quê, ôm chặt tay nải vào người vội nhẩy lùi lại hai bước ngước lên nhìn ông hỏi:

    - Bác có dzước khách không ?

    Rõ là hỏi thừa ! Không rước khách thì đạp xe xích lô để làm gì. Ông ngập ngừng nói:

    - Dạ có ! Thế bà muốn đi xe ?

    Rõ là lẩm cẩm . Không đi xe thì vẫy ông để làm gì !

    - Dạ..dạ thưa muốn ạ ! Bác đèo em nại đường Huỳnh văn Bánh, thế bác muốn ăn em bao nhiêu ?

    Ông ngập ngừng …một lát. Rồi hỏi lại bà khách

    - Đường đó ở đâu thưa bà, tên cũ là gì ?

    - Em mới từ Bắc vào có biết đường đất là gì đâu! Cháu nó công tác trong này cho địa chỉ mời khi lào rảnh nại chơi. Em chả biết ngụy nó gọi là đường gì ? Đây này ! Cháu nó biên địa chỉ đây này. Thế bác nái mà không biết đường sao !?

    Ông cầm mảnh giấy lướt nhanh

    - Không ! thưa bà.

    Hay để tôi hỏi thăm cho bà nhé ?

    - Thôi được không dám! Em xin cám ơn bác.

    Người đàn bà giành lại mẩu giấy rồi ngúng nguẩy bỏ đi…

    Ông tiếc nuối, cởi mũ ra lau mồ hôi trán đứng ngó theo … Những ngày đầu bỡ ngỡ, ông chỉ mới nghĩ cách chạy vớt , chỉ mong rước khách bèo. Bên kia đường, có một chiếc xe vừa bỏ đi, từ chối khách là ông vội quay đầu phóng lại mời. Thường giá nào ông cũng chạy. Bất cứ ai, đứng dáo dác bên đường đều có sức thu hút ông mãnh liệt.

    Kia rồi ! một bà xồn xồn mặt hoa da phấn thân hình phốp pháp vừa từ một con hẻm bước ra đưa tay vẫy ông. Mừng quýnh ! Ông rướn người đạp nhanh tới sát bên. Chẳng nói lời nào, bà bước lên làm bửng xe xụp xuống sát mặt đất; nhổng đít đưa hổng ông lên trời và hất bà chúi nhủi xém té may một chân bà còn chống xuống đất, gượng lại được. Rút kinh nghiệm, ông nhẩy xuống nín thở gồng mình ghìm chặt ghi đông. Bà khách cũng rón rén, chậm chạp bước lên xe, ngồi lọt vào ghế thở phào nhẹ nhõm … Xong đâu đấy, ông đẩy xe chầm chậm lấy đà rồi đặt bàn chân trái lên bàn đạp làm điểm tựa phóng vút lên yên, lắc đôi mông xẹp lép và còng lưng nhướng người ra sức đạp … Được vài vòng, bà khách ngoái cổ lại nói:

    - Ông làm ơn chở tui tới Đoàn văn Bơ !

    Ông giật thót, chết mất ! hết “Bánh” giờ lại “Bơ” ! Giọng run run ông hỏi lại:

    - Bà có biết tên đường cũ gọi là gì không ?

    - Ồ xin lỗi tui quên ! Hình như là Đỗ Thành Nhơn bên Khánh Hội thì phải ! Ông cứ cho tui sang bên đó ! Bộ ông mới chạy xe hả ?

    - Dạ phải, thưa bà !

    Xe chạy bon bon qua cầu Khánh Hội, ông vừa thấy ngay tên đường trước mặt thì bà khách bảo Xì tốp ! Ông cho xe vào lề an toàn, đổ khách xuống.

    - Nhiêu tiền đây ông ?

    - Dạ bà thường đi nhiêu cho tôi bấy nhiêu được không thưa bà ?

    - Ủa ! Thui đây, tui quen đi mười lăm đồng. Tui trả luôn ông hai chục khỏi thối ! Cám ơn ông nha !

