Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Giấc Mộng Phù Vân



    Giấc Mộng Phù Vân


    Các bạn cùng tôi lững thững đi dưới rừng thông muộn phiền giao nhánh dưới đài mây bồng bềnh trôi trên không trung. Nơi xa xôi trên đỉnh đồi có cây mimosa buông lã theo tiếng gió rì rào qua kẽ lòng tôi ngất ngây buồn... Tôi đi bên cạnh những thiếu nữ xuân-thì: có người yêu hoa mimosa, có người yêu hoa pensé, có người yêu hoa hồng… yêu hoa violete, cũng có người không yêu hoa chi hết.

    Họ lững thững thả bộ bên luống cải xanh rờn, ríu ra ríu rít, tíu ta tíu tít chuyện trò vanh vách, vui cười thân thiện; đôi lúc nhí nha nhí nhảnh, lườm nguýt, thọc lét hay húc cùi chỏ vào hông nhau. Đã thân quá rồi nên có lần họ không ngại nói xoen xoét huỵch toẹt ra những điều ẩn kín khúc mắc trong lòng, mà không hề ngượng miệng.

    Do vài lần chúng tôi gặp nhau trong Võ Bị, đặc biệt là Thúy Mai tự tới làm quen tôi trước, nàng mến thích tôi. Lúc ấy tôi có đôi chút ngỡ ngàng, bỡ ngỡ; nhưng sau khi trò chuyện, tôi cũng có phần mến Mai vậy. Khí lạnh thấm dần đôi má hồng thắm, qua vai gầy, rung rinh mái tóc thề đen nhánh và óng mượt của Thúy Mai (cô bạn gốc người Huế tôi mới quen, tóc thề mướt mát, dáng mảnh khảnh, Mai hay đau ốm nên có vẽ liêu trai thế nào ấy). Tuy Mai không đẹp nhưng dễ nhìn. Tính tình Mai đôi lúc dễ thương, và bốc đồng lên thì cô “khíu chọ” chi lạ! (sau nầy hơi thân thân với Mai, tôi mới biết Mai bị đau nặng, nhưng dấu nhẹm bạn bè chuyện cô bị viêm gan). Thúy Mai ưa có cử chỉ nhún nhẹ đôi vai khi nói về người cô yêu; là Mai trề môi dưới ra:
    - Tao biết là Tấn chưa chắc thật tình với tao, miệng mồm anh ta liếng thoắng, Tấn có vẻ giả dối, đểu đểu làm sao. Tao rõ Tấn như thế, nhưng tao không tài nào giải thích cho tụi bây hiểu. Tấn nghe lời gia đình hơn. Tao thất vọng, dù yêu Tấn, nhưng tao không hề tin Tấn.
    Quỳnh nhìn bạn, e dè:
    - Mầy phải biết cách lèo lái nó chứ. Ai biểu mầy không chịu:
    “Quất ông tơ cái trót.
    Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần.
    Biểu ông xe mối chỉ năm bảy lần, ổng hổng xe”
    (cd)

    - Mầy nói nghe chán thấy mồ. Tao hỏi mầy nhe: Từ ngày Tấn ra quân trường Võ Bị, đến nay đã quá lâu, mầy biết không, Tấn chỉ gửi về vài ba lá thư viết bâng quơ. Tao công nhận thư Tấn viết hay. Tao nghĩ Tấn ích kỷ không muốn mất tao; làm như tao là “cái bồ tình hờ” Tấn để dành xơ cua! Tấn không muốn thân thiết càng thiết tha, hoặc hứa hẹn gì. Rồi Tấn sẽ không bao giờ về thăm Đà Lạt, không một lần về thăm ai, chớ đừng nói là gặp lại tao. Mầy hiểu không?
    - Cầu xin sao tao được sống lâu, xem chàng xử trí thế nào.
    - Số tao độc thân đến chết, e rằng lúc đó cũng không gặp Tấn đâu.
    - Đừng bắt chước ông Chu Công ba ngàn năm trước đã đặt ra mười can. Mầy hãy xoè hai bàn tay đếm đủ: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Qúy. Rồi mầy giơ thêm bàn tay và chân ra bói quẻ con: Tí, Sữu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi - cho tao nghe, chán phèo!
    - ...
    - Không tin hả? Số mạng mầy nói lên sự thật đó hì. Mầy không biết ngày ấy, năm ấy chồng mầy là ai. Vậy, cái ngày đầu tiên mầy quen Bào, mầy có thấy ông ta xấu tính xấu nết không?
    - Thôi bà thầy ơi! Dĩ nhiên là họ dấu nhẹm tật xấu đi, chớ ai muôn phơi ra, để bị mất bồ à! Ngày nào cũng đẹp cũng tốt cả. Buổi sáng tao thấy mặt trời mọc phương đông, chiều lặn ở phương tây. Chớ ngày giờ ấy khi quen Bào, tao không thấy nó mọc ở phương tây, và lặn ở phương bắc. Mầy đừng dị đoan quá! Mau già nhe:
    Số giàu đem đến dửng dưng.
    Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.
    Số giàu tay trắng cũng giàu.
    Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
    (cd)

    - Mầy không tin con người có số à?
    - Trường hợp tao, tự tao quyết định chọn lấy con đường tương lai. Thú thật tao thấy ngày tao gặp Bào, hiểu Bào xa Bào trong nỗi nhớ, là ngày giúp tao xoay ngược ván cờ.
    - Thành công hay thất bại?
    - Do mình thôi. Chén bát trong sóng có khi cũng xao động mà.
    - Nói chuyện chồng con, tao ớn lên tới cần cổ.
    - Độc thân vui tính như mầy, tao thấy tự do thoải mái kinh khủng.
    - Ui xà! Khi về già thì mầy sẽ thấy có đủ cảnh khổ, biết trông chờ ai hả? Ráng bò đi lo lấy một mình. Tứ cố vô thân à.

    Chưa đi, chân mỏi! Chưa trông, mắt mờ!
    Ðêm nằm chưa ngủ đã mơ.
    Cơm chưa đụng đũa đã no ngang rồi!
    Áo quần xốc xếch lôi thôi.
    Nhớ quên, quên nhớ... chuyện đời nhi nhăng.
    Nói to cứ ngỡ nói thầm.
    Tay run cứ ngỡ phải cầm... ba toon.
    (2)

    - Đằng nào cũng chán. Mỗi người có một cảnh khổ riêng, không ai giống ai. Sóng bước bên nhau im lặng hồi lâu, Mai buồn rầu nói:
    - Vô nhà đi. Con mầy khát sữa, chắc nó đã khóc lòi rún rồi.
    * * *

    Mai thả gót giày xuống lòng đường quạnh vắng, tiếng giày kêu lóc cóc… văng vẵng những âm quen quen, nghe mà buồn. Trên phố lạnh lâu thật lâu mới thấy vài lữ khách bước vội trong đêm. Ôi! Người đàn ông phong trần phiêu lãng nơi phố khuya giá rét kia là ai?! Chàng đội mũ phớt đen, mặc quần jean cũ, áo da đen, mang giày sport, vai vắt chiếc áo manto đen. Chàng đã dừng lại trên con dốc uốn lên uốn xuống ướt đẫm sương đêm, chàng lần tay vào túi quần, tìm gói thuốc lá và hộp điêm. Chàng khum khum hai bàn tay để che gió, ánh diêm lóe sáng tỏa làn khói nhạt mờ mờ, khói vật vờ uốn éo bay lên hòa lẫn vào vũng sương mù.

    Thỉnh thoảng chàng dừng chân ngửa cổ thả ngụm khói vo tròn hình chữ O lên cao, khiến Mai càng nôn nao nhìn “thi-sĩ thả hồn trong sương khuya”. Ngửa cổ nhã cụm khói, húng hắng ho, chàng kéo cao cổ áo da đen, tiếng gót giày của chàng lại đơn điệu chậm rãi gõ lộp cộp, ngân vang trên đường nhựa ướt nhẹp in ánh trăng bóng loáng, cùng giọt sương long lanh rung rinh ở đầu phiến lá.

    Mai trông chàng có vẻ ung dung nhàn hạ, dường như giống... lại vừa không giống Tấn!? Nhìn hình ảnh phong lưu thong thả nầy, Mai cảm thấy người ấy dường như gần gũi quen thân tự thuở nào?! Mai trông mong người ấy đi kế bên, để Mai có thể tò mò muốn nhìn thấy mặt anh ta một xí, thì hay biết mấy. Biết đâu đó là một sự tình cờ hữu duyên “thiên lý tương năng ngộ” với Tấn thì sao... như thuở xưa Tấn ưa chơi trò ú tim với nàng thiệt vui biết mấy.

    Khi đã đến gần cánh cổng nơi ngỏ nhà mình, Mai tư lự, tần ngần, do dự, băn khoăn lẫn chút bối rối đứng khựng lại, cố ý chần chờ... nàng làm bộ mò mò... vờ tìm tìm trong giỏ xách hồi lâu, rồi Mai chậm rãi loay hoay mở ổ khóa cổng lách cách, mà đôi mắt Mai luôn lom lom liếc liếc nhìn lui người khách lạ đang đi đến cột đèn đường.

    Người thanh niên đã đi đến gần cổng nhà Mai, chàng thong dong tà tà tiếp bước, như tìm những áng thơ và cả một tương lai dài ngoẵng trên dòng đời xô sóng. Khi đến gần nàng, chàng chỉ thoáng nhìn Mai rồi lơ đễnh nhìn về hướng khác, dường như “anh” dửng dưng, không hề lưu ý trên đường vắng đang có thêm một người. Ôi! Không phải là Tấn rồi! Người ấy không nói, chẳng mỉm cười khi Mai quay phắt lại, anh ta thản nhiên thả gót giày vui vui theo từng nhịp bước lao xao trên mặt sỏi vụn kêu rào rạo ven lề. Khiến Mai cảm thấy thất vọng và chợt buồn da diết.
    Thân tui thui thủi một mình.
    Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang.
    Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng.
    Tôi xin được dạo cung đàn tình chung.
    (cd)

    Ôi! Chuyện tình yêu giữa Mai và Tấn lấp ló lững lơ như tơ trời, không báo hiệu niềm vui, hay có điều gì tốt lành, hứa hẹn ngày mai tươi vui quang đãng, mà có thể bị hất lại nỗi thất vọng đột ngột ê chề. Tấn ở trong quân trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, anh quen và “yêu” Mai… Tình cảm họ đã đi qua lòng nhau, gợn lên êm ái, không kém phần say đắm, choáng ngợp, nồng nàn. Bên nhau, họ cũng có bao phen yêu đắm đuối, giận hờn, ghen tuông. Tôi nghĩ: Trong tình yêu và sự ghen tuông vốn dĩ không có tội. Tuy nàng ghen nhiều, thì sự thấu hiểu về nhau hay hạnh phúc có thể sẽ giảm đi tí chút. Biết thế, nhưng Mai không thể không buồn bã khi thấy Tấn đến thăm và tặng món quà cho vài người con gái khác.

    Mai không thích như vậy, nàng muốn bụng của Tấn phải to, nhưng trái tim anh ta chỉ chứa đựng mỗi hình ảnh duy nhất riêng mình. Riết rồi Mai cảm thấy mệt mỏi… chán ngán và oán hờn Tấn, lẫn ghen ghét “kẻ kia” thậm tệ… như hai con gà mái tức nhau vì tiếng gáy của con gà trống. Mai cũng cần kênh kiệu: làm cao, làm giá, làm le, làm dóc, làm lơ, ra vẻ ta đây bất cần Tấn. Nếu Mai có xuống âm tào địa phủ cũng hả dạ! Nàng không còn tíu tít chuyện trò ríu rít thân mật mỗi khi Tấn ghé qua nhà Mai nữa. Mai nghĩ: “Bây giờ nếu Tấn cứ thay đổi tình lia chia, hay muốn tỏ ra ta đây là đào hoa, bay bướm, cua đào dễ dàng... thì có lẽ trái tim Tấn sẽ để lại vết vẹo đau đớn, cả đời chẳng có bến đậu bình yên nào”!

    Ngược lại, Tấn cũng nghĩ: “Em trao cho tôi đấu gạo nào, thì tôi sẽ gửi lại em bằng ấy”... Rồi khi Tấn ra trường, người trai ấy đi biền biệt ở phương trời nào không rõ, Tấn ra đi ươm mộng theo nhịp bước hải hồ, lãng du phiêu bạt thời chinh chiến rày đây mai đó dặm trường dong ruỗi. Lâu thật lâu hình như chợt nhớ ra, Tấn gửi đến Mai những trang thư kể chuyện sông hồ núi non gió biển, anh viết ít chuyện chiến chinh cùng đời sống bạn bè trong quân ngũ. Nhạt nhẽo thế thôi! Anh có lắm khát vọng dãi dầu gió sương lả lướt tung bay phỉ chí tang bồng, lãng du vào những bến bờ xa lạ, như ngày xưa khi còn ở bên nhau Tấn đã từng nhẹ nhàng nhắn nhủ gần xa với nàng:
    - Anh chỉ muốn sống đời giang hồ, chinh chiến, cần nhất không vướng bận, anh phải độc thân, em tin đi, anh sẽ không bị vợ con ràng buộc. Thôi thì:
    “Trăm năm đành lỗi hẹn hò.
    Cây đa bến cũ con đò khác đưa”...
    (cd)

    Vô vàn trống vắng xót xa, khi lời Tấn gián tiếp nhắn nhủ với Mai đấy. Mai ở lại chốn cũ đồi xưa, xếp tơ lòng giữa tiếng ồn ào xe pháo, giữa muôn người bàng quan hờ hững đi lại trong nắng gió khuya chiều. Tình cảm của họ trở nên lờ mờ đơn điệu và vô cùng buồn bã… Hai người dần dần xa cách, chênh vênh... theo mây lơ lững trôi về nơi vô định. Rồi theo thời gian tháng năm nhẹ nhàng bay đi, tình cảm họ thực sự lùi vào câm nín, lãng quên… Bức tường thời gian và không gian ngăn trở mịt mùng, xa xôi cách chia biền biệt, trăm sông nghìn núi nhấp nhô chập chùng, càng xa quá xa. Tình yêu hai người đã bị bức chắn khổng lồ dựng lên hố thẳm phân ly chia biệt mất rồi. Tấn rất ngán vì Khóa 19 Võ Bị của Tấn có 394 sĩ quan tốt nghiệp, trong đó có thủ khoa Võ Thành Kháng vừa tốt nghiệp mươi ngày, là bạn thân của Tấn đã tử trận ở chiến trường Bình Giả.
    * * *

    Nhân ngày tôi về Sài Gòn dự đám cưới chú em họ, Mai năn nỉ ỷ ôi nhờ tôi đến nhà trao tận tay Tấn món quà. Ấy là một phong thư mà Mai đã thức ròng rã biết bao đêm để viết rồi xé, xé lại nắn nót viết từng chữ, nàng gói ghém tình cảm từng câu trong lá thư màu xanh đầy kín tám trang giấy. Mơ mộng và thi vị hoá cuộc tình, cũng do Mai tiêm nhiễm về những chuyện tình thời cổ xưa từng đọc trong tiểu thuyết, hoặc coi trên các màn ảnh những phim chuyện Tàu lâm ly bi đát.

    Mai đã cắt lọn tóc dài óng mượt đen tuyền tẩm đầy nước hoa, nàng gói tóc trong vài chiếc khăn tay trắng, Mai thêu hai chữ T.M quấn quít những sợi chỉ màu đỏ âu yếm bện chặt lấy nhau bên cuối góc trái, có cành hoa mai vàng nõn lá xanh. Kèm theo một chiếc cà vạt màu xanh biển hình trái tim. Một xâu đựng chìa khóa và kéo bấm móng tay. Một tấm ảnh bán thân cuả Mai. Hộp dâu Đà Lạt. Những thứ quà nho nhỏ đó Mai trang trọng cất vào chiếc hộp giấy, bên ngoài cột sợi nơ đỏ xinh xinh.

    Tôi thương bạn lắm! Dù bận thế nào, tôi cũng cố gắng đi taxi loanh quanh tìm nhà Tấn và ở lại gần nửa ngày. Tìm đến đúng nhà Tấn, tôi ngồi trong phòng khách vừa đủ rộng, trang hoàng tiện nghi lịch sự không phô trương. Hai bà chị khoảng ngoài ba mươi tuổi, phong cách đài các, thanh lịch, tao nhã. Thỉnh thoảng hai chị thay nhau ngồi tiếp chuyện với tôi, họ thư thả đi ra đi vào phòng khách, ghé ngồi trên sofa trao đổi vài ba câu xã giao dí dỏm, chị tươi cười hỏi tôi vớ vẩn về Đà Lạt, về sương rơi gió lạnh với ly nước trà đá. Tôi hóm hỉnh tươi cười đáp lễ, thầm nghĩ là chị em họ muốn ra đây sơ giao, để nhìn mặt tôi cho biết cô gái Đà Lạt nầy, là ai? Có phải là bồ bịch lăng nhăng lít nhít tòn ten gì với “ông qúy tử hà sa” đào hoa bay bướm của chị em nhà họ không mà thôi.

    May mắn làm sao, tôi rất mừng vì kịp lúc gặp Tấn đóng quân ở tiền đồn về nhà nghỉ phép một tuần. Hai bà chị đã rút vô sau bức rèm lụa. Khi gặp Tấn, tôi niềm nở chào hỏi ân cần, trang trọng trao tận tay Tấn kỷ vật giúp bạn. Tấn vui vẻ hỏi thăm tôi về thời tiết nắng mưa Đà Lạt. Tôi nói chuyện tếu rất lâu với Tấn. Tôi ỡm ờ dò ý hỏi thăm Tấn:
    - Anh lên tới chức Đại-úy rồi, sao anh không lập gia đình nhỉ!?
    Tấn cười khoan khoái, vui vẻ xoa hai tay ngâm nga:
    Lấy vợ xin lấy vợ sún răng.
    Đỡ tiền nha sĩ, ngại sâu ăn.
    Sáng, trưa, chiều, tối em ăn cháo.
    Khỏi phải mua bàn chải đánh răng.
    Lấy vợ xin anh lấy vợ hô.
    Lỡ sau mà có gặp côn đồ.
    Em cười, chúng tưởng Chung Vô Diệm.
    Hồn xiêu phách lạc cõi hư vô.
    (2) - Nhờ Thụy làm mai cho tôi một em giống y chang như thế nha. Nếu không có ai như tôi thích, tôi nguyện sống độc thân suốt đời.

