Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đọc thơ lính miền Nam

Collapse
X

Đọc thơ lính miền Nam

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đọc thơ lính miền Nam


    Đọc thơ lính miền Nam



    Thời nào cũng vậy, người đọc thơ bao giờ cũng ít, nhất là đọc thơ của lính. Sinh viên học sinh hay công chức lại thường ít đọc thơ lính hơn cả. Thế giới dân sự và thế giới của lính khác biệt nhau quá đến nỗi có thể gọi là “bất đồng cảm” (?)

    Lính mà đọc thơ lính thì hiểu và thương, thương thân và thương những đồng đội của mình.

    Tôi cũng đã là lính, nên đã đọc nhiều thơ lính… Từ đó, tôi đã sưu tầm, chọn ra 125 bài thơ của 51 tác giả mà tôi chủ quan cho là “xuất sắc” để giới thiệu cho những độc giả “có điều kiện” đọc và thích đọc thơ lính. Tôi thực hiện một tập thơ nhỏ bé, tự in bằng thủ công rất thô sơ, có hình thức rất bình dân - mang tựa là “Thơ lính chiến miền Nam”.

    Tập thơ mỏng chỉ dầy 110 trang, trình bày đơn giản, nhưng trong đó có lửa, máu, mồ hôi… và nước mắt của lính và dân, cả hai miền Nam, Bắc.

    Đây không phải là một tuyển tập đầy đủ những bài thơ chiến đấu của những tác giả nổi tiếng hoặc vô danh của quân đội miền Nam. Đây chỉ là một sưu tầm nhỏ của một độc giả bình thường, một người lính đọc những bài thơ của lính. (Trích Lời Mở Đầu tập thơ)

    Thơ lính chiến miền Nam gồm một số bài thơ của lính tác chiến QLVNCH. Họ là những người mà trong cuộc chiến đã phải mang vác những hành trang của người đi đánh trận: ba-lô, nón sắt, súng dài, súng ngắn, bản đồ, địa bàn… Họ có thể là một người lính đóng quân ở một tiền đồn xa xôi, ở một căn cứ hỏa lực, hoặc ngày ngày lặn lội hành quân trên khắp nẻo đường quê hương Việt Nam khốn khổ.

    Họ không phải là lính thành phố, hoặc quan văn phòng… Họ phải đi xa nhà, xa những thành phố, xa những tiện nghi và thú vui… Họ đi để chiến đấu, đổ máu và chết… ở những miền đất xa xôi, lạ lẫm dọc chiều dài đất nước.

    Hãy nghe nỗi buồn xa nhà của một người lính:

    “... Đèn xanh thành phố xa trông
    Hoang vu anh đứng mà lòng chiêm bao
    Mưa rừng tiếng lá xôn xao
    Tay ôm súng lạnh buồn sao là buồn!...”
    (Đêm mưa hành quân - Bùi Khiết)


    Và nỗi nhớ người yêu của một tác giả có bút hiệu là Dã Nhân:

    “…Những lúc ngồi buồn trên chiến đỉnh
    Nắng lên ta thấy nhớ trong lòng
    Người yêu tóc xõa tình lưu xứ
    Biền biệt chiều xưa mưa trắng sông...”
    (Uống rượu với Duyên ở Thạnh Phú Đông - Dã Nhân)

    Với người lính trẻ, độc thân như Nguyễn Văn Ngọc, là chút bâng khuâng nghĩ đến người yêu cũ khi dừng chân, ngồi nghỉ trong một quán cóc ven đường:

    “…Phố nhỏ đìu hiu buồn như thể
    Cô hàng, đôi mắt ướt, xa xăm
    Cũng tóc xõa vai cho ta nhớ
    Người yêu xưa giờ đã mù tăm...”
    (Viết trên đường chuyển quân - Nguyễn Văn Ngọc)

    Trước khi nhập ngũ, những người lính này có thể đã là một học sinh vừa xong trung học, một sinh viên đã tốt nghiệp hay dở dang đại học, một thầy giáo, một kỹ sư hay một giáo sư khoa bảng… Dù độc thân hay đã lập gia đình, họ đều còn rất trẻ, đang tuổi thanh xuân với nhiều mộng tưởng. Họ đã làm thơ, viết văn từ trước khi vào lính:

    “…Em đâu ngờ giờ đây ta làm lính
    Ngày tháng trên lưng từng vết đạn thù
    Chút thi thơ xưa cũng đành thất lạc
    Ngó lại mình mới biết đời đã hư…”
    (Thư gửi vị hôn thê không cưới được - Hoàng Lộc)

    Đó là lời trần tình của một thầy giáo đã phải nhập cuộc- làm lính- đã lỗi hẹn với người yêu của mình; vì chiến tranh nên không thể tính chuyện “trầu cau” được.
    Vì “đời đã hư”; nghĩa là:

    “…Ta bây giờ chẳng còn ham sự nghiệp
    Những lúc buồn tình mắt ngó hư không
    Riết cũng quen đi với niềm tịch mịch
    (Đứa tài hoa xưa lạc dấu muôn trùng)
    (Thư gửi vị hôn thê không cưới được - Hoàng Lộc)

    Đó! Cái giấc mộng sự nghiệp bình thường đã bị cắt đứt từ khi “làm lính”. Làm lính một thời gian có khi “đứa tài hoa” kia còn biến thành một con người khác. Đó là lúc người lính tự thấy mình xa lạ, lạc lõng khi trở về:

    “…Với màu da đen xám
    Tôi ở chiến trận về…
    ……………………
    Không còn gì nữa cả
    Để cho em sau này
    Anh con người xa lạ
    Giữa cuộc đời hôm nay…”
    (Người xa lạ- Huy Lực)




    Vì người lính chiến nào cũng “Áo trận sờn vai, giầy sault bụi bám…” như lời một bài hát:

    “…Em đừng hỏi ở rừng có gì lạ
    Có gì đâu giầy áo đó hôi rình
    Khi về phố chắc ta thành khách lạ
    Thành người điên với dáng thú buồn tênh…”
    (Thư gửi người ở lại - Trần Dzạ Lữ)