    “Bánh” mất ăn lại được ăn “Bơ” cũng thích! Mới ra nghề tổ đãi cho ông một cuốc xe dài, gặp được người khách mở hàng dù có hơi nặng ký nhưng lòng tử tế đã trả một cuốc xe khá hậu hĩnh … Ông tính nhẩm, với Hai chục bạc ta có thể trả được gần nửa tiền thuê xe trọn ngày, hoặc mua được một ký gạo cho cả nhà ăn chứ nào phải đùa ! Nhìn xuống dòng sông êm đềm nhẹ nhàng xuôi chảy, một luồng gió thoảng qua, mang hơi nước mát trong lành ban sáng làm mồ hôi sau lưng người ông thoát hơi khiến ông cảm thấy khoan khoái mạnh mẽ như người mới được tắm hơi…

    Một buổi trưa cho xe lên lề nghỉ dưỡng sức. Ông lấy tấm bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh dưới nệm xe ra trải lên nắp cống góc đường, rồi lôi ra cây bút chì màu xanh đỏ làm dấu nhận diện các con đường trong thành phố. Ông hí hoáy tô đỏ những đường mang tên mới, tô xanh đường vẫn giữ tên cũ. Dù là dân lớn lên nơi đô thị, trong lứa tuổi học trò, ông thường cùng chúng bạn rong chơi khắp các con đường Saigon thủ đô nước VNCH nhưng ông vẫn chưa rành hết ngõ ngách tên các con đường chằng chịt, và ông cũng chẳng mấy quan tâm để nhớ những tên đường làm gì cho mệt, ngoại trừ con đường dẫn về nhà, hoặc dẫn đến trường hay quanh quẩn nhà người yêu, thì ông lại không bao giờ quên được, nó rõ mồn một và nhớ như in. Giờ nay, sau 7 năm tù ra biết bao thay đổi về cấu trúc địa danh và tên đường khiến ông lạ lẫm ngơ ngác tựa lạc mất con. Có những con đường quen thuộc trước đây ông thường đi lại hàng ngày ngay trung tâm thủ đô nhưng hễ bị đổi tên cũng đủ làm ông cảm giác ngơ ngác như một kẻ lần đầu đặt chân lên vùng đất xa lạ … Ông ước chi tất cả con đường sau khi đổi tên đều được nhân gian làm thơ cho dễ nhớ chẳng hạn như:

    “Nam Kỳ khởi nghĩa thay Công Lý
    Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do”


    Sẽ giúp ích cho những con người mới, con người XHCN như ông không bị lầm đường lạc lối! … Ông nhớ lại các tiền nhân khi làm danh bạ, đặt tên đường từ Thủ Đô đến các Tỉnh đều dùng một địa danh gọi tên một Thành Phố hay tỉnh lỵ trước như Hà Nội, Sài Gòn, cần Thơ, Nha Trang, Đà Lạt… rồi mới đặt tên đường cho các anh hùng dân tộc như ngụ ý muốn nói Tổ Quốc là nước của Tổ tiên trên hết!. Nhưng từ ngày “Cách mạng” vào, Sài Gòn là một địa danh lại bị thay tên bằng một con người Cộng Sản. Như thế rõ ràng con người này được xem là lớn hơn Tổ Quốc Việt Nam, và các anh hùng dân tộc Hai bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo …các danh nhân lịch sử đều chỉ là tên đường nằm trong lòng thành phố, trong con người này, ắt phải rõ nghĩa Cách mạng đánh giá các anh hùng dân tộc tất cả đều nhỏ bé hơn Hồ Chí Minh …

