Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Người lính làm thơ mang bút hiệu Trạch Gầm

Collapse
X

Người lính làm thơ mang bút hiệu Trạch Gầm

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Người lính làm thơ mang bút hiệu Trạch Gầm

    NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ MANG BÚT HIỆU TRẠCH GẦM

    ĐINH LÂM THANH


    Nhà thơ Trạch Gầm

    Tôi yêu Trạch Gầm cả Thơ lẫn con Người. Những gì anh viết, chính là niềm đau của một người lính phải tức tưởi buông súng đầu hàng, chính là uất hận của một kẻ phải bỏ nước ra đi sau những năm tháng tù đày và cũng chính là nỗi xót xa đối với đồng đội đã một thời gắn bó với anh. Tôi yêu con người, vì anh thật xứng đáng một cấp chỉ huy, tuy sống dưới chế độ tự do nhưng không bao giờ anh quên những người bạn sống chết với nhau đã nằm xuống hay còn kẹt lại ở quê nhà. Đời binh nghiệp của anh thật khiêm nhượng với vài ba ‘mai vàng’ dừng lại trên vai, nhưng trong lồng ngực của anh, mãi mãi là một trái tim vĩ đại mà anh đã trân trọng dành cho đồng đội đã hy sinh cho màu cờ tổ quốc và những phế nhân còn sống sót dưới chế độ cộng sản.

    Anh xứng đáng ngửng mặt lên khi nhìn lại những cấp chỉ huy lớn, những ‘vì sao’ đã rụng xuống ‘boong’ tàu của hạm đội Mỹ trước giờ mất nước! Rồi 34 năm nay họ đã làm được gì cho đồng đội, thương binh, cô nhi quả phụ cũng như cho quê hương và dân tộc! Và cứ mỗi năm, vẫn áo mũ chỉnh tề nhắc lại chiến công một thời vang bóng. Nhưng có mấy vị nhớ đến thuộc cấp của mình là những người đã hy sinh xương máu để đem lại những huy chương hiển hách trước ngực cũng như những ngôi sao lấp lánh trên cổ áo!

    Nhắc đến Trạch Gầm là nói đến con người của tình cảm, luôn nặng tình với quê hương, ray rứt cho cuộc chiến và ấm ức vì đầu hàng… tất cả những trăn trở đó đều chất chứa trong thơ của anh. Đọc thơ Trạch Gầm độc giả nhận ra ngay trong con người anh là một khối tình gắn bó thiết tha với đồng đội, là ân sâu nghĩa nặng đối với bạn bè, là những người đã nằm xuống hay bị lãng quên dưới chế độ cộng sản.

    Cách đây hai năm, tôi gặp Trạch Gầm trong một ngày nắng ấm tại quán café Tip-Top trên đường Westminster, Sàigòn nhỏ, Cali. Anh đọc cho nghe bài thơ ‘Lời Trước Nghĩa Trang’. Chưa dứt bốn câu đầu, anh đã bật khóc và làm tôi phải khóc theo trước ngạc nhiên của số thân hữu bạn bè. Thật khó tưởng tượng nổi, hai người đàn ông 65 và 71 tuổi đã khóc như một đứa trẻ khi nhắc đến những người bạn đã nằm xuống. Rồi hình ảnh Trạch Gầm với những giọt nước mắt bên tách càfé vẫn ngày đêm ám ảnh và gây xúc động mỗi khi tôi cầm cuốn Vụn Vặt trong tay.

    Những lời thơ viết về tình đồng đội của anh đã kéo ký ức tôi trở lại quảng đời dĩ vãng mà trong thời Mậu Thân 1968, tôi đã sống trọn vẹn với những người lính thuộc trung đội tác chiến tại vùng rừng núi Quảng Đức. Những người bạn nầy đã ra đi nhưng họ vẫn sống mãi bên tôi và phù hộ cho tôi còn sót đến ngày hôm nay. Tôi xin mượn mấy câu thơ của Trạch Gầm để tưởng niệm những người lính đã nằm xuống:

    Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến
    Được cái hơn mầy nhìn thấy đau thương
    Đành làm người ngu đổ thừa vận nước
    Uổng cả tháng ngày gối đá nằm sương

    (Lời trước nghĩa trang)

    Cũng từ bài thơ nầy Trạch Gầm gởi đến với những người đã nằm xuống chân dung của anh trong những ngày tháng vô vị nơi quê người.