    Hai người hồn nhiên hân hoan cười ngất. Chúng tôi nhắc lại bao chuyện cũ vui thật vui, kể cả chuyện Tấn dẫn hai bạn cùng khóa đến nhà Mai, lúc đó Qúy có thể ngà ngà say? nên anh ấy tỏ ra suồng sã vồn vã với tôi quá lố. Tấn cười xòa vui vẻ nói:
    - A ha! Hồi đó tôi biết hết, thấy hết những cử chỉ “mặn nồng âu yếm” của riêng Qúy với “ai kia”, mà tôi cố làm tình vờ, cố ý ngó lơ, không hề tỏ thái độ gì, cốt ý cho hắn có cơ hội chấm mút tị. Vã lại tôi biết Thụy đã có bồ rồi. Nào ngờ hắn chả được gì sớt, mà dị hợm, thật quê một cục. Ai biểu hắn còn học trong Võ Bị, mà muốn đi kiếm vợ con làm gì! Phần tôi, tôi muốn dò xem cá tính phụ nữ thế nào, để phòng xa… chỉ sợ sau nầy tôi rước phải một “công nương sư tử”, thì đời trai tàn mất. Thụy nghe nha:
    Không biết định nghĩa vợ là chi đây.
    Vợ là quả ớt chín cây.
    Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
    Vợ là một đoá hoa hồng.
    Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà. (2)

    Nhắc lại kỷ niệm xưa coi Tấn vui
    vẻ hẳn lên, anh ta ý nhị nháy mắt nheo mày, tủm tỉm cười, rồi hình như khoái chí về điều gì đó, Tấn cười ha hả, rất hồn nhiên thoải mái. Tấn bảo:
    - Sau lần ấy, thằng Qúy nó thường năn nĩ tôi... làm sao cho nó gặp lại Thụy, dù chỉ một lần, để nó xin lỗi về cái tội vô tình lếu láo, bất nhã, làm mất thể diện sinh viên sĩ quan con nhà tướng đấy. Nó thật tình mến Thụy. Nhưng tôi không hứa hẹn, sợ nó lại bốc đồng lên, nổi hứng quá “làm ẩu tả” thì mất mặt bầu cua. Đàn ông con trai… ai mà chả có "máu ngứa nghề khỉ đột" ha, dê dê xồm xồm khi tận mắt “nom” thấy người đẹp bằng xương bằng thịt đang nhúc nhích hở. Ha ha ha...
    - Thôi, anh đừng kể nữa, dạo ấy tôi nghe anh ấy nói tiếng Tây muốn điên rồi. Bây giờ anh có thích tôi điên không nào!?
    - Chả dám. Ah... Thụy biết không, coi chừng chứ có ngày điên vì vợ, tôi cũng bị tuột da thì nguy to, nên cho tôi xin ế vợ, kíu từ vợ cho rùi!
    Tôi không thể nhịn được cười. Vui ơi là vui quá chừng giống như ngày cũ hồn nhiên trong sáng xa xưa. Nhưng khi tôi sốt ruột nhắc khéo lại Tấn lần thứ ba:
    - Thúy Mai đã gửi nhờ tôi trao món quà đến tận tay anh, và nóng lòng đợi anh hồi âm nè.
    Tấn lại cười cười:
    Thân trai cũng mười hai bến nước,
    Nặng nỗi lo vô phước gặp “chằng”.
    (2)

    Đọc mấy câu thơ tiếu lâm xong, Tấn nghiêm mặt lại, cử chỉ ung dung nhưng mà thờ ơ, anh từ tốn mở gói quà ra xem. Trước đó tôi đã nhiều lần “gợi giấc mơ xưa” giúp đôi bạn ấy. Bây giờ tôi kín đáo quan sát Tấn. Thỉnh thoảng đọc thư Mai, Tấn chỉ nhíu đôi mày, mấy đường nhăn in trên trán, mắt lướt nhanh trên những trang thư và nhếch mép cười ruồi. Anh ta đọc xong thư của Mai (viết gì trong ấy mà dày cộm đến thế không biết). Tấn xếp thư lại quăng lên bàn, phong thư chạy tuồn tuột tới một đoạn xa ở góc bàn, thư gần rơi xuống nền gạch. Tôi so sánh Tấn và sự trân trọng khi Mai nhờ tôi trao giúp gói quà. Nó dặn đi dặn lại tôi:

    - Phải cẩn thận, mầy đừng để cái hộp bị móp méo, đừng để cho lọn tóc trong hộp bị lệch lạc, mầy hãy để ý nhìn coi lúc Tấn đọc thư, thái độ Tấn ra sao. Mầy về tả lại cho tao nghe nha!

    Nhìn cung cách và cử chỉ của Tấn lúc nầy, khiến tôi mủi lòng thay bạn. Thật buồn và thất vọng đa! Tấn tinh ý nhìn tôi tươi cười khôn khéo lái qua chuyện khác, ỡm ờ cười cười gật gật… Quả thật Tấn rất bình tĩnh, không tỏ lộ trên nét mặt phong trần điều vui hay buồn. Nhưng rồi sau hơn một giờ trao đổi chuyện trò, tôi nghiệm ra rằng: “Cả đời Mai trọng tình. Còn cả đời Tấn thì chỉ trọng tiền, binh nghiệp và danh vọng”. Tấn im lặng đắn đo suy nghĩ, rồi xin phép tôi hãy cố nán lại xí, anh lên lầu hồi lâu, sau đó trở xuống phòng khách, Tấn cười cười:
    - Nhờ Thụy vui lòng chuyển cho Thúy Mai một bài thơ vui vui về giấc mộng phù vân: Lịch* (của) O Mèo !?
    Thân anh khổ thế Mèo kia!?
    Chi bằng lịch lãm ôm bia nốc nè!
    O Mèo đứng núi cà kê.
    Con Dần quá phục đi về gốc sung.

    Ai đi dẫn tớ theo cùng.
    Mua vui chốc lát không khùng cũng điên.
    Chẳng qua lịch sự vì tiền.
    Cơm ngon cá mặn ra hiên nốc vào.

    Ăn rồi kháo chuyện tào lao.
    Cao bay khéo nhỉ lao xao nhập nhằng.
    Rồi đây câu chuyện lăng nhăng.
    Tôi đây ảnh đấy băn khoăn có thừa.

    Tình lang nhớ chứ sớm trưa!?
    Sa đà lỡ hẹn lưa thưa tháng ngày.
    Lịch trình tớ đã ghi đây.
    Ngày ngày tháng tháng năm nầy hẹn nhau.

    Thề non hẹn biển bấy lâu.
    Tôi về nối nhịp bâng khuâng chỉ vì...
    Em ơi khách sáo điều chi?
    Qua cầu lặng lẽ đông thì gió bay...

    Thương em Mẽo cứ lên non.
    Năm nay Tết nhất lon ton Nhảy Dù...
    Dù rồi Mẽo sẽ đi tu...
    Mùa xuân chí tới mùa thu chết thèm...

    Mi thèm Mẽo có mơ em?
    Đầu năm bạn biếu cân nem nhậu cùng.
    Quên chi quá lạ quên lùng.
    Tôi đây có phải không khùng cũng ngơ!

    Hay chăng tại mết chàng Thơ.
    Giờ đây lạc lõng giây tơ phiến lòng...
    Thương thân núi đá bào mòn.
    Mèo trơ cặp mắt giờ còn lung tung?!

    Đôi ta nhiều buổi trong cung.
    Ăn no nếm mật tiêu tùng phát ho.
    Ui cha Mẽo nhậu phần to.
    Mèo em tí nị buồn xo quá rầu!

    Thang đâu bắc hỏi ông Trời.
    Vì sao trái tím mồng tơi rã hàng?
    Do em đớp “phở” chàng mang.
    Bầu to Mẽo đã lên đàng tuốt dông.

    Hành trình thẳng đến mùa đông.
    Mèo già răng rụng lông đuôi chẳng còn.
    Chừ còn cục nợ tí hon
    O ơi thấy hỡi là con Lịch Mèo!?
    (3)

    Ui Trời đất qủy thần thiên địa tông ti ông bà cố nội ơi! Tấn đã muốn to nhỏ nhắn nhe với Thúy Mai điều gì trong bài thơ tiếu lâm kia đấy nhỉ!? Theo quan niệm của tôi: Tình yêu là một tình cảm vô cùng đặc biệt, tin yêu, trang trọng và chân thật, thủy chung. Cho dù người mình yêu không thể (hay chưa thể) hồi đáp về ta... những ước mong hạnh phúc lứa đôi. Riêng đối với tôi thì tôi đã tin yêu, chân thật, trọn nghĩa, trân trọng tình.

    Tôi bỗng so sánh “mối tình say đắm” của tôi và “mối tình đắm say” của Mai: *Tình yêu của tôi giống như biển cả đem lại sự tuyệt vời của bình minh hay hoàng hôn, đang nhún lên nhún xuống ở chân trời, như giọt sương khuya rung rinh và long lanh trên phiến lá giao mùa. Dù chẳng biết sẽ trơn tuột rụng rơi lúc nào. Đồng thời tình yêu cũng dạy cho tôi biết thế nào là sự ghen tuông (ghen tuông tựa như sự ...giận dữ gào thét cơn thịnh nộ của biển quét lên trái tim tôi; nếu tôi biết “người ấy” phản bội). Đồng thời, tôi vẫn rộng lòng tha thứ, kiên nhẫn, bao dung cho kẻ đã bội tín, kẻ nhẫn tâm chà đạp lên sự đau khổ nầy. Cho đến lúc nào đó không thể tha thứ nữa (vì người ấy bê tha, có tật xấu không chịu sửa đổi, lừa dối tình và tiền), thì tôi khinh bỉ buông ngay và quyết liệt dứt tình.

    Vẫn nhưng mà… Giá mà Mai sống an lành và vui vẻ hạnh phúc, thì nàng sẽ không nhớ tới “ai”. Với Mai thì nàng khác hẳn tôi ở chỗ là tình yêu của Mai da diết đấy, vẫn ghim gút và nuôi dưỡng sự căm giận! Tôi cảm thông bạn Mai sầu héo xếp lớp buồn tủi lăn tăn trong bước độc hành, đơn điệu, làm thời gian chất chồng bao sầu héo nhăn thêm vầng trán suy tư.
    “Tóc mai sợi vắn sợi dài.
    Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm”.


    Mỗi lần Mai đến thăm bạn cũ, thì từ trong tiềm thức quá khứ vô cùng xa xôi ấy, tưởng đã mờ nhòa nhạt phai, bỗng lóe lên tia chớp rực vàng. Khiến nàng khó ngăn lại nỗi khao khát, cuồng quay trở về lối xưa, để trả thù với người đã khiến nàng thương tổn dày vò đau đớn. Thế nhưng Mai không thèm hạ mình hạ giọng “năn nỉ” Tấn lời nào.

    Ôi từ đó đến giờ... suốt quãng đời dài lê thê đến vậy, mà Tấn không có một ngày nhàn rỗi để về thăm Mai sao?! Sợi dây liên lạc mong manh như tơ nhện giăng mắc trong vũng sương khuya, hẳn là đứt phựt mất rồi. Tấn không một lần về thăm Mai thật. Chua chát thay! Còn đâu tình yêu phù hoa hai người (có một thời tốp bạn trai gái chúng tôi nhìn họ, mà hy vọng và ao ước mình sẽ giống như họ, chúng tôi tôn hai anh chị Tấn Mai là thần tượng tình yêu!).

    Tôi không bao giờ gặp lại Tấn (sau một lần duy nhất tôi ghé qua nhà anh, để trao giúp Mai lọn tóc thề). Tôi cũng không hề biết bây giờ Tấn đi chinh chiến -sống hoặc chết, vợ con thế nào?- Nhưng, cuộc đời vô vị cùng số phận khe khắt dẫn Mai đi bước thấp bước cao, không ngờ tràn đầy cay đắng, cô độc. Mai từng nói với bạn:
    - “Thuyền ơi có nhớ bến chăng.
    Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
    (cd). Nếu có chết, tao cũng bu đeo theo Tấn, để quậy cho hắn sợ mà.

    Hôm nay, tháng Tám là ngày giỗ Thúy Mai, nàng đã thả lỏng đôi tay giăng soãi bình an nằm trong lòng đất lạnh xứ Đà Lạt càng giá rét, với mối chung tình xưa ủ kín ở kẽ lòng: những uẩn khúc phù phiếm vùi sâu tận huyệt mộ đẫm ướt sương đêm, qua từng đợt gió lạnh sớm mưa khuya chiều. Mai vẫn là cô gái độc thân 37 tuổi “khíu chọ”. Lớp bụi phớt hồng mỏng tanh mịn màng bốc lên gót chân tôi, rải đều trên đôi giày trắng, khi tôi ghé qua mộ Thúy Mai đặt lên nấm mồ hoen màu bó hoa tươi. Tôi thắp nén nhang nghi ngút bay bay trong gió lộng trên khu nghĩa trang Số 4. Lớp bụi đỏ lại nhè nhẹ về nằm nghỉ yên nơi mặt đất cạnh luống hoa phù dung.
    *
    (1) (cd) = ca dao
    (2) Thơ tiếu lâm lượm lặt & Chuyện vui sưu tầm.
    (3) Thơ tiếu lâm Tình Hoài Hương (Lịch* = Lịch trình của O Mèo)
    * * *

    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-13-2017, 11:13 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Hai bà: Trưng Trắc, Trưng Nhị & bà Triệu Thị Chinh :




      Từ khi Việt Nam rơi vào ngày 30 tháng Tư 1975 mất nước, thì hầu như tất cả trường, lớp, chẳng có giờ học về môn: Công Dân Giáo Dục & Sử Ký & lịch sử Việt Nam nữa. Hôm nay, trước tiên tôi xin mạn phép kể hầu cùng quý vị độc giả… (và sau rốt là do đã hứa cùng các con, cháu, tôi sẽ ghi lại những chiến tích oai hùng, những kỳ công anh dũng, và quật cường của tổ tiên ông cha chúng ta, họ đã dày công xây dựng và giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam hưng thịnh trường tồn đến bây giờ).
      Nay tôi xin kể hầu tiếp quý vị về: hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị ; chuyện bà Triệu Thị Chinh.

      Tình Hoài Hương

      Hai bà: Trưng Trắc, Trưng Nhị & bà Triệu Thị Chinh
      ***

      Thời gian quá dài lặng lẽ trôi qua khi cuộc sống đơn điệu và gia đình tôi vẫn hèn kém như mọi ngày. Học đường leo heo, sân lớp bẩn thỉu. Thầy trò thưa thớt, rời rạc, eo xèo vắng vẻ đìu hiu. Trong khu đông cư dân nghèo khó, bần cùng ở tại nơi chúng tôi cư ngụ, họ làm quần quật như con trâu suốt tháng năm, vẫn không đủ sống, không manh vải che thân. Cơm độn chưa có ăn, lấy đâu ra có thì giờ cho con đi học. Trẻ con thất học mù chữ không ít, chúng thường đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, để bới móc nhặt nhạnh bọc ni lông, ăn cắp vặt, sự gian manh mánh mung thì khôn lanh trước tuổi, hầu tự kiếm sống. Các con em trở thành những tên bụi đời lúc nào chả rõ.

      Bà Ngôn rất “bình dân giáo dục” trong xóm, đã lôi thằng cu Ba Môi xềnh xệt tới trường, bà Ngôn chửi cô giáo ra rã:
      - Con tui không có cơm ăn, thì có tiền mô mà cô bắt hắn mua sách, đi học hỉ?
      Cô giáo tên Tốt hiền lành nhỏ nhẹ:
      - Bà bác cố gắng cho các cháu đi học ạ.
      - Tui nói cho biết nghe: Chẳng thà nó ở nhà mù chữ, còn hơn nhịn đói, phải đi học. Học để làm chi hử? Có béo ra không?
      - Học cho lắm cũng ăn mắm với cà.
      Học tà tà cũng ăn cà với mắm.
      Học cho lắm cũng đi tắm cởi truồng.
      Học luồn xuồn cũng cởi truồng đi tắm.
      (st)

      Sẵn có mặt ở trường, bà Cát là người “nhanh nhẩu đoảng” đã tằng hắng:
      - Học trò ngày nay quậy tới trời.
      Mười thằng đi học chín thằng chơi.
      Ba thằng đến lớp hai thằng ngủ
      Còn lại thằng kia cũng gật gù
      (st)
      Cô giáo chỉ lí nhí nói với học trò:
      - Bé thấy không, dù cô đã già; thế nhưng cô vẫn ôm sách đến trường. Càng học, thì cảm thấy mình vẫn ngu dốt, nhiều lỗi lầm đáng chê. Trường học và trường đời tương tự nhau, có chiều sâu như nhau.
      Bà Ngôn đốp ngay:
      - Trường chi cũng không bằng ruột trường có chứa đựng nhiều thức ăn.
      Chính ông bố cán bộ gốc ở xã hội chủ nghĩa thấy cậu con trai có hai cuốn vở mới, liền hỏi:
      - Con lấy tiền đâu mà mua?
      Con trai trả lời:
      - Ði qua phòng giáo vụ nhà trường, thấy một chồng vở để trên bàn, không có ai, tiện tay con cầm hai cuốn về dùng.
      Ông bố nổi cáu, quát tháo ầm ĩ:
      - Làm vậy con còn mặt mũi nào nữa cơ chứ. Ai dạy con đi ăn cắp... hử? Nếu con cần vở thì bảo bố chứ. Ðể mai bố mang ở xí nghiệp về cho con hai bịch, tha hồ mà dùng!
      (st)

      Học… “ăn trộm ăn cướp” ở XHCN cha dạy con “giỏi” như trên đấy, nhưng tại gia đình, cha mẹ, học đường, ở lớp học trong chế độ Hồ Chí Minh lại chả bao giờ dám dạy Văn, Sử, Địa… (thì sách ở miền Nam Việt Nam đã bị nhà nước tịch thu, bị đốt sạch, như thuở xưa Tần Thủy Hoàng đốt sách chon học trò ... Bây giờ số đông do cha mẹ không có mảy may tí thì giờ, và ở ngoài Bắc không có sách luận bàn về các vị anh hùng Việt Nam đâu ra mà đọc).