    Cái khổ của giới có học mà phải chạy xích lô như ông là không còn biết phân biệt ai lớn ai nhỏ trên con đường lịch sử Việt Nam từ ngày đất nước thay ngôi đổi chủ. Nhà Nguyễn trải qua các triều đại liên tiếp hơn ba trăm năm thay nhau kế vị, có công khai sáng mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng không một vua chúa công thần nào nhà Nguyễn được tồn tại sau ngày Sài Gòn giải phóng. Một Hiền Vương, một Gia Long . . . đều được thay bằng tên một chị Võ thị Sáu, Nguyễn thị Minh Khai nhà quê khố rách áo ôm nào ai biết làm gì ở đâu trong thời Pháp thuộc. Một Tả quân Lê Văn Duyệt Quan trấn thủ Gia Định Thành giữ an bờ cõi chống Chân Lạp, được Cách mạng móc nối cho làm “Cách mạng Tháng Tám”. Một Hữu Quân Nguyễn Hùynh Đức có công mở mang bờ cõi về phía Tây được cải tạo thành Hùynh văn Bánh, cái tên ông quên thì thôi mà hễ nhớ thì lòng cứ ấm ức mãi … Ông lần trong trí để moi ra vài danh nhân đã bị đổi tên đường rồi lấy bút màu ra ghi chú: Đây rồi !

    Con đường này trước là của danh tướng Chúa Nguyễn là Trương Minh Giảng, người có công dẹp giặc Xiêm La, bắt người Xiêm phải triều cống các thổ sản cho đem về gây giống tại miền Nam như chuối Xiêm, Dừa Xiêm, Vịt Xiêm để mở mang kinh tế. Trương Minh Ký một học giả lỗi lạc có công phát triển chữ Quốc Ngữ phiên âm chữ nôm ra tiếng La Tinh, nhưng cả hai vị quan văn võ toàn tài này bị Cách mạng “thủ tiêu” thay bằng tên thợ điện khờ khạo hèn nhát Nguyễn văn Trỗi, đã bị Đảng lừa để gây tiếng vang là ra lệnh cho đem mìn đi khơi khơi ra góc cầu Công Lý toan tính gài ám sát Mac-Namara Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, giữa một lực lượng an ninh cảnh sát đông đảo. Nhưng sau Cách mạng thấy Mac-Namara ăn năn hối cải thì ngay lập tức ra lệnh khoan hồng cho thay Nguyễn văn Trỗi bằng một tên khác là Nguyễn văn Sỹ cho “vui lòng khách đến vừa lòng khách đi”.

    Ông ngao ngán vì càng tìm hiểu càng rối mù.

    Ông gấp bản đồ lại, thôi thì cứ từ từ.

    Nghề dạy nghề lo gì !

    Trong tháng đầu chạy xe ông thường nhờ khách chỉ dẫn. Ông cũng không biết một cuốc xe dài ngắn phải nói giá bao nhiêu cho phải nên cũng tuỳ vào lòng độ lượng nơi khách. Gặp ai, ông chỉ biết nói: “Ông bà anh chị thường đi bao nhiêu xin cho tôi bấy nhiêu”.

    Tuy nhiên, vì tình trạng kinh tế chung cả nước đang gặp khó khăn, chung quanh ai cũng nghèo đói, cần phải tính toán chi ly từng đồng từng cắc nên hiếm khi ông gặp được mối khách xộp. Còn một trở ngại to lớn nữa là ai thường dể động lòng trắc ẩn, nhân từ thường ái ngại khi ngồi lên xe cho ông đạp, nhất là những cô học sinh còn trẻ. Đã mấy lần ông mời nhưng khách lắc đầu, rồi sau đó vẫy xe khác… Gương mặt trí thức sáng sủa vầng trán cao với đôi kính nhốp trong hình hài mảnh khảnh và lời nói hiền lành nhỏ nhẹ lễ độ từ tốn, một thói quen của con nhà giáo đôi lúc lại hại chính ông, do đó, lợi tức thu hoạch hàng ngày của ông luôn kém so với đồng nghiệp.

    Chạy xích lô cả năm mà hàng xóm vẫn chưa biết nên Công an khu vực cũng không hay, họ tưởng ông là Công nhân viên. Vào lúc bất chợt gặp ai quen trong xóm, ông giật mình như bị chạm điện, kéo mũ xụp xuống ngay, đồng thời quay phắc hướng khác … phần sợ, phần ngượng!