    Mầy đã hơn tao vì mầy đã chết
    Hưởng chút lễ nghi hưởng chút ân cần
    Có được người thân cho lời nuối tiếc
    Còn tao bây giờ sống cũng như không

    (Lời trước nghĩa trang)

    Kỷ niệm để đời với Trạch Gầm là tuyển tập Vụn Vặt, cuốn thơ vừa lấy từ nhà in chưa ráo mực, anh đã biếu tôi và từ ngày đó đến nay tôi vẫn chưa đọc xong. Mỗi lần cầm cuốn thơ lên vừa nghiền ngẫm vài giòng thì tôi bị cuốn vào tâm trạng của tác giả…đau buồn cho vận nước, xót xa vì cuộc chiến và tiếc thương những người bất hạnh, rồi nước mắt tôi cũng xóa mờ những giòng chữ. Đa số thi nhân thường mượn các đề tài tình yêu nam nữ để tìm nguồn cảm hứng sáng tác nhưng trên 100 bài thơ trong tuyển tập Vụn Vặt, Trạch Gầm đã dành gần như đa số bài để nói về những gắn bó về tình huynh đệ, tình cảm của người trai thời chiến và để tưởng niệm đến đồng đội đã ra đi…

    Những ai đã sống chết với đồng đội, đã cùng băng rừng lội suối, ngày đêm truy lùng địch thì mới cảm thông được tình thương gắn bó với nhau. Cuộc đời người lính chiến không có gì quý hơn ngoài chiếc ba lô độc nhất trên người, tấm ‘pông-sô’ thay mái ấm gia đình và việc kết nghĩa anh em đồng đội như tình thân ruột thịt. Họ là những người trai thời chinh chiến, hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc non sông, thương tật, sống chết không biết sẽ đến bất chợt bao giờ. Đối với họ trên đầu là tổ quốc, trước mặt là kẻ thù, hai bên là đồng đội và sau lưng là chiếc ‘băng-ca’ hay cổ quan tài đang chờ sẵn ! Hãy nghe Trạch Gầm viết về số mệnh:

    Một thoáng theo mây rơi dài nước mắt
    Khóc nỗi bạn bè…lưu lạc bốn phương
    Thằng mất thằng còn – Nổi trôi vận nước
    Giọt ngắn giọt dài ướt đẫm quê hương

    (Vụn Vặt)

    Những ai đã qua đoạn đường gian khổ với những lúc hành quân, lội sông, bằng rừng, vượt núi trong rét mướt, trong đói khát, trong gian khổ, ngày đuổi giặc, chiếm mục tiêu, đêm ngủ ngồi ngay tại hố cá nhân để chờ địch thì mới thấm thía được những cảnh

    ‘Bi-đông’ nước bùn chia sẻ
    Gói mì nhai vội chuyền tay
    Chuyển nhau điếu thuốc cháy dở
    Sống chết biết giờ nào hay

    (Cho nhau, Thơ DinhLamThanh)

    Để rồi từ đó những người con yêu quý khắp mọi nẻo đường đất nước đã trở thành anh em ruột thịt một nhà. ‘Pông-sô’cùng ngủ, cơm chung nón sắt, nước một bi-đông, miếng khô chia đôi thì việc đùm bọc sống chết với nhau vẫn là một cái gì thiêng liêng của những người khoác chiếc áo trận.

    Em còn chia xẻ cùng anh
    Nỗi xót xa tự ngọn ngành đau thương
    Vẫy tay giã biệt chiến trường
    Một ngày cũng đủ cô đơn suốt đời

    (Hỏi)

    Đối với bạn bè còn sống, Trach Gầm đã giải bày tâm sự về những năm tháng nơi đất khách quê người:

    Mầy hỏi tao bây giờ sống ra sao
    Cơm áo tha phương có phải nghẹn ngào
    Gần mười năm tù còn in trong trí
    Hay…cháy rồi giữa đất rộng trời cao…

    Tao gởi về mầy một trang giấy trắng
    Thật lao đao mầy cứ tự vẽ vời
    Nơi tha phương trăm hội đoàn yêu nước
    Tao ngu ngơ…không biết khóc hay cười

    (Trả lời)

    Rồi những đêm mưa vùng Cali, anh trăn trở như hổ nhớ rừng:

    Mầy nhìn mưa mầy nhớ gì không hở ?
    Tao nhìn mưa tao cứ mãi nhớ rừng
    Rừng của quê hương những ngày khói lửa
    Tao, bao năm dài cặm cụi hành quân

    Mầy nhìn mưa…mầy nhớ gì không nhỉ
    Tao nhìn mưa…Tao nhớ quá bạn bè.

    (Từ cơn mưa dài)

    Và cái ‘đau’ của anh vẫn vây quanh cuộc sống:

    Tao bây giờ không tiền mua rượu uống
    Mà vẫn say…say ngút với nỗi buồn
    Nhìn thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước
    Mấy chục năm ròng – Nước vẫn tang thương!

    (Nói với bạn bè)

    Mầy có tin không quê hương đã mất
    Giữa lúc bọn tao nguyên vẹn hình hài
    Đâu thuở quân trường đâu thời huấn nhục
    Để nhận lấy ngày khốn nạn hôm nay

    Một lũ đàn anh tan hàng cuốn gói
    Bỏ mặc bọn tao đứng khóc dưới cờ
    Món nợ tang bồng bao giờ trả nổi
    Mất cả sơn hà cứ tưởng như mơ

    Giờ chẳng dám nhìn ngay vào mắt Mẹ
    Cũng chẳng đủ lời tâm sự cùng Cha
    Đành đến thăm mày những thằng đã chết
    Ngày…quê hương còn lắm nỗi thiết tha

    (Lời trước nghĩa trang)

    Ít thấy anh đề cập đến tình yêu đôi lứa cũng như những mộng mơ tuổi trẻ, mà nếu có, anh cũng mượn những mối tình vụn vặt để nói về thân phận đau thương đất nước cũng như những mất mát thời chiến tranh:

    Anh có mẹ gì đâu mà để tặng
    Một món quà sinh nhật cho em
    Gặp gỡ thôi…dăm ba lần thất hẹn
    Còn nhớ ngày anh còn tỉnh…chưa điên

    Là thằng lính cứ rày đây mai đó
    Có nhớ thương, cũng đỏ mắt phố phường
    Chiếc võng tòn teng ôm đời chinh chiến
    Có em vật vờ đở bớt cô đơn

    (Quà sinh nhật cho người yêu)

    Viết về Trạch Gầm mà không nhắc đến những chữ Đ.M. trong thơ của anh thì thật thiếu sót. Một vài người cho rằng nghe không được êm tai qua hai bài thơ :
    Đọc thơ mầy…

    Đ. M, tao buồn muốn khóc
    Tao chẳng còn là tao, tao chẳng nên người
    Mấy chục năm rồi tao lạc lõng chơi vơi
    Dù trước đó
    Tao có triệu anh em chung màu áo trận
    Tàn cuộc chiến…
    Hình hài tao nguyên vẹn
    Mười năm tù xem tựa giấc chiêm bao
    Tao còn tay còn chân. Còn nỗi tự hào
    Chỉ tội cái…mang ước mơ lần lựa
    Cứ chờ đợi Ai cho tao nhúm lửa
    Nơi tha phương tao hốt toàn tro tàn
    Tro bụi từ quá khứ vinh quang
    Đến nỗi đầu óc tao ung què, tao chẳng hề hay biết

    Đọc thơ mầy
    Đ. M. tao buồn muốn chết
    Nơi quê hương mầy hào khí ngút trời
    Nơi tha phương…Tao cũng có lắm người
    Yêu nước thật thà, thật thà yêu nước
    Rắn không đầu, mạnh thằng nào nấy thét
    Ngày cứ tàn, đất nước cứ tan thương
    Hai chữ tự do sấp ngửa đoạn trường…
    Tao ôm chặt lội qua ngày khốn đốn
    Mầy cần súng mà tao không có súng
    Nỗi nghẹn ngào nầy mới chết mẹ tao
    Cám ơn mầy
    …Ừ thì cũng dù sao
    Nhờ mầy thét Trăm hồn sông núi thức

    (Đến cùng Nguyễn Cung Thương)

    Những ai đã sống đời quân ngũ, sống chết với đồng đội thì mới cảm nhận hai chữ Đ.M thoát ra từ miệng của người lính. Đối với người Miền Nam, hai chữ nầy không có nghĩa là một câu chưởi thô tục mà trong thân tình giữa bạn bè thường được xử dụng một cách thân thương. Tôi còn nhớ rõ câu nói của một đệ tử cũng như người bạn, người em theo sát tôi trong các cuộc hành quân. Một đêm trong rừng Quãng Đức, anh vén tấm ‘pông-sô’ chui vào hỏi tôi:

    - Đ.M. ông thầy húp canh không ?”
    Tôi hỏi lại :
    - Đ.M. canh gì đó mầy ?”
    - Thì Đ.M ! Canh nước mưa với bột ngọt chớ có gì nữa !”
    ‘Ca’ (ly bằng nhôm của lính) canh nóng thật ngon, chỉ có nước mưa pha với bột ngọt nhưng tôi thấy ấm bụng và cái mặn mà đang chạy vào tim phổi ruột gan, không biết vì bột ngọt hay chữ Đ.M. thân thương nằm trong chén canh của người lính !

    Nhưng một trường hợp khác, Trạch Gầm lại xữ dụng hai chữ Đ.M, để chưởi cha bọn cộng sản. Tôi biết anh không còn ngôn ngữ nào để diễn tả nỗi uất hận trong lòng, dù hai chữ Đ.M. nầy thật đúng nghĩa và hợp thời nhưng vẫn chưa lột hết ý nghĩa để chưởi bọn bán nước cướp của, hại dân hại nước, đem giang sơn bán cho Tàu cộng:

    Đ.. má, cho tao chưởi mầy một tiếng
    Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu
    Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng
    Đảng của mầy, chết mẹ… đảng tào lao

    Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng
    Cầm súng làm gì… chẵng lẽ hiếp dân
    Tao không tin lính lại hèn đến thế
    Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm

    Mầy vỗ ngực. Anh hùng đầy trước ngỏ
    Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin
    Môi liền răng à thì ra vậy đó
    Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh

    Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước
    Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu
    Thân phận mầy cũng là Lê là Nguyễn
    Hà cớ gì…. mầy hèn đến thế sao

    Chuyện mầy làm Toàn Dân đau như thiến
    Mầy chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn
    Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi
    Cứ đà nầy… chết tiệt còn sướng hơn

    Đàn gảy tai trâu…. xem chừng vô ích
    Giờ mầy nghe tao chưởi còn hơn không.

    (Cho tao chửi mầy một tiếng)

    Tôi tin rằng những độc giả nào đã đọc thơ Trạch Gầm cũng sẽ Yêu Trạch Gầm như tôi vậy.

    ĐINH LÂM THANH
    Paris
    Last edited by khongquan2; 06-28-2014, 08:49 PM.

  • #2
    Người Lính làm thơ mang bút hiệu Trạch Gầm

    Cũng là một trong số những người yêu thích thơ của nhà thơ Trạch Gầm ..xin có đôi dòng về tiểu sử của nhà thơ mà tôi ái mộ ..

    Nhà thơ Trạch Gầm tên thật là Nguyễn Đức Trạch , sinh năm 1942 tại Saigon ..Là Cựu học sinh Võ Trường Toản..khóa 21 Trường BB TĐ , là con trai thứ ba trong một gia đình có 9 anh chị em , 4 trai 5 gái , trên nhà thơ Trạch Gầm là 2 chị gái , như vậy nhà thơ là con trai trưởng nam trong gia đình có Bác ruột là nhà báo Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận , cha là nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy và mẹ là Nữ văn sĩ bút danh là bà Tùng Long ( Lê thị Bạch Vân ) bà từng là giáo sư dạy Pháp Văn , Việt Văn cho các trường Les Lauries , Tân Thạnh , Đạt Đức..em trai kế là nhà văn Nguyễn Đức Lập ( Nam Cali ) , em trai út Nguyễn Đức Thông là nhà văn Nguyễn Đông Thức ( Saigon )..Cho dù chiến tranh phải xếp bút nghiên tòng quân nhập ngũ nhưng dòng máu thơ văn truyền thống gia đình , nhà thơ không ngừng sáng tác những vần thơ hay ..


    Ngày 26 tháng 4 năm 2006 , hay tin thân mẫu qua đời mà anh không về được để tiễn đưa người mẹ hiền về cõi thiên thu ! Anh viết bài thơ Lời gởi mẹ :

    Bây giờ trong cõi hư vô ấy
    Mẹ thảnh thơi rồi… có phải không?
    Giã từ đất nước bao hệ lụy
    Bỏ nỗi lo toan ngập cả lòng

    Rảnh rồi, Mẹ đến thăm đâu nhỉ
    Theo gót trăng vàng về phố xưa
    Con phố Hội An ngày thơ trẻ
    Yên bình, Mẹ nhặt lại ước mơ

    Tam Quan dâng mẹ bao niềm nhớ
    Rợp bóng dừa xanh ngát cuộc đời
    Đường quê tặng mẹ từng hơi thở
    Trang sách vỡ lòng… gói niềm vui

    Một lũ con thơ … đeo đẳng mẹ
    Chợ Gò Mỹ Thịnh giữa đồng chua
    Trường Sơn gồng gánh bao cơn bão
    Mẹ có sá gì giữa nắng mưa

    Phú Nhuận đèn vàng soi trang sách
    Nuôi con mẹ bày bán văn chương
    Ngày ngày nhìn lũ con khôn lớn
    Mẹ đổi nhọc nhằn… lấy tình thương

    Vài nơi… ắt mẹ rồi sẽ đến
    Cảnh chiến trường xưa quá chạnh lòng
    Nơi con cày giữa trời khói lửa
    Dấu buồn mẹ khép kín rưng rưng

    Một thằng Lôi Hổ, thằng Thám Kích
    Mẹ nhẩm thuộc từng mỗi địa danh
    Bạn con bao đứa mẹ biết mặt
    Gục xuống – tuổi đời xanh quá xanh

    Bây giờ trong cõi hư vô ấy
    Mẹ thảnh thơi rồi có phải không
    Giọt sầu mất nước giờ hóa đá
    Mây nước Quê hương cũng lạc dòng

    Trạch Gầm
    Last edited by dieuanhl; 06-28-2014, 01:28 PM.

    Comment


    • #3
      Trạch Gầm






      Có một người làm thơ đã cảm khái khi đọc xong tập thơ Trạch Gầm Thức dậy đi – cõi mộng ta

      Cuộc binh lửa chợt vỡ òa nỗi riêng
      Dấu giày trận đã trăm miền
      Trăng cổ sử vẫn còn nghiêng tháng ngày
      Tưởng thời súng khoác trên vai
      Mịt mù khói lửa dặm dài bước chân
      Mấy chục năm chuyện phù vân
      Giở trang thơ chợt tần ngần nỗi xưa…


      Thơ Trạch Gầm. Là quặng nguyên sinh cuộc sống hôi hổi hơi ấm nhân sinh. Thơ tha thiết bởi những nỗi niềm ấp ủ. Dù rằng, cuộc chiến đã qua mấy chục năm, nhưng trong ký ức, vẫn đầy ắp tâm sự. Trong ngôn ngữ, có hào sảng chiến sĩ. Trong vần điệu tràn dâng chất chứa tấm tình. Một người lính, sống lại thời binh lửa mình. Một người bạn, nhớ về đồng đội cũ, người còn kẻ mất, trong thơ đồng vọng nỗi nhớ thương. Thơ Trạch Gầm, thơ của thời chiến tranh đọc trong thời hậu chiến, như dong tay trở về thời đại cũ, năm tháng xưa. Thời gian đã qua, đã coi như mất biệt trong cuộc sống nhưng vẫn còn hiện hữu trong những người cảm khái giữa từng trang thơ. Có chút lành lạnh của đất trời len vào trong vần điệu tưởng tượng đến những ngậm ngùi thiên cổ, những giấc mơ của một thời thanh xuân đã tàn phai. Thơ không nuối tiếc nhưng đầy tràn cơn bão nội tâm dằn vặt.

      Là người tù sau ngày bại trận, tuy cam chịu số phận nhưng vẫn ngang tàng không đánh mất tư cách chính mình. Ở Hoàng Liên Sơn, vẫn ngất ngưởng tâm tư , vẫn thơ vút cao lên trên thân phận. Thơ như một xác định chỗ đứng:

      Lội suối băng rừng bao ngày mài miệt
      Có mỗi quê hương ta đánh mất rồi
      Nghe lời nhọc nhằn ta buông tay súng
      Đứng giữa quê Cha ta khóc đã đời
      Bây giờ nơi đây đất trời mù mịt
      Ta tròng vào ta trăm tội vô duyên
      Ngươi lải nhải đi- giáo điều mù tịt
      Ta vẫn là ta… nỗi nhớ triền miên
      Ta “kể” tội ra ta cười muốn chết
      Ngươi như thất thần có phải vậy không?
      Đúng là ta mà, ta dân Thám Kích
      Đã từng rượt ngươi mờ mịt núi sông
      Ta chỉ buồn ta , ta là dân Việt
      Hoàng Liên Sơn này đáng lẽ của ta
      Ngươi nói trăm điều: một điều không biết
      Ngươi là thá gì mà… cải tạo Ta?


      Những câu thơ, rồi những bài thơ, in đậm nét trong tôi những ấn tượng. Chia sẻ, có. Cảm xúc, có. Tôi hình tượng ra con đường mà thế hệ chúng tôi đã đi. Làm lính, làm người tù binh, làm người lưu lạc tha phương, chúng tôi hình như cùng nhau một mẫu số chung của dân tộc, của đất nước. Có khi chúng tôi mượn thi ca để nói lên nỗi niềm của riêng mình nhưng là đồng vọng của số đông cùng cảnh ngộ. Thơ có khi là một cách thế để sống còn, để qua đi những cơn bão giông thời thế. Tô Thức ngày xưa trong Nam Hành Tiền Tập Tự đã từng ví von rằng ông chỉ viết khi có những điều chất chứa trong tim trong óc nếu không viết ra như một giải tỏa tâm linh thì không thể nào chịu nổi. Không biết tôi có nghĩ quá không khi cũng cho rằng thơ của Trạch Gầm, lời của Trạch Gầm, thậm chí cả đến những tiếng chửi thề bộc trực trong diễn tả, cũng là kết quả của những điều tâm sự chất chứa trong tâm trong óc đến nỗi nếu không làm thơ viết ra thì cũng không thể chịu đựng nổi…

      Nguyễn Mạnh Trinh
      (http://vietmunich.blogspot.it/)
      Last edited by Hoanghac; 06-28-2014, 09:18 AM.

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X