      Nhất là trường lớp ở thời điểm sau ngày 30 tháng Tư mất nước, thì học sinh miền Bắc, Trung, Nam… không bao giờ được học, đọc văn, thơ… nổi tiếng: truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm. Nhị Độ Mai, thậm chí các em chả biết chuyện Tấm Cám, Trầu Cau, Sơn Tinh Thủy Tinh… là gì. Nhất là các em không hề hay biết môn địa lý, lịch sử, nguồn cội tổ tiên anh dũng, những hào kiệt từng diệt ngoại xâm của chúng ta là ai.

      Vì thế, mặc dù mỗi ngày tôi rất khổ sở trăm bề, quần quật đi “lao động là vinh quang” ở ngoài ruộng, ngoài đồng; tối về… sau khi lo cho gia đình ăn uống sơ sài, qua loa, dọn dẹp xong, tôi gọi các con ngồi xuống bên nhau ở ngoài bậc thềm, (nhiều lần có cả đám trẻ con ở trong xóm dé dé choai choai xúm xít rất đông). Do các con tôi đã và đang học ở mấy trường mang tên: Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Lý Chính Thắng, Lý Thường Kiệt…, mà các con. cháu chẳng hề biết tí gì về những bậc anh tài tuấn kiệt đó; Thế nên tôi bắt đầu dạy con học về lịch sử Việt Nam, trước hết là chuyện Hai Bà Trưng: Tôi sẽ nói rất vắn tắt, và tóm lượt về những điểm chính yếu của các vị anh hùng hào kiệt, nổi bật nhất và xưa cũ trong lịch sử Việt Nam:

      ***

      1.- Hai bà: Trưng Trắc & Trưng Nhị:

      Vào năm Giáp Ngọ (34) thì vua Hán Quang Vũ (Tàu) sai thái thú Tô Định (ở bên Tàu) qua Việt Nam (lúc ấy nước Việt gọi là Giao Chỉ), chúng thường xuyên quấy nhiễu và cai trị dân ta. Tô Định là một tên tàn ác, bạo ngược, vô cùng dã man. Năm 40 bọn hắn đã giết ông Thi Sách là dân ở quận Châu Diên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Thi Sách là chồng bà Trưng Trắc. Trưng Trắc (và em gái là Trưng Nhị, hai chị em là con vị lạc tướng ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên). Hai bà chiêu mộ quân sĩ từ những làng: Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam, Lĩnh Ngoại…

      Dân chúng thời bấy giờ rất khổ sở, nên ai ai cũng căm hờn oán than bọn Tàu, họ đã nồng nhiệt hưởng ứng lời mời gọi của hai bà, quân binh đồng lòng tôn vinh hai bà làm nữ tướng. Họ cùng hai bà nổi lên đánh đuổi bọn Tàu. Sĩ khí quan binh bấy giờ hùng dũng, mặc dù chỉ có dáo, mác, gậy gộc thô sơ, nhưng họ đồng tâm hợp ý, cùng nhất quyết xông pha nơi đầu đạn mũi tên gian khổ vô cùng, họ đồng lòng giẹp tan bè lũ Tàu Ô xâm lặng, nên họ đã hạ được 65 thành giặc.

      Mọi người dân đều hết lời trầm trồ ca ngợi. Tô Định thua to, phải chạy trốn về quận Nam Hải. Thế là họ tôn vinh hai bà lên làm vua được ba năm, đóng đô ở Mê Linh. Hai bà mến quân, yêu nước, thương nhà… đồng quyết tâm rửa nhục mất nước xưa, quyết xây dựng giang sơn sự nghiệp của vua Hùng Vương:
      Một xin rửa nhục quốc thù
      Hai xin lập lại nghiệp xưa vua Hùng
      (1).

      Nữ lưu hào kiệt anh tài tuyệt vời như thế, khiến vua quan nhà Tàu chệt ngày đêm thấp thỏm rất lo sợ. Năm Tân Sửu (41) nhà Hán Quan Vũ lại sai Mã Viện là danh tướng Đông Hán tuy ngoài 70 tuổi, ông vẫn còn mạnh khỏe. Phó tướng Lưu Long và Đoàn Chỉ; bọn Tàu đem đoàn quân đông đúc chia ra hai nhánh đi xâm lăng nước Việt: một đoàn đi men theo bờ biển, một đạo quân khác đi phá núi rừng, làm đường xuyên sơn Tàu Việt. Hai bên Tàu Việt đã đụng độ nhiều phen, đã đánh nhau khá gay cấn, ác liệt.

      Xét cho cùng thì quân Mã Viện là đoàn quân đông đúc đã từng tham chiến, đi xâm lăng đó đây, ắt có kinh nghiệm. Còn quân của hai bà Trưng là quân ô hợp mới kết nạp, chưa từng trải về việc chiến chinh, vũ khí thô sơ, tuy cầm cự giao chiến nhiều phen, nhưng rồi binh yếu, lương thực khô cạn, nên hai bà đành phải rút về Cẩm Khê một thời gian. Tu chỉnh chưa được bao lâu thì Mã Viện lại đến đánh.

      Lần nầy, tướng của hai bà Trưng là Đô Dương giữ ở huyện Cư Phong (quận Cửu Chân) bị Mã Viện tiến đánh gắt gao, phải ra đầu hang. Quân binh của hai bà tan đàn rệu rã, hai bà phải chạy về xã Hát Môn, (huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây) vẫn bị đoàn quân Tàu hùng hậu bao vây chặt chẽ, chúng thẳng tay chém giết dân ta dã man, bạ đâu giết đó. Uất ức vì sự xâm lăng cướp phá trắng trợn, nhất là sự thống trị ác ôn của bọn Tàu chệt lúc chiếm lĩnh sơn hà. Năm Quý Mão (43) ngày mồng 6 tháng Hai, do không muốn bị bắt làm nhục, hai bà Trưng đã anh dung nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết (nơi khoảng sông Hồng & sông Đáy).

      Tương truyền do sử cũ ghi rằng: sau khi Mã Viện dã man đàn áp được quân hai bà Trưng, thì việc thứ nhất hắn đã tom góp vũ khí, đồ đồng, vàng bạc… để đúc riêng cho hắn con ngựa đồng, vì hắn rất mê ngựa). Việc thứ nhì hắn sai đúc một trụ đồng to lớn chôn xuống địa danh nước Việt, khắc chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng gãy, Giao chỉ chết).

      Hắn bắt dân Việt nếu ai có việc cần đi qua đó, phải ném một hòn đá vào trụ đồng. Lâu đời, lâu năm… bây giờ trụ đồng ấy đã bị vùi lấp, không tìm thấy nữa. Các con cháu à, những vị nữ lưu phi thường xứng đáng là những vị kỳ tài kiệt xuất, đầy khí phách, oai hùng như hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị… Triệu Ẩu… thật rất đáng kính trọng mến phục lắm thay.

      Mỗi lần nghe tôi kể chuyện cổ tích, thì các con (và các cháu con hàng xóm) đều im lặng há hốc miệng chăm chú lắng tai nghe từ đầu đến cuối. Nhưng khi tôi kết thúc câu chuyện, thì các con cháu tiu nguỷu, rồi đột ngột xuýt xoa, tíu tít nhao nhao lên:
      - Ồ… hết chuyện rồi sao mẹ! Con muốn nghe mẹ kể tiếp nữa… Mẹ.
      - Còn chuyện Bà Triệu Ẩu đẻ ra trăm trứng, lạ quá phải không mẹ?!
      - Bậy bạ nà. Đó là sự tích của vua Lạc Long Quân và bà Âu Cơ.
      - Có phải bà Triệu là do bà ấy ẩu-tả, nên người ta mới đặt cho bà tên Triệu Ẩu không mẹ?!
      - Tầm bậy tầm bạ hết sức!
      - Vậy thì… xin mẹ kể nốt cho con nghe đi mẹ.
      Buộc lòng tôi phải uống ngụm nước lọc, rồi tằng hắng cất giọng:

      2. Triệu Thị Chinh
      .-

      Lúc ấy tại Cửu Chân có dân ta nổi dậy rầm rộ, lớn nhất, trong đó có ông Triệu Quốc Đạt và em gái là bà Triệu Thị Chinh. Họ quê ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Bà Triệu là người có sức khỏe dồi dào, có chí khí, rất kiên cường và tri thức. Thuở nhỏ cha mẹ mất sớm, anh ruột là Triệu Quốc Đạt có vợ, nhưng bà Triệu vẫn sống với họ cho đến năm bà hai mươi tuổi, do nhiều lần chị dâu (của bà Triệu) quá khắt khe, tàn ác, và độc đoán.

      Bà Triệu dám giết chị dâu, rồi bà Triệu vô rừng chiêu mộ quân sĩ đông đúc, được quân binh tín cẩn tôn bà lên làm tướng. Họ vào sống trong núi, ngày đêm kham khổ, kém ăn khát uống vẫn bền chí luyện tập không mệt mỏi. Anh Triệu Quốc Đạt biết cô em là người can đảm, có nghĩa khí, anh lo sợ khuyên can em chưa nên phục thù, nhưng bà nói:

      - Em muốn cỡi gió, chém cá kình biển đông, đạp lên sóng dữ, quét sạch bọn Đông Ngô ra khỏi bờ cõi nước ta, để cứu dân thoát khỏi ách nô lệ, khổ sở, xiềng xích của Tàu Ô. Chứ em không thèm cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người khác.

      Vua Đông Ngô (Tàu) cho quân tràn qua đánh nước ta nhiều lần, nhưng mấy phen đã bị thua to. Khiến trong nước có nhiều nơi đồng loạt nổi dậy, mong đánh đuổi bọn Tàu ra khỏi đất nước. Thế nên chúng điên cuồng tàn sát dân ta càng dã man hơn. Cuối cùng, năm Mậu Thìn 284 nhà Ngô sai thứ sử Lục Dận qua đàn áp Giao Châu (nước Việt). Anh Triệu Quốc Đạt khởi binh đánh bọn xâm lăng, được bà Triệu Thị Chinh đem quân đến tiếp ứng, hết lòng giúp anh. Lúc xông pha ra trận chiến bà Triệu mới 23 tuổi, bà vấn tóc cao, đội khăn vàng, hàm răng hạt huyền bóng đen, miệng bỏm bẻm nhai trầu, mình mặc áo giáp vàng, bà cỡi voi, tay cầm đao, tự xưng là "Nhụy Kiều tướng quân".

      Hai bên Tàu – Việt ngày đêm đánh nhau hơn nửa năm. Nhưng quân ta ít, mà dân Ngô quá đông chúng đã lấy thịt đè người, quân binh ta đành phải thua trận.

      Thật ra, trong sử cũ ở miền Nam Việt Nam đã ghi: Nước mất nhà tan, thất bại của anh em bà Triệu lần nầy, không nhất thiết vì một phần binh lính mất dần mòn (khi anh của bà đã tử vong), lương thực khô cạn. Mà do sự thâm độc, nham hiểm, trắng trợn của Lục Dân một phần lớn mà ra, ông ta đã dùng thủ đoạn biển người, nghĩ ra một kế “quái chiêu” bẩn thỉu; không biết phải diễn tả thế nào, cho công bằng…

      Nghĩa là Lục Dân bắt binh lính nhà Ngô phải trần truồng như nhộng khi ra trận chiến, (không cho lính Tàu mặc một thứ gì, các thứ lủng lẳng coi thiệt man rợ). Thế nên do bất ngờ, kinh ngạc, và quá xấu hổ, mắc cỡ tột cùng, nên bà Triệu và quân binh bèn chạy về xã Phú Điền, huyện Mỹ Hóa. Bà Triệu chia tay họ, và bà đã tự tử.

      - Ui Trời, có chuyện kỳ cục thô bỉ vậy sao? Mẹ!
      - Phải, rất dị hợm, nhưng đó là chuyện sử cũ đã ghi thật.
      - Mẹ kể chuyện khác nữa đi.
      - Ồ… Khuya lắm rồi. Các con cháu phải ngủ, ngày mai còn dậy sớm đi học.
      - Nhưng đi học mà con không được nghe chuyện lịch sử của nước Việt Nam, đi học bây giờ chán thấy mồ.
      - Ráng đi học cho giỏi, mẹ hứa sẽ kể cho các con, cháu, nghe nhiều chuyện lịch sử khác nữa.
      - Tối mai, mẹ cho chúng con nghe chuyện Đức Trần Hưng Đạo, mẹ nhe.
      - Ừa, nếu các con ngoan.
      - Dạ… Dạ!
      ***

      (1)= Thiên Nam Ngũ Lục
      (2) st= sưu tầm
      ***

      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-13-2017, 11:59 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Đôi Lời Phi Lộ của Đại Úy Không Quân Trần Văn Phúc (Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-

        Đôi Lời Phi Lộ của Đại Úy Không Quân Trần Văn Phúc (Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51)


        Nhân dịp 30/4/2011 đọc các báo và các mạng Quốc Nội (CSVN) bốc phéc trong bài phỏng vấn tên hàng giặc Tr/u Trần Văn On, người phi công hèn, bay cùng tên phản bội Nguyễn Thành Trung dội bom phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 06 giờ chiều ngày 28/4/1975, nào là bom 1.000 kg, 500 kg, 2 phi đạo bị huỷ v...v... và v...v..., Tác giả Tình Hoài Hương có hỏi tôi “ngày hôm đó thật sự chuyện gì đã xảy ra”?
        Vì là một nhân chứng, tôi đã kể lại chi tiết những gì tôi đã nhìn thấy. Sau đó tác giả Tình Hoài Hương đã ghi lại và đăng trên web :

        http://quanvan.net/index.php?view=st...7405&chapter=1

        Chính nhờ web Văn Tuyển nầy, tôi đã được đọc quyển sách "gối đầu giường" của nhiều người trên toàn thế giới - Tháng Tư Nghiệt Ngã của ký giả người Pháp, Todd Olivier do Đ/tá Dương Hiếu Nghĩa dịch. Hàng ngàn chi tiết tôi hoàn toàn không hề biêt, nhưng riêng chương 21 – “Sài Gòn Thất Thủ” về những việc xảy ra tại phi trường TSN và KQVNCH, là 1 nhân chứng đã dự phần trong phi vụ chống pháo kích hôm đó, tôi vô cùng bất nhẫn và cảm thấy xấu hổ thay cho ký giả, sử gia Todd Olivier. Mang danh là nhà viết sử mà ông Todd Olivier lại bẻ cong sự thật, hoàn toàn sai lạc, cố tình nhục mạ QLVNCH (KQVNCH).

        Thay mặt những vị anh hùng Vị Quốc Vong Thân, Th/tá Trương Phùng, Tr/uý Trang Văn Thành cùng Phi Hành Đoàn Tinh Long, tôi, Phi Long Trần Văn Phúc lên án người ký giả Todd Olivier là 1 ký giả, sử gia bất xứng, nhất là Th/tá Trương Phùng đã không màng an nguy chính bản thân anh, bằng mọi giá anh đã cất cánh tại Tân Sơn Nhứt 1 phi cơ khu trục A-1 Skyraider trong cơn mưa pháo, để bảo vệ hàng vạn đồng đội và đồng bào tại phi trường Tân Sơn Nhứt cũng như thủ đô Sài Gòn và sau khi hoàn tất phi vụ diệt pháo của Cộng Quân ở Phú Lâm anh bị mất tích vào giây phút cuối cùng.
        Thật nực cười khi đọc câu :"phi tuần tôi chỉ có 1 (Một) trái bom"???

        Chúng tôi hãnh diện mà nói rằng chúng tôi đã làm tất cả những gì mà chúng tôi có thể để bảo vệ Tổ Quốc không hèn như ông ký giả, sử gia người Pháp nầy nhục mạ.

        Thành khẩn nhờ tất cả anh em của các phi hành đoàn của chiếc Tinh Long 06, những chiếc trực thăng hiện diện trên vùng trời Phú Lâm sáng sớm ngày 29/4/75, các nhân viên của các đài Ground Control, Saigon Tower và Kiểm Báo Paris hãy bổ túc sự thiếu sót nầy. Xin đa tạ.

        Tôi xin gởi đến quý BBT bài Phi vụ của tác giả Tình Hoài Hương.
        Sau đó được đăng trên web Việt Land

        http://www.vietlandnews.net/forum/sh...%90I-C%C3%99NG

        Phúc Trần

        ******
        Phi vụ Oanh Liệt Cuối Cùng

        Tình Hoài Hương chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) hiện ở Cali} đã chuyển tải:..sự thật trung thực, chính xác, nóng bỏng về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975 vô cùng đen tối hắc ám của lịch sử... Việt Nam.

        * * *
        Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’- trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy 4 chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường, nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước) đang bay hành quân, nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
        - Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!
        Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo 4 chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt vì có tới 4 chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
        - Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
        Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc đó vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
        - Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
        Tôi điếng hồn nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:
        - Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả 4 chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì chỉ có 3 chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật! Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom (1 chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn (?) hai phi đạo không hề bị trúng bom”.
        Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ, nên tôi yên tâm mà bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Mãi đến tận ngày hôm nay, tôi vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn (tôi đã học kỷ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến“ hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, vì bị chói ánh mặt trời chiều nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới. Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét”! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?
        Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5 và họ cho biết là:
        - Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
        …nhưng điều đó đã có bao giờ xảy ra ? -không biết vì lý do gì- !?
        Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không?
        …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây. Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu mà không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi mãi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một, mà tôi đã vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay, tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37 lúc ban chiều (sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà“, bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).
        Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể tôi vừa chợp mắt tí xíu, là đã phải choàng tỉnh ngay lập tức vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly rít xé bầu trời điên loạn lao xuống, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng 2 di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!
        Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
        - Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?
        Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang, nhưng hình như cái mặc cảm “tội lỗi“ (vì thiếu cảnh giác đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát) của tôi đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lổi lầm“, đã bật lên tiếng nói thay cho tôi:
        - Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
        Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
        - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?
        Phi trường đang bị pháo kích dữ dội nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự của anh phóng ra bãi đậu phi cơ. Anh Phùng lái xe như bay:
        -… mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
        Rồi anh nói tiếp:
        - Bất cứ giá nào mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.
        Nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống“ 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng Phỉ! Đến bãi đậu A-1, các anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
        - Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!
        Máy vừa quay tròn vòng thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quần lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyễn ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay. Anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyễn ra phi đạo, đài trả lời ngay:
        - Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…
        Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3 để cất cánh PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng, và tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
        - Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07
        (ngược chiều phi đạo sử dụng).
        Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm:
        - Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng! (Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu nên đôi khi ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo“).
        Sau khi thử máy (dù biết động cơ chưa nóng ), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off“, và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975.
        Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ Ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
        - Paris ! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
        Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
        - PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
        - TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK! (đổi hướng tấn công)

        Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất. Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
        - PL51 in hot và thả từng trái một!
        Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
        - Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
        Tôi hỏi lại:
        - Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
        - Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
        - Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.
        Khoảng 15 ; 20 phút sau, có lẽ bọn Cộng Phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi:
        - Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi!
        Năm ba phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
        - TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
        Anh Bảo liền cãi chánh:
        - Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.
        Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung và tiếng anh Bảo la lên:
        - Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
        Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
        - TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
        Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.