    Không có nghề nào hèn, nhưng ông phải sợ, vì không sợ không xong với chính quyền địa phương. Hơn nữa, phải chi ông không có học, không vì sĩ diện thì nỗi sợ hãi sẽ bớt đi …

    Nắng đã lên cao, ngoài đường bụi đang bay mù mịt. Ông tà tà đạp xe ngang qua một khu chợ. Thường trong giờ làm việc lẽ ra phải thưa người nhưng ông thấy hầu như mọi người ai cũng túa ra đường ra chợ tìm kế sinh nhai. Muốn sống dưới XHCN con người phải ra “đứng đường”; phải có tài mánh mun, phải có khả năng xoay xở lương lẹo làm đủ thứ nghề.

    Tóm lại, ai cũng rõ một điều là phải biết lấy gian trá làm khôn ngoan. Nhan nhản trên hè phố, ông thấy có nhiều người hành nghề buôn bán rất lạ lùng chỉ có dưới chế độ XHCN chẳng hạn như: bơm mực, bơm quẹt Gas, đắp vỏ xe … Còn nhiều dịch vụ sửa chữa, và buôn bán linh tinh đủ mọi thứ trên đời, kể cả việc thu mua giẻ rách …

    Trong chợ, ngoài các cửa hàng Quốc Doanh ra thì các sạp tiểu thương đều thưa thớt, nhiều sạp bỏ trống. Bạn hàng không chịu vào chợ ngồi bỏ sạp ra đứng ngoài chợ trời mua chui bán lủi vì không chịu được tiền thuê sạp cứ tăng dần, tiền thuế không có định mức tiêu chuẩn rõ rệt, tiền hối lộ cho Cán Bộ ngành Thương Nghiệp, Quản Lý thị trường, thuế vụ, Công an … Bao nhiêu tiền bán buôn lời lãi được đều dồn vào miệng Cán Bộ, ai mà chịu nổi...

    Ông tìm một góc chợ cho xe đậu, bước xuống ngồi thụt lõm vào băng ghế trước của khách kín đáo quan sát nghe ngóng hoạt cảnh bát nháo đang diễn ra trước mắt. Dọc bờ tường bên hông chợ có kẻ khẩu hiệu: “Chủ Nghĩa Mac -Lenin vô địch muôn năm” là nơi mọi người túm năm túm ba tụ tập từng nhóm. Công an đến họ tan ra, Công an đi họ tụ lại…

    Có một cái áo cũ do một người nào đó túng quẩn đem bán với giá mười đồng. Chỉ vài phút sau, người mua sang tay một con buôn khác với giá mười lăm đồng, rồi cứ thế luân chuyển sang tay từ người này sang người khác giá cứ tăng dần hai muơi đồng, ba mươi đồng, cho đến cuối ngày cũng cái áo cũ ấy giá đã thành năm mươi đồng. Trong quá trình mua bán chiếc áo ai cũng kiếm lời. Nhưng nếu có hỏi chiếc áo cũ ấy liệu có ai mua về mặc hay không thì không ai biết. Mọi người chỉ rõ một điều là chiếc áo được các người mua bán truyền tay nhau như một phương tiện sinh nhai nhờ chênh lệch giá giữa một thị trường tự do không có cạnh tranh. Chiếc áo cũ mèm ấy có khác gì việc xây dựng chủ nghĩa Xã Hội đang vào thời kỳ quá độ, kinh qua tư bản …? …Càng nhìn càng ngao ngán !

