Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Trần Hồng Châu: Một Đời Văn Chương, Những Trang Di Cảo

Collapse
X

Trần Hồng Châu: Một Đời Văn Chương, Những Trang Di Cảo

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Trần Hồng Châu: Một Đời Văn Chương, Những Trang Di Cảo

    Trần Hồng Châu:
    Một Đời Văn Chương, Những Trang Di Cảo

    ~~~



    Trong văn chương: Trần Hồng Châu, ngoài đời thường: Nguyễn Khắc Hoạch, hai danh tính ấy, chỉ là một: thi sĩ. Dù, nhà văn Trần Hồng Châu là chủ nhiệm tạp chí văn học nổi tiếng một thời Thế kỷ Hai Mươi, là tác giả của nhiều tập biên khảo, tùy bút. Và, giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã giữ chức Khoa Trưởng Đại Học Văn khoa ở Việt Nam trước 1975, cũng như là giáo sư thỉnh giảng của nhiều đại học nổi tiếng ở Pháp và Hoa Kỳ.

    Nhà văn Mai Thảo đã có một nhận xét xác đáng về văn chương của một thi sĩ, mà cũng là nhà giáo dục danh tiếng cũng như nhà biên khảo và viết tùy bút xuất sắc :

    “Đọc thơ và văn xuôi Trần Hồng Châu, tôi nghĩ tới hai điều trái ngược.Về một thời đã mất. Và một sự thể không bao giờ mất, bởi nó chẳng hề bị giam cầm trong giới hạn của một thời nào. Sự thể ấy là văn chương, nơi thơ văn Trần Hồng Châu.”

    Không biết ý của nhà văn chủ nhiệm tạp chí Sáng Tạo có phải là văn chương của tác gỉa “Thành Phố Trong Hồi Tưởng“ đã vượt qua được sự đãi lọc của thời gian? Nhất là, cái tâm vằng vặc của kẻ sĩ Đông Phương, trân trọng với văn học biểu lộ qua chữ nghĩa. Ông đã mất, đã khởi hành chuyến tàu đi vào miên viễn nhưng thơ văn vẫn sống, vẫn còn truyền sinh lực cho những lớp cầm bút đi sau. Chất trí tuệ lãng mạn, mà nguồn gốc cả từ Đông Phương lẫn Tây Phương đã làm sâu sắc thêm những suy tưởng, và thành chỉ nam cho những cuộc kiếm tìmtrong hành trình làm mới trong sáng tạo.

    Đọc “Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật”, để thấy cái tâm của một người đã hiểu được sự mông mênh của biển cả kiến thức. Dù là một nhà khoa bảng, dù là một người có đủ tư cách để bàn luận văn chương ở vị trí dẫn dắt. Thế mà, chỉ là “ dăm ba điều nghĩ “mà thôi. Nhan đề tác phẩm không có những liên tưởng đến những tư tưởng vĩ đại, những danh từ to lớn. Thế mà, đọc từng trang, từng chữ mới thấy là một đại dương tư tưởng, một tâm cảm sâu sắc đầy tính sáng tạo.

    “Chung cuộc chỉ còn lại dăm ba điều nghĩ, một vài xúc cảm và ấn tượng, hoàn toàn gắn bó với thẩm quan và nhiệt tình của một cá nhân sáng tạo văn nghệ, thân mật đi bên những người đồng điệu giữa một vườn hoa nhiều màu sắc. Với cả tấm lòng tha thiết hướng về Chân Thiện Mỹ. Với phong thái rộng mở của con người không muốn bị ràng buộc bởi bối cảnh, thiên kiến, nhóm phái hay ý thức hệ nào cả. Một con người mong mỏi được hoàn toàn thoải mái đuổi theo và ghi lại mọi vẻ đẹp rơi rớt trên giải đất trần gian mến yêu của tất cả chúng ta.

    Tất cả mọi vẻ đẹp. Vội vã, đam mê nắm bắt, ôm cho được nhiều, thật nhiều trong vòng tay hạn hẹp!

    Vội vã, bởi chúng ta đều biết cuộc đời ngắn ngủi và nghệ thuật thì vẫn là con đường muôn dặm, đường đi không tới! Đam mê, bởi Keats từng nói lên sự thực “Một vật đẹp muôn năm vui” Nghệ thuật và Đẹp là nguồn suối hoan lạc không bao giờ ngừng chảy. Đam mê, bởi trong những chiều tâm sự với Delacroix, bên cột đèn mờ ảo của Place Furstenberg, hay trong phòng tranh độc đáo của Constantin Guys, Beaudelaire luôn luôn chủ trương gạn đục khơi trong để chỉ nhìn , chỉ giữ lại phần tích cực, phần đẹp, tạm quên những gì mà theo một nhãn quan khác, có thể gọi là khuyết điểm nơi các tác phẩm (critique des beautés).

    Độc giả hãy cùng người viết khoan thai, nhẹ nhàng mở cửa vào vườn hoa của chúng ta. Tạm bỏ quên các hệ thống, các lý thuyết ở ngoài cửa. Không lý giải, không lý luận. Người viết tự coi đó chỉ là phong cách riêng của mình. Và biết rõ là trên văn đàn còn nhiều thái độ phê bình, nhiều cách thế, nhiều ý hệ khác nữa, khi đến với tác phẩm văn nghệ. Theo quan niệm nào, thái độ nào cũng có phần tích cực và xây dựng. Miễn là hăng say nhập cuộc, không thờ ơ nguội lạnh. Miễn là chân thành tìm hiểu, tất cả bởi và cho văn nghệ…”


    Như một bản tuyên ngôn, không có một thái độ dấn thân nào hơn thế nữa. Tất cả “bởi và cho” văn nghệ. Có nhiều con đường để đến chân lý và đứng ở đoạn đường này không thể phủ định hoặc chê bai con đường người khác đi. Thái độ không cực đoan, lý luận không một chiều, dễ đi đến những nhận định chính xác hợp lý.

    Ở nhà thơ Trần Hồng Châu, văn chương là một thế giới khoảng khoát không biên giới phân biệt Đông Tây, là cả hai cõi nhân gian từ hai đầu trái đất hòa hợp trong cái bàng bạc mờ ảo để thành mơ mộng lãng mạn. Triết lý, có khi chỉ là phương cách phụ thuộc làm thơ văn hiển lộng.

    Khi trả lời bà Thụy Khuê, ông đã tự thú nhận mình là người “ngoại đạo” trong lãnh vực triết học:

    “... Tôi yêu tư tưởng và coi đó là chất liệu không thể thiếu được của văn nghệ, nhất là khi tư tưởng có gốc rễ có tương quan mật thiết với tình cảm và cuộc sống, nghĩa là có sự hài hòa cân đối giữa trái tim và khối óc, luôn luôn cửa để mở ngỏ...”

    Có phải ngôn ngữ và hình ảnh đã tạo thành cảm quan văn chương để ấn tượng tạo ra sẽ in dấu trong bộ nhớ người đọc. Thơ phải vút cao, biển trời vô tận. Cũng như cái tâm, phải chính đính hiền hòa vằng vặc như trăng rằm và mênh mông như trang kinh không tuổi.

    Ông cũng cho biết, chỉ làm thơ khi có cảm hứng, mà là cảm hứng thật sự:

    “Thơ là cái gì mung lung, dựa vào cảm xúc nhiều nên tôi cứ tự thả trôi theo thi hứng. Cho thơ hồn nhiên nở ở đầu cành như một bông hoa đến thời, đến lúc thì xuất hiện, tự nhiên ở đấy như do sự thúc đẩy của một nguồn sinh lực hữu cơ tiềm tàng nào đó. Hãy bỏ rơi rụng lại những lớp bụi bậm lý trí lạnh lẽo, mốt thời thượng phấn son làm dáng, ấu trĩ tầm thường, khuôn mòn bảo thủ ù lì hay cái “mới“ a dua, giả tạo hung hăng.

    Cuối cùng như tôi đã nói nhiều lần chỉ cần biết bài thơ có đạt, có tới hay không. Có tân kỳ, có độc đáo, có làm rung chuyển cả trí thức và tình cảm của người đọc không. Có chân chất, có thơ hay không? Thật ra những ý niệm này cũng rất mơ hồ, chỉ “cảm“ thấy thôi mà cảm thì là chủ quan, khó phân tích khó định lượng. Nhưng trực cảm mặc dầu là phi ý thức, mặc dầu không đường biên rõ ràng vẫn là cái gì đưa ta thẳng vào tận trung tâm sự vật để vươn tới xứ sở của Chân Thiện Mỹ”


    Đọc tập thơ mới nhất, để thấy rằng thi sĩ Trần Hồng Châu đã tận dụng những suy tư vào thi ca như thế nào. Suối Tím, tập thơ in lúc cuối đời dường như mang theo tất cả nỗi niềm của một người nặng lòng với chữ nghĩa.

    Thuở đầu đời, là một nhà giáo dục nổi tiếng, là thầy của hàng ngàn vạn sinh viên mà về sau đã thành nhiều khuôn mặt quen thuộc của văn chương Việt Nam. Khi gần rời bỏ dương thế, vẫn nặng lòng với thi ca của những chân trời mơ mộng lãng mạn. Thi sĩ Trần Hồng Châu, tức giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng đại học Văn Khoa, người đã xây đắp một nền tảng vững chắc cho ngôi trường đại học còn sơ khai. Cũng như, là chủ nhiệm tạp chí văn chương “Thế Kỷ Hai Mươi”, góp phần vào sự phát triển của văn học miền Nam thời kỳ ấy.


    Nhưng, trước sau ông vẫn là người đa mang với nghiệp thi ca. Ông yêu thi ca và hiểu được tính vĩnh cửu của vần điệu ngôn ngữ. Bàn luận về thơ, ông có niềm say mê của một người đi tìm chân lý. Thơ, là một phần đời sống của ông. Trước khi ông qua đời, chúng tôi có vào bệnh viện thăm viếng và nghe được ông nhắc đến “Suối Tím” như một gửi gấm cuối đời của một người làm thơ. Với đám môn sinh hiện diện lúc đó, ông nói với tất cả tâm huyết của mình lúc cuối đời…

    Tôi đọc tập thơ này nhiều lần trong những thời điểm khác nhau. Tôi cầm trên tay tập thơ mà tưởng nhớ đến tác giả. Sách vẫn đây mà tác giả của nó đã đi vào chốn hạc nội mây ngàn rồi. Giở những trang, để thấy bầu trời thi ca lồng lộng. Có những nỗi niềm giàn trải qua ngôn ngữ hình tượng. Có tấm lòng kẻ sĩ, mang mang theo thời thế mịt mù…

    Sống ở trong một thời đại đầy biến động như bây giờ, giữ cái tâm vằng vặc quá khó. Huống chi, vẫn tính lãng mạn văn nghệ bẩm sinh, thêm chất nghiêm túc phải có của một nhà giáo, thành một khuôn mẫu văn chương như ông cũng là một hiếm hoi trong cuộc sống này. Trong thơ Trần Hồng Châu, từ "Nửa khuya giấy trắng”, “Nhớ đất thương trời”, “Hạnh phúc đến từng phút giây”, thơ bay bổng thăng hoa vượt qua những nhiễu nhương của thời thế. Thơ, là kết tinh của trầm lắng suy tư có từ những hệ lụy của cuộc đời…

    Một điều cảm nhận thật rõ ràng với tôi, từ “Suối tím “ nói riêng và toàn khối thơ ông nói chung, có nét trầm mặc xương kính của phong thái Đông phương trong nề nếp suy tư luận lý Tây Phương. Thơ , như giao diểm hội tụ của hai đường tàu, tưởng song song nhưng thật ra vẫn gặp nhau trong từng cảm giác.

    Lạ lùng, đọc thơ mà tôi tưởng mình đi tìm công án. Mỗi mỗi trang, tưởng tượng những khuôn cửa mở ra vào những lãnh địa riêng. Có cảm thấy những đè nặng của tư duy triết học, nhưng chất luận lý thoảng qua để còn lại những gợi ý bức xúc từ những tượng ảnh mơ hồ chỉ có trong những không gian, thời gian của thi ca. Thơ ông có vóc dáng của một chân dung vĩnh hằng, của những kiếm tìm nỗ lực cái thẩm mỹ quan có sẵn từ cổ đại. Ngôn ngữ, có khi là những viên gạch lót đường để bước nghĩ thong dong chân tới nhưng cũng có lúc là tảng lân tinh rực rỡ lóe lên như tinh đẩu dẫn lối soi đường. Thơ, chính là thông điệp gửi trao, của những đêm thức trắng ngậm ngùi , của những ngày lũi lầm trong cảnh bụi trần cát lấm của cuộc nhân sinh.

    “Suối tím “ có dòng thi ca đồng nhất. Kể cả ba bài tùy bút, là những bài thơ văn xuôi mà không gian chính là biển trời thi ca rộng khắp muôn trùng. Con chữ lấp lánh, phản chiếu một cuộc sống nội tâm phong phú. Thực tế đời thường, nếu có những cơn huyễn mộng, thì cũng là lộ trình thoảng qua để đến chốn vô cùng. Ngôn ngữ- hình ảnh – vần điệu , là xuôi dòng về nguồn, nơi chốn mà sáng tạo đã thành yếu tố để tầm mắt người thơ cao hơn, xa hơn, thăm thẳm hơn…

    Nhiều lúc tôi tự hỏi. Ở tuổi già, liệu tâm tư sẽ ra sao? Chán nản. Hy vọng. Bình thản. Chờ đợi. Hay là tất cả trộn lẫn lại. Tôi chưa biết. Mỗi người một tâm sự một cách sống riêng. Nhưng, có lẽ từ những thi sĩ, nhất là thi sĩ Việt nam, với chất lãng mạn trầm mặc Đông phương, thì lúc cuối đời, có lẽ là lúc tự tìm kiếm bản lai diện mục mình. Thơ, sẽ thành một phác họa chân dung nhân bản nhất, để , đôi khi, những dông bão hiện thành từ nỗi quặn đau thiên cổ…

    Víêt và làm thơ, với đất nước và thời thế, chỉ là những phác họa gián tiếp. Nỗi đau, dường như là những xúc cảm được che dấu lại. Mượn những điển tích xưa, dùng những tên tuổi cũ, để gợi ý thành, để nhắc nhở tới một đẽo gọt của thơ, từ đá tảng nguyên sinh thành những phù điêu dáng tượng hiển hiện cho đời. Bức tượng ấy, từ những nhát dao sáng tác, có chất chứa những nỗi niềm đa mang của cả một thế hệ. Kiêm lời nhưnmg giàu ý, tôi có cảm giác thơ thành những vòng tay ôm choàng khắp đến vô cùng. Nét riêng của một người, như chuyên chở nỗi đau của muôn người trong dẫy đầy biến cố của Việt Nam bất hạnh…

    Đại cương toàn khối thì như thế, bây giờ đọc lại những trang thơ để tìm những đoạn tiêu biểu thì tôi lại ngại ngần. Làm sao, để có những chọn lựa chính xác? Làm sao, để nổi bật cái toàn thể trong cái hạn hẹp trích dẫn ? câu hỏi khó, với tôi. Thơ, mênh mông như mây trời, sao có thể nhét dồn trong khuôn khổ hẹp…

    Thì thôi, đành lấy cái tương đối để mong biểu hiện được cái thơ không cùng rộng vậy…

    Có bài thơ, tôi đọc trong sự cảm động. Thơ rất chân thành, có nét hiện thực của đời thường. Những dòng thơ phác thảo lại những thời điểm mà Đỗ Phủ của Trung Hoa hay Nguyễn Du của Việt nam đã sống, đã buồn, đã cảm, đã viết. Thời của ly loạn, mặc dù đã ngưng tiếng súng của những ngày sau 1975 đau thương:

    “... Đời loạn lạc
    chó nhảy bàn độc
    hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
    Bố đi bộ suốt Chợ Lớn Mới
    Về Đại Thế Giới
    Để dành tiền vé xe buýt
    Bố mua hai đồng ô mai
    Một gói đậu phụng
    Bên cửa bếp
    Hai bố con ngồi nhấm nháp
    Vị xí muội mặn chát
    Chua ơi là chua
    Ôi men đắng cuộc đời
    Ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
    Vỏ lạc lá vàng bay
    Hai bố con lặng lẽ
    Cắn từng miếng me khô
    Muối ớt cay cay
    Từng quả cóc ngâm đường
    Dôn dốt ngọt chua
    Bố bảo: bố con mình, thế mà gân ra phết!
    Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố..
    Đời loạn lạc!”


    Có liên tưởng nào đến bài thơ chữ Hán của cụ Tiên Điền Nguyễn Du ”Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng. Giang nam giang bắc nhất nang không..” (Kiếp cỏ bồng chân không bén rễ. Bắc rồi nam túi nhẹ ven sông). Dù, một Hán tự, một Việt ngữ. Đời loạn lạc, thân phận kẻ sĩ thật là chán ngán. Thơ Trần Hồng Châu có nét xác thực, ngôn ngữ bình thường, nhưng trong phong thái ấy là một thái độ của một sĩ phu trong một thời kỳ đảo điên điên đảo của dân tộc và lịch sử. Một người đi đông đi tây, đã sinh sống nhiều nơi trên thế giới, mà lúc này, hai cha con chia nhau miếng quà nhỏ để dành từ tiền đi xe buýt. Chuyện cười ra nước mắt nhưng có thực của dân tộc chúng tôi. Đọc thơ, để thấy man mác nỗi niềm. Đọc thơ, để thấy những ngôn ngữ đời thường ấy có sức lôi cuốn biết bao. Và , qua đó , thấy được tấm lòng cha con thắm thiết biết bao…

    Bài “Kỷ niệm về khuya, trừ tịch “, với chữ Em viết hoa, là hiện thực của cảm giác bềnh bồng, của tiến trình tìm bắt hoài hủy trong chuỗi suy tư. Em, có phải là hình bóng đời thường, của son phấn lụa là, của vóc dáng kiều nữ xa hoa? Hay, là tượng hình sáng tạo chỉ có trong tâm tưởng những người mong mòi tìm đến chốn lãng mạn vô cùng. Những câu thơ, của một vấn nạn mờ ảo trong tâm thức. Vô vọng, nhưng mê đắm…

    “… Ta vùng dậy đuổi bắt các Em.
    Trong hương sắc cầu vồng hồi tưởng
    Hiện thực đắm say
    Ảo giác vơi đầy
    Các Em, gấm hoa tình cảm của muôn đời
    Hay chỉ là bụi phù vân của giấc mơ dài
    Đến với ta lúc năm tận tháng cùng…”


    Những câu thơ. Áo xuân ngàn nếp còn vương vấn. Buồn thu vạn cổ vẫn chờ mong. Em hư vô hay hiện hữu tuyệt vời. Em độc nhất hay hóa thân muôn vạn… Có phải từ mơ phai kỷ niệm? Hay từ dồn dập nhịp đập trái tim của dĩ vãng thuở nào? Cũ xưa, nào ai định nghĩa ? Trăm năm? Ngàn năm? Vạn triệu năm? Có phải không tuổi tác là những cảm giác mới nguyên của lúc ban đầu? Đời thường, còn có những mốc cắm xác định thời gian. Chứ trong cái hư ảo của cõi hư vô, làm sao phân biệt được giữa sát na giây phút với miên viễn tận cùng. Trong hành trình mù mịt thiên lý cõi xa, vó ngựa cuồng như ngôn ngữ lẩn khuất vào vần điệu. Có ai đánh thức. Một giấc mơ…

    "…Khi tỉnh giấc
    Chỉ thấy trăng khuya chìm đáy ly cạn
    Chỉ thấy mây trời treo cửa song thưa
    Đào lý hồng hạnh
    Lan hương vương giả
    Mưa, mưa hoa
    Bao phủ khắp châu thân
    Hồn say đây bỏ ngỏ
    Hơi thở những thiên ha
    Đến với ta lúc năm tận tháng cùng
    Ta vùng dậy
    Ôm tơ trăng mây gió và sắc hoa gầy
    Ta thành Em
    Em kỷ niệm
    Chúng ta thành trang Tình Sử
    Mở rộng cho muôn đời…”


    Tôi yêu những trang tùy bút. Những thành phố trong hồi tưởng. Những thời điểm đã qua mất hút. Nhưng mầm kỷ niệm vẫn còn, ngút xanh. Hà nội. Paris. Trường An Tây Vọng. Những nơi chốn của một người và của một thời. Những bài thơ văn xuôi diễn tả bằng một trời tâm tưởng. Tùy bút Nguyễn Tuân sang cả. Tùy bút Mai Thảo kiêu sa. Còn tùy bút Trần Hồng Châu lãng mạn khơi mở những dòng nguồn trác tuyệt của thi sĩ.

    Viết về chợ hoa của đất ngàn năm văn vật xưa, thi sĩ như muốn sống lại một thời nào xa lắm, từ hơn nửa thế kỷ xa xôi:

    “… Ở đây, màu sắc quả là siêu đẳng nghệ thuật. Chợ Đồng Xuân ngày trước Tết là một trời hoa. Hoa giấy, hoa cây và hoa người. Hoa ngoài chợ, hoa trong chợ… khách si giữa hoa, thở hương hoa, chiêm ngưỡng sắc hoa… Ai đã dồn về đây tất cả người đẹp của băm sáu phố phường? Ai đã xê dịch những vườn hoa còn đẫm sương mai của Yên Phụ, Nghi tàm về đây, về trung tâm Hà Nội?

    Cúc vàng, cúc trắng, hồng nhung, thược dược, lan nhất điểm,… một bản nhạc hoa mà nhạc công là những cô hàng, áo tứ thân, điểm thêm một giải thắt lưng màu hoa lý hay cá vàng, vì Tết sắp đến.. Hoa sống và hoa cây tự tô điểm rồi cảm thông với nhau. Và tại sao hôm nay trong vườn hoàng cúc giữa chợ Đồng Xuân tôi lại gặp một bạn gái mặc áo vàng, trùng tên với hoa mùa thu? Có những tình cờ, những chuyện thực, nghe hoang đường như một bịa đặt, tuy vẫn là chuyện thực…”

    Viết về bước chân của người học trò cũ trở về trường xưa, nhớ lại đã hơn gần nửa thế kỷ.

    “.. Tôi bước vào sân trong. Trời xanh lồng lộng. Những phiến đá vuông nhỏ vẫn dội vang tiếng ngàn xưa dưới chân du khách. Những bậc hè cẩm thạch vẫn trắng trong như lòng tuổi trẻ. Những hàng hiên cửa võng vẫn vươn mình lên, mình cánh cung, như xưa. Tôi hơi rùng mình. Thời gian như ngưng đọng. Cái nhìn của Sorbonne. Của người mẹ . Của người tình.

    Mẹ Sorbonne da mồi tóc bạc
    Nhưng không tuổi và trẻ hơn hiện tại

    Những giây phút huyền nhiệm. Có lúc người và vật dường như cảm thông quấn quýt lấy nhau. Trói buộc lẫn nhau bằng ngàn sợi dây vô hình, bằng màng lưới thần giao. Tôi đứng sững giữa sân trường. Chết đứng. Nước mắt thấm ướt gò má. Sao lại có thể như vậy? Ủy mị, yếu đuối quá đi thôi! Bèn lấy kính mát ra đeo, dằn lại dòng điện cảm xúc đã làm rung chuyển toàn thân. Bốn mươi năm rồi còn gì! Tứ thập niên gian hựu phùng quân. Lý, Đỗ và họ Tô ở Hàng Châu! Hãy cho tôi vay muôn ngôn và từ để nói lên một xúc động chưa từng kinh qua. Cho tôi giải tỏa niềm ngậm ngùi reo vui này. Như một mảng khí áp, một khối tích tụ chăn ngang lồng ngực vừa trải qua cơn địa chấn…”


    Suối Tím. Có những câu thơ như:

    “Nước trôi suối ngọc tê hồn đắm
    Âm sắc tím chim gọi ngàn năm
    Buồn cây chìm bóng cỏ đu võng
    Vết thương sỏi trắng đau bộ lạc
    Nằm nghiêng nôi lạnh có buồn không?"


    Màu tím mênh mang buồn. Nhưng mênh mang sâu thẳm mà biền biệt. Cầm tập thơ nâng niu trên tay, nghĩ đến nỗi niềm trao gửi. Đọc thơ mà tưởng đến người nay đã khuất bóng. Thấy lại nụ cười hiền hòa. Thấy lại những tình cảm đôn hậu bao dung khi nói đến những lớp cầm bút đi sau. Và đôi mắt sáng đã từng mơ mộng đã từng ngâm ngùi đã từng vui buồn theo thời thế đẩy đưa.

    Tôi đọc trang thơ, không trầm hương mà sao quyện lẫn trong không khí những mùi thơm cổ kính từ thiên cổ tạt về…

    Nguyễn Mạnh Trinh



    (http://vantuyen.net)
    Last edited by Hoanghac; 12-08-2013, 09:09 PM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X