        - TL06, tất cả giàn pháo đã “clear“ (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
        - Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
        Tôi được trả lời:
        - Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!
        Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 như đã nói ở trên, còn đám cháy thứ hai dù tôi đã đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, nơi vợ con tôi tạm trú, miệng tôi không ngớt cầu nguyện:
        - Cầu xin Ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên.
        Ngay lúc đó, trong lòng lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám Cộng Phỉ trong trại Davis, (Võ Đông Giang và đồng bọn).Nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng! (Võ Đông Giang và đồng bọn).
        Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom cứ bám sát theo phi cơ tôi. Tôi sang tần số và gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái khi sang phải cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!
        Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần 2 chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn.( Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2). Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi Cơ của TL07 gọi trên tần số:
        - Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho 1 trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.
        Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng 4 cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành la lên:
        - Số 1 thả bom “như để “. Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
        Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
        - Phượng Hoàng 11 Hold High And Dry (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
        Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
        - TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11! Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
        Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
        - TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn 2 trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
        Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
        - Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
        Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
        - Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp TSN. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
        Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
        - Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần 3 tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được nhưng bị câm. Bực mình quá!
        Tôi vội bấm máy trả lời:
        - Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!

        Lúc bấy giờ chiếc TL07 đang bay 5.000 bộ nên anh Thành muốn xuống thấp để dễ quan sát và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
        - PL51! TL07 xuống cao độ để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
        Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả ở Cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
        - Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
        Lo ngại vô tuyến bất thường của anh hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
        - Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!.
        Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân) nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
        - PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
        Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
        - Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa?
        Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
        - PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
        Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... nên tôi nghêu ngao trên tần số:
        - Làm sao… giết được… người trong mộng …1 …2 …3…touch down! (bánh đáp chạm phi đạo)
        Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
        - Target đó ở ngoài vòng rào và chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi cho vui vậy mà!
        Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*), động cơ bên phải phát hoả và nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoặc đầu qua trái, lao xuống và rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi hoảng hốt hét lớn:
        - Nhảy dù đi…
        - Nhảy dù…
        - Nhảy dù nhanh lên.
        Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng mà nước mắt tuôn trào. Một lúc sau, mọi người lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của tất cả các loại máy bay. Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-Tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
        - Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!

        Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo đang nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi. Ha ha ha... Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn. Sau khi Quân Cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long) và không được nói một lời gì với vợ con (họ theo gia đình Vân về nhà).
        Tôi trở vào Trung Tâm Hành Quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp Thiếu-tá: Bạch Diển Sơn, Lê Bình Liêu và Đ/U Lê Xuân Châu PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
        - Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên!.
        Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20 hơn. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi). Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi, nhưng tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!

        * * *
        Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 và sau... 2010:

        *.- Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas).
        *- Thiếu-tá Hồ Văn Hiển và Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ hiện giờ ở Houston.
        *- Thiếu-tá Bạch Diển Sơn hiện ở Panama City- Florida.
        *- Thiếu-tá Lê Bình Liêu hiện ở Oklabama.
        *- Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc (Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) hiện ở Cali.
        * - Trung-uý Nguyễn Thành Bá hiện ở Dayton-Ohio

        *1.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có 3 chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của anh Phúc. (TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần 2 chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy trên đường về Sài Gòn).
        *2.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng”?
        *3.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa mới cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi hi) màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em còn ở đó trong phi trường TSN đều thấy.
        *4.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có rất nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có: Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967 khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của Cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLP KQ. Anh Thành có 2 biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẩm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh là: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi.
        - Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ.
        - Thiếu uý Phạm Tấn Đức.
        Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.

        *5- Sau 3 năm 3 tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà và được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động”(vì uống Xăng?). Vì vậy thời gian quen biết, chuyện trò cùng Th/tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ:
        Th/tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan Sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát, sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa.
        Anh là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp 4 vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng Cộng quân trong 2 tuần lể vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị, là một người đầy nhiệt quyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào dù nguy hiểm. Anh là một phi tuần trưởng, vị Sĩ Quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.

        Tuy nhiên tôi được hân hạnh cùng bay chung với anh 2 lần:
        - Lần đầu tiên: Phi Vụ Trời Giúp ?
        Vào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa, để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ 3 KQ chỉ thị 2 phi tuần, mổi phi tuần 2 chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mổi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, thi hành một nhiệm vụ đặc biệt là oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su, gần Lộc Ninh. Phi tuần số 1 do Th/tá Phùng và Tr/u Đinh văn Đức. Phi tuần thứ 2 do tôi ( Đại úy Trần Văn Phúc) và Tr/u Nguyễn Tứ Đức.
        Bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mổi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm 7 ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mổi ống chứa 25 quả bom nhỏ như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm.
        Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, thì các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể nào chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN đặt Bộ Tổng Hành Dinh, ngoài hoả tiển tầm nhiệt SA-7 bọn CSBV còn bố trí rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly hay 57 ly điều khiển bằng radar, nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẻ trở thành những “target sống” để bọn Cộng Phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì vậy sau khi thảo luận và đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất nhưng an toàn nhất, chúng tôi xin Đ/Tá Nhã:
        -” Đ/Tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó thì xin Đ/Tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ để tránh phòng không thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh Truy Kích”.
        Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
        -”Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm cho đến sáng mai mới có phi vụ rescue, còn các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover”.
        Vì tầm quan trọng của phi vụ nấy, là cảnh cáo cho bọn Cộng Phỉ biết:
        ”Không có bất cứ nơi nào trên lảnh thổ VNCH là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẳn sàng trả đủa những vi phạm Hiệp Định Ba lê của chúng”.
        Nên sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) và thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi, Th/tá Phùng đề nghị nhập 2 phi tuần lại thành 1 hợp đoàn 4 chiếc; dùng chiến thuật truy kích với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây, khi bọn chúng thấy thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn chúng tôi. Với lối bay nầy đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ, vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm, ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người và lập lại nhiều lần, là mổi chiếc phi cơ chỉ thả 1 lần và chiếc kế nối tiếp với nhau.
        Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa nhưng bắt đầu 1 giờ bổng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi ?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
        -“Phi vụ của chúng ta rất quan trọng và rất nguy hiểm nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mà mình đã thảo ra, như các bạn đã biết tụi mình không bay thẳng tới đó mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu!. Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ”.
        Như trong phi trình đã hoạch định chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng và lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, chúng tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không, nhìn xuống chúng tôi thấy từng cụm năm ba tên Cộng Phỉ cố quay vòng những họng súng để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất 5 khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy.
        Khi thấy Lộc Ninh bên phải và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
        -“Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ “
        (quẹo trái về hướng Nam để thả bom vào bên hông địch).
        Lần lượt:” số 1 Rolling Hot”, rồi số 2, số 3 và số 4 Rolling Hot trong ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày.
        Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh thì trời đã tối hẳn.
        Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình và đầy kinh nghiệm của Th/tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng và an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời đã ban cho chúng tôi 1 cơn mưa và giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp.
        Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Th/tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đ/Tá Nhã đã lưu ý 2 lần:
        - " Nếu có gì bất trắc các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue".
        Anh Phùng cười rằng;
        -Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dể tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đ/Tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37 hay 57 ly. Đứa nào bay với tao thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh ???”

        *6.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu quân dân góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau gần bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới 5 thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng và đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/75. Ngay tối hôm đó bọn Cộng Phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.

        *7.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).

        *8.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi lại không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn... Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng Phi Cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:
        -Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
        Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75) là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
        - Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh hở?!
        Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
        - Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng. Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
        Ngay sau khi Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh dinh, không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.

        - Vị trí đặt pháo 122 ly của Cộng Quân.
        Theo Quốc Lộ 4 về Miền Tây, trước khi đến đài Radar Phú Lâm gặp ngả ba quẹo phải là đường mang tên : Đường Tên Lửa, đi khoảng hơn 500 mét là Khu Tên Lửa. Đây là vị trí đặt các giàn pháo của Công Quân Khi xưa.
        ***

        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-21-2014, 11:52 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Đức TRẦN HƯNG ĐẠO Vương (& Những Chiến Trận Lẫy Lừng)



          Đức TRẦN HƯNG ĐẠO Vương
          (& Những Chiến Trận Lẫy Lừng)



          Từ khi Việt Nam rơi vào ngày 30 tháng Tư 1975 mất nước, thì hầu như tất cả trường, lớp, chẳng có giờ học về môn: Công Dân Giáo Dục & Sử Ký & lịch sử Việt Nam nữa. Hôm nay, trước tiên tôi xin mạn phép kể hầu cùng quý vị độc giả… (và sau rốt là do đã hứa cùng các con, cháu, tôi sẽ ghi lại những chiến tích oai hùng, những kỳ công anh dũng, và quật cường của tổ tiên ông cha chúng ta, họ đã dày công xây dựng và giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam hưng thịnh trường tồn đến bây giờ).
          Tiếp theo chuyện hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị ; chuyện bà Triệu Thị Chinh đã ghi. Nay tôi xin kể hầu tiếp quý vị về: Đức HƯNG ĐẠO Vương TRẦN QUỐC TUẤN:
          Tình Hoài Hương

          ***


          Thời xa xưa ấy, giặc Nguyên Mông (Tàu) luôn luôn tìm mọi cách sang quấy nhiễu, phá phách, xâm chiếm nước An Nam. Mặc dù ông cha chúng ta chẳng hề làm gì sai trái, mà chỉ muốn giữ trung dung, nhân hậu, an phận thủ thường, hiếu hòa, nhún nhường với nước Tàu bành trướng đại lân bang, và tuân phục đi cống hiến lễ vật hậu hĩ. Nhưng nhà Nguyên cậy lớn ăn hiếp bé, o ép mọi bề, độc đoán rất hà khắc. Sau nhiều triều đại, họ chuyên bức bách dân tình ta khổ sở cay đắng trăm điều. Tiếp sau đó Tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) sai sứ giả nhà Nguyên qua An Nam (nước Việt) nói với vua Trần Thái Tông:
          - Nước An Nam ngươi phải thuần phục Nguyên Mông, phải cống hiến mọi thứ cho nước ta.

          Vua Thái Tông là người anh dũng đã cương quyết không chịu phục tùng, và vua cho bắt nhốt sứ giả Nguyên. Vua Thái Tông sai Trần Quốc Tuấn đem quân đi giữ ở mạn Bắc. Về hướng Nghệ An thì Thượng-tướng Trần Quang Khải đem quân trấn giữ chỗ trọng yếu, cố ý không cho quân Toa Đô ra lối nầy. Ngột Lương Hợp Thai (Tàu chệt) liền kéo hai toán quân: - một đoàn từ Vân Nam xuống ranh địa An Nam (Việt Nam). - Một đoàn Tàu-chệt khác men theo sông Thao (Hưng Hóa), chúng lấy đại bác bắn phá các trại nam ngạn sông Hồng Hà.

          Thoát Hoan thừa thắng xông lên đánh đâu được đó, họ đóng đô tại Bắc Ninh, Thiên Trường. Quân Mông làm cầu phao bắc qua sông vô thành Thăng Long. Quân Nguyên Mông thấy ba sứ giả vẫn bị trói giam trong ngục, có một người chết, thì Ngột Lương Hợp Thai tức giận, y cho quân đi cướp phá giết hại nam phụ lão ấu các vùng: Võ Ninh, Gia Lâm, Đông Ngạn… & nơi nơi. …

          Khi quân Mông tràn vô bờ cõi An Nam, tại thành Thăng Long, vua Thái Tông cùng quân sĩ ra nghinh chiến giặc Nguyên hoài mãi không được, mà binh khí lính tráng ngày càng tổn thất hao mòn dần. Vua & quân đành lui binh chạy về đóng ở phía đông huyện Thượng Phúc, sông Nhị Hà. Ông Trần Quốc Tuấn: vì ít quân, đánh bọn ngoại xâm đông đúc và man rợ chịu không nỗi, nên ông phải lùi về đóng quân ở Sơn Tây.

          Trần Quốc Tuấn phù giá vua Thái Tông ngày đêm lặn lội núi đèo sông nước đi lánh nạn… Một thời gian sau, khi vua Trần Thái Tông vừa mất, nhà Nguyên lại cho sứ giả qua An Nam quấy rầy, Sài Thung đi từ Hồ Bắc, qua Quảng Tây, chẳng cần trình báo có phép tắc gì, y lên mặt vênh váo hiu hiu, tự kiêu tự đắc cỡi ngựa xông thẳng tới cửa Dương Minh (nước Nam). Sài Thung đưa thư trách mắng vua Nhân Tông, ý rằng:

          - Không xin phép triều đình Nguyên, mà dám tự lập. Nay phải sang chầu thiên triều hoàng đế Nguyên ngay. Nếu vua ngươi không sang chầu, thì phải đưa vàng bạc, ngọc ngà, và nộp mỗi hạng hai người: hiền sĩ, thợ giỏi, thầy âm dương bói toán...

          Vua Nhân Tông đành phải đưa Lê Mục, Lê Tuân và chú họ là Trần Di Ái đi sứ. Nhưng ý đồ của nhà Nguyên chỉ muốn xâm lăng chiếm đoạt nước Nam, và độc tài cai trị dân Việt, chúng đặt để người Tàu tới giám thị ở các châu huyện ở nước An Nam. Vua Nhân Tông không nhận, đuổi về. Nhà Nguyên tức giận, cho Sài Thung dẫn 1.000 quân đi An Nam, bắt phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương. Lê Tuân làm Thượng-thư, Lê Mục làm Hàn-lâm. Nhưng khi bên nhà Nguyên biết tin cấp báo về cho hay:

          - Trần Như Ái trở về quê Việt bị bắt, và đày đi làm lính thú. Nhất là khi thấy Sài Thung chạy trở về Tàu: bị quân An Nam bắn trúng tên, hắn thương tích đầy mình và đã mù chột một mắt, thì nhà Nguyên tức giận vô cùng, quyết tìm cách đi xuống phương Nam để phục thù.

          Năm 1284, vua Nhân Tông ngự thuyền trên sông Đuống, nơi giao nối với sông Thái Bình, ngài hội họp võ tướng, vương hầu: để bàn mưu tính kế chống ngoại bang. Trong phiên họp, có người lo âu bàn ra, kẻ xôn xao bàn vào, hoặc có người thấp thỏm bàn... lui bàn tới; nên tiếp tục đem lễ vật hậu hĩ sang Tàu cống hiến, mà làm kế hoãn binh, cho yên thân.

          Riêng các ông: Trần Khánh Dư & Trần Quốc Tuấn nhứt quyết xin vua cho đem quân đi tiêu diệt bè lũ xâm lăng. Vua đã ưng thuận và phong cho ông Trần Quốc Tuấn là Trần Hưng Đạo vương tiết chế thống lĩnh toàn quân, đi diệt trừ quân Nguyên xâm lược. Ngày kia tại bến Đông Bộ Đầu, đức Trần Hưng Đạo vương đứng trước bá quan văn võ, và 20 vạn thủy quân & bộ quân mà truyền:
          - Bản nhân phụng mệnh vua đi phá giặc Nguyên. Tướng sĩ và vương hầu cần phải giữ phép tắc: Việc quân có luật. Phép nước giữ nghiêm minh. Không được nhiễu hại dân. Phải đồng lòng quyết chí đánh giặc. Không thấy thua mà nao núng ngã lòng. Chớ thấy thắng mà tự đắc tự kiêu.

          Thế rồi, Trần Hưng Đạo vương truyền cho các tướng đi trấn giữ ở những điểm quan trọng chủ yếu trong nước:
          - 1./ Tướng Trần Khánh Dư: đem quân đi tới Vân Đồn, Quảng Yên.
          - 2./ Tướng Trần Bình Trọng: đem quân đi đóng ở Bình Than.
          - 3./ Phần đức Trần Hưng Đạo vương thì dẫn đại quân đi tới làng Kiếp Bạc, Vạn Kiếp (thuộc Hải Dương) ; đây là nơi rất quan trọng, có thể tiếp ứng cho mọi cánh quân đã đóng giữ trên lãnh thổ An Nam.

          Trong khi đó, vua Nhân Tông biết tin cấp báo:
          - Quân Nguyên ở Hồ Quảng đã rầm rộ kéo quân qua Lạng Sơn.
          Vua lo ngại bên ta ít quân, yếu thế, binh khí thô sơ, thì không thể chiến đấu, vua liền sai sứ mang lễ vật qua Tàu xin hoãn binh, ngỏ hầu có cơ may thương nghị, hòa hảo. Nhưng nhà Nguyên hống hách la mắng, nhiếc móc đủ điều - không chịu. Vua (Nguyên) vẫn sai Thoát Hoan tiến binh chia ra làm hai đạo quân: - Một đại quân do Thoát Hoan đi đến ải quan Lạng Sơn (thuộc An Nam). Rồi sai sứ mang thư đến vua An Nam, nói láo lấy cớ:
          - Mượn đường để đi đánh Chiêm Thành.

          - Còn đạo quân thứ hai do tướng Toa Đô (Mông Cổ) dẫn 10 vạn quân từ Quảng Châu theo đường biển dọc hướng Chiêm Thành, (đoàn quân nầy trước kia do Toa Đô đi đường biển đánh Chiêm, nhưng đánh Chiêm không được. Nhà Nguyên bèn sai Toa Đô quay qua đường bộ xuống An Nam), Toa Đô hợp với Thoát Hoan, cùng Ô Mã Nhi, đi đường biển tới tiếp ứng dẫn 50 vạn quân đi phương Nam, giả vờ kiếm cớ mượn đường đi, để đem quân qua đánh Chiêm Thành.