    Nhìn mãi đâm chán, ông lại tiếp tục lên đường và bỗng ông nghiệm ra một điều chạy xe xích lô dù vất vả tấm thân nhưng lại hay, lại giúp lương tâm ông thanh thản, theo đúng bản tính con người lương thiện và hợp với sở nguyện của ông. Dù một năm chạy xe ông vẫn chưa học được mánh khoé nghề nghiệp, vẫn chưa rành đường, vẫn còn ngại chỗ đông người nơi chợ búa bến xe, vẫn còn là tay mơ trong nghề … Nhất là ông chưa biết níu kéo mời chào kỳ kèo giá cả hay nói thách, nhưng ông vẫn không cho đó là việc cần thiết. Ai gọi xe ông chở, không có khách ông tà tà thong dong tìm đạp trên những con đường có hai hàng cây rợp mát như những ngày còn thư sinh dạo phố…Trên những con đường xưa ông vừa đạp xe đi vừa thả hồn tìm về kỷ niệm khi ngang một ngôi trường áo trắng, nơi đã có một thời ông từng ấp ủ nuôi dưỡng một tình yêu ..! Tưởng tượng ra lúc ấy trước mặt hình ảnh những tà áo đang tung bay trong gió, những ánh mắt nụ cười dưới nắng xuân. Ôi ! một thời xuân sắc, hỡi người áo trắng năm xưa nay đã trôi giạt phương nào.

    Khi nắng lên cao, đôi chân đã mỏi, ông tìm đến một chôn yên tĩnh thường đó là một con đường ít người qua lại, dưới một gốc cây với cành lá xum xuê hay một công viên về trưa vắng vẻ cho xe vào nghỉ…

    Ngồi vào xe, lôi trong bọc ny lông ra một gói thuốc rê vê vê vấn vấn. Lấy bình đông ra chiêu một hớp trà lạnh. Bật lửa rít một hơi thuốc thả khói lên bầu trời xanh, rồi lôi ra một quyển truyện nào đó lật ngay ra khúc giữa gặp trang nào là đọc ngay trang đó bất kể đầu đuôi. Đọc được vài trang ông gấp sách lại rồi trầm tư tự đoán xem tác giả đã nói gì nơi phần đầu và sẽ nói gì vào phần cuối. Trúng hay sai không là vấn đề mà vân đề ông muốn thử đặt mình vào cương vị tác giả sẽ nghĩ gì viết gì cho nhân vật. Và với lối đọc đó qua ngày khác ông lại giở sách ra nơi trang khác rồi dựa đó lại đoán non đoán già đầu đuôi cốt chuyện nhưng không bao giờ ông kiểm chứng kết quả công việc mình đoán … Có người cho rằng tính tình ông lập dị, ông chỉ cười xòa rồi nghĩ thầm trên đời này ai mà chẳng dị biệt, vì có ai giống ai đâu ! Chiều xuống, ông giao xe trả chủ cho người chạy ca tối, lấy xe đạp, đạp về nhà. Trên đường về nhà, thỉnh thoảng gặp ngày hên đắt khách ông tạt ngang chợ mua ít thịt bò hay chả lụa, thịt quay về tẩm bổ. Ông chỉ ăn cơm nhà với vợ con vào giấc chiều còn ban trưa thì bạ đâu ăn đấy cơm hàng cháo chợ…

    Ông đã yên lòng về cuộc sống tuy vất vả nhưng tràn ngập hạnh phúc gia đình. Trước khi về đến nhà ông đã biết trước vợ ông và thằng con út ra đầu ngõ đón ông. Trong nhà cơm nước đã sẵn sàng …và sau khi ông tắm rửa sạch sẽ, cả nhà quây quần bên bữa cơm thanh đạm nghe ông kể chuyện, mỗi ngày mỗi chuyện khác nhau mà ông được thấy trong ngày.

    Bù vào niềm vui tinh thần ngày một lên cao thì thể xác ông ngược lại ngày một tàn tạ. Ông đã phải bán sức lao động, đổi bát mồ hôi lấy bát cơm cho bốn miệng ăn nên ông ngày càng gầy rạc khiến vợ ông lo nên cố khuyên ông chạy ít thôi nhưng ông có nghe đâu ! Bạn ông biết tình trạng ông lao lực quá độ không tốt nên tỏ ý giúp đỡ giới thiệu ông vào làm công cho “Quầy thịt Thanh Niên”. Ông không muốn nhúng tay vào máu, ngày ngày giết heo nên tìm cách từ chối.