    Nguyễn Sinh Từ còn mô tả “người xa lạ” là bản thân mình với những nét rất cụ thể:

    “…Ta để tóc để râu như hiền triết
    Về phố phường trông dáng rất hung hăng
    Người tình cũ ngỡ rằng ta đi biệt
    Nên đôi giầy há mõm bước lang thang…”
    (Trần tình - Nguyễn Sinh Từ)

    Chiến tranh có thể biến những người trẻ tuổi “bạch diện thư sinh” thành những con người khác sau khi đã cắt đứt những mộng tưởng của họ. Nhưng dù muốn hay không, họ vẫn phải nhập cuộc, đơn giản vì đó là trách nhiệm của người trai trong lúc đất nước đang cơn qua phân, ly loạn. Ra đi, họ không còn dám mơ ước gì cho chính bản thân mình; bởi tương lai đã quá mù mịt, như xác định rõ ràng của Vũ Hoàng:

    “…Như người biết ta có nhiều mơ ước
    Mà bây giờ đâu phải lúc ước mơ
    Ta lặng câm cúi mặt đợi chờ
    Như tử tội đợi đến giờ hành quyết…”
    (Mưa xuân ngoài biên khu - Vũ Hoàng)

    hoặc bi quan như Nguyễn Ngọc Nghĩa:

    “…Em đừng chờ cho anh thôi thương xót
    Là ra đi anh còn mãi vườn xanh
    Môi em lạ chiều nào thơm trái ngọt
    Là ra đi anh biết mộng không thành…”
    (Loài chim trắng còn xa - Nguyễn Ngọc Nghĩa)

    Nhưng, những người lính này lại đều có chung một ước mơ: chiến tranh chóng kết thúc, và thanh bình trở lại… Họ tham dự vào cuộc chiến để chỉ mong điều đó:

    “…Một đêm tôi mơ thấy mình về quê
    Ôi thật là sung sướng!
    Tôi ngồi trên một cánh đồng
    Tôi nằm trên một bờ ruộng…”
    (Mơ thấy - Vũ Thúy Thụy Ca)


    để có thể trở về với vợ con như lời thơ của Nguyễn Cát Đông:

    “…Một mai trả súng lại đời
    Ta về ngủ thiếp bên người tình chung
    Bên ta con ngủ an lành
    Bên ta vợ bỗng trở mình, gọi: Anh!...”
    (Thư cho vợ con ở Cần Thơ - Nguyễn Cát Đông)

    Không chỉ là mơ ước một “thanh bình riêng rẽ” - một separate peace của viên trung úy Henry và cô y tá Catherine trong A Farewell to Arms của Hemingway - mà còn là mơ ước xây dựng lại đất nước khi thanh bình:

    “…Lúa có nghĩ rằng ngày mai sẽ khác
    Súng sẽ dùng để đúc lưỡi cày
    Mỗi ba trăng lúa vàng tròn hạt
    Chim sẽ ca và gió thổi lúa say…”
    (Đêm kích dưới chân đồi Pá - Nguyễn Dương Quang)

    Những người lính này đã mơ ước như bao người Việt Nam mơ ước. Họ không tìm công danh trong đời lính. Đại đa số tác giả của những bài thơ trong tập thơ này là những sĩ quan trừ bị, nghĩa là nhập ngũ theo lệnh tổng động viên từng thời kỳ… Họ không tình nguyện, họ chỉ thi hành nhiệm vụ khi được gọi. Ra đi, họ đã có vô vàn những nỗi phân vân:

    “…Hình như cây súng con lạ lắm
    Sao nó run lên khi đạn lên nòng
    Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
    Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?...”
    (Đêm cuối năm viết cho má - Nguyễn Dương Quang)

    Và sự hoài nghi trở thành những câu hỏi:

    “…Ra đi làm lính - Ừ đi lính!
    Đi để xa nhà đi đến đâu?
    Thiếu vắng bàn tay làm rượu ấm
    Ta người kiêu bạc khóc thương đau…”
    (Ba năm làm lính về Dakto - Lâm Hảo Dũng)

    Là một câu hỏi về cuộc đời của chính mình:

    “…Tôi nhìn tôi những phân vân
    Đời trai giờ chỉ có ngần ấy sao?...”
    (Phiên gác đêm - Chu Trầm Nguyên Minh)

    Trong khi người lính vẫn biết những gì chờ đợi ở phía trước:

    “…Bỏ đằng sau thành phố với cuộc đời
    Và không biết bao nhiêu điều muốn nói
    Anh ngửa mặt xin Trời cho nhận tội
    Về rừng tên sắp sửa bắn ra này…”
    (Khởi hành - Lữ Quỳnh)

    Và cả những ngày dài sắp tới:

    “…Vẫn bản đồ đút trong ngực áo
    Hỏa tập chi chít băm vằm
    Đời đóng khung trong những ô vuông
    Và phận người một hàng tọa độ
    Vẫn địa bàn đong đưa trước mặt chỉ đường…
    Nhưng bắt đầu đưa chân
    Thế hệ mình đã lạc…”
    (Về những ngày sắp tới - Nguyễn Phan Thịnh)



    Là những người lính có học - nếu không gọi là trí thức - và có tâm hồn; khi đã vào lính, họ không thể nào thôi không làm thơ. Cái hoàn cảnh sống-chết của họ đặc biệt quá. Những trải nghiệm của họ phong phú quá, như Chinh Yên đã viết:

    “….Tôi đã đi giáp vòng thiên địa
    Gặp lại tôi cuối chặng phong trần
    Trái đất tròn quay riết cũng mòn
    Tôi cũng thế đã mòn quá nửa….”
    (Chờ đợi điều chi rất lạ thường - Chinh Yên)

    Những trải nghiệm đó thường khi rất tàn bạo:

    “…Anh bới sâu lòng đất
    Chôn xác những thằng người
    Những thằng người bất hạnh
    Trong một nội chiến tương tàn phi lý và bẩn thỉu…”
    (Nơi anh đồn trú - Huỳnh Hữu Võ)

    Sự tàn bạo không tránh được trong chiến tranh:

    “….Ta pháo gầm vang một góc rừng
    Đồi tây giặc khiếp ngắm đồi đông
    Những ai trong phút kinh hoàng ấy
    Tay súng trang nghiêm mắt trợn trừng…”
    (Ngày về Benhet - Lâm Hảo Dũng)

    Nhiều khi nạn nhân lại là những thường dân vô tội:

    “…Có mẹ già bỏ nhà chạy mang cháu nhỏ
    Những đoàn người ngơ ngác chạy trốn chiến tranh
    Đạn bỗng rơi và thêm nhiều người ngã xuống
    Lòng người ở đây như biệt dạng mất tăm…”
    (Mưa và nỗi chết ở An Lộc - Nguyễn Tiến Cung)

    Chiến tranh nào không gây ra chết chóc, đổ vỡ. Nỗi buồn này đã trở thành chua xót khi đây lại là một cuộc nội chiến:

    “…Anh ở miền Nam lạc đến đây
    Còn quân phương Bắc ngủ xuôi tay
    Chiến tranh như thể trò tiêu khiển
    Của lũ con buôn xác chết này…”
    (Ngày về Benhet - Lâm Hảo Dũng)

    Nhưng, người lính chiến miền Nam - với trái tim của con người còn trọn vẹn “nhân chi sơ tính bản thiện” vẫn cứ thấy trong lòng áy náy, không yên, để phải lên tiếng biện hộ cho chính mình:

    “…Ta mang súng trường tưởng săn chim săn chuột
    Một đôi khi ta lỡ dại săn người
    Ta biết chắc Phật Trời không chấp nhất
    Không bắn người người cũng bắn ta thôi…”
    (Trần tình - Nguyễn Sinh Từ)

    Là những con người có lương tri, làm sao có thể dửng dưng trước những cảnh tượng đáng sợ như thế này:

    “…Khi ngã tư đưa vào nhà mỗi tối
    Xác chết cong queo ruồi nhặng mọc đầy
    Con đường nào dẫn em qua một buổi
    Sẽ không nồng mùi máu rợn ma trơi?...”
    (Viết trong cơn biến động Mậu Thân - Phan Nhự Thức)


    Nếu trong ca khúc, Trịnh Công Sơn đã viết: “Mẹ vỗ tay reo mừng xác con…” thì Phan Nhự Thức - một người lính chiến làm thơ - đã không dằn được nỗi hờn tủi khi viết ra những câu thơ này:

    “…Khi chiến thắng đã đo bằng mạng sống
    Người hân hoan trên thây chết ngậm ngùi
    Ta xin chém nát thân người yêu dấu
    Quà xuân đây cũng góp giọt reo vui…”
    (Viết trong cơn biến động Mậu Thân - Phan Nhự Thức)

    Người lính mang tên Nguyễn Tiến Cung còn chứng kiến những cái chết “đủ kiểu”:

    “…Mưa đổ quanh mặt trận đầy thây người chết
    Xác vắt trên kẽm gai, xác vắt cạnh hào
    Xác cúi khom khô cứng, xác gầy như bệnh
    Mưa trên xác chết trời chẳng chút nghẹn ngào…”

    Cho nên, anh đã viết thêm:

    “…Có người tình đứng nhìn người yêu chết trận
    Vẻ hãi hùng còn in trên đôi mắt quầng thâm
    Anh đứng giữa cơn mưa đầy tràn cảm xúc
    Lòng người ở đây như biệt dạng mất tăm…”
    (Mưa và nỗi chết ở An Lộc - Nguyễn Tiến Cung)

    Nếu không phải là lính trận - và có những trải nghiêm của lính trận - khó có thể viết ra được những câu thơ như vậy. Những người lính này đã làm thơ để mô tả những gì mình thực sự trải qua và nói lên những cảm xúc của mình, những cảm xúc đầy ắp tình người mà, nếu không được hấp thụ một nền giáo dục đề cao nhân bản, khó lòng viết ra được. Họ đã viết ra được, và viết quá hay.

    Những bài thơ này còn bày tỏ - rất thường xuyên - nỗi ám ảnh cái chết không rời từng giây từng phút, cái chết của chính họ - những người lính trận:

    “…Uống đi Khoa đời mấy thằng chung thủy
    Uống đi Ngư cho chết ngất thiên thu
    Giữa đời ta không phân biệt bạn thù
    Chuyện sinh tử là chuyện từng giây phút…”
    (Khi xa Bình Tuy - Trần Văn Sơn)

    Đành rằng “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, lính trận có chết cũng là chuyện bình thường; nhưng thử hỏi, nghĩ đến cái chết của chính mình ai mà không ngậm ngùi?

    Hãy nghe thái độ của từng người khi nhắc đến cái chết của chính mình.

    Chuẩn Nghị, một người lính đã tử trận năm 1969, trước đó đã có linh cảm thật buồn:

    “…Anh trở về trong chiều hoang chiếu nắng
    Trong hòm gỗ hoặc trên chiếc băng ca
    Anh trở về nằm giữa vòng hoa
    Những vòng hoa tang chan hòa nước mắt…”
    (Kỷ vật - Chuẩn Nghị)

    Huỳnh Kim Sơn thì mong được uống rượu với bạn, như một kỷ niệm, rồi “tới đâu hay tới đó”:

    “…Ta mời bạn đúng chiều ba mươi Tết
    Ghé hầm ta uống chén rượu tàn năm
    Để mai mốt lỡ mình an phận chết
    Vẫn ghi đời kỷ niệm buổi liên hoan! …”
    (Chén rượu chiều ba mươi - Huỳnh Kim Sơn)

    Lâm Hảo Dũng lại có mong muốn được chết rất hồn nhiên:

    “…Mai ta cắt tóc thay đời mới
    Hát thật hồn nhiên dưới lá cờ
    Xin chết hôm nay đầy bóng tối
    Còn hơn mai chết chẳng ai đưa…”
    (Ba năm làm lính về Dakto - Lâm Hảo Dũng)

    Còn Luân Hoán thì, sau cái chết của một đồng đội, đã tự hỏi:

    “…Nam ơi, Đức Phổ trưa nay vắng
    Biển lặng ngồi không, xót phận mày
    Ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng
    Đến lượt ta, hay đứa nào đây?...”
    (Bàn giao cho bạn địa bàn… - Luân Hoán)

    Ngô Đình Khoa khi tả lại những nhọc nhằn của đời lính cũng không thể không nghĩ đến cái chết của mình:

    “…Nón sắt thay nồi thuốc bồi mồi lửa
    Cơm dọn ra nửa sống nửa khê vàng
    Miếng được miếng không nuốt ngày sống vội
    Như nữa đây chết vội đến phiên chăng?...”
    (Lính thú - Ngô Đình Khoa)

    Nhưng người lính không muốn bỏ thân nơi xứ lạ như một tên lính lê dương:

    “…Quân trú Ba Thu hơn một tháng
    Ghẻ cóc mụn nhang lạ nước thay da
    Tim với óc hỡi ơi còn chết được
    Ngày lui quân xin xác gửi quê nhà…”
    (Ba Thu - Ngô Đình Khoa)

    Giọng thơ nghe thật hào sảng và bi hùng!

    Cũng có lúc, người lính mềm lòng không dám nghĩ thêm về điều bất hạnh này:

    “…Ở làng này không ai đốt pháo
    Đêm thật buồn như bước đông đi
    Con còn có ít giờ hưu chiến
    Biết đâu chừng, thôi nghĩ làm chi…”
    (Đêm cuối năm viết cho má - Nguyễn Dương Quang)





    Nguyễn Tư khi đi hành quân qua một ngôi làng của người con gái anh quen đã bâng khuâng:

    “…Em về dưới tỉnh hiền ngoan
    Có người vừa mới qua làng em đây
    Một mai về lại nơi này
    Biết đâu người đã phơi thây chiến trường…”
    (Chuyển quân đêm qua sông Đà Rằng - Nguyễn Tư)

    Còn Nguyễn Văn Ngọc thì nhắc đến cái chết của mình rất thản nhiên:

    “…Tạm biệt nhé xuồng máy đã tới
    Tao phải đưa con cái qua sông
    Nếu chưa chết, mình sẽ gặp lại
    Nhậu quắc cần câu giữa phố đông…”
    (Chờ xuồng qua sông tình cờ gặp bạn - Nguyễn Văn Ngọc)

    Đúng là phong thái của một sĩ quan nhà nghề, đã chọn võ nghiệp thì phải xem cái chết “nhẹ như lông hồng”! Nhẹ nhàng quá!

    Phạm Ngọc Lư lại có vẻ chua xót:

    “Mười nắm gạo trộn vài vốc muối
    Đeo lên vai nặng nghĩa đầy ơn
    Mai ta bỏ thân ngoài sạn đạo
    Xin tình em một mảnh đất chôn…”
    (Đất trích - Phạm Ngọc Lư)

    Còn người lính đa cảm như Trần Hoài Thư thì chỉ mong có được những giọt nước mắt tiếc thương:

    “…Cô hàng cho xin ly cà phê nhỏ
    Tôi uống cho đầy đôi mắt trong
    Một mai tôi chết bên trời Bắc
    Em làm sao được khóc bên song…”
    (Cô hàng cho xin ly cà phê nhỏ - Trần Hoài Thư)

    Lính là nghèo, “5 đồng 3 cọc”, lãnh lương xong thì “tiền lính-tính liền”! Làm lính tác chiến thì ngoài cái mặc cảm chết chóc còn có thêm cái mặc cảm nghèo nàn. Người lính nghèo Trần Dzạ Lữ nghĩ về cái chết của lính rất thực tế:

    “…Xa em nhớ tháng thương ngày
    Ngó ra bè bạn một bầy cô đơn
    Mùa xuân châu giọt đầu non
    Lương chưa lãnh kịp biết còn sống không?...”
    (Chiều tôi - Trần Dzạ Lữ)

    Thật là thương cho người lính chiến! Cái chết của họ - nếu xảy ra - thì cũng là một thực tế mà những người thân yêu của họ phải chấp nhận; vì thế, chuyện tiền lương, tiền tử tuất là một cái gì còn thực tế hơn nữa, số tiền đó cần được lãnh đủ, để giúp cho vợ con họ có thể sống“có cái mà ăn” trong những ngày tháng sau đó. Hãy nghe Tô Nhược Châu nhắn lại vợ:

    “…Hãy ngủ yên đừng đợi chờ nghe em
    Mười hai tháng lương sau cùng là gia sản
    Anh đi không về em giữ lấy nuôi con…”
    (Lời cho vợ con trước giờ hành quân - Tô Nhược Châu)

    Yên Bằng cũng có cùng tâm trạng:

    “Em hãy lãnh dùm ta mười hai tháng lương
    Sau khi trừ đi tiền nước tiền trà
    Đem đổi lấy thịt da người chết trận…”
    (Gửi người vợ lính sư đoàn 21 bộ binh - Yên Bằng)

    Đã hiển nhiên, đây là những bài thơ chân thật và đầy chất lính trận.Hãy xem hào khí của Hà Thúc Sinh khi gặp bạn:

    “…Hãy cụng ly chết bỏ
    Tôm cua cá lươn sò
    Lương ta còn nguyên vẹn
    Còn cả cái Seiko…”
    (Nào có sá gì - Hà Thúc Sinh)

    Và nét kiêu bạc của Lâm Hảo Dũng:

    “…Ta vẫn thênh thang đùa với rượu
    Uống đi ta sẽ có quê nhà
    Uống đi chiến thắng vang lừng lắm
    Ta uống dường như để tiễn ta…”
    (Khi ở trung đoàn 42 - Lâm Hảo Dũng)

    Phạm Quang Ngọc an ủi bạn như sau:

    “…Ê thằng gà chết sao mày khóc
    Uổng phí hiên ngang cả một trời
    Lính trận hề chi ba lẻ tẻ
    Dẫu đời sương khói sắp ra khơi…”
    (Ly chiến sĩ – Phạm Quang Ngọc)

    Những người lính này cũng không cường điệu, hay bi thảm hóa hoàn cảnh sống và chết của họ:

    “…Ê mậy cùng tao cụng hết ly
    Đời người rồi cũng một lần đi
    Uống say nằm chết trên lưng ngựa
    Tráng sĩ hề chê góc nhị tỳ!”
    (Ly chiến sĩ - Phạm Quang Ngọc)

    Họ cũng không nói “thánh tướng” hay đại ngôn. Ngôn ngữ thi ca của họ biểu hiện tinh thần khai phóng và cái bầu không khí tự do mà họ đã được hít thở. Những lời thơ này, nhờ đó, rất phóng khoáng đáng yêu, như lời thơ của Chinh Yên khi so sánh hoàn cảnh của mình với hiền sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm:

    “…Hiền sĩ có trăng treo đầu ngõ
    Để lâu lâu ngắm nghía đỡ buồn
    Tôi có gì đâu ngoài súng nhỏ
    Máng đầu giường chạm gió kêu khan…”
    (Ứng chiến, đọc thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - Chinh Yên)

    Và rất đơn giản như Nguyễn Văn Ngọc nói về sự may mắn còn sống sót của mình và đồng đội:

    “…Địch lúc này mở nhiều mặt trận
    Cũng như mày, tao lội triền miên
    Bạn cùng khóa, bao nhiêu thằng rụng
    Mình còn đây chắc tại số hên?...”
    (Chờ xuồng qua sông tình cờ gặp bạn - Nguyễn Văn Ngọc)

    Trong địa ngục chiến tranh, người lính Huỳnh Hữu Võ ví mình như con bọ hung, một giống loài quá hèn mọn:

    “Nếu rừng Thái An đạn bom không dẫm nát
    Thì rượu nếp than sẽ đốt cháy tơi bời
    Anh hiên ngang như con bọ hung lửa
    Xới tan tành mấy bãi cứt trâu khô…”
    (Khi anh hành quân - Huỳnh Hữu Võ)

    Lời thơ thật ngang tàng nhưng không ngang ngược, như thái độ sau đây của Nguyễn Sinh Từ:

    “…Ta hái hoa rừng ngỡ em chưa phụ
    Ta gọi bạn bè ngỡ đứng sau lưng
    Ta ném đời ta trong cơn binh lửa
    Như ném cây khô đốt lá soi rừng…”
    (Trần tình - Nguyễn Sinh Từ)

    Cũng có giọng thơ rất hào hiệp nhưng không phách lối:

    “…Lòng ta sẽ nở ngàn hoa mới
    Tặng cho nhân loại một ngày mai
    Khi bom đạn không còn vang nổ
    Khi ta nhìn thấy lửa tương lai…”
    (Khi dắt quân đi tắm biển - Trần Đắc Thắng)

    Cũng có lúc những lời thơ lại vô cùng mềm yếu và đầy tình cảm…với những nỗi buồn, niềm khát khao, ham muốn…của những con người, rất người.

    Hãy nghe những thèm muốn của Lê Công Sinh:

    “...Mấy tháng rồi tao chưa thấy Saigon
    Mấy tháng rồi tao không được hôn em
    Tao thèm làm tình như tao thèm sống
    Tao thèm hôn em hôn liên miên…”
    (Người về - Lê Công Sinh)

    Và lời xin rất cảm động của Trần Yên Hòa:

    “…Cho tôi ngủ nhà một đêm
    Để nghe hơi thở của vợ, của con mùi nước tiểu thương yêu
    đã từ lâu tôi thèm muốn
    Âu yếm nào trên môi
    Hãy cho tôi lời xin thật nhỏ
    Một lần rồi thôi
    Đã từ lâu ba hằng nhớ các con
    Như đã khóc một mình”
    (Lời xin - Trần Yên Hòa)








    Cùng với súng ống, hào lũy và bom đạn, không gian thi ca của họ - những người lính làm thơ - tràn đầy những ly rượu và… tiếng chửi thề… thể hiện cái tâm trạng bức bối, căng thẳng… của đời lính trận ăn bờ ngủ bụi, sống nay chết mai:

    “…Làm cạn cốc này đi thằng bạn
    Để lâu rượu nhạt uống không ngon
    Ba năm trôi nổi miền quan ải
    Không lẽ mày chưa đủ trí khôn?”

    Để rồi:
    “…Chinh chiến tạm quên đi thằng bạn
    Mềm môi đù má cuộc đời chơi”
    (Uống rượu với Duyên ở Thạnh Phú Đông - Dã Nhân)

    Có người lính có tửu lượng khá cao như Huỳnh Hữu Võ:

    “…Đặc lệnh hành quân bảy ngày “cơm no áo ấm”
    Bảy ngày đi năm lít rượu trong người
    Mở nắp bi-đông cho hơi nồng trận mạc
    Cho đất trời một vũng dưới chân anh…”
    (Khi anh hành quân - Huỳnh Hữu Võ)

    Lính cũng phải uống rượu để mừng lệnh ngừng bắn trong dịp Tết:

    “…Xin hãy cạn chén này - thêm chén nữa
    Rừng hoang vu cỏ dại cũng lên hoa
    Trong giây phút bình an còn mở cửa
    Ta ngồi nghe tim trỗi những lời ca…”
    (Chén rượu chiều ba mươi - Huỳnh Kim Sơn)

    Và uống, trước khi lên đường:

    “…Khi ly rượu này chưa làm đắng môi
    Thì anh sẽ…em ơi…còn uống nữa
    Lần thứ nhất trong đời không lần lữa
    Uống cho say còn tiếp tục lên đồi…”
    (Khởi hành - Lữ Quỳnh)

    Trong lúc nghỉ ngơi, lính cũng uống:

    “…Khi dưỡng quân khề khà dăm ly đế
    Ngất ngưỡng say ta học nói tiếng Miên
    Quên chữ thánh hiền quên con quên vợ
    Ta như than lem luốc đủ trăm miền…”
    (Ba Thu - Ngô Đình Khoa)

    Trên đường hành quân gặp bạn thì tất nhiên phải uống:

    “…Uống đi mày, hãy uống cho cạn
    Rượu trùng phùng trên đường hành quân
    Lát nữa biết đâu chừng đụng trận
    Có chút men đánh đấm thêm hăng…”
    (Chờ xuồng qua sông tình cờ gặp bạn - Nguyễn Văn Ngọc)

    Còn khi ở hậu cứ chờ lệnh hành quân, lính còn uống “dữ”:

    “…Đ.m. ! Sao mày không uống đi
    Mặt con gà chết thấy mà ghê
    Ngày mai xung trận còn hay mất
    Phú quý, công danh, một tiếng khì…”
    (Ly chiến sĩ - Phạm Quang Ngọc)

    Được uống rượu với địch quân quả là chuyện hy hữu, vì thế Phan Xuân Sinh đã rất “hứng chí”:

    “…Những thằng lính thời nay không mang thù hận
    Bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
    Thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
    Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu…”
    (Uống rượu với người lính Bắc phương - Phan Xuân Sinh)

    Còn khi đồng đội ra đi thì người lính thương bạn và lại nhớ những lần cùng uống rượu:

    “…Đ.m ! Tụi bây chết thật rồi
    Ta nghe hồn chết giữa mưa rơi
    Bao giờ ta lại ngồi uống rượu
    Cùng kể nhau nghe những chuyện rời…”
    (Khóc chiến hữu - Trần Đắc Thắng)

    Cũng có khi người lính uống rượu rất “triền miên”:

    “…Hãy uống cạn cho lòng vơi nỗi nhớ
    Rượu chất đầy: nón sắt, bình đông
    Người lấy rượu đốt men xuân càng nồng
    Ta say khướt để quên đời dưới đó

    Dẫu là xuân, hay hạ, đông, gì cũng thế
    Bởi quanh năm ta với rượu: đôi bạn già
    (Tiễn thằng bạn vừa mất ta nốc đầy cốc rượu
    Mừng kẻ nhập đàn ta lại cụng ly…”)
    (Mưa xuân ngoài biên khu - Vũ Hoàng)



    Đời lính chiến là buồn, khi phải đi đến những vùng đất lạ để chiến đấu… mang theo hình ảnh quê nhà, gia đình, vợ con, bè bạn, người yêu… mà sự gặp lại có khi chỉ là mơ ước. Những nỗi nhớ thương này có lúc là một ngậm ngùi:

    “…Rồi cũng mình anh ngùi thương kỷ niệm
    Giận ngày xưa quên tính chuyện ngày về
    Khi dong ruổi với trăm lần lỡ vận
    Bỗng nghe thèm tắm lại nước sông quê…”
    (Lại một mùa xuân viễn xứ - Hoàng Lộc)

    Có lúc rất nao lòng:

    “…Ta cũng có mẹ già mòn mỏi đợi
    Những mùa xuân biền biệt bóng ta về
    Tóc mẹ trắng đã bao chiều sương khói
    Mắt đìu hiu sầu mấy dặm sơn khê…”
    (Chén rượu chiều ba mươi - Huỳnh Kim Sơn)

    Nỗi buồn nhớ quê nhà và mẹ của Lâm Hảo Dũng rất giản dị:

    “…Thương mẹ ngày xưa muốn bỏ đời
    Nhớ gian nhà lá đám mồng tơi
    Nhớ sân giậu cũ chùm hoa bí
    Và mẫu vườn xanh ổi chín mùi…”
    (Ba năm làm lính về Dakto - Lâm Hảo Dũng)

    Người lính cũng biết ở quê nhà những người thân yêu vẫn từng ngày nhớ thương và chờ mong họ trở về:

    “…Thôi, má ngủ đêm nay ngon giấc
    Con ngồi đưa chiếc võng rách quê nhà
    Đạn vòng cầu đừng đi trong đêm tối
    Lệ sẽ đầy giấc má nhớ con xa…”
    (Đêm cuối năm viết cho má - Nguyễn Dương Quang)


    Và từng đêm nguyện cầu cho họ được bình yên:

    “…Bây giờ đã tháng tư trời mây vào hạ
    Mẹ chắc đang sửa soạn đi lễ chùa
    Và em nguyện cầu cho anh mỗi tối
    Cho người miệt mài sớm nắng chiều mưa…”
    (Tường trình cho em - Phạm Văn Bình)

    Làm lính xa nhà là một thiệt thòi. Có lúc người lính nhớ đến người yêu trong nỗi ngờ vực:

    “…Buồn lắm em ơi nào hiểu không
    Ở đây vết lệ giòng tuôn giòng
    Phương kia thành phố vui bè bạn
    Có nghĩ gì ta một nẻo mong?...”
    (Buổi dừng quân tháng ba - Phan Nhự Thức)

    Cũng có khi tình yêu lính đã nhuốm màu phản bội:

    “…Ta vẫn nằm. Trên đồi gió thổi
    Chim hót ban ngày, pháo dội ban đêm
    Em cứ chạy theo từng mốt mới
    Còn ta, uống rượu để tìm quên….”
    (Nghe chim hót trên đồi 55 - Phan Xuân Sinh)

    Dù vậy, người lính vẫn còn có mẹ và em để nhớ:

    “Lòng nhớ mẹ phương Tây
    Ý thương em chạy giặc
    Xóm làng sầu khôn khuây
    Đất trời thêm hiu hắt…”
    (Bữa cơm ngoài chiến trường - Trần Dzạ Lữ)

    Nỗi nhớ thương mẹ và em là nỗi nhớ ngập lòng:

    “…Phất phơ áo lụa trên cầu
    Nắng nghiêng cổ tháp ngả màu thời gian
    Gió xao sóng nước mênh mang
    Thương em nhớ mẹ ngập tràn nhánh sông…”
    (Chiều qua sông - Trần Vạn Giã)

    Còn nỗi nhớ người yêu thì luôn quay quắt:

    “Em đừng hỏi ở rừng có gì lạ
    Có gì đâu rừng rú điêu tàn
    Nai lạc dấu-ngàn thương trăng cũ
    Ta nhớ người tình quay quắt trong sương…”
    (Thư gửi người ở lại - Trần Dzạ Lữ)

    Nhưng, nhớ thương là vậy, còn người lính thì vẫn chưa về được vì còn bận rộn:

    “…Đêm rơi sương ướt đẫm
    Quả tim vết đạn hằn
    Ba năm ôm súng đạn
    Chưa một lần về thăm…”
    (Đêm kích ở Đồn Đền - Trần Văn Sơn)








    “…Chim chiều khắc khoải xa xa
    Lòng buồn như ứa mắt ra đầm đầm
    Tính ra, ừ đã nhiều năm
    Phong trần ta vẫn biệt tăm chốn nào…”
    (Ghé Krongpha ngồi nhớ - Phan Ni Tấn)


    Đó là tình cảm của người lính với quê nhà, gia đình và người yêu.

    Còn với địch quân thì sao?

    Một điều đặc biệt, khác thường… không tìm thấy trong tâm thức người lính của một quân đội nào khác đang lâm chiến với một quân đội nào khác ở các cuộc chiến tranh nào khác. Đó là lòng thù hận hoàn toàn vắng bóng trong những bài thơ này.

    Mặc dù đi đánh nhau một sống một chết, lòng thù hận không có ở những người lính QLVNCH. Không tìm thấy một câu thơ, một danh từ, một tính từ hay trạng từ nào nói lên lòng căm thù những người lính phương Bắc ở bên kia chiến tuyến là địch quân của họ.

    Chính những người lính này cũng đã xác nhận như vậy; hãy nghe Lâm Chương kể về những đồng đội của mình:

    “…Ơi những thằng bạn nhỏ
    Cầm súng không hận thù
    Dừng quân ngồi tâm sự
    Lòng nao nao nhớ nhà…”
    (Lá xanh hồn du mục - Lâm Chương)

    Còn Nguyễn Dương Quang thì nói về chính mình:

    “…Cỏ biết không ta không lòng thù hận
    Lũ chúng ta một thuở thế thôi
    Ngày mai cỏ sẽ thành đồng lúa
    Cỏ sẽ thấy người nắm tay người…”
    (Đêm kích dưới chân đồi Pá - Nguyễn Dương Quang)

    Thật là những câu thơ đẹp - cái đẹp của tình người.

    Khi ngồi uống rượu với địch quân, Phan Xuân Sinh đã nói:

    “…Ta cũng có người yêu nhỏ dại
    Mỏi mắt trông chờ song cửa quê nhà
    Chuyện sống chết căn bệnh trầm kha
    Đâu dễ gì thoát vòng sinh mệnh
    Những thằng lính thời nay không mang thù hận
    Bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
    Thôi hãy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau…”

    Và anh kêu gọi:

    “…Uống với bạn hôm nay ta phải uống thật say
    Để không còn phải nhìn nhau hận thù ngun ngút…”
    (Uống rượu với người lính Bắc phương- Phan Xuân Sinh)

    Ở trường Sĩ quan nơi đã đào tạo họ (đây là Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức hay Trường Bộ Binh hoặc trường HSQ Đồng Đế), cũng có những giờ học môn chiến tranh chính trị. Những bài học đó chỉ dạy sơ lược cho họ về chủ nghĩa CS, một thứ mà trên lý thuyết lẫn thực tiễn, chắc hẳn là họ đã thấy (với lương tri của họ) đầy phi lý và quái gở. Họ không thích “những thứ đó”, thế thôi. Hãy nghe Nguyễn Dương Quang tâm sự:

    “…Có kẻ dạy ta về chủ nghĩa
    Ta nghe mà có hiểu gì đâu
    Chỉ biết xót xa rừng tít biển
    Lòng đau như mìn chặt chân cầu…”
    (Trong đêm mưa tiền đồn - Nguyễn Dương Quang)

    Chiến tranh vẫn cứ tiếp diễn, những người lính miền Nam vẫn phải chiến đấu - trong tư thế của người tự vệ - và chỉ mơ ước thanh bình, để có thể trở về và sống cái lối sống của họ, cái lối sống mà họ ưa thích. Còn những người lính ở phía bên kia chưa hẳn đã cùng một tâm tư như họ. Hãy nghe Ngô Đình Khoa mô tả đối phương của anh:

    “…Người làm giặc từ Bắc phương tràn tới
    Giáp trận súng tay cơm vắt muối vừng
    Miệng giải phóng lưỡi điêu ngoa trăm tội
    Tim óc người chất ngất những hờn căm…”
    (Lính thú - Ngô Đình Khoa)

    Vì thế mà vẫn cứ tiếp tục đánh nhau, như lời kể của Trần Dzạ Lữ:

    “…Chiều Mai Lộc núi đồi điên loạn
    Quân hai bên đánh đấm mút mùa
    Thằng xấu số chết vì xấu số
    Bỏ vợ con đau xót ở quê nhà…”
    (Chiều Mai Lộc - Trần Dzạ Lữ)







    Không những phải chiến đấu để tự vệ mà lòng không thù hận, người lính chiến miền Nam còn đã xử sự rất cao thượng vì lòng nhân ái có sẵn trong họ. Hãy nghe Nguyễn Phúc Sông Hương kể trong thơ anh:

    “…Đêm nay ta chẳng cần căng võng
    Giường đá, ba-lô kê gối nằm
    Bên kia núi địch chắc buồn lắm
    Nên đốt lửa hồng xua ánh trăng…”

    Đã chiếm được đỉnh cao, là một ưu thế trong chiến thuật hành quân, và biết rằng địch đang ở phía bên kia núi, ở phía thấp hơn; vậy mà người lính miền Nam vẫn không muốn đánh. Vì sao? Hãy nghe Nguyễn Phúc Sông Hương kể tiếp:

    “…Mặc tiếng cọp gầm người lính trận
    Gạo sấy, muối mè, ăn dưới trăng
    Đỉnh cao ta chẳng cần xin pháo
    Để cho địch sống qua đêm rằm…”
    (Người lính làm thơ trên đỉnh núi - Nguyễn Phúc Sông Hương)

    Đêm trăng đẹp quá; tiểu đoàn của anh đang “gác súng” vì đã “chìm trong mênh mông một đêm rằm…” để nghe “hồn man mác tiếng thơ rung…”. Nguyễn Phúc Sông Hương (một vị tiểu đoàn trưởng) cũng muốn cho địch được thưởng thức đêm trăng êm đẹp đó; anh không nỡ gọi pháo… Thật là hào hiệp!

    Còn Trang Châu, một bác sĩ quân y của QLVNCH, sau khi chăm sóc vết thương cho một địch quân, đã làm những câu thơ như sau:

    “…Nó nằm chờ tử thần
    Sững sờ bắt gặp tình thương
    Đồng loại
    Đôi mắt sát nhân vụt bỗng hiền từ
    Nhen hai giòng lệ nhỏ
    Trong cuộc chiến hôm nay
    Tôi xin chiến đấu
    Không hận thù
    Xin những vết thương bình đẳng
    Cho tôi đổi một trăm chiến thắng
    Lấy một giọt nước mắt kẻ thù…”
    (Giọt nước mắt kẻ thù - Trang Châu)

    Tình người còn thể hiện qua hai câu thơ sau đây của Ý Yên:

    “…Tôi chợt thấy thương thù và yêu bạn
    Chúng ta đều bình đẳng trước thương đau…”
    (Sau chiến trận – Ý Yên)

    Bàng bạc trong những bài thơ này, là một nỗi “thống hận”, không phải đối với địch quân, mà chỉ là đối với chiến tranh và vận rủi của đất nước.

    “…Còn một ngày nhìn mặt nhau đó con
    Nước cũng đã khô trong lòng giếng cạn
    Chiến tranh kéo dài đã thật quá lâu
    Mẹ ôm nỗi buồn không sao nói được…”
    (Đêm Giáng Sinh ở Việt Nam - Hồ Minh Dũng)

    Cùng một nỗi buồn này, Hoàng Lộc chỉ còn biết trách móc:

    “…Bởi Thượng đế đã già nên lú lẫn
    Quyền tử sinh bỏ lạc xuống tay người
    Trên nước Chúa thấy ngựa về mặt trận
    Trước đau thương chẳng biết khóc hay cười…”
    (Lần hành quân trở về - Hoàng Lộc)

    Huỳnh Hữu Võ thì chất vấn:

    “…Anh ở đây dưới chân đồi nắng cháy
    Vùng đất khô cằn của một quê hương
    Quê hương của một giống người bị trị
    Một ngàn năm, một trăm năm
    Rồi còn bao nhiêu năm?...”
    (Nơi anh đồn trú - Huỳnh Hữu Võ)

    Huỳnh Kim Sơn thì cố quên đi nỗi buồn:

    “…Tay ghì súng tạm quên niềm thống hận
    Trời đã cho thêm một tuổi trên vai
    Ta cùng bạn chưa tan giòng cay đắng
    Buồn mà chi biển rộng với sông dài…”
    (Chén rượu chiều ba mươi - Huỳnh Kim Sơn)

    Mặc dù rất oán ghét chiến tranh nhưng người lính miền Nam ý thức rõ về bản chất của cuộc chiến, một cuộc nội chiến:

    “…Ta bắt được người gọi tên vô sản
    Người bắt được ta gọi lính ngụy quyền
    Khi xưa sống tổ tiên chung một họ
    Máu chia ngành giờ hết anh em…”
    (Lính thú - Ngô Đình Khoa)

    Vì mầm mống phân ly đã sẵn có trong huyền thoại của thuở ban đầu:

    “…Ngày ấy ta theo Cha xuống biển
    Người theo Mẹ một chuyến lên rừng
    Ta vẫn nghĩ một ngày sum họp
    Lẽ người quên bọc trứng sau lưng?”
    (Trong đêm mưa tiền đồn - Nguyễn Dương Quang)

    Cho nên Ý Yên lên tiếng kêu gọi:

    “…Xin nghĩ đến một ngày sau chiến trận
    Súng buông rồi và lửa tắt đằng sau
    Kẻ sống sót nhìn nhau và sẽ nhận
    Mình da vàng cùng tiếng nói như nhau…”
    (Sau chiến trận - Ý Yên)

    Trong chiến tranh, những người lính của QLVNCH là như thế. Có người trong số những tác giả này đã chết trận, nhiều người bị thương và mất đi một phần thân thể… Nhưng lửa rồi cũng đã tắt, chiến tranh rồi cũng đã kết thúc, để rồi những người lính này còn phải chịu đựng, không chỉ là những cơn đau nhức do mảnh đạn còn sót lại trong thân thể, mà là vết chấn thương trong tâm hồn.

    Đó là những gì tiếp theo sau chiến tranh - không phải là đề tài của tiểu luận này.

    Không còn nghi ngờ gì nữa khi nói đến giá trị văn học, Thơ lính chiến miền Nam là một tập thơ quý vì đã bao gồm những gì là tinh hoa của thơ do những người lính miền Nam làm ra. Đây là một dòng thơ tất yếu phải có – và đã có – trong một thời kỳ đen tối kéo dài quá lâu của đất nước. Lịch sử sẽ không lặp lại, sẽ không bao giờ có được những bài thơ như thế này trong bất kỳ một tương lai nào nữa.

    Những bài thơ này, nếu không được gìn giữ, biết đâu rồi sẽ mai một, sẽ bị quên lãng, sẽ biến mất … thì quả là đáng tiếc cho tất cả chúng ta, nhất là với những nhà nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam.


    Nguyễn Hữu Thời

    Banvannghe.com
    Last edited by saomai; 08-31-2013, 07:29 AM.

  • #2
    Mèn Ơi !

    Comment


    • #3
      Rất cảm ơn Nguyen huu thoi đã làm sống lại trong tôi Nhũng kỷ niệm Các bài Thơ tuyển chọn Quá tuyệt vời LàNhũng khúc. Trường Ca. Bi. Tráng của thế hệ Tác giả Đa cho tôi gặp lại bạn bè thơi chinh chiến (. Ba năm làm lính miền quan tái --- Huyền. Nương. Tử 1969 gửi thăm. Lâm hảo. Đũng. ) Lethucthang 4/72

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X