          Thoát Hoan đuổi theo quân An Nam đánh tiếp, lần nầy Trần Hưng Đạo thua, phải chạy về Bái Tân. Quan tướng Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Hưng Đạo cùng nhau thu nhặt tàn quân các nơi, họ xuống thuyền chạy về Vạn Kiếp. Thoát Hoan tiến đánh Kỳ Cấp, Lộc Châu, Khả Ly mấy phen, chưa phân thua thắng. Thế rồi ngày tháng dần dần trôi qua… phen nầy Lộc Châu, Khả Ly bị thất thủ, quân An Nam phải rút về ải Chi Lăng.

          {Về việc ông Trần Bình Trọng giữ đất nước ở Thiên Trường, quân Nguyên đem quân ra đánh ở khúc sông Đà Mạc rất hăng. Nhưng chẳng may ông Trần Bình Trọng bị bắt sống. Thoát Hoan biết Trần Bình Trọng là tướng tài có chí khí, y muốn chiêu dụ ông, cốt ý điều tra mà hỏi mọi việc nước Nam, nên cho chúng nghinh tiếp thiết đãi yến tiệc cho Trần Bình Trọng linh đình v.v… Làm cách gì… thì Trần Bình Trọng cũng chẳng thèm ăn uống, không tham dự, không trả lời. Thoát Hoan hỏi:
          - Có muốn làm vương đất Bắc không?
          Lúc đó Trần Bình Trọng ngẩng cao đầu, quắc mắt hét to:
          - Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt, thì ta quyết chết, không can gì đến bọn bây mà hỏi lôi thôi.

          Thoát Hoan biết không thể chiêu dụ Trần Bình Trọng, nên lập tức đem ông Trần Bình Trọng đi chém đầu. Từ vua quan binh tướng nước An Nam ai nấy nghe tin Trần Bình Trọng tuẫn tiết, họ đều rụng rời, bàng hoàng đau xót, và vô cùng tiếc thương}.
          ***

          Trong khi đó ở triều, vua Nhân Tông tiếp được thư của Thoát Hoan, lập tức cho họp bô lão trong nước, để bàn luận về việc:
          - Trước việc nước lâm nguy, nên hòa hay nên chiến?
          Tất cả mọi người đều đồng thanh hô to: QUYẾT CHIẾN.
          Lúc bấy giờ thiếu niên Trần Quốc Tuấn vì còn ít tuổi, nên không được vô bàn hội nghị để tham dự cùng vua và các vị bô lão. Ông Trần Quốc Tuấn trong lòng đầy phẫn nộ tức giận bọn giặc Nguyên, trong tay ông cầm trái cam mà uất ức đã bóp nát nó lúc nào, không hề biết. Ông vô cùng căm phẫn và buồn bã quay về doanh trại.

          Vua Nhân Tông đăm chiêu suy nghĩ khi thấy quân binh của mình đã thua, liền ngự thuyền tới Hải Dương gọi Trần Quốc Tuấn đến luận bàn rằng:
          - Thế giặc rất đông, quá mạnh, mình chống không nỗi, thì e dân ta sẽ bị sát hại, điêu đứng khổ sở rất nhiều. Nay Trẫm muốn hàng, cốt để cứu muôn dân.
          Trần Quốc Tuấn tâu:
          - Lời nói của bệ hạ thật là nhân đức. Nhưng xã tắc tôn miếu nếu đã mất rồi, thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, trước hết xin hãy chặt đầu tôi. Sau đó sẽ hàng.

          Vua nghe Trần Quốc Tuấn nói cương quyết, lẫm liệt, có trung nghĩa như thế, trong lòng vua cảm thấy bình yên, bớt lo lắng. Vua phong cho ông Trần Quốc Tuấn là Trần Hưng Đạo Vương.
          Trần Hưng Đạo vương tập họp quân binh tại Vạn Kiếp hơn 20 vạn người. Ông đã làm tờ hịch (nguyên bản Hán-văn, dịch ra Quốc-ngữ rất dài - tác giả chỉ xin ghi lại đại ý chính) như sau:

          - Ta nghe chuyện Kỷ Tín liều thân chịu chết cho vua Cáo Đế. Do Vu lấy thân dỡ ngọn giáo cho vua Chiêu Vương. Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho cố chủ. Thân Khoái chặt tay để cứu nguy đất nước. (vân vân … & …). Các bậc trung thần nghĩa sĩ ngày xưa bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử mấy người ấy cứ bo bo theo lối thường tình chết già ở xó nhà, thì lưu danh sử sách nghìn đời như thế sao được? Nay các người thuộc dòng dõi vũ tướng không hiểu chuyện cổ tích: nửa tin nửa ngờ. Ta không nói làm gì - (vân vân… & …). Ta đây ngày quên ăn, đêm quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa.

          Chỉ căm tức chưa được sả thịt, lột da của quân giặc, dẫu thân nầy phơi ngoài nội cỏ, xác nầy gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi cùng ta giữ binh quyền cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn. Quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương còn ít thì ta tăng cấp. Đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Lúc hoạn nạn cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ cùng nhau vui cười. Những cách cư xử đó, so với Vương Công Kiên, Đường Ngột Ngại ngày xưa, nào chẳng kém gì!?

          Nay các ngươi trông thấy chủ nhục, mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ, mà không biết thẹn. Thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức. Tai nghe nhạc để hiến sứ, mà không biết căm. Các ngươi lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc có thú vui về vườn ruộng, quyến luyến về vợ con, nghĩ về lợi riêng, mà quên việc nước. Ham săn bắn mà quên việc binh. Thích rượu ngon, mê tiếng hát, nếu có giặc đến, thì cựa gà trống đâm sao thủng được áo giáp? Mẹo cờ bạc không dùng nỗi được quân mưu. Dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng không chuộc lại vợ bìu con díu.

          Nước nầy trăm sự nghĩ sao, tiền của đâu mà mua cho được đầu giặc? Chó săn ấy thì địch sao nỗi quân thù! Chén rượu ngon không làm cho giặc say chết. Tiếng hát hay không làm cho giặc điếc tai. Bấy giờ chẳng những là thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng hết. Chẳng những là gia quyến của ta bị đuổi, vợ con các ngươi cũng nguy. Chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau tiếng xấu nầy vẫn còn mãi mãi, mà gia đình các ngươi chẳng khỏi mang tiếng nhục. Đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui vẻ có được không? (vân vân… & …).
          Nay ta soạn hết binh pháp của các nhà danh gia hợp lại, gọi là “Binh Thư Yếu Lược”. Nếu các ngươi biết luyện tập từ sách nầy theo lời dạy bảo, thì thật phải đạo thần tử. (vân vân… & …).
          * * *

          Các tướng sĩ nghe lời Trần Hưng Đạo vương khuyên răn, vô cùng cảm động, ngày đêm họ đã hết lòng quyết chí lo luyện tập, họ liền lấy mực xâm vô cánh tay hai chữ “SÁT DÁT”, quyết đồng lòng phục hận nước lâm nguy nhà tan biến. Do cũng từ vua Nhân Tông tới quan binh vương tướng đều chung một lòng đoàn kết, cương quyết diệt quân Nguyên xâm lăng, nên lần nầy đoàn quân Trần Hưng Đạo vương đã phá được trận chiến, ông khôi phục giang sơn, rước vua Nhân Tông trở về Thăng Long.

          Thoát Hoan rút về Tàu, nhận bao cay đắng sỉ nhục, trong lòng rất uất hận, họ sửa soạn lại binh khí để nhanh chóng phục thù. Vua Nhân Tông được mật tin, liền cho triệu Trần Hưng Đạo vương đến hỏi:
          - Thoát Hoan bị nhục thua trận trở về nước, chắc chắn sẽ đem nhiều quân xuống báo thù. Ta làm sao chống đỡ?

          Vua Nhân Tông rất mừng rỡ khi nghe Hưng Đạo Vương tâu:
          - Xưa kia nước ta thái bình, thì dân chúng an cư không tập tành chiến đấu, nên quân Nguyên dễ dàng vô cướp nước. Nay công dân nước ta đã trải qua bao phen điêu đứng khổ cực vì bọn tàn ác xâm lược dã man, chắc chắn họ đã thấu hiểu. Còn tướng quan binh lính của chúng ta đã trường kỳ nằm gai nếm mật chiến đấu, ắt đã kiên cường hơn, có dồi dào kinh nghiệm. Về bên quân Nguyên, từ khi thấy Lý Quán, Lý Hằng, Toa Đô tử trận, trong lòng họ bối rối lo âu. Nay nơi ngàn dặm xa xôi, quân Nguyên lại trèo đèo vượt biển mỏi mệt, phong thổ không quen, họ sẽ đau yếu, không ít nhiều vẫn họ lo lắng, sợ hãi, băn khoăn và nãn lòng. Theo ý tôi: nếu quân Nguyên sang An Nam lần nầy, ta đánh thì có thể dễ dàng hơn.

          Tháng Hai năm 1287 – từ nguyên do nhà Nguyên lập mưu viện cớ đưa Trần Ích Tắc về nước Nam, để đưa lên phong ngôi làm An Nam quốc vương, nhà Nguyên sai các người: Thoát Hoan. Áo Lỗ Xích. Phàn Tiếp. A Bát Xích. Ô Mã Nhi… chọn 500 chiến thuyền, 6.000 quân, đi từ Vân Nam. 15.000 quân ở ngoài biển và chuyển tải 17.000 lương thực tới các châu thuộc hướng đi An Nam.

          Tin trên về, các quan tướng An Nam xin tuyển thêm binh lính, thì Trần Hưng Đạo vương nói:
          - Binh lính cốt giỏi, tinh nhuệ, không cần nhiều. Nếu nhiều mà không giỏi như Bồ Kiên, thì dù có trăm vạn quân, cũng chẳng ích gì!
          Trần Hưng Đạo sai tiền quân đi đóng ở ba đồn: Từ.- Sa.- Trúc &
          - Các tướng đem quân đi trấn giữ cửa sông Đại Than.
          - Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái đem 30.000 đi giữ Lạng Sơn.
          - Các quan tướng: Trần Quốc Toản, Lê Phụ Trần đem 30.000 quân vô giữ Nghệ An.

          Vua Nhân Tông liền đưa thư (cho sứ giả Nguyên) trả lời với Thoát Hoan, ý rằng:
          - Từ bản quốc của tôi đi qua Chiêm Thành, thì các đường: thủy, lục, bộ đều không thuận tiện.
          Thoát Hoan nổi lô cồ giận dữ, sai A Lý qua An Nam, dụ:
          - Bản súy ta chỉ nhờ đường Nam quốc nhà ngươi, để đi qua đánh Chiêm Thành, & nhờ nhà ngươi giúp ít lương thảo. Chứ ta không có bụng gì. Khi phá xong Chiêm Thành, Bản suý ta sẽ trọng tạ về sau. Nếu kháng cự, ta sẽ không dong tình, sẽ phá tan bờ cõi (An Nam). Có hối lại không kịp.

          Trần Hưng Đạo vương đuổi A Lý về Tàu, liền chia tướng binh đi giữ ải Lộc Châu và Khả Ly. Phần ông dẫn đạo quân đi đóng ở núi Kỳ Cấp, chiến thuyền đóng ở thượng lưu sông Lục Nam (Bái Tân). Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn nghe tin quân Nguyên đến, ông liền chỉ xuống sông Hòa Giang, oai dũng mà thề:
          - Nếu trận nầy không phá tan giặc Nguyên, thì ta quyết không về đến sông nầy nữa.

          Hưng Đạo vương sai các tướng:
          - Nguyễn Chế Nghĩa, Phạm Ngũ Lão dẫn đoàn quân đi nằm phục ở Lạng Sơn (ải Nội Bàng) chờ quân Nguyên sẽ chạy về lối ấy, mà đánh.
          - Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lại cho đoàn quân Nguyễn Khoái đi tắt lên mé thượng lưu, ngày đêm làm rất nhiều cọc gỗ vót nhọn, đầu nhọn bịt sắt cắm sâu đầy xuống giữa lòng sông Bạch Đằng.

          Làm xong đâu đấy phục binh An Nam bình yên nằm yên đó chờ đợi; khi thủy triều dâng lên, thì quân An Nam lên thuyền khiêu chiến, quân An Nam vừa đánh vừa nấn ná, giả vờ yếu kém từ từ rút lui binh, họ cốt ý nhữ cho quân Ô Mã Nhi đi qua lối thủy đạo đã cắm cọc nhọn khá xa.
          Đến khi thủy triều rút xuống, thì quân Nguyễn Khoái quay toàn bộ thuyền lại, ồ ạt như vũ bão xông lên đánh quân Nguyên rất hăng. Đúng lúc đó quân của Hưng Đạo vương đến tiếp ứng, hợp sức với quân Nguyễn Khoái oai dũng quyết liệt hăng hái chiến đấu.

          Các tướng bên quân Nguyên thấy mình đóng ở những chỗ hiểm yếu đã bị mất hết, bèn bàn với Thoát Hoan:
          - Nên rút quân về - vì ta không thể cử người về nước xin cầu viện và chuyển lương thực tới tiếp tế.
          Cuối cùng Thoát Hoan nghe lời, phải đành cho Phàn tiếp rút quân về lối sông Bạch Đằng. Trình Bằng Phi dẫn quân đi đường bộ. Trương Quân đi tập hậu vào tháng Ba năm 1288. Ô Mã Nhi & Phàn Tiếp thấy không thể cự nỗi, bèn quay thuyền lui binh tháo chạy, thì thuyền bị kẹt cứng ở bãi cọc nhọn, thế là Phàn Tiếp, Ô Mã Nhi, Cơ Ngọc, Tích Lệ, đã bị bắt sống; trên thuyền dưới nước quân Nguyên máu nhuộm đỏ sông, thây phơi chết la liệt như rạ.

          Thoát Hoan biết tin quân mình đại bại ở sông Bạch Đằng, liền dẫn A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Trình Bằng Phi, Trương Ngọc, Trương Quân chạy đường bộ về Ải Nội Bàng, bị tướng Phạm Ngũ Lão chém chết, và quân binh của Trương Quân bị mai phục của Phạm Ngũ Lão đánh tan tác.

          Bọn Nguyên chạy về phía núi Kỳ Cấp, nghe tiếng quân An Nam ầm ầm rượt đuổi theo, Thoát Hoan trốn trong ống đồng sợ hãi bắt lính khiêng đi, rồi sai Trương Ngọc, A Bát Xích đi trước mở đường máu. Đoàn quân Trình Bằng Phi che chở cho Thoát Hoan đi đoạn giữa, để chạy tới Đan Kỳ, Lộc Châu, tàn binh lẻn đi đường tắt về Tư Minh, rồi Yên Kinh. Đoàn quân Áo Lỗ Xích đi tập hậu. Nào ngờ quân An Nam mai phục ở hai bên sườn núi bắn tên độc xuống như mưa. Bọn bại tướng Ô Mã Nhi, Tích Lệ, Cơ Ngọc, Phàn Tiếp: đều bị bắt sống.

          Phàn Tiếp hãi hùng lo sợ quá, sinh bệnh mà chết. Vua Nhân Tông thật nhân từ cho hỏa tang, rồi chu cấp đầy đủ cho vợ con hắn đem tro cốt về Tàu. Ô Mã Nhi là tên tàn ác được quân An Nam giải lên thuyền, đi nửa đường bị đắm tàu mà chết. Cơ Ngọc, Tích Lệ được vua tha, cho lính giải về Tàu. Quân Nguyên đại bại trận nầy thiệt là thua to quá thảm hại, nhục nhã chưa từng thấy.
          ***

          Thánh nhân HƯNG ĐẠO Vương TRẦN QUỐC TUẤN sinh 10–12–1228, Mậu Tý, huyện Tức Mặc. Nam Định. Từ trần 20–8-1300, Canh Tý tại Vạn Kiếp, Chí Linh. Hà Nội.
          Ông là con của An-sinh vương Trần Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn là anh ruột vua Trần Thái Tôn), quê ở làng Tức Mặc, phường Lộc Vượng, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định. Ông Trần Quốc Tuấn diện mạo khôi ngô, tuấn tú, thông minh kỳ vĩ. Thời thiếu niên ông học rộng, tài cao - năm lên 6 tuổi ông đã làm thơ ngũ ngôn hay, tuy còn nhỏ ông đã biết chơi đồ bát trận. Ông đọc hết các sách lục thao, tam lược. Ông thật là thơ, văn, võ... uyên thâm song toàn khác thường.

          Tuy dòng dõi vương quan, nhưng tính tình ông Trần Quốc Tuấn giản dị, bình dân, khoan hòa. Ông Trần Quốc Tuấn vì trọng tình nước đã quên thù nhà, ông thương người và bao dung, độ lượng. Ông Trần Hưng Đạo vương đúng là một bậc thánh nhân lừng lẫy, phi thường, kiệt xuất. Ông TRẦN HƯNG ĐẠO vương Trần Quốc Tuấn rất xứng đáng để mọi người trân trọng ngợi khen và bội phần kính phục.

          Các vị danh tướng oanh liệt ngàn năm một thuở xa xưa, danh tiếng vang dội lẫy lừng khắp bốn bể năm châu, muôn đời trên thế giới vẫn nễ phục. Họ lưu danh thiên cổ trong sử sách cho hậu thế noi theo: Mặc dù thuở đó vũ khí mộc mạc, thô sơ, nhưng họ đã anh dũng, kiên cường, quyết đồng lòng tiêu diệt bọn ngoại xâm. Ngỏ hầu đem lại an vui bình yên vinh sang cho dân tộc, và góp phần xây dựng quê hương đất nước trường tồn giàu mạnh thời ấy… Rất đáng trân trọng tôn vinh và kính phục dường bao!

          Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử VIỆT NAM buồn vui vinh nhục… tang thương & rối ren… Ngày hôm nay đây, biết có mấy ai dám mạnh dạn đứng lên giành lại giang sơn, tổ quốc, quê hương như: Hai bà Trưng, bà Triệu, vân vân… & vân vân… giống như nhiều vị anh hùng lẫm liệt, oai phong thuở xa xưa khác của chúng ta không?

          Có ai giống như đức Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã hiên ngang, dũng khí đánh đuổi bọn Tàu Chệt, (bài học nhục nhã nhớ đời về trận Bạch Đằng giang, khiến chúng xấu hổ bưng mặt cúi đầu lũi trốn về Tàu.