    Người khác chỉ đường cho ông đi buôn lậu thuốc lá. Ông ngại ngần vì sớm muộn cũng bị bắt mất vốn. Người bày ông chạy mánh móc nốì Hải Quan lại hàng nhà nước tịch thu của nước ngoài gửi về cho thân nhân. Ông chỉ im lặng vì không quen luồn cúi và nghĩ không ai sống mãi được với nghề mánh mun lường gạt sẽ có ngày bị bắt. Ra chợ trời, nơi đầy dẫy gian trá, những kẻ sống bám vào đó chuyên bắt bí, lừa bịp những người nghèo, đó là việc làm bất nhân. Có kẻ cười chê ông không thức thời, sống gàn dở. Ông cũng chỉ biết im lặng, ngày ngày sau những lúc khó nhọc vất vả khi về nhà tìm lại được nguồn an ủi thương yêu nơi vợ con, được sống cuộc đời êm ấm bên gia đình, với ông đó là một hạnh phúc chân chính.

    Chạy xe long nhong ngoài phố dù sợ gặp người quen trong xóm nhưng cũng vui được gặp lại nhiều bạn cũ. Qua xã giao thăm hỏi ông biết chẳng ai khá cả, cũng nghèo khổ rách nát như ông. Nhờ chạy xe ông cũng biết được nhiều chuyện lạ giữa một xã hội thượng vàng hạ cám. Từ một bà vợ thuê xe đi lòng vòng tìm các quán bia ôm đánh ghen, một cô gái giang hồ bao xe đên các điểm hẹn tiếp khách. Từ một bà nhà quê hôi hám, đến một thiếu phụ xinh đẹp nước hoa thơm phức. Một cô sinh viên tươi trẻ, một đôi tình nhân nồng nàn; một ông già bệnh lao ho khù khụ, một gã say rượu ,một bạn hàng …

    Tất cả loại người trong xã hội đều đã ngồi vào xe ông ra giá và biểu ông chở họ đi theo con đường họ muốn. Mọi quyết định ở họ chứ không nơi ông !

    Một hôm như mọi ngày vào giờ tan sở ông đang trên đường về nhà. Khi chạy xe ngang qua một “Cửa hàng Kim Khí điện máy”, bỗng có một người từ trong chạy vội ra ngoắc ông. Ông định lắc đầu từ chối nhưng chỉ một tích tắc ông đổi ý vì tiếc cuốc xe nên kéo cần thắng cho xe áp vào lề ngừng lại. Bà khách chạy lại kêu ông theo bà vào chở cho một ít hàng. Ông bước vào trong cửa hàng thấy toàn là thùng với thùng mới toanh chưa khui đã xếp gọn gàng. Nhìn nhãn hiệu biết đó là ruột xe Honda, ruột xe đạp và các phụ tùng đùm, căm …

    Bà kêu ông khiêng hàng ra xe chở về cơ quan. Ông nhìn thoáng trên tay bà đang cầm cuốn “Sổ mua hàng” biết đây là Cán Bộ hậu cần hay tài vụ của cơ quan nào đó ! Ông hỏi “Cơ quan nào?”. Bà trả lời cộc lốc “chạy theo tôi”.

    Sau khi chất hàng xong xuôi ông chạy theo xe Honda dame của bà. Xe chạy hết ngã tư này quẹo trái sang ngã tư khác rồi quẹo phải, chạy qua năm bảy ngã tư mất độ nửa giờ và sau cùng mới trên đường hướng về Chợ Lớn đến một con hẻm bà kêu ông chạy sâu vào đến cửa sau một nhà hàng thì ngừng ngay nơi đã đậu sẩn một xích lô khác và có hai thanh niên người Hoa đi xe Honda 67 chạy vội lại cùng với bác xích lô xúm lại khiêng hàng từ xe ông chuyển sang chỉ mất vài giây là xong .

    Bà hỏi “ông ăn bao nhiêu?”. Ông lúng túng không biết nói giá nên nói đại “một trăm đồng”. Bà khách móc bóp trả ngay không hề kỳ kèo một tiếng, rồi lên xe đạp máy bỏ đi …

    Hôm ấy ông về nhà muộn hơn thường lệ, thỉnh thoảng ông có về muộn nên đã dặn hờ vợ là sau 6 giờ không thấy ông về, nhà cứ ăn cơm trước khỏi để phần vì ông đi nhậu với bạn bè. Lần này ông cũng về hơi muộn, thấy ông không có hơi rượu vợ ông ngạc nhiên chưa kịp hỏi, ông lôi ngay câu chuyện ra kể. Trong bữa cơm ông tuyên bố mai chỉ chạy buổi sáng đến trưa thôi, và sẽ về đưa vợ con đi Sài Gòn sắm sửa quần áo rồi cả nhà vào Chợ Lớn ăn mì vịt tiềm ở Hải Ký. Ông đã không còn sợ phải giấu giếm xóm giềng hay Công an về chuyện ông chạy xe Xích Lô vì ông đã được nhập Hộ khẩu tháng trước… và sau đó ông cũng dành dụm mua riêng cho mình một chiếc xe không cần phải mướn nữa.

    Cả nhà đêm ấy tràn ngập hạnh phúc …

    Thường việc gì có ăn thiên hạ tràn ra đông, do đó, xe xích lô được đóng thêm và thêm nhiều người hành nghề.

    Phần ông, sức khoẻ càng ngày càng kém, chạy ít giờ hơn nên lợi tức chỉ bằng nửa lúc trước. Vợ thấy ông gầy rạc và người đen như củ súng, thỉnh thoảng đêm đêm nghe ho khù khụ mới mở lời khuyên ông chỉ chạy nửa buổi thôi, còn nửa buổi đem xe cho thuê. Tính ra nhà cũng đủ ăn và nhớ là bỏ hút thuốc tránh dầm mưa dãi nắng …

    Trầm ngâm một lát, vợ ngỏ ý xin ông cho ra tủ thuốc lá đầu ngõ ngồi bán kiếm thêm.

    Ông cười ôm lấy vợ trấn an .

    - Anh còn khoẻ như trâu ! Thấy anh gầy vậy chứ dai sức lắm ! Lúc đi tù lao động còn vất vả nặng nhọc hơn nhiều mà lại thiếu ăn mà có sao đâu. Em là cô giáo ra ngồi đầu đường bán thuốc lá không sợ học trò nó cười cho à !

    - Em “mất dạy” lâu rồi ! từ ngày anh đi tù em có còn được đi dạy, còn là cô giáo nữa đâu ! vả lại thời buổi này mà anh! Nhiều cô giáo sau giờ dạy còn mang quà bánh ra bán ngay tại lớp cho học trò nữa kia ..!

    - Khuyên chồng cai thuốc mà vợ bán thuốc thì không thể cai được. Hay là để anh cai trước cho dứt hẳn cơn ghiền rồi em ra bán sau cũng không muộn. Nếu không, em bán lời lãi bao nhiêu cũng chỉ để anh hút mà thôi.

    Ông nói thế chứ ông nào cai thuốc được, đời thường vẫn lặng lẽ trôi… Nhưng rõ khổ thân ông ! muốn sống như là một công dân lương thiện thượng tôn luật pháp cũng không được …

    Một hôm thông báo của sở Giao thông vận tải Thành Phố HCM buộc các xe xích lô phải vào hợp tác xã và tài xế phải có giấy đăng ký hành nghề để nhà nước quản lý vấn đề giao thông phân phối nắm vững địa bàn hoạt động trong việc điều hành giao thông …

    Ông là người quen sống theo nếp nên vừa nghe thông báo đã vội vàng ra đăng ký theo luật định .

    Việc đời không đơn giản như ông tưởng.

    Sau nhiều ngày đi lên đi xuống Phường, ông mới được Công an chứng nhận lý lịch rồi cho xe ra phường xin đăng ký vào hợp tác xã. Ông Chủ nhiệm hợp tác xã vốn là một tay du đãng trong xóm nay đã hoàn lương vì chỗ hàng xóm nên rất vui vẻ nhiệt tình chấp nhận ông vào HTX ngay và báo cho ông biết là hàng tháng phải đóng thuế điều hành cho ban HTX với số tiền nhà nước quy định cho mỗi đầu xe. Ai làm ra bao nhiêu tiền không cần khai báo. Ông chấp nhận đóng tiền xe cho HTX như một cách đóng hụi chết cho nhà nước … Nhưng rõ là cho xe vào HTX là một chuyện, muốn hành nghề hay không là chuyện khác là phải lên Quận xin giấy hành nghề. Không có giấy hành nghề là phạm pháp, gặp Công an giao thông xét không có sẽ giam xe, có khi giam cả người.

    Nhiều đồng nghiệp đăng ký sau ông đã có giấy hành nghề, Ông vẫn phải chờ đợi. Hỏi thăm chỉ khiến cô thư ký bực mình hạch xách lôi thôi đủ thứ, nói “chờ là chờ, khi nào xong thủ tục sẽ báo cho ông”. Ông hỏi khi nào xong thì cô gắt cứ hỏi vớ vẩn lôi thôi. Hiện có cả trăm ngàn người đăng ký nào có phải mình ông đâu, cán bộ cần phải có thời gian giải quyết từ từ chứ ! Ông có biết đâu rằng thủ tục “đầu tiên” ông chưa lo thì làm sao đơn đăng ký cúa ông được cứu xét. Ông vẫn nhẫn nại chờ một việc chẳng bao giờ đến!

    Gần một tháng ông không dám ra xe vì trên đường phố Công an giao thông tràn ra bắt giữ nhiều xe không đăng ký vào Hợp Tác Xã và phạt tù những người hành nghề bất hợp pháp. Ông lo ngại nhưng cả nhà chỉ biết trông vào cái cần câu cơm là chiếc xe đã bị bỏ xó gần tháng. Được một đồng nghiệp mách nước là cứ ra xe, hễ gặp Công an nhờ khách nói là chở người nhà nhưng ông có biết đâu Công an nó lưu manh hơn. Ai nói thế nó cho khách ra một nơi tài xế một chỗ tra hỏi nếu lòi ra gian dôi nó bỏ tù thì đói … Đã nhiều người bị rồi nên ông không dám. Ông chỉ còn mỗi việc liều là cứ chạy nếu bị thổi thì hối lộ là xong, và ông thấy cách này nhiều đồng nghiệp đã làm và có kết quả tốt. Nhờ sự thông cảm và dễ dãi nhận tiền của Công an nên ông cho xe hoạt động trở lại… Bếp nhà ông lại ngày hai bữa được đỏ lửa …và ông dược trở lại với đường phố với bụi đời dù nay vất vả khó khăn hơn vì ngoài bốn miệng ăn gia đình, ông còn phải nuôi thêm HTX và Công an giao thông cho đúng chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm …!!

    Cuộc sông cứ thế kéo dài thêm nửa năm.

    Cho đến một ngày kia bầu trời chuyển bão mưa lất phất, đang đạp xe trên đường ông cảm thây đau nhói nơi hạ bộ nên cho xe về sớm. Đêm đó ông lên cơn sốt dữ dội, vợ hoảng hốt vội gọi xe đưa ông vào nhà thương. Sau khi thử nước tiểu, bác sĩ xác định ông bị bệnh tuyến tiền liệt cần phải cắt bỏ bộ phận sinh dục ….

    Vợ ông phải kêu người bán xe lấy tiền trị bệnh thuốc thang cho ông đến lúc hết sạch tiền thì may mắn thay sức khoẻ ông hồi phục được. Bác sĩ cho xuất viện, nhưng mãi mãi từ đó ông chỉ sống như một phế nhân …

    Vợ ông lại phải thay ông ra chợ trời, trên tay với cái áo cũ mua đi bán lại sống đắp đổi qua ngày cho đến một hôm ông trở bệnh qua đời. Thân xác ông được đưa vào lò thiêu bên Phú Lâm và tro cốt đem vào chùa Xá Lợi, nơi xưa kia ông thường ra đó đứng trông vời áo tiểu thư …



    Sơn Khê
    Source: "https://baovecovang2012.wordpress.com"


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X