Cuốn Vietnam - A history của Stanley Karnow chiếm giải văn học nghệ thuật Mỹ năm 1990 đã được một dịch giả tên Nguyễn Hoàng dịch ngày 6 tháng 5 năm 2006 và được phổ biến Talawas.org và ở Việt Nam Thư Quán. Link : http://vnthuquan.net/truyen/truyen.a...83a3q3m3237nvn
Trước đó, ngày 26 tháng 12 năm 2005 Meta cũng hoàn tất dịch bài này và trùng hợp làm sao, Meta cũng chọn Việt Nam Thư Quán là nơi đăng bài. Link : http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx...e=1&print=true
Như thế để chứng minh Meta là dịch giả bài này trước khi dịch giả Nguyễn Hoàng đăng ở Talawas.org
_____________________________________________
Cộng Sản VN thay đổi ý thức hệ theo mỗi biến chuyển thế giới. Có khi tư bản là kẻ thù, có khi cũng chính tư bản là cứu tinh dân tộc. Có khi gọi đồng chí Pôn Pốt là lãnh tụ kính yêu, có khi lại mắng chửi Pôn Pốt là đồ tể khát máu. Khi được hỏi về chính sách mở cửa, Đỗ Mười nhắc lại câu nói của Hồ Chí Minh :"Chủ nghĩa Cộng Sản là tất cả những gì có lợi cho đất nước." Như thế, chủ nghĩa Cộng Sản thiên hình vạn trạng. Nó đổi màu như con kỳ nhông. Nó méo tròn như những giả túc của khuẩn Ameba. Nó là một ý thức hệ … không ý thức hệ.
Chẳng những mọi người trên thế giới - kẻ có cái nhìn sâu sắc vào diễn biến chung quanh - mà ngay cả chúng ta, người Việt nam, cũng không để ý rằng mỗi khi có một thay đổi ý thức hệ quan trọng, Cộng Sản VN ngấm ngầm ra tay xoá bỏ mọi bằng chứng bất lợi. Chẳng trách được vì họ phải thích nghi với môi trường để sinh tồn. Nhưng mỉa mai thay, họ ngấm ngầm chối bỏ công lao của những đồng chí miền Nam của họ. Ngày nay, mỗi khi muốn tìm hiểu về Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay Chính phủ Cách mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, ta chỉ có thể tìm thấy ở những nguồn tư liệu ngoại quốc. Họ không muốn ai chia sẻ công lao của họ. Không một nhân vật miền Nam chống Mỹ cứu nước nào được quyền tham chính dù họ vẫn gọi bọn người đáng thương dễ gạt ấy là anh hùng cách mạng. Để tôn vinh công trạng của họ, những tư liệu về các tướng lãnh và viên chức VNCH cũ lại được giữ gìn đầy đủ, rất dễ tìm. Ấy cũng chỉ vì để xứng đáng đòi nhân dân trả công hàng ba chục năm nay, họ không ngừng nhắc nhở đến chiến công. Ba mươi năm, dân ta oằn lưng vì món nợ không vay.
Vâng, chúng tôi đánh bại nước Mỹ. Nhưng chúng tôi bị tác hại bởi những nan đề. Chúng tôi không đủ ăn. Chúng tôi là một quốc gia nghèo, kém phát triển. Tiến hành một cuộc chiến thì đơn giản nhưng điều hành một đất nước quả là khó.
Phạm Văn Đồng.
Việt nam vẫn còn đó trong chúng ta. Nó tạo ngờ vực về phán đoán, uy tín và sức mạnh Mỹ - không chỉ ở trong nước mà còn khắp thế giới. Nó nhiễm độc các cuộc tranh luận trong nước. Vậy thì chúng ta đã trả một giá quá đắt cho những quyết định đã được hình thành bằng niềm tin và mục đích cao đẹp của chúng ta.
Henry Kissinger.
Mở đầu.
Thưa các bạn. Năm 1983, cuộn phim Vietnam: A Television History được PBS (Public Broadcasting Service) trình chiếu. Cuộn phim được đánh giá là thành công vượt mức với 9/100 khán thính giả và trung bình 9.7 triệu người Mỹ chiếu cố nhưng một tài liệu sau, phổ biến vào mùa hè năm 1984 cho biết chỉ có 4/100 cổ phần trong 5 thị trường truyền hình lớn nhất nước Mỹ.
Thế nhưng cuộn phim được đánh giá là thiếu sót tài liệu và đầy thiên vị nghiêng về phía Cộng Sản. Không thể làm ngơ trước sai lạc ấy, tổ chức Truyền thông chính xác (AIM, Accuracy in Media) sản xuất và phát sóng những thước phim tài liệu nhằm hiệu chính lại những mô tả không chính xác của cuộn phim Vietnam : A Television History. PBS bị bắt buộc phải phát sóng cuộn phim nhan đề : Television's Vietnam: The Real Story như một nhượng bộ công luận. Đây là một sự kiện hãn hữu vì PBS hiếm khi nếu không có thể nói là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử của họ, họ chưa từng nói đi nói lại.
Meta xin trình bày cuộc chiến Việt Nam dưới con mắt của một chứng nhân ngoại quốc của một người từng làm việc suốt cuộc đời nghề nghiệp tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến nay. Ông Stanley Karnow, tổng biên tập viên cuộn phim :Vietnam: A Television History.
Vào nghề ký giả năm 1950 tại Paris với chức vụ phóng viên cho báo Time. Ông đến Á Châu làm việc cho Time và Life và sau đó cộng tác thêm với Washington Post, Saturday Evening Post, London Observer và NBC News. Khi làm việc cho New Republic với chức vụ biên tập viên, ông cũng viết bài cho Newsweek International và King Features. Karnow đoạt giải Văn Học Quốc Gia (Pulitzer) về lịch sử bằng cuốn sách “In Our Image: America’s Empire in the Philippines”. Những cuốn sách khác là: “Mao and China: A Legacy of Turmoil.” Ông làm tổng biên tập cho cuộn phim: “Vietnam: A Television History,“ và đoạt 6 giải Emmys cùng với giải The Dupont, Peabody and Polk. Ông cũng là tổng biên tập và thuyết minh cho “The U.S. and The Philippines : In Our Image.”
Ông Karnow sinh ở New York City năm 1925, gia nhập quân đội Mỹ trên chiến trường Trung Hoa - Miến Điện - Ấn Độ hồi Đệ Nhị Thế Chiến, tốt nghiệp Harvard và tu nghiệp ở Sorbonne và trường Khoa Học Chính Trị Paris. Ông hiện trở lại Harvard, trường Chính Trị Kennedy và Trung Tâm nghiên cứu Á Đông cũng với chức vụ nhà nghiên cứu. Một cư dân Potomac, Maryland, ông có một vợ và 3 con, 2 cháu.
Trong bài viết, tác giả nhắc đến Cộng Sản Việt Nam và Việt Cộng nhiều lần. Khác với chúng ta, Việt Cộng hay Cộng Sản Việt Nam là một thì người Mỹ phân biệt Cộng Sản Việt Nam là Cộng Sản Hà Nội, còn Việt Cộng chỉ là bọn tay sai mệnh danh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Xin hiểu theo cách gọi của người Mỹ. Họ cũng thường gọi tên người khác một cách xách mé là Giáp thay vì đại tướng Võ nguyên Giáp, Hồ thay vì bác Hồ cũng như Bush thay vì tổng thống Bush. Tôn trọng nguyên văn, Meta không thêm vào chữ "đồng chí Võ Nguyên" trước chữ Giáp vì như thế nó có thể mất đi tính trung thực của bài dịch. Xin hiểu Meta không cố tình xách mé.
Bài viết này không phản ảnh lập trường của người Việt hải ngoại mà chỉ là một khóe nhìn của một chứng nhân lịch sử. Là những người sống trong thời chiến, chịu đựng biết bao đau khổ của chiến tranh, tuy chúng ta biết ít hơn một sử gia nhưng chúng ta biết thực hơn – không gì thực bằng những dòng mực viết bằng máu và nước mắt của chúng ta. Không ai trong chúng ta không từng quấn vành khăn tang vì chiến tranh, chẳng lẽ chúng ta không biết mình sướng hay khổ mà phải nhờ vào tài liệu ngoại quốc để tìm hiểu xem mình sướng hay khổ? Hầu hết bài viết chỉ trích gay gắt và châm biếm chua cay những sai trái của Cộng Sản Việt Nam nhưng có một đoạn, ông Karnow ví Hồ Chí Minh với Tito, một lãnh tụ Cộng Sản Nam Tư, nặng tinh thần quốc gia hơn là một tay sai Cộng Sản quốc tế thì kệ ông ấy. Trong ý hướng mở rộng tầm hiểu biết, chúng ta tìm đọc nhưng xin đừng ngả theo ông ta, vì thưa các bạn, để nhận xét một nhân vật lịch sử - Hồ Chí Minh chẳng hạn - anh hùng hay gian hùng cần nhiều tài liệu và công trình khảo cứu hơn từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, để phán đoán và cũng tùy theo ảnh hưởng của ông với từng cá nhân, từng gia đình và từng tổ chức xã hội.
Xin các bạn bắt đầu.
Sau thế chiến thế giới phân thành lưỡng cực đối nghịch. Một bên là Cộng Sản, một bên là tư bản. Sau đây là những tố giác đầy phi lý của cả hai bên.
PHÊ PHÁN CỦA TƯ BẢN VỀ CỘNG SẢN :
1- Cộng Sản có âm mưu xâm chiếm toàn thế giới :
Điều này dễ thấy từ các phần tử trong Đệ Nhất Quốc Tế và trong trào Stalin, khi Sô Viết thường xuyên lén lút cử những đảng viên ra nước ngoài làm công tác gián điệp . Bây giờ những tài liệu thời Stalin đã được bạch hoá, ai cũng biết. Thêm vào đó khi Cộng Sản bị cấm đoán, ruồng bố chúng rút vào bí mật giống như những tín đồ Công Giáo bị cấm đạo dưới trào Nguyễn phong kiến. Nhưng nói Cộng Sản âm mưu xâm chiếm thế giới 1 cách tổng quát thì hơi vô lý.
Đầu tiên ta phải biết Karl Marx chống lại bọn Đệ Nhất Quốc Tế trong chủ trương âm mưu khủng bố. Cuốn Bản Tuyên Ngôn (Manifesto)năm 1848 đề cao sự tuyên truyền giáo dục quần chúng và bắt đầu chế nhạo những nhận xét rằng Cộng Sản là 1 bè đảng với âm mưu đen tối.
Mặc dầu Cộng Sản lãnh đạo bởi Lê Nin không che giấu tham vọng của họ, họ cũng thành công trong cuộc cách mạng 1917 mà hầu hết các phần tử không nhất trí về tư tưởng với nhau. Mặc dù nhóm của Lenin tự xưng là Đa số (Bolsheviks), thực ra họ là 1 thành phần rất nhỏ của đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga . Sự quyết tâm trở nên người lãnh đạo của nhà nước, nguyên tắc chặt chẽ về tổ chức giúp cho họ trở nên đạo quân tiên phong của giai cấp vô sản, chuyên chính, tiêu diệt mọi đảng phái, thế lực đối nghịch. Họ được ủng hộ của quân đội và công nhân nhưng chắc chắn rằng đa số nhân dân Nga không chấp nhận họ.
Đơn cử vài thí dụ . Cuộc cách mạng của Fidel Castro năm 1956-1959, cuộc cách mạng của Hồ Chí Minh - biến đất nước thành đạo quân đánh mướn cho Cộng Sản quốc tế, bất kể xương máu đồng bào hai miền - đều không tuyên xưng chủ nghĩa Cộng Sản cho tới khi nắm chính quyền. Một thủ đoạn lừa bịp nhân dân. Thực sự mà nói, sự ủng hộ của quần chúng đều bắt nguồn từ giáo dục, sách động, tự hào dân tộc, kiểm soát, áp bức lưu đày và thủ tiêu. Tất cả các cuộc cách mạng Cộng Sản thành công vì nó thay mặt quần chúng chống lại những mối đe dọa trước mắt phát sinh từ những vấn nạn thời cuộc chứ không phải vì ý thức hệ Cộng Sản .
2- Cộng Sản đối nghịch với dân chủ :
Lịch sử cung cấp cho ta vô số những bạo chúa Cộng Sản về luận điểm này. Stalin, Mao, Hồ, Pon Pốt, Lê Duẫn điển hình cho các bạo chúa Cộng Sản. Điểm quan yếu là Marx cho rằng Cộng Sản là siêu dân chủ. Cái mà Marx thoạt tiên chống là những cái hạn chế của dân chủ. Dân chủ trưởng giả đã bị lên án không vì nó là dân chủ mà vì nó tập trung trong tay bọn trưởng giả, do đó nó phục vụ cho giai cấp trưởng giả. Lập luận này thật là nguỵ biện. Nó đưa đến một nghịch lý : nếu dân chủ tập trung trong tay nhà nước Cộng Sản, nó cũng chỉ phục vụ cho đảng Cộng Sản mà thôi .
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Cộng Sản mệnh danh là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa Tư Bản và Cộng Sản thì người quốc gia lại nói rằng đó là cuộc chiến giữa Cộng Sản và Dân Chủ. Cộng Sản có thể thường xuyên phản bội lý tưởng dân chủ và ngay cả nhiều lúc lên án Dân Chủ, nhưng những người xã hội chủ nghĩa lúc ban đầu đã được gợi ý từ tư tưởng dân chủ và tư tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa chính là một khai triển của Dân Chủ .
3- Cộng Sản là hoang tưởng vì nó chống lại nhân tính. Bản tính con người thiên về cạnh tranh hơn là hợp tác :
Lập luận này thực ra trái ngược với Marx trong Bản tuyên ngôn (manifesto) nơi ông ta trình bày quan điểm rằng không có một nhân tính cố định. Thái độ và cử chỉ con người thay đổi không ngừng theo chuyển biến kinh tế. Engels tiếp tục nỗ lực của Marx bằng dẫn chứng rằng các xã hội săn bắn và làng mạc cổ xưa lệ thuộc sâu xa vào hợp tác hơn là cạnh tranh. Điều này chỉ đúng ở thời thượng cổ. Có lẽ Marx và Engels muốn kềm hãm xã hội ở mãi trong thời thượng cổ mà mặt khác lại khẳng định "Thái độ và cử chỉ con người thay đổi không ngừng theo chuyển biến kinh tế." Toàn nghịch lý nối tiếp nghịch lý. Ngụy biện kéo theo ngụy biện. Đây là 1 tranh luận không đi đến kết thúc vì chưa 1 chế độ Cộng Sản hay Xã Hội Chủ Nghĩa nào thành công trong việc tạo dựng 1 utopia, nơi những công dân Cộng Sản gương mẫu trong 1 xã hội lý tưởng.
4- Tất cả con người xã hội chủ nghĩa là Cộng Sản hết :
Nói thế này mới đúng. Tất cả con người Cộng Sản là xã hội chủ nghĩa. Trong tự vựng Cộng Sản, từ "xã hội chủ nghĩa " được hiểu rộng hơn. Nó bao gồm nhiều học thuyết chính trị khác nhau trong đó có Cộng Sản. Nhiều nhà xã hội chủ nghĩa Tây Âu trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã chống Cộng Sản kiểu Sô Viết giống như tất cả các nhà xã hội chủ nghĩa ngày nay.
5- Phe Tư Bản còn lập luận :
- Thị trường tự do mang lại hàng hoá chất lượng cao với giá thấp. Vì vậy hạn chế thị trường tự do thì chỉ có hại.
- Sự lớn mạnh của Tư Bản có nghĩa là lớn mạnh của tự do.
- Cơ hội thăng tiến đồng đều trong thế giới tư bản.
- Tư nhân hoá thương nghiệp mang lại tinh thần trách nhiệm nơi mỗi cá nhân . Kinh tế kiểu hợp tác xã như Sô Viết, Tàu, Vietnam ... đầy dẫy tệ nạn tự ý vắng mặt, ăn cắp, lười biếng được thể hiện qua câu khôi hài : Chính phủ giả vờ trả lương và nhân dân giả vờ làm việc.
Những tố giác trên đều có mặt trái của nó. Nhưng xin bước qua phần tố giác của phe Cộng Sản vì những phi lý của tư bản, Meta đã mổ xẻ, trình bày đã quá dài dòng.
PHÊ PHÁN CỦA CỘNG SẢN VỀ TƯ BẢN :
1- Tư bản luôn được thúc đẩy bởi những nhận định kinh tế :
Marx nghĩ rằng ông ta "ngộ" được 1 cơ sở khoa học cho chủ nghĩa xã hôi bằng cách thấy tất cả mọi sinh hoạt xã hội được đẽo gọt qua phương tiện sản xuất và trao đổi văn hoá qua sự nghiên cứu. Marx có thể thủ đắc 1 tâm thức phi thường. Phương pháp phân tích của ông có thể vẫn hữu ích cho tới ngày nay. Nhưng nó rõ ràng rằng các quốc gia tư bản và cư dân của nó thường bị lôi cuốn vào quốc gia chủ nghĩa, tôn giáo hay những cơn cuồng nộ khác lấn át lợi ích kinh tế của họ . Cuốn Notes from Underground cho thấy con người thường hành động ngược với quyền lợi của mình dù con người được hiểu như cá nhân hay quốc gia. Trong cuộc chiến tranh Vietnam, những người chủ chiến thường trích dẫn lời của tổng thống Eisenhower rằng Đông Nam Á không thể lọt vào tay Cộng Sản vì giá trị tài nguyên thiên nhiên của nó. Chính bọn Việt Cộng cũng khoe khoang đất nước ta tiền rừng bạc bể nhưng bất cứ ai nghiên cứu về chiến tranh Vietnam khó thấy bằng cớ của lợi ích kinh tế nào cả. Thực ra, Eisenhower cảm thấy bất đắc dĩ dùng hai chữ tài nguyên để cổ súy cho cái cuộc chiến tranh mang bản chất ý thức hệ trong những thuật ngữ tư bản bởi nó được coi như hợp lý trong các quốc gia tư bản.
Tinh vi hơn, những lập luận Marxist còn nói rằng sự thống trị kinh tế thế giới và sự thành lập của chủ nghĩa đế quốc tân thực dân buộc phải đánh bại Cộng Sản, vì vậy những cuộc chiến tranh tốn kém có mục đích lâu dài là làm cho thế giới an toàn hơn cho quyền lợi các tập đoàn. Đây là luận cứ vận dụng được toàn lực quốc gia nhưng nó không thể là giải thích toàn bộ cho chính sách đối ngoại bên trong những quốc gia tư bản.
2- Tư bản đề xướng chiến tranh để thủ lợi :
Lập luận này chỉ đúng trong thời kỳ khủng hoảng năm 1930 bằng chi phí chiến tranh khi Mỹ khôi phục kinh tế nhờ cuộc chiến. Nó coi chính phủ đơn giản như công việc thương nghiệp. Kinh tế Âu Châu không kinh qua những lợi ích giống như vậy. Mọi thương nghiệp thua lỗ hơn là thủ lợi trong chiến tranh. Đối với kinh tế thế giới, chiến tranh là kẻ đại thù của thương trường, phá huỷ cả thị trường lẫn tài sản.
3- Tư bản huỷ hoại môi sinh :
Rõ ràng chính phủ khắp nơi làm hư hại môi sinh. Bầu khí quyển, nước ở Vienam, Tàu, Mễ thật là dễ sợ . Hãy đi qua các con kinh ở đường Hậu Giang quận 10 hay bất cứ sông rạch nào ở SaiGon để thấy rõ điều Meta nói để so sánh với sự tàn hại của Mỹ ở Ba Tây, Nhật ở Mã Lai mà bọn Cộng Sản lên án. Tuy nhiên Cộng Sản lại tránh nói đến Sô Viết biến những khu vực lớn ở Đông Âu thành những bãi phế thải độc hại tệ hơn bất cứ nơi nào trong thế giới tư bản. Chưa kể những tai nạn kỹ thuật kiểu lò nguyên tử Chernobyl bị che giấu thời Sô Viết. Ít nhất trong kinh tế tư bản, sự san sẻ những lực lượng kinh tế đôi khi tạo thành những áp lực chống ô nhiễm môi sinh : Lợi ích của ngành bất động sản địa ốc chống những nhà máy nguyên tử, ngư nghiệp chống những công trình thuỷ điện. Những đồ án phát triển đơn phương không bị bắt buộc cứu xét về môi sinh thường gây những thiệt hại môi trường.
4- Xã Hội Chủ Nghĩa thích hợp hơn Tư Bản Chủ Nghĩa trong những quốc gia kém phát triển:
Điều này quá phức tạp để bàn thảo ở đây 1 cách thấu đáo nhưng nhiều quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa ở Phi Châu, Trung Đông hay nơi khác được mệnh danh là thế giới thứ ba, chỉ là Xã Hội Chủ Nghĩa bởi cái tên. Chúng được cai trị bởi các nhà độc tài chuyên ăn cắp tài sản quốc gia đem trữ ở các nhà băng Thuỵ Sĩ. Những nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác như Vietnam, Cuba thời chiến tranh lạnh, được nuôi sống một cách thoi thóp bằng tiền của các quốc gia đàn anh như Tàu, Sô Viết. Nhưng tổ chức quốc tế như World Bank nhấn mạnh vào sự cởi mở kinh tế với đầu tư có thể tác hại đến danh dự và độc lập của các quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa kém phát triển, nhưng nếu không có cơ quan này, Xã Hội Chủ Nghĩa không thể tồn tại. Trừ phi người ta bằng lòng sống dưới một chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa thấp kém, nghèo đói, đóng kín chuyên về nông nghiệp; Một nền kinh tế đầy triển vọng phải được phát triển vượt bực và cuối cùng là Xã Hội Chủ Nghĩa không thể sánh với Tư Bản Chủ Nghĩa trong việc đảm đương sự phát triển này.
Những tư tưởng xung khắc này là nguyên nhân sâu xa cho cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài nhiều chục năm qua . Mọi học thuyết cho dù hợp lý đến đến đâu cũng bị đào thải trong dòng lịch sử vì rằng không học thuyết nào có thể tồn tại lâu dài mà không phục vụ thiết thực cho con người.
Chiến tranh Việt Nam đã tốn biết bao giấy mực và mỗi quan điểm đều nặng thiên kiến vì người nhận xét đều đóng một vai trò nào đó trong cuộc chiến. Là nhân chứng, không ai chối bỏ được cái mà họ mục kích và kể lại là sai sự thực nhưng cũng vì là nhân chứng, khóc cười theo những biến cố, người bày tỏ quan điểm thường mang tình cảm riêng tư vào làm sai lệch các sự kiện. Hãy tìm hiểu chiến tranh qua quan điểm của một phóng viên Mỹ, một nhãn quan ta ít để mắt tới. Ông Stanley Karnow.
Karnow tại Việt Nam
Sử gia - phóng viên Stanley Karnow tại nhà riêng ở Potomac, Md., hình chụp năm 2009. Ông chết tại nhà ngày 27 tháng 1 năm 2013, thọ 87 tuổi.
Còn tiếp
Trước đó, ngày 26 tháng 12 năm 2005 Meta cũng hoàn tất dịch bài này và trùng hợp làm sao, Meta cũng chọn Việt Nam Thư Quán là nơi đăng bài. Link : http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx...e=1&print=true
Như thế để chứng minh Meta là dịch giả bài này trước khi dịch giả Nguyễn Hoàng đăng ở Talawas.org
_____________________________________________
Cộng Sản VN thay đổi ý thức hệ theo mỗi biến chuyển thế giới. Có khi tư bản là kẻ thù, có khi cũng chính tư bản là cứu tinh dân tộc. Có khi gọi đồng chí Pôn Pốt là lãnh tụ kính yêu, có khi lại mắng chửi Pôn Pốt là đồ tể khát máu. Khi được hỏi về chính sách mở cửa, Đỗ Mười nhắc lại câu nói của Hồ Chí Minh :"Chủ nghĩa Cộng Sản là tất cả những gì có lợi cho đất nước." Như thế, chủ nghĩa Cộng Sản thiên hình vạn trạng. Nó đổi màu như con kỳ nhông. Nó méo tròn như những giả túc của khuẩn Ameba. Nó là một ý thức hệ … không ý thức hệ.
Chẳng những mọi người trên thế giới - kẻ có cái nhìn sâu sắc vào diễn biến chung quanh - mà ngay cả chúng ta, người Việt nam, cũng không để ý rằng mỗi khi có một thay đổi ý thức hệ quan trọng, Cộng Sản VN ngấm ngầm ra tay xoá bỏ mọi bằng chứng bất lợi. Chẳng trách được vì họ phải thích nghi với môi trường để sinh tồn. Nhưng mỉa mai thay, họ ngấm ngầm chối bỏ công lao của những đồng chí miền Nam của họ. Ngày nay, mỗi khi muốn tìm hiểu về Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay Chính phủ Cách mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, ta chỉ có thể tìm thấy ở những nguồn tư liệu ngoại quốc. Họ không muốn ai chia sẻ công lao của họ. Không một nhân vật miền Nam chống Mỹ cứu nước nào được quyền tham chính dù họ vẫn gọi bọn người đáng thương dễ gạt ấy là anh hùng cách mạng. Để tôn vinh công trạng của họ, những tư liệu về các tướng lãnh và viên chức VNCH cũ lại được giữ gìn đầy đủ, rất dễ tìm. Ấy cũng chỉ vì để xứng đáng đòi nhân dân trả công hàng ba chục năm nay, họ không ngừng nhắc nhở đến chiến công. Ba mươi năm, dân ta oằn lưng vì món nợ không vay.
Vâng, chúng tôi đánh bại nước Mỹ. Nhưng chúng tôi bị tác hại bởi những nan đề. Chúng tôi không đủ ăn. Chúng tôi là một quốc gia nghèo, kém phát triển. Tiến hành một cuộc chiến thì đơn giản nhưng điều hành một đất nước quả là khó.
Phạm Văn Đồng.
Việt nam vẫn còn đó trong chúng ta. Nó tạo ngờ vực về phán đoán, uy tín và sức mạnh Mỹ - không chỉ ở trong nước mà còn khắp thế giới. Nó nhiễm độc các cuộc tranh luận trong nước. Vậy thì chúng ta đã trả một giá quá đắt cho những quyết định đã được hình thành bằng niềm tin và mục đích cao đẹp của chúng ta.
Henry Kissinger.
Mở đầu.
Thưa các bạn. Năm 1983, cuộn phim Vietnam: A Television History được PBS (Public Broadcasting Service) trình chiếu. Cuộn phim được đánh giá là thành công vượt mức với 9/100 khán thính giả và trung bình 9.7 triệu người Mỹ chiếu cố nhưng một tài liệu sau, phổ biến vào mùa hè năm 1984 cho biết chỉ có 4/100 cổ phần trong 5 thị trường truyền hình lớn nhất nước Mỹ.
Thế nhưng cuộn phim được đánh giá là thiếu sót tài liệu và đầy thiên vị nghiêng về phía Cộng Sản. Không thể làm ngơ trước sai lạc ấy, tổ chức Truyền thông chính xác (AIM, Accuracy in Media) sản xuất và phát sóng những thước phim tài liệu nhằm hiệu chính lại những mô tả không chính xác của cuộn phim Vietnam : A Television History. PBS bị bắt buộc phải phát sóng cuộn phim nhan đề : Television's Vietnam: The Real Story như một nhượng bộ công luận. Đây là một sự kiện hãn hữu vì PBS hiếm khi nếu không có thể nói là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử của họ, họ chưa từng nói đi nói lại.
Meta xin trình bày cuộc chiến Việt Nam dưới con mắt của một chứng nhân ngoại quốc của một người từng làm việc suốt cuộc đời nghề nghiệp tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến nay. Ông Stanley Karnow, tổng biên tập viên cuộn phim :Vietnam: A Television History.
Vào nghề ký giả năm 1950 tại Paris với chức vụ phóng viên cho báo Time. Ông đến Á Châu làm việc cho Time và Life và sau đó cộng tác thêm với Washington Post, Saturday Evening Post, London Observer và NBC News. Khi làm việc cho New Republic với chức vụ biên tập viên, ông cũng viết bài cho Newsweek International và King Features. Karnow đoạt giải Văn Học Quốc Gia (Pulitzer) về lịch sử bằng cuốn sách “In Our Image: America’s Empire in the Philippines”. Những cuốn sách khác là: “Mao and China: A Legacy of Turmoil.” Ông làm tổng biên tập cho cuộn phim: “Vietnam: A Television History,“ và đoạt 6 giải Emmys cùng với giải The Dupont, Peabody and Polk. Ông cũng là tổng biên tập và thuyết minh cho “The U.S. and The Philippines : In Our Image.”
Ông Karnow sinh ở New York City năm 1925, gia nhập quân đội Mỹ trên chiến trường Trung Hoa - Miến Điện - Ấn Độ hồi Đệ Nhị Thế Chiến, tốt nghiệp Harvard và tu nghiệp ở Sorbonne và trường Khoa Học Chính Trị Paris. Ông hiện trở lại Harvard, trường Chính Trị Kennedy và Trung Tâm nghiên cứu Á Đông cũng với chức vụ nhà nghiên cứu. Một cư dân Potomac, Maryland, ông có một vợ và 3 con, 2 cháu.
Trong bài viết, tác giả nhắc đến Cộng Sản Việt Nam và Việt Cộng nhiều lần. Khác với chúng ta, Việt Cộng hay Cộng Sản Việt Nam là một thì người Mỹ phân biệt Cộng Sản Việt Nam là Cộng Sản Hà Nội, còn Việt Cộng chỉ là bọn tay sai mệnh danh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Xin hiểu theo cách gọi của người Mỹ. Họ cũng thường gọi tên người khác một cách xách mé là Giáp thay vì đại tướng Võ nguyên Giáp, Hồ thay vì bác Hồ cũng như Bush thay vì tổng thống Bush. Tôn trọng nguyên văn, Meta không thêm vào chữ "đồng chí Võ Nguyên" trước chữ Giáp vì như thế nó có thể mất đi tính trung thực của bài dịch. Xin hiểu Meta không cố tình xách mé.
Bài viết này không phản ảnh lập trường của người Việt hải ngoại mà chỉ là một khóe nhìn của một chứng nhân lịch sử. Là những người sống trong thời chiến, chịu đựng biết bao đau khổ của chiến tranh, tuy chúng ta biết ít hơn một sử gia nhưng chúng ta biết thực hơn – không gì thực bằng những dòng mực viết bằng máu và nước mắt của chúng ta. Không ai trong chúng ta không từng quấn vành khăn tang vì chiến tranh, chẳng lẽ chúng ta không biết mình sướng hay khổ mà phải nhờ vào tài liệu ngoại quốc để tìm hiểu xem mình sướng hay khổ? Hầu hết bài viết chỉ trích gay gắt và châm biếm chua cay những sai trái của Cộng Sản Việt Nam nhưng có một đoạn, ông Karnow ví Hồ Chí Minh với Tito, một lãnh tụ Cộng Sản Nam Tư, nặng tinh thần quốc gia hơn là một tay sai Cộng Sản quốc tế thì kệ ông ấy. Trong ý hướng mở rộng tầm hiểu biết, chúng ta tìm đọc nhưng xin đừng ngả theo ông ta, vì thưa các bạn, để nhận xét một nhân vật lịch sử - Hồ Chí Minh chẳng hạn - anh hùng hay gian hùng cần nhiều tài liệu và công trình khảo cứu hơn từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, để phán đoán và cũng tùy theo ảnh hưởng của ông với từng cá nhân, từng gia đình và từng tổ chức xã hội.
Xin các bạn bắt đầu.
Sau thế chiến thế giới phân thành lưỡng cực đối nghịch. Một bên là Cộng Sản, một bên là tư bản. Sau đây là những tố giác đầy phi lý của cả hai bên.
PHÊ PHÁN CỦA TƯ BẢN VỀ CỘNG SẢN :
1- Cộng Sản có âm mưu xâm chiếm toàn thế giới :
Điều này dễ thấy từ các phần tử trong Đệ Nhất Quốc Tế và trong trào Stalin, khi Sô Viết thường xuyên lén lút cử những đảng viên ra nước ngoài làm công tác gián điệp . Bây giờ những tài liệu thời Stalin đã được bạch hoá, ai cũng biết. Thêm vào đó khi Cộng Sản bị cấm đoán, ruồng bố chúng rút vào bí mật giống như những tín đồ Công Giáo bị cấm đạo dưới trào Nguyễn phong kiến. Nhưng nói Cộng Sản âm mưu xâm chiếm thế giới 1 cách tổng quát thì hơi vô lý.
Đầu tiên ta phải biết Karl Marx chống lại bọn Đệ Nhất Quốc Tế trong chủ trương âm mưu khủng bố. Cuốn Bản Tuyên Ngôn (Manifesto)năm 1848 đề cao sự tuyên truyền giáo dục quần chúng và bắt đầu chế nhạo những nhận xét rằng Cộng Sản là 1 bè đảng với âm mưu đen tối.
Mặc dầu Cộng Sản lãnh đạo bởi Lê Nin không che giấu tham vọng của họ, họ cũng thành công trong cuộc cách mạng 1917 mà hầu hết các phần tử không nhất trí về tư tưởng với nhau. Mặc dù nhóm của Lenin tự xưng là Đa số (Bolsheviks), thực ra họ là 1 thành phần rất nhỏ của đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga . Sự quyết tâm trở nên người lãnh đạo của nhà nước, nguyên tắc chặt chẽ về tổ chức giúp cho họ trở nên đạo quân tiên phong của giai cấp vô sản, chuyên chính, tiêu diệt mọi đảng phái, thế lực đối nghịch. Họ được ủng hộ của quân đội và công nhân nhưng chắc chắn rằng đa số nhân dân Nga không chấp nhận họ.
Đơn cử vài thí dụ . Cuộc cách mạng của Fidel Castro năm 1956-1959, cuộc cách mạng của Hồ Chí Minh - biến đất nước thành đạo quân đánh mướn cho Cộng Sản quốc tế, bất kể xương máu đồng bào hai miền - đều không tuyên xưng chủ nghĩa Cộng Sản cho tới khi nắm chính quyền. Một thủ đoạn lừa bịp nhân dân. Thực sự mà nói, sự ủng hộ của quần chúng đều bắt nguồn từ giáo dục, sách động, tự hào dân tộc, kiểm soát, áp bức lưu đày và thủ tiêu. Tất cả các cuộc cách mạng Cộng Sản thành công vì nó thay mặt quần chúng chống lại những mối đe dọa trước mắt phát sinh từ những vấn nạn thời cuộc chứ không phải vì ý thức hệ Cộng Sản .
2- Cộng Sản đối nghịch với dân chủ :
Lịch sử cung cấp cho ta vô số những bạo chúa Cộng Sản về luận điểm này. Stalin, Mao, Hồ, Pon Pốt, Lê Duẫn điển hình cho các bạo chúa Cộng Sản. Điểm quan yếu là Marx cho rằng Cộng Sản là siêu dân chủ. Cái mà Marx thoạt tiên chống là những cái hạn chế của dân chủ. Dân chủ trưởng giả đã bị lên án không vì nó là dân chủ mà vì nó tập trung trong tay bọn trưởng giả, do đó nó phục vụ cho giai cấp trưởng giả. Lập luận này thật là nguỵ biện. Nó đưa đến một nghịch lý : nếu dân chủ tập trung trong tay nhà nước Cộng Sản, nó cũng chỉ phục vụ cho đảng Cộng Sản mà thôi .
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Cộng Sản mệnh danh là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa Tư Bản và Cộng Sản thì người quốc gia lại nói rằng đó là cuộc chiến giữa Cộng Sản và Dân Chủ. Cộng Sản có thể thường xuyên phản bội lý tưởng dân chủ và ngay cả nhiều lúc lên án Dân Chủ, nhưng những người xã hội chủ nghĩa lúc ban đầu đã được gợi ý từ tư tưởng dân chủ và tư tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa chính là một khai triển của Dân Chủ .
3- Cộng Sản là hoang tưởng vì nó chống lại nhân tính. Bản tính con người thiên về cạnh tranh hơn là hợp tác :
Lập luận này thực ra trái ngược với Marx trong Bản tuyên ngôn (manifesto) nơi ông ta trình bày quan điểm rằng không có một nhân tính cố định. Thái độ và cử chỉ con người thay đổi không ngừng theo chuyển biến kinh tế. Engels tiếp tục nỗ lực của Marx bằng dẫn chứng rằng các xã hội săn bắn và làng mạc cổ xưa lệ thuộc sâu xa vào hợp tác hơn là cạnh tranh. Điều này chỉ đúng ở thời thượng cổ. Có lẽ Marx và Engels muốn kềm hãm xã hội ở mãi trong thời thượng cổ mà mặt khác lại khẳng định "Thái độ và cử chỉ con người thay đổi không ngừng theo chuyển biến kinh tế." Toàn nghịch lý nối tiếp nghịch lý. Ngụy biện kéo theo ngụy biện. Đây là 1 tranh luận không đi đến kết thúc vì chưa 1 chế độ Cộng Sản hay Xã Hội Chủ Nghĩa nào thành công trong việc tạo dựng 1 utopia, nơi những công dân Cộng Sản gương mẫu trong 1 xã hội lý tưởng.
4- Tất cả con người xã hội chủ nghĩa là Cộng Sản hết :
Nói thế này mới đúng. Tất cả con người Cộng Sản là xã hội chủ nghĩa. Trong tự vựng Cộng Sản, từ "xã hội chủ nghĩa " được hiểu rộng hơn. Nó bao gồm nhiều học thuyết chính trị khác nhau trong đó có Cộng Sản. Nhiều nhà xã hội chủ nghĩa Tây Âu trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã chống Cộng Sản kiểu Sô Viết giống như tất cả các nhà xã hội chủ nghĩa ngày nay.
5- Phe Tư Bản còn lập luận :
- Thị trường tự do mang lại hàng hoá chất lượng cao với giá thấp. Vì vậy hạn chế thị trường tự do thì chỉ có hại.
- Sự lớn mạnh của Tư Bản có nghĩa là lớn mạnh của tự do.
- Cơ hội thăng tiến đồng đều trong thế giới tư bản.
- Tư nhân hoá thương nghiệp mang lại tinh thần trách nhiệm nơi mỗi cá nhân . Kinh tế kiểu hợp tác xã như Sô Viết, Tàu, Vietnam ... đầy dẫy tệ nạn tự ý vắng mặt, ăn cắp, lười biếng được thể hiện qua câu khôi hài : Chính phủ giả vờ trả lương và nhân dân giả vờ làm việc.
Những tố giác trên đều có mặt trái của nó. Nhưng xin bước qua phần tố giác của phe Cộng Sản vì những phi lý của tư bản, Meta đã mổ xẻ, trình bày đã quá dài dòng.
PHÊ PHÁN CỦA CỘNG SẢN VỀ TƯ BẢN :
1- Tư bản luôn được thúc đẩy bởi những nhận định kinh tế :
Marx nghĩ rằng ông ta "ngộ" được 1 cơ sở khoa học cho chủ nghĩa xã hôi bằng cách thấy tất cả mọi sinh hoạt xã hội được đẽo gọt qua phương tiện sản xuất và trao đổi văn hoá qua sự nghiên cứu. Marx có thể thủ đắc 1 tâm thức phi thường. Phương pháp phân tích của ông có thể vẫn hữu ích cho tới ngày nay. Nhưng nó rõ ràng rằng các quốc gia tư bản và cư dân của nó thường bị lôi cuốn vào quốc gia chủ nghĩa, tôn giáo hay những cơn cuồng nộ khác lấn át lợi ích kinh tế của họ . Cuốn Notes from Underground cho thấy con người thường hành động ngược với quyền lợi của mình dù con người được hiểu như cá nhân hay quốc gia. Trong cuộc chiến tranh Vietnam, những người chủ chiến thường trích dẫn lời của tổng thống Eisenhower rằng Đông Nam Á không thể lọt vào tay Cộng Sản vì giá trị tài nguyên thiên nhiên của nó. Chính bọn Việt Cộng cũng khoe khoang đất nước ta tiền rừng bạc bể nhưng bất cứ ai nghiên cứu về chiến tranh Vietnam khó thấy bằng cớ của lợi ích kinh tế nào cả. Thực ra, Eisenhower cảm thấy bất đắc dĩ dùng hai chữ tài nguyên để cổ súy cho cái cuộc chiến tranh mang bản chất ý thức hệ trong những thuật ngữ tư bản bởi nó được coi như hợp lý trong các quốc gia tư bản.
Tinh vi hơn, những lập luận Marxist còn nói rằng sự thống trị kinh tế thế giới và sự thành lập của chủ nghĩa đế quốc tân thực dân buộc phải đánh bại Cộng Sản, vì vậy những cuộc chiến tranh tốn kém có mục đích lâu dài là làm cho thế giới an toàn hơn cho quyền lợi các tập đoàn. Đây là luận cứ vận dụng được toàn lực quốc gia nhưng nó không thể là giải thích toàn bộ cho chính sách đối ngoại bên trong những quốc gia tư bản.
2- Tư bản đề xướng chiến tranh để thủ lợi :
Lập luận này chỉ đúng trong thời kỳ khủng hoảng năm 1930 bằng chi phí chiến tranh khi Mỹ khôi phục kinh tế nhờ cuộc chiến. Nó coi chính phủ đơn giản như công việc thương nghiệp. Kinh tế Âu Châu không kinh qua những lợi ích giống như vậy. Mọi thương nghiệp thua lỗ hơn là thủ lợi trong chiến tranh. Đối với kinh tế thế giới, chiến tranh là kẻ đại thù của thương trường, phá huỷ cả thị trường lẫn tài sản.
3- Tư bản huỷ hoại môi sinh :
Rõ ràng chính phủ khắp nơi làm hư hại môi sinh. Bầu khí quyển, nước ở Vienam, Tàu, Mễ thật là dễ sợ . Hãy đi qua các con kinh ở đường Hậu Giang quận 10 hay bất cứ sông rạch nào ở SaiGon để thấy rõ điều Meta nói để so sánh với sự tàn hại của Mỹ ở Ba Tây, Nhật ở Mã Lai mà bọn Cộng Sản lên án. Tuy nhiên Cộng Sản lại tránh nói đến Sô Viết biến những khu vực lớn ở Đông Âu thành những bãi phế thải độc hại tệ hơn bất cứ nơi nào trong thế giới tư bản. Chưa kể những tai nạn kỹ thuật kiểu lò nguyên tử Chernobyl bị che giấu thời Sô Viết. Ít nhất trong kinh tế tư bản, sự san sẻ những lực lượng kinh tế đôi khi tạo thành những áp lực chống ô nhiễm môi sinh : Lợi ích của ngành bất động sản địa ốc chống những nhà máy nguyên tử, ngư nghiệp chống những công trình thuỷ điện. Những đồ án phát triển đơn phương không bị bắt buộc cứu xét về môi sinh thường gây những thiệt hại môi trường.
4- Xã Hội Chủ Nghĩa thích hợp hơn Tư Bản Chủ Nghĩa trong những quốc gia kém phát triển:
Điều này quá phức tạp để bàn thảo ở đây 1 cách thấu đáo nhưng nhiều quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa ở Phi Châu, Trung Đông hay nơi khác được mệnh danh là thế giới thứ ba, chỉ là Xã Hội Chủ Nghĩa bởi cái tên. Chúng được cai trị bởi các nhà độc tài chuyên ăn cắp tài sản quốc gia đem trữ ở các nhà băng Thuỵ Sĩ. Những nước Xã Hội Chủ Nghĩa khác như Vietnam, Cuba thời chiến tranh lạnh, được nuôi sống một cách thoi thóp bằng tiền của các quốc gia đàn anh như Tàu, Sô Viết. Nhưng tổ chức quốc tế như World Bank nhấn mạnh vào sự cởi mở kinh tế với đầu tư có thể tác hại đến danh dự và độc lập của các quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa kém phát triển, nhưng nếu không có cơ quan này, Xã Hội Chủ Nghĩa không thể tồn tại. Trừ phi người ta bằng lòng sống dưới một chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa thấp kém, nghèo đói, đóng kín chuyên về nông nghiệp; Một nền kinh tế đầy triển vọng phải được phát triển vượt bực và cuối cùng là Xã Hội Chủ Nghĩa không thể sánh với Tư Bản Chủ Nghĩa trong việc đảm đương sự phát triển này.
Những tư tưởng xung khắc này là nguyên nhân sâu xa cho cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài nhiều chục năm qua . Mọi học thuyết cho dù hợp lý đến đến đâu cũng bị đào thải trong dòng lịch sử vì rằng không học thuyết nào có thể tồn tại lâu dài mà không phục vụ thiết thực cho con người.
Chiến tranh Việt Nam đã tốn biết bao giấy mực và mỗi quan điểm đều nặng thiên kiến vì người nhận xét đều đóng một vai trò nào đó trong cuộc chiến. Là nhân chứng, không ai chối bỏ được cái mà họ mục kích và kể lại là sai sự thực nhưng cũng vì là nhân chứng, khóc cười theo những biến cố, người bày tỏ quan điểm thường mang tình cảm riêng tư vào làm sai lệch các sự kiện. Hãy tìm hiểu chiến tranh qua quan điểm của một phóng viên Mỹ, một nhãn quan ta ít để mắt tới. Ông Stanley Karnow.
Karnow tại Việt Nam
Sử gia - phóng viên Stanley Karnow tại nhà riêng ở Potomac, Md., hình chụp năm 2009. Ông chết tại nhà ngày 27 tháng 1 năm 2013, thọ 87 tuổi.
Còn tiếp
Comment