          Cái bọn Tàu dã man ấy, ngày nay đã, vẫn giành đất nước quê hương Việt Nam dấu yêu của chúng ta, phải mất Ải Nam Quan & lấn chiếm đất, cướp biển… Trường Sa, Hoàng Sa, cùng sát hại rất nhiều ngư dân Việt Nam vô tội) - (!?).
          * * *

          Tình Hoài Hương


          * THH biên soạn bài viết theo lịch sử Việt Nam, từ:
          * ít sách trong Bộ Giáo Dục V N C H
          * Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim).
          * Nam Hải Dị Nhân (Phan Kế Bính).
          * Đại Cương Lịch sử Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần).
          * Notion d’ Histoire d’ Annam, par Maybon et Ruissier.
          * Abrégé de l’ Histoire d’ Annam, par Shreiner.
          * L'Empire d' Annam, par Goselin.
          * L'ínurrection de Gia Dinh, par J. Silvestre.
          * ít nghiên cứu từ Wikipedia.
          - Sử quán triều Nguyễn, "Đại Nam thực lục".
          - Sách “Tây Sơn thực lục”.
          - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ...
          (Đại Nam chính biên liệt truyện).
          ***
          Tình Hoài Hương

          * * *
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 09-28-2019, 10:06 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Đức Trần Hưng Đạo Đại Vương

            .




            Đời nhà Trần chúng ta thật nhiều tướng tài như Trần Quốc Tuấn , Trần Quang Khải , Trần Bình Trọng , Trần Nhật Duật , Trần Khánh Dư ..., trong đó nổi bật nhất là tướng Trần Quốc Tuấn - Hưng Đạo Đại Vương . Nhờ tài thao lược của Ngài mà quân ta đã đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông , dù đội quân này nổi tiếng hùng mạnh bậc nhất thế giới thời bấy giờ . Nhiều nơi trong nước đã lập đền thờ Ngài , gọi một cách kính cẩn là Chùa Thánh .
            Đọc bài Trần Hưng Đạo Vương của THH , người đọc cảm thấy như có luồng sinh khí chạy rần rần trong cơ thể . Xin cám ơn tác giả .
            Last edited by muahong; 09-18-2014, 02:28 AM.

            Comment


            • Bé Lọ Lem & Tình Người Xa Lạ





              Bé Lọ Lem & Tình Người Xa Lạ
              Sau khi đi thăm em ở Pennsylvania, New York, Ohio, Canada... về,
              THH thương tặng nhân vật chính:
              Trương thị Thu Huyền (Hoa) một loạt bài viết về câu chuyện thật của em tôi.

              ***

              Với lứa tuổi ngây thơ dại khờ của bé Hoa lọ lem… qua những tháng ngày ở nhà ôn mệ Bộ Tri Cúc, nơi đây họ có một vườn ươm cây tối tân, bao la, đầy đủ tiện nghi, sung túc nhất miền Trung thời bấy giờ (tại thôn Thượng Phước, xã An Đôn thuộc quân Triệu Phong, Quảng Trị) trang trại ấy an ngự bên dòng sông Dư Lệ mơ màng, có hàng tre nghiêng mình êm đềm soi bóng nước, có những con đò ngang dọc khua mái chèo dậy sóng mỗi sáng trưa khuya chiều, có rặng dừa thẳng tắp, có đồi trà bao la và từng luống cà phê xanh um ngút ngàn.

              Rồi sau nầy gia đình ôn mệ dời nhà vô lập vườn ươm cây mới nữa tại khu đồi sim bạt ngàn ở Mỹ Chánh, thì Hoa thật sự hạnh phúc: mỗi tối Hoa được nằm ngủ bên mệ, được tinh nghịch rờ vú mệ, được mệ vui vẻ trìu mến nhìn mình âu yếm kể chuyện cổ tích, được mệ ví mình xinh đẹp và ngoan hiền như chị Thùy Mến (con gái út của mệ)…

              Thế rồi hình ảnh mơ hồ của chị ấy cũng thâm nhập vào tim Hoa. A! té ra ta có nét giống chị ấy, nên được ôn mệ thương ha. Mãi sau nầy khi lớn khôn hơn, Hoa mới nhận ra rằng: chẳng phải do mình giống chị có đôi mắt to, sóng mũi cao, miệng cười tươi lộ hai hàm răng trắng đều nho nhỏ, mái tóc dài quăn tự nhiên, nên Hoa mới nhận được tình thương mến, ân cần, âu yếm của họ về một đứa trẻ thơ không cùng huyết thống. Mà do họ thương cảm Hoa, vì mình chỉ là đứa trẻ non nớt đang lâm vào cảnh đoạn trường khổ sở, vất vả nhọc nhằn, ngỏ hầu đứa trẻ nầy gánh vác gia đình cha mạ và bầy em của mình bớt cảnh nghèo khó. Thì ra là vậy.
              Ngó đâu ngó đó thì vui
              Ngó về phụ mẫu bùi ngùi nhớ thương*.
              (*).

              Đúng là Hoa nghĩ như thế, chắc có lẽ cha mạ buồn. Nhưng không phải lỗi của cha mạ do nghèo xơ nghèo xác đâu. Chẳng qua là vì hoàn cảnh ngặt nghèo mà cha mạ nuốt tủi ngậm hờn: cha lính tráng “cấp bậc binh nhì hèn mọn”, mà tụi bạn nhỏ của Hoa khi đó ưa lêu lêu trêu chọc: “mi là con của ông đơ dem cùi bắp” hết đổi đi đây đó, lại đi xa nhà chinh chiến liên miên, cái chết treo ở đầu tơ kẽ tóc, lòng dạ cha ngổn ngang trăm mối tơ vò:
              Nhà vách nát mưa luồn gió tạt
              Nhớ đến mình chua chát lòng qua*.
              (*)

              Mạ “mình hạc xác ve” một nắng hai sương vất vả với cơm áo gạo tiền, nên quần vo áo vận, suốt ngày mạ quần quật vẫn lam lũ. Buôn bán thì không vốn liếng, nên mạ chỉ làm thuê cuốc ruộng, mạ khó khăn vất vả nuôi các con nhỏ dại. Nhất là khi mạ cấy lúa đỏ, là những nơi nước ngập lên thấu háng! Hoa không điêu ngoa khi tả cảnh nước ngập quá đáng đâu, mà sự thật là nước lên tới háng thiệt. Mạ sợ đỉa, sợ trun chun vô chỗ kín, mạ sợ sâu… thế mà người thiếu phụ trẻ ở nông thôn phải làm nghề cấy lúa. Thật quá khổ cực nhọc nhằn trên:
              “Quê em óng ánh tơ vàng.
              Ruộng nương thẳng tắp ngút ngàn dâu xanh”:
              Nghèo đến nỗi có giường không chiếu
              Lo nồi cơm sớm lại thiếu nồi chiều*
              (*)

              Ôi những ngày buồn! Mạ đầu tắt mặt tối... không có thì giờ chăm sóc dạy dỗ con cái nheo nhóc. Chao ơi là tội! Đôi lúc Hoa nhớ lại những ngày mùa đông trời gió bão rét mướt, lạnh thấu xương; các con ngóng cổ đợi mạ mỗi ngày mặc áo “tơi chợ” , là loại áo tơi chằm bằng vài lớp lá kè mỏng, có sợi mây xâu vô lá nhẹ tênh. Không có tiền, nên mạ chỉ mua loại áo tơi nầy rẻ, khi dùng áo tơi lâu ngày sẽ bị mục, lá rơi xuống mà sợi mây vẫn còn đeo bám ít chỗ chưa bị mục, mưa gió thấm vào thân thể, mạ càng lạnh thấu xương. Vậy mà mạ cần cù nhẫn nại lom khom đi làm thuê cấy mướn, tối về mạ run rẩy đùm mấy lon gạo trước vạt áo dài cũ sờn vai… Những lúc Hoa và các em không thấy tay mạ ôm vạt áo dài trước bụng, thì chị em đều biết tối đó cả nhà không có cháo ăn, mà chỉ chia sớt nhau ăn vài mụn khoai sắn bé tí tẹo, uống nước vối cho qua bữa, bụng dạ cồn cào sôi sục kêu réo lục ục suốt đêm, không làm sao ngủ yên!
              Ngày nào trời nắng chang chang
              Mẹ con đốt củi kiếm than, no lòng.
              Trời làm một trận mênh mông
              Mẹ con nhịn đói nằm không ba ngày*.
              (*)

              Tuy khổ cực như thế, nhưng Hoa chẳng bao giờ nghe mạ than:
              Người ta chân dép chân giày
              Em đây làm lụng cả ngày lấm chân*
              (*)

              Và em bé Hoa: Không ai có thể ngờ rằng một con bé mới năm sáu tuổi đầu non nớt, đã kín đáo lân la bên người lớn là O Câu để chăm chỉ chuyên cần học nghề chằm nón lá. Sau đó mình về cẩn thận chu đáo dạy lại cho mạ làm từng chi tiết. Hoa vui mừng hãnh diện biết mạ bớt làm lụng nặng nhọc vất vả, vì bi chừ mạ đã có tay nghề vững vàng như ai. Tục ngữ đã có câu: “ruộng bề bề không bằng có một nghề trong tay”, quả không sai, huống hồ chi ruộng đây chẳng phải là của riêng mình!

              Tuy đôi mắt mạ mờ do khóc nhiều, không còn tinh anh như những lớp người đồng trang lứa với mạ, mạ chằm nón chậm, nhưng đường chằm mủi đột khéo léo, coi khá đẹp. Vài ngày mạ bán được một cái nón bài thơ hai ba đồng, thì mạ tạm nuôi con đủ sống qua ngày. Mùa đông bão lụt, mạ không còn đội tơi mưa nón rách áo cánh mong manh, mà lặn lội đi xa mấy cây số, ngâm mình khom lưng cả ngày dưới đồng ruộng nước sâu! Cho nên. . . dù ở môi trường nào, lĩnh vực nào thì Hoa biết: “Ơn cha thênh thang tựa biển. Nghĩa mẹ dài dằng dặc tựa sông” (*) Hoa phải lớn nhanh lên vượt thời gian trước tuổi thơ với tình thương của người xa lạ.

              Thế là Hoa thút thít, không dám khóc đâu mà hai hàng nước mắt tuôn trào, em đã ôm ít quần áo lẽo đẽo ra đi theo cậu Thuận… lăn vô đời mạnh dạn làm nghề “ở đợ” không hề xấu hổ. Ngay từ tuần lễ đầu tiên bước vô nhà cậu Thuận, mợ đã không thích con bé quá nhỏ, (chỉ mới chín tuổi), thì làm nên trò trống gì. Mợ nghĩ: “nuôi nó, tốn cơm, ta không nhờ vã sai bảo được gì”. Nhưng rồi thấy Hoa thông minh, lễ phép, siêng năng làm việc nhà, mợ Thuận tự ý bàn với cha mạ Hoa cho nó tiếp tục đến nhà mình giữ em, khi rãnh rang mợ sẽ dạy Hoa học chữ. Mợ hứa với cha mạ sẽ thương Hoa như con cháu. Thời gian Hoa ở đây, sẽ khấu trừ khoảng nợ mà cha mạ Hoa đã mượn trước. Cha mạ của Hoa rất đắn đo suy nghĩ, băn khoăn, lo sợ:

              - Con gái tui sống ở quê nghèo không chữ không nghĩa giữa vùng xôi đậu, chiến tranh liên miên lộn xộn, nhất là kiếp nghèo đeo đẵng và đói khát triền miên. Thật đau lòng khi con không có tương lai. Nếu con sống ở thành phố Huế, trước tiên là con thoát ra khỏi vùng chiến tranh, sau là không bị đói khát, đau ốm thuốc thang dễ dàng xí. Không như ở nơi nhà quê hẽo lánh, chẳng có bệnh viện, trạm y tế xa nhà bốn cây số, thuốc men leo teo, khiêm tốn đơn sơ. Cho con đi theo họ, con biết chữ càng tốt. Dẫu sao cũng đỡ đần tấm thân.

              Nào ngờ… khi Hoa túm ít bộ áo quần cũ để chính thức sống trong gia đình nầy, mợ không giữ lời hứa, Hoa làm con ở, hết gánh nước lại bồng em, phụ mợ làm việc nấu cơm canh, quét dọn, giặt giũ, mọi việc đều giống hệt như người lớn, Hoa làm việc không hề ngơi tay. Con đầy tớ nhỏ không lương luôn bị mợ đánh đập những điều vô cớ và rất vô lý: Hoa không hề có lỗi do chính mình tạo ra; mà nguyên nhân là do mợ ghen bóng ghen gió cậu với ai ai ở ngoài đường, chẳng rõ. Cứ ba bốn lần trong tháng, khi cậu đi làm về, mợ hết càu nhàu cằn nhằn, mợ ngắt nhéo cậu bầm tím cho đã, nhưng vẫn chưa thỏa lòng, mợ quay ra kiếm chuyện với Hoa, rồi mợ cú đầu khỏ trọ Hoa đau điếng. Lần nào, trước sau gì cũng thế! Hoa không thể hiểu được sự đối xử dã man, ác ôn dễ sợ, không nguyên cớ chính đáng, cũng chẳng do mình gây ra! Tội nghiệp cậu lắm, những lúc đó cậu len lén nháy mắt nhẹ hất hàm như ngầm bảo Hoa (cậu đã dặn dò Hoa nhiều lần trước):
              - “Con hãy bồng em mà chạy trốn ra khỏi tầm mắt của mợ nghen”.
              Mỗi lần như thế, Hoa bế thằng con cuả họ lo chạy tuốt ra cuối ngỏ, ôm em mà khóc lóc thảm thiết. Hoa được cậu Thuận thương, Hoa chẳng bao giờ bị cậu la rầy, đôi lúc cậu còn nhét vào tay Hoa vài viên kẹo, cậu bảo rằng:
              - Cháu không nên cho mợ biết nghen”.

              Có những lần chú Quyền (em của cậu Thuận) ở Sơn Trà sang thăm, cậu cũng xoa đầu nhìn mình với đôi mắt mến mến. Mấy lần Hoa được cậu mợ cho ra nhà ôn mệ (cha mẹ của cậu Thuận) nghỉ hè, ở nhà quê không khí trong lành thoáng mát. Hoa đang bồng em Thiện (con của cậu mợ chủ) đứng chơi trước sân, bỗng Hoa nhìn lên trên đồi sim, thấy có hai bóng người xa xa thấp thoáng trên triền dốc đi xuống, người con gái mặc áo dài tím, quần trắng, đầu đội nón lá, tay xách valy nhỏ, đang đi với người con trai cũng xách mấy thứ cồng kềnh. Mình kêu to:
              - Mệ ơi, có ai đến nì?
              Mệ nhìn lên và nheo mắt lại, một chút sau mệ nói:
              - Không lẽ hai đứa nó lại về thăm!?
              Mình hỏi mệ:
              - Ai rứa mệ?
              Mệ nói:
              - Con của mệ.

              Hai người ấy đã đến trước sân, họ mừng mừng, nói nói. Em Thiện thì sợ nên nó khóc, Hoa phải đưa em đi chỗ khác, để mệ vui mừng gặp con của mệ. Sau đó người con gái đến sau lưng Hoa và dịu dàng xoa đầu, hỏi:
              - Em là bé Hoa xinh xinh phải không?
              Hoa ngại ngùng cúi đầu “dạ” nho nhỏ. Chị ấy nói:
              - Chị là Thùy Mến, ôn có nói với chị về em. Chị đã mua quà cho em nè.
              Chị đưa cho Thiện bánh quy. Hoa thì bọc kẹo mè xững thơm mùi gừng, và mấy bộ áo quần mới. Hoa nghe thêm nữa là tiếng của người con trai khoảng mười tám hai mươi tuổi, anh ấy thanh lịch nói giọng Huế ngọt ngào:
              - À, em Hoa đây hả? anh là Dzoãn, ôn kể về em với anh. Thì ra tóc em cũng quăng xoắn như ri hì?
              - Dạ… thiệt ra em không phải tên Hoa, mà tên là Chắt. Tên Hoa là do ôn đặt cho em nà.
              - Ôn đặt cho em tên Hoa là phải, em xinh như hoa. Biết không?

              Cúi đầu e thẹn, với chị Thùy Mến thì Hoa sung sướng khi nghe lời khen ấy, nhưng với anh Dzoãn sao Hoa cảm thấy hai má bừng bừng, bẽn lẽn, ngại ngùng run run làm sao ấy? Rồi ôn đi thăm bệnh nhân ở xóm mới trở về. Hai ôn mệ mừng con cái, nên cả nhà vui vẻ rộn rịp, họ huyên thuyên kể chuyện nầy sang chuyện khác. Chợt thấy Hoa đang bồng em đứng xớ rớ gần anh chị, ôn tới xoa đầu và nựng Hoa câu:
              - Tổ cha con tóc quăng: cháu giống ai, con ai… mà ôn thương dữ rứa hè.

              Mỗi lần ôn nựng Hoa câu đó, Hoa vui thích đến ngẩn ngơ mà lòng rộn ràng xúc động, đôi mắt long lanh… Đến giờ ăn trưa, Hoa trải chiếu giữa khu nhà ngang, nơi có gió lộng rất mát và có giàn thiên lý tỏa mùi thơm thoang thoảng. Hoa được ngồi ăn chung mâm với gia đình sang quý của họ, một việc mà “phận hèn tôi tớ” như Hoa, ít khi được chủ nhà đặc biệt ưu ái ban tặng. Nhưng gia đình ôn mệ không hề phân giai cấp! Hai anh chị ấy hay gắp thức ăn bỏ lên chén cho Hoa. Mình vui sướng quá, cảm thấy nghèn nghẹn ở cổ, hình như tay mình bị run? ăn uống chẳng thấy ngon và biết mùi vị ra sao, vì tâm Hoa rộn ràng với hạnh phúc mới, và lo sợ cho ngày vui sẽ chóng tàn.

              Ngày nào Hoa cũng được gần bên chị ấy, nhất là những lúc em Thiện ngủ, chị đưa Hoa ra dưới những rặng phi lao lộng gió, nơi chân đồi sim gần bờ suối, có làn nước trong xanh mát lạnh uốn mình chảy róc rách suốt tháng ngày. Sau khi hai chị em tắm gội giặt giũ xong, chị em ngồi trên tảng đá thòng đôi chân xuống vọc nước, dòng nước thoa nhẹ trên đôi chân bé bỏng, Hoa có cảm giác nước mơn man da thịt mình êm dịu lạ lùng. Hoa được chị chải tóc và bắt chí cho. Chị rầy rà:
              - Em ở dơ quá! ghê thật! em không lo tắm rửa, chí cắn hết máu, chết cho mà xem.
              - Ôi ghê rứa? Chí nhỏ rứa mà cũng giết mình được hở chị?
              Chị cười rất xinh, đôi mắt mơ màng trông đẹp làm sao, khuôn mặt chị hiền lành dịu dàng và nụ cười tươi thắm. Có lẽ chị hù cho em sợ, vì cái tật… không phải em “ở dơ”; mà do chị thương em bận bịu nhọc nhằn, tại cái chuyện “ở đợ” mà ra.
              - Ừa, nó hút hết máu, thì ghẻ lở, nhiễm trùng, sinh bệnh, có thể chết người, chứ sao!
              - Mà chị nè, em không là cái chi, răn chị thương em nhiều rứa?
              - À… có nhiều lý do.
              - Lý do gì hả chị?
              - Thì do em… tóc quắn nè. Ngoan nè. Ha ha ha…
              - Tóc của mấy anh chị cũng quắn mà.
              - Em xinh xắn, thông minh, khôn ngoan, lễ phép, và… do chị là út, nên thích em làm em gái chị. “Em tôi” tuy còn nhỏ tuổi, nhưng khổ trước tuổi và khôn trước tuổi. Ba má chị rất yêu thương Hoa, coi em như con cháu ruột, không hề phân biệt đối xử đâu. Em biết không.
              - Dạ… dạ.

              Hoa cảm động đến nghẹn ngào ứa hai giọt nước long lanh bên khóe rồi lăn dài xuống má. Hoa không nhớ anh chị ấy ở lại với cha mẹ của họ và mình được bao lâu? Ngày tháng ở Mỹ Chánh trôi qua êm đềm trong tình thương của ôn mệ, anh chị, cùng niềm vui lớn lao nữa là: thỉnh thoảng có mạ của mình ở ngoài làng Trường Sanh vào Mỹ Chánh thăm con. Vì những ngày ở Mỹ Chánh, ôn mệ tro6ng coi em Thiện dùm, có cho Hoa về quê thăm nhà, ở lại nhà mấy ngày. Ngày trở vô Mỹ Chánh mình dẫn đường cho mạ biết nơi ôn mệ ở đây.

              Cứ mỗi lần mạ, hoặc ôn xoa đầu Hoa, là đứa bé nầy cảm thấy sung sướng vui vẻ hạnh phúc nhất trên đời. Khi mạ, ôn mệ… rời khỏi Hoa, là đứa bé buồn nhất trên đời! Mỗi lần như thế Hoa khóc cả mấy ngày mới thôi! Kỳ lạ, sao mình hay khóc nhè quá đi! Sau này chị đến với em cũng thế. Những ngày được gần bên chị, Hoa như đứa em út yên ấm trong vòng tay yêu thương của chị. Thời đó chị là một nữ sinh thanh nhã đoan trang đài các học trường Tây kia mà, sao chị lại thương con bé lọ lem như em, hở chị?

              Em còn nhớ mùi hương thơm phơn phớt từ da thịt chị gần bên em khi cả nhà đi hái sim. Mặc dù chị còn rất trẻ nhưng thỉnh thoảng chị viết văn, ngâm những bài thơ chị làm cho Hoa nghe, chị kể chuyện mối tình đầu non dại, trong sáng, tự chị muốn chia ly, đã tan vỡ cho mình nghe nữa. Hoa nhớ lại ngoài làng An Đôn Thượng Phước, O Sáu (chị lớn thứ 6 của chị Thùy Mến) ưa hát: “ai có về trên bến sông Tương, nhắn người bên ấy tôi thương…”. O Sáu cũng có kể mối tình tan vỡ như thế cho mình nghe. Ồ… sao mối tình đầu ưa tan vỡ thế không biết. Chắc họ còn nhỏ dại nên không biết cách trân quý giữ gìn chăng?

              Những ngày tháng trôi qua thật êm đềm trong tình thương của họ đối với Hoa như ruột thịt, tưởng không bao giờ chấm dứt. Thì một ngày kia chị và anh trai của chị phải từ giã em, để về lại một nơi chốn nào đó thật xa xôi! Chị an ủi Hoa và lau những hàng nước mắt tuôn trào đầy xúc động trên má bé lọ lem! Chị dặn dò đủ thứ:
              - Em đừng buồn, là em kết nghĩa với chị mà lo gì ha. Bây giờ chị phải trở vô trường nội trú học. Kỳ Tết hoặc nghỉ hè, chị lại về thăm ôn mệ, thăm em mà. Em nhớ ở cho sạch, đừng để chí hút hết máu, nhớ không ra ngoài ban đêm, vì đây có cọp. Chị về lần sau, sẽ cho em quà và áo quần mới đẹp nhiều hơn...
              - Trường nội trú là chi, ở đâu hả chị?
              - À, trường nội trú Couvent des Oiseaux do những bà xơ cho học sinh đi học, ăn ngủ ở lại trong trường, em à.

              Khi chị đi học xa, mình biết là sẽ lâu lắm mới hy vọng chị sẽ về thăm nhà, nên Hoa đứng bịn rịn tiếc thương buồn bã nhìn chị khuất bóng sau đồi sim bạt ngàn, lúc ấy trong lòng Hoa như cả thế giới sụp đỗ, Hoa mới khụy xuống sân gạch ôm mặt khóc nức nở! Mệ thấy Hoa khóc như vậy, cũng bùi ngùi khóc theo. Mặc dù chị về quê thăm gia đình và ở với Hoa mấy tháng ngắn ngủi, thế mà chị thương Hoa như em ruột. Khi chị bỏ em đi học, Hoa khóc hoài. Rồi thời gian xa cách, Hoa cứ mang theo hình bóng chị và tình thương ấy như là hơi thở cần thiết cho sự sống của mình. Có đôi lúc nhớ chị quá, Hoa không biết phải làm sao, nên tự nói và tự trả lời dường như an ủi với mình: chị Thùy Mến vẫn ở bên em, chị là người chị đầu tiên trong đời thơ trẻ của em, chị không biết đâu, chị vô tình mang đến cho em cây hạnh phúc to lớn nhất. Em chỉ là đứa bé chín tuổi, đứa bé sống buồn tủi quạnh quẽ, thấp hèn đang chập chửng từng bước rụt rè vào đời, mà bất cứ đứa bé nào vào tuổi ấy cũng nhút nhát, sợ sệt khi không có người thân, bất cứ đứa bé nào ở tuổi ấy cũng cần tình thương. Thế mà ôn mệ và chị đã trìu mến yêu thương em, ôn mệ và chị là vị thánh trong tim Hoa thời ấy.

              Hoa vẫn nhớ bàn tay búp măng của chị ưa vuốt tóc em, Hoa nhớ chị la em không chịu gội đầu, để chí hút hết máu. Nhưng sao chị không gớm khi đầu em đầy trứng chí, lúc nhúc chí mén, chí cồ, hở chị? Hoa nhớ hồi đó chị ưa ôm em vào lòng và hôn lên mái tóc quăn của em chùn chụt. Những tháng ngày ngắn ngủi bên chị, nhưng cho Hoa trở về giây phút thần tiên nơi dòng sông Dư Lệ, nơi có đồi cà phê, đồi trà của ôn mệ bạt ngàn nhấp nhô tại Thượng Phước, An Đôn… Quảng Trị, và dốc đồi sim tím có suối nước trong xanh tại làng quê Mỹ Chánh, nơi mà gia đình ôn mệ, anh, chị… đã gieo trồng trong lòng đứa em thơ dại chuỗi hạt giống tình thương bền chắc, rực rỡ, tinh tuyền và đẹp hơn chuyện thần thoại. Hoa trân quý mang theo làm hành trang trọn cuộc đời. Ngày ấy em chưa biết chi về kiếp trước kiếp sau, vài năm sau khi biết rồi, em cứ ngửng mặt lên trời xin nguyện: “kiếp sau xin cho con được dịu dàng như chị ấy ngài nhé”. Hoa quyết tâm noi theo tấm gương sáng của ôn mệ, của chị Thùy Mến… Nghĩa là em bé lọ lem sẽ quyết chí mang tình thương chận thật chan hòa đi rải khắp mọi nơi.

              Anh Dzoãn và chị Thùy Mến đã ra đi ít lâu, sau đó cậu Thuận về Mỹ Chánh, Hoa thật vui mừng khi gặp lại ông chủ mà mình gọi bằng cậu, nhưng Hoa nghe cậu nói với ôn mệ là cậu đổi vào làm việc ở Đà Nẵng, một nơi nào đó nghe lạ lùng và xa thẳm đối với mình! Cậu về đây đón bé Thiện vào Huế, để dọn nhà đi. Ôi! Hoa nghe rồi như trời long đất lở, rụng rời, run rẩy… bèn òa lên khóc thật lớn. Ôn mệ thấy vậy thương Hoa, ôn nói với con trai:
              - Con cứ đưa gia đình đi Đà Nẵng trước đi, để cháu Thiện ở với ba mẹ thêm một thời gian nữa. Con thấy không, cháu ra đây hợp khí hậu, nên cháu Thiện mập mạp ra nì.
              Cậu không chịu:
              - Nếu con còn ở Huế thì được, nhưng nay con đổi đi xa, thì cách trở đi về bất tiện.

              Suốt đêm đó mình ôm mệ mà khóc, khóc không nói được những gì muốn nói! Hoa rất sợ phải trở về bên mợ! Thế là mình phải theo cậu lên chuyến xe vào Huế. Hoa sực nhớ: “sao hôm qua không xin cậu Thuận cho mình về làng thăm mạ và mấy em, để báo tin này cho mạ biết mình phải vô Đà Nẵng nhỉ? Tại sao mình không trốn về với gia đình, rồi chuyện gì đến hãy tính sau! Bi giờ đã lỡ hết rồi! Khi xe dừng tại một đoạn đường nào đó, ngồi trên xe Hoa nhấp nhỏm ngó lui nhìn tới tính nhảy xuống xe, bỏ chạy. Cậu biết ý, giữ tay mình, khuyên:
              - Thôi con cứ đi với cậu, khi mọi chuyện ổn định, cậu cho con về thăm cha mạ con nghen.

              Nghe vậy Hoa cũng cảm thấy có chút yên tâm. Vào lại Huế, cả gia đình ở nhà ngoại, (cậu đi trước vô Đà Nẵng để mướn nhà, sắp đặt chỗ ở xong, cậu về đón cả nhà mợ đi sau). Hoa không nhớ được mấy ngày về ở dưới quê ngoại Cầu Ngói Thanh Toàn. Nơi chốn ấy khác xa với nhà ôn mệ! Họ là những người sống hời hợt, quá bình dân mà luôn luôn ồn ào và bài bạc tứ sắc, vị kỷ, chẳng có chút tình cảm ruột thịt đối đãi với nhau! Hoa cảm thấy quá xa lạ càng lạc lõng, bơ vơ, cô độc vô cùng. Hằng ngày Hoa cứ lo giặt giũ, nấu cơm rửa chén, ngồi chò hỏ dưới bếp ăn sau chót, và bị mấy người em của mợ chủ ăn hiếp, sai vặt, la hét ỏm tỏi. Thật điếc tai, thấy mà ghét! nhưng bản tính Hoa cố đè nén chịu đựng cho qua ngày tháng.

              Rồi cậu Thuận về đón gia đình vào Đà Nẵng. Lần đầu tiên xa nhà, đi trên đường Hoa cảm thấy lạ lùng bỡ ngỡ, nhưng nhìn cảnh vật thật đẹp, rừng núi, đèo Hải Vân cao chót vót nhìn xuống biển đẹp ơi là đẹp. Khi xe bắt đầu vào thành phố, mình đoán đây có lẽ là Đà Nẵng? Ôi chao là người và người chen lấn đông vui, tiếng máy xe nghe ồn ào hơn ở Huế. Đến nhà cậu thuê ở tạm không biết mấy tháng, Hoa không nhớ rõ. Sau đó thì gia đình họ dời đến một ngôi nhà rộng rãi khang trang hơn ở Thanh Bồ Đức Lợi, nhà nầy có mặt tiền là đại lộ Đống Đa, mặt sau nhà gần đường xe lửa, có hồ, ruộng nương. Thời gian này Hoa bị mợ, (tức là bà chủ) trở lại quá khó chịu, ác ôn như lúc trước khi còn ở Huế. Hoa buồn quá, đêm đêm chỉ biết lăn lộn trên xó giường ôm mặt buồn tủi khóc rấm rứt một mình.
              ***
              Thế rồi tháng năm buồn thảm trôi qua, một ngày kia có người đàn bà tuổi cỡ 24-25, khuôn mặt phúc hậu, tay chị ẵm đứa nhỏ, tay xách hành lý, chị ấy bước vào nhà mợ chủ, và tự giới thiệu:
              - Tôi tên Lộc, là chủ căn nhà mà chị muốn mua nè.

              Hai bên mặc cả giá tiền mua bán nhà, họ thỏa thuận để Lộc tạm thời ở chung ít ngày (mà làm giấy tờ mua bán nhà). Trong thời gian đó người nầy rất dễ thương, Lộc thường đến bên Hoa lân la vui vẻ chuyện trò. Người ấy không cho mình gọi bằng cô bằng bà chi hết, Lộc bảo Hoa cứ gọi là chị. Ngày nọ mợ Thuận đi chợ, Hoa ở nhà một mình với Lộc, chị đã hỏi:
              - Em có muốn thoát ly không?
              Hoa mới có mười tuổi đầu, còn non nớt thì làm sao hiểu, chẳng thể nào hiểu hết nghĩa của chữ “thoát ly” nghe văn chương “huyền bí và cao sang” đó là gì, nên mình hỏi lại, và được chị ấy giải thích:
              - Thoát ly nghĩa là em bỏ trốn nơi nầy, để đi nơi khác...

              Hoa không tin, vì sợ rằng “họ âm mưu với nhau” để mợ chủ viện cớ Hoa trốn thoát, lôi mình ra đánh nhiều thêm. Lộc biết được ý tưởng của Hoa, nên chị cầm tay và nói lời thương yêu, để em tin. Thế là Hoa bằng lòng nghe lời Lộc “bỏ nhà trốn đi”. Lộc cho Hoa tiền ăn, tiền xe đi đường kha khá, chị viết giấy mách chỉ đường đi nước bước từng mục rõ ràng: từ Đà Nẵng lên Pleiku. Trước hết là Hoa phải có cơ hội:

              Chờ mợ chủ đi chợ vắng, nhưng ở trong nhà phải có người lớn (anh em của mợ) ở nhà, Hoa nhờ họ trông coi nhà và giữ em Thiện, thì họ sẽ không vu vạ mình ăn trộm của họ, và cái tội “con ở làm mất em”. Lộc căn dặn Hoa cất giấy ghi chú, tiền bạc cẩn thận, kín đáo, không sơ hở cho ai biết; Ở Đà Nẵng ra đi, em mặc vô trong người ba bốn bộ áo quần, trên tay không cầm theo bất cứ cái gì. Em đón xe xích lô ra bến xe đi Pleiku. Mua vé, lên xe, khi xuống xe trên Pleiku, em tìm xích lô nhờ ông ta coi địa chỉ, mà chở Hoa đến nhà chị.

              Sau vài ba tuần, kể từ ngày Lộc đi. Lúc nầy quả thật Hoa thấp thỏm lo lắng, sợ sệt, bối rối vô cùng. Trăm thứ âu lo dằn vặt ấp ủ trong lòng, Hoa không biết thố lộ cùng ai, chỉ im lìm ngoan ngoãn mà câm như hến. Ngộ lỡ như cuộc “đào tẩu thoát ly” nầy bất thành, chắc hẳn là mình sẽ bị mợ hành hạ, đánh cho thịt nát xương tan ra nhừ tử, chứ chẳng chơi. Rồi cơ hội đến, lúc đó em của mợ là cậu Nam tới nhà chơi, cậu chủ đi làm, mợ đi chợ vắng. Hoa lẽn vô phòng mặc chồng lên người bốn bộ quần áo cũ, nhét tiền Lộc cho vô túi áo cẩn thận với tờ giấy dẫn đường. Hoa không quên lấy kim băng gài lên túi áo, cho chắc cú.

              Hoa e dè rón rén… lo lắng hồi hộp ra nhờ cậu Nam trông coi nhà, coi dùm cháu, cho “con đi ra ngoài kia một xí”. Mười tuổi Hoa đã biết thế nào là “thoát ly” và nhìn trước ngó sau, bạo dạn, hổn hển thở, cắm đầu cắm cổ chạy một mạch ra khỏi góc đường Đống Đa, lúc đó Hoa kêu xích lô đi lên bến xe. Ngồi trên xích lô Hoa vẫn nhấp nhỏm, hồi hộp, bồn chồn lo âu đầy ắp, trong lồng ngực nghe nhịp tim đập thình thịch.
              Thời gian hơn hai năm ở nhà Lộc, Hoa vui mừng hớn hở làm nhiệm vụ bồng bế, tắm rửa cho đứa con bé bỏng của Lộc, cùng em “ăn chơi”, Hoa được sung sướng hơn ở nhà cậu mợ Thuận. Lộc nói:

              - Chị cho em chút ít tiền xài vặt thôi. Lúc nào em muốn về thăm nhà, chị sẽ đưa hết tiền cho em mang về cho cha mẹ”.
              Nghe Lộc nói “về thăm nhà” bỗng dưng Hoa nhớ ôn mệ, anh Dzoãn, chị Thùy Mến cha mạ và các em kinh khủng! Hoa không nhớ hai anh chị ấy ở lại với mình được bao lâu, mà tình chị trong em đã vượt trội lên cao ngút, niềm tin yêu đằm thắm ngự mãi trong lòng em êm ái xiết bao! Hoa thấy gia đình ôn mệ nội (của em Thiện) hiền hòa tri thức quá. Ai ai cũng văn chương, ai ai cũng phúc hậu, ai ai cũng đầy ắp tình người đối với người (chỉ trừ mợ con dâu trưởng của họ! Chao ôi là sợ…). Mai mốt mình lớn lên cũng quyết chí học theo ôn mệ như thế, để mang hạnh phúc đến cho đời.

              Sống với Lộc hơn hai năm, đến nay Hoa hơn mười ba tuổi. Hoa cảm thấy nhớ thương cha mạ các em vô vàn, nhớ làng quê, chả phải chị Thùy Mến đã nói "em là một người giàu tình cảm, nếu em biết làm thơ nữa, thì thiệt lãng mạn" hay sao! nên Hoa xin Lộc cho em trở về nhà. Lộc nhận biết em gái đã lớn, thương em, nên Lộc muốn em về nhà, để tự họ quyết định tương lai em, chẳng lẽ Hoa cứ đi ở đợ hoài sao! Nay Lộc đã tích trữ cho Hoa ít vốn liếng kha khá, thiết tưởng em cũng nên về quê. Lộc sắp xếp mua sắm nhiều quà bánh cho Hoa đem về biếu cha mạ và các em. Hoa bịn rịn chia tay gia đình Lộc, hân hoan vui vẻ lên đường. Trở về nhà! Ôi hạnh phúc xiết bao! mừng rỡ trong những vòng tay ôm quấn qúit trìu mến siết chặt, mặn mà tình yêu thương chân thật của gia đình.
              * * *

              Tình Hoài Hương
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-09-2017, 08:52 PM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Em Đi TU Hú !!!



                Em Đi TU... "Hú" !!!


                Nhân một mùa nghỉ hè, khi về quê thăm cha mẹ đang lập sở ươm cây giống ở Thôn Thượng Phước (thuộc xã An Đôn, quận Triệu Phong, Quảng Trị), đi xem lễ ở nhà thờ An Đôn, tình cờ Út thấy những nữ đệ tử dòng Mến Thánh Giá đang vui vẻ cắm trại bên hông trường học (trong khuôn viên nhà thờ). Nhìn chung ai nấy đều dịu dàng, ăn nói nhỏ nhẹ, vui tươi và hiền lành, thì trong lòng Út cảm thấy xôn xao lâng lâng mến thích họ.

                Bỗng nhiên Út nẩy sinh niềm khát vọng được vô dòng nầy. Về nhà, sau nhiều ngày suy nghĩ, Út xin ba má cho con vào ở tu viện: Không vì buồn, không vì chán, chỉ vì Út rất mến thích cuộc sống êm đềm, trầm mặc an hoà, có thể ở đó cho ta sự bình yên vui vẻ, lắng lòng, không bon chen với đời chăng?

                Từ ngày Trung Thu cho đến đầu tháng Chín, lúc nào má cùng Út cũng bận rộn, lu bu lo chuẩn-bị một danh sách sắm sửa cho một nữ tu, ít nhất cần phải có: - 6 bộ áo dài & quần: tất cả chỉ là màu trắng, màu đen. - 6 áo bà ba. - 6 áo lót. - 1 lố quần lót. - 2 hoặc 3 áo lạnh trắng hoặc đen. Ít nhất là 4 đôi bít tất trắng và đen. - khăn mặt, khăn tắm, giày, dép, các thứ linh tinh, bàn chải đánh răng cá nhân, vân vân… Út dồn tất cả mọi thứ trong một va ly da chật cứng. Ngoài ra còn mang theo mùng, mền, thau giặt, thau rửa mặt…

                Thế rồi những háo hức mong chờ đã đến, ba má tần ngần do dự lên xe ngựa của nhà, để đưa Út hăm hở bồn chồn vô tận văn phòng tu viện. Sau khi bà xơ quản nhiệm làm hồ sơ nhập tu, đóng tiền viện phí, đọc nội quy… họ mời ba má và Út ăn bữa cơm đầu tiên. Nhìn mâm thức ăn trong dòng đã mời tân khách, má tế nhị kín đáo nhìn ba ngao ngán thở dài rất nhẹ. Phút bịn rịn luyến lưu nói lời chia tay rồi cũng qua đi, nhưng ý con đã quyết, thì biết làm sao bây giờ, chẳng thể khiến lòng má trĩu nặng nỗi ưu phiền hơn lúc cánh cửa tu viện Trí Bưu (Quảng Trị) đồ sộ bao bọc bởi bốn bức tường gạch nâu xây cao, từ hai cánh cửa sắt màu xanh rêu to lớn vừa đóng ập lại sau lưng nghe lạnh lùng một tiếng “ầm”.

                Sát bốn bờ tường trồng tre trúc um tùm san sát, đã che khuất những đôi mắt tò mò bên ngoài muốn len lén nhìn vào, cũng chẳng thấy gì! Từ cổng đi vô khoảng sân rộng, dính liền khu trường Tiểu-học (của dòng tu), gọi là “nhà khách” có nghĩa là nhà nầy riêng biệt với khu nhà dòng. Bên trong cánh cửa hông của vòng cấm địa (chỉ có nữ tu mới được phép qua cửa thứ nhì nầy) là vô khu nhà xây lợp ngói đồ sộ, mỗi nhà có mười hai căn rộng rãi, nối thành hình chữ U.

                Bao bọc quanh nguyện đường lớn là sân gạch đỏ rất rộng, sân nầy dùng đi dạo sau những buổi ăn, hoặc dùng sân phơi luá, ngũ cốc, linh tinh… Phía trái có một giếng lớn nước trong và ngọt, dùng làm nước uống, nấu nướng. Phiá bên phải là nguyện đường râm mát có hai hồ xây bằng gạch lót men trắng, hồ chuyên nuôi cá phi, cá rô, cá chép, hầu cung cấp thức ăn cho dòng. Chung quanh hồ có hòn non bộ và tượng Đức Mẹ tuyệt đẹp ẩn trong hang đá lớn.

                Bên cạnh hai ao cá là dãy nhà giải trí, phòng học, phòng ngủ của đệ tử, các phòng ngủ của dì thử, dì tập, phòng soeur, phòng dệt, phòng tập hát, vân vân... Trước cửa phòng học và sau lưng các phòng ngủ có thêm hai ao (lớn hơn hai hồ gạch men ở phía mặt tiền), hai ao nầy nuôi cá lóc, cá trê, lươn. Cộng với hai hồ ở sân sau sâu rộng thả đầy sen, cây súng lênh đênh trên mặt nước. Những cánh bèo lớn nhỏ li ti trôi. Lại có hai ao đắp bằng đất nện đầy rau muống, cần nước, hoa sen, hoa súng, lục bình. Ôi hồ ơi là hồ, ao ơi là ao!!!

                Lục bình là loại bèo cánh lá to như trầu bà, có bầu sữa xôm xốp mềm mềm, hoa tím nhạt nở từng chùm, lúc sống cũng như chết, nó trôi nổi trên mặt nước. Út tinh nghịch nhận chìm nó xuống nước, có lẽ vì bầu sữa và thân xốp, là chiếc phao gia bảo, loài bèo không biết khuất phục khi ai cầm nó rồi thả tay ra, nó ương ngạnh phóng mình trồi lên cao. Chiều chưa sụp bóng, bốn năm ao hồ nầy là nơi chứa nhiều muỗi nhất. Từ mọi xó xỉnh muỗi bay ra kêu như ong, con nào bụng cũng đầy máu, chân tay đệ tử bị muỗi đốt ngứa rần, vuốt một cái vào chân là tay mình nhơm nhớp, ai nấy luôn bị lấm tấm mụn đỏ do muỗi đốt.

                Dãy nhà ngang xa nhà bếp có hai giếng to, nước ở hai giếng nầy dùng: tắm, giặt ở sân sau. Có mười phòng tắm và mười phòng vệ sinh. Về hướng tây là nhà bếp khá rộng, nhà ăn, lại có thêm một cái giếng nữa gần trại chăn nuôi gia cầm. Vườn trồng đủ các loại rau cải, đậu mè, bầu bí, vân vân… Cuối góc vườn, cách khá xa tu viện. Một góc cuối tường là trung tâm dưỡng lão, nơi mà các dì phước “quá đát” (già nua) lão thành mang bệnh trầm kha đang tịnh dưỡng. Đời sống nơi xó góc tu viện quả thật rất buồn bã, đơn độc. Họ yên ổn chờ ngày trở về chầu Chúa. Mỗi ngày đều có các nữ tu trực ban đến phục vụ cơm nước, thuốc men, làm vệ sinh cho các “bô lão trưởng thượng”!

                Út tu như bức tượng đoan trang biết đi, không nhìn ngang liếc dọc, không nói leo trèo với cấp chỉ huy đàn chị, không thèo lẽo đùa cợt hô hố "nhố nhăng, nham nhở", sống khắc khổ, nhẫn nhục, ép mình hy sinh. Đức vâng lời là điều tiên quyết. Giúp đỡ qúy mến mọi người giống nhau trong tình yêu Chúa, và thương người. Không bầu bạn kết thân riêng với bất kỳ ai. Không được rù rì nói chuyện khi chỉ có hai người. Dòng không ghi một nguyên tắc quy luật rõ rệt, mãi sau nầy khi “ra trường”, Út mới biết là: Luật dòng tu cần có ba điều cốt lõi: “Vâng Lời. Trong Sạch. Khó Nghèo”. Nếu ai phạm một trong những tội ấy vài lần, họ không tỏ ý sửa đổi, dốc lòng ăn năn sám hối, là bà dòng cho về, như một lần đạp cứt là phải chặt chân.

                Các chị trên mười tám tuổi (soeur) làm công việc riêng của từng nhóm: Người lo dạy học, đi may, đi dệt cửi, đi chợ nấu ăn, làm vườn. Đệ tử nhỏ lí tí mới vào dòng hầu hết đều đi học. Đa số thì giờ là tất cả mọi người trong dòng làm việc, hy sinh, hãm mình: xem lễ mỗi sáng, chiều, tối… đọc kinh cầu nguyện, hội họp khuyên bảo nhau. Mỗi ngày có một nhóm nữ tu thay đổi luân phiên trực ban, lo việc: Tiếp tân khách: có một soeur và một đệ tử.
                - Dưới phòng ẩm thực nấu bếp mỗi ngày gồm có: Hai “soeur hỏa đầu quân chính”, lo đi chợ mua sắm mỗi ngày. Ở nhà có thêm một soeur hoả đầu quân quản gia, một chị phòng tập, một chị phòng thử, năm nữ đệ tử loi choi nho nhỏ như Út, để họ sai việc lặt vặt. Vị chi là mười người cho một nhóm luân phiên dậy sớm từ tửng bưng bốn giờ sáng.

                Mạnh người nào cứ cúi đầu làm việc nhẹ, việc nặng, (lúc bốn giờ sang tới mười giờ đêm, tới khi tu viện yên ắng, tắt hết đèn dầu, thì cuối cùng những người nầy se sẽ đi ngủ). Người lo việc nấu cơm, nấu nước, làm hầu hết công việc cần thiết. Năm đệ tử nhỏ được phân chia các việc lặt vặt phụ, ai sai bảo gì, thì mình làm cái đó như: Lặt rửa rau, xắt bầu, bí, múc nước từ hai cái giếng sâu, khiêng đi đổ đầy vào các chum vại to tướng trong bếp. Dọn dĩa, dao, nĩa lên bàn ăn. Múc sẵn những chén nước mắm, rau dưa, cà muối đặt trên bàn. Út là “lính mới”, lớ ngớ không biết làm việc, thì đã có mấy chị vào tu trước “kềm kẹp” hướng dẫn chu đáo.

                Cứ mỗi lần nghe chuông hiệu rung, là tất cả nữ dòng từ các phòng tụ tập trước ba dãy hành lang dài và rất rộng, họ xếp hàng im lặng từ từ đi vào nhà ăn (như những chiếc bóng âm thầm). Trước cửa phòng có đặt hai cái lọ thủy tinh to. Một lọ đựng đầy hột đậu rằn. Một lọ trống không. Trước khi vô phòng ăn, thì mỗi người (bất cứ ai) đều bốc một hột đậu rằn, bỏ qua bên lọ trống không kia, (để trong dòng tiện kiểm soát là buổi ấy có bao nhiêu người hiện diện vô nhà ăn).

                Bình thường mỗi ngày ba bữa, nhà dòng cho tất cả ăn uống thanh đạm: buổi sáng ăn cháo với trứng vịt muối, khi ăn khoai, sắn, hoặc ăn bánh mì. Buổi trưa, buổi tối, đều ăn cơm no đủ. Có ba món chính là: Canh, thức ăn mặn, rau xào, hoặc luộc. Thức ăn luôn thay đổi kèm một chén mắm nêm, dĩa dưa cải chua, dĩa cà ghém, ba món nầy là không lúc nào quên. Nhưng… thú thật là họ nấu ăn lạt lẽo và quá tanh, vì không đậm đà gia vị tiêu, ớt. Dỡ ơi là dỡ kinh khủng, nhưng ai nấy cúi đầu cố trợn mắt… mà nuốt. Út rất sợ mắm nêm vì nó tanh và đôi lúc thấy cả dòi. Kinh khủng xiết bao! Lúc đó Út nhớ bữa cơm ngon nóng sốt và lạ miệng do má khéo tay làm bếp, mà thèm.

                Nghe chuông hiệu nhỏ trong phòng ăn rung leng keng (chuông của bà Nhất để cạnh bà), thì nữ tu đứng tại chỗ đọc kinh, rồi mọi người tuần tự ngồi xuống bàn. Trong lúc ăn cơm, có một nữ tu phòng trực ngồi trên ghế, có bàn nhỏ đặt trên bục gỗ cao, nữ tu đọc kinh thánh, đọc các truyện tích nói về những kinh nghiệm nam nữ tu trên thế giới. Sau khi ăn uống xong, bà Nhất lại rung chuông hiệu, nữ tu đứng dậy đọc kinh cám ơn. Lúc cả dòng ra khỏi phòng ăn, thì họ được phép nói chuyện… nói nho nhỏ vừa phải không ồn ào chỉ trong mười lăm phút. Sau đó cả dòng đắm chìm trong im lặng… triền miên.

                Tất cả đồ dùng như: tô, dĩa, nĩa, dao, tô múc canh, (đều bằng nhôm) thì có một nhóm mười lăm nữ đệ tử nhóm A, (hoặc nhóm B, hay C) có phiên trực phòng ăn của tuần đó: lo thu dọn, rửa ráy sạch sẽ, úp lên các khuôn kệ ngay cạnh bồn rửa chén. Ai lo việc người ấy xong, họ trở về bổn phận của mình (tuần sau, thì mười lăm nữ đệ tử ở nhóm B, hoặc nhóm C khác, lại đến phiên đi phụ bếp, dọn dẹp phòng ăn, rửa chén…).

                Nếu có các lễ kỷ niệm như: Ngày thành lập Dòng, Noel, Phục-sinh, Tết Nguyên Đán, Trung Thu, lễ mừng vua chúa như: Đức Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Hai Bà Trưng, hay các thánh bổn mạng, sinh nhật “các bà lớn” quản trị dòng, thì bà Nhất, bà Nhì cho quản gia giết trâu, (khi giết bò, hay heo), gà, vịt, cho mọi người ăn đã đời. Còn dư thịt bò, thịt heo… lớp ướp muối gừng sả, mè trắng, ớt bột, rồi đem sấy khô. Lớp ngâm nước mắm đường, chờ mùa đông tháng giá lụt lội, không có chợ đò, dòng lại đem ra dùng.

                Mỗi cuối tháng trong dòng sẽ chiếu những phim hay, đa số là phim lịch sử danh nhân trong đạo, phim hoạt họa. Có văn nghệ do chị em đệ tử tự biên tự diễn "thoái mái". Nói chung cuộc sống trong tu viện thật lặng lẽ, khép kín, êm đềm. Mỗi buổi tối khi Út học xong lúc chín giờ rưỡi, mọi người nghe tiếng chuông hiệu lớn ngân rung tại phòng trực đánh hai hồi dài, một hồi ngắn: là tất cả nữ tu lớn bé đều chuẩn bị thu xếp sách tập cất vào ngăn tủ riêng (bên một gian nhà: có tủ, va ly, kệ, nơi đây dùng để đồ dùng cá nhân linh tinh).

                Từ giờ phút nầy trở đi trong dòng tuyệt đối im lặng. Khi các đệ tử họp mặt đông đủ tại phòng ngủ, soeur quản lý rung cái chuông nhỏ xíu của bà. Các đệ tử (dé dé choi choi như Út) quỳ xuống nền gạch đọc kinh. Cuối kinh là phần ăn năn tội, mọi người giăng tay ra, ôn lại những gì mình đã làm trong ngày, tự đấm vào ngực mình, duyệt xem ngày hôm nay mình đã làm những điều thiện gì, hoặc làm những gì sai trái! mà đọc kinh sám hối. Chuông rung lần thứ ba, là đệ tử đi làm vệ sinh cá nhân, thay quần áo ngủ, lên giường lúc đúng bon mười giờ.

                Vào những chiều thứ bảy, chủ nhật, các ngày lễ nghỉ, ai nấy ở nhà, không biết làm gì cho hết ngày dài lê thê, bà soeur “quản gia hoả đầu quân” thường kêu chị em nhà thử, nhà tập, (nói chung các chị ở nhà “tu thử, tu tập” thường “lao động” công việc nặng nề vất vã lắm. (Nhưng khi các chị ấy được tuyển chọn sẽ… trở thành dì phước, thành soeur rồi, thì cuộc sống của họ có đôi phần sướng hơn, nghĩa là không mấy khi họ bị “đì”).

                Ví dụ như chị Sen ở nhà Tập, sau khi học xong lớp 12, chị được dòng cử đi Đà Lạt để “học ăn học nói học gói học mở” những điều hay mới lạ của dòng Couvent des Oiseaux, chị Sen đi học trên viện đại học Đà Lạt, rồi sẽ đem những kinh nghiệm về dòng, mà áp dụng quy luật cần tu chỉnh cho khang trang. Từ Đà Lạt mỗi tháng vài ba lần, chị Sen viết thư về thăm dòng, chị nói sự học của mình, đồng thời ghi lại những nhận xét của chị về môi trường sống mới. Thư của chị Sen được đọc vào buổi tối ở trong phòng ăn, là nơi đông đủ tất cả nữ tu tụ họp.

                Thế nhưng Út không hiểu tại sao… giữa tháng Chín năm ấy, chị Sen bị bà bề trên gọi trở về, và… mỗi buổi tối chị Sen bị phạt quỳ gối trước mọi người, gần bên bục đọc sách trong phòng ăn. Út thắc mắc mà không dám hó hé hỏi ai? Rồi ngày tháng trôi qua… chị em không thấy nữ tu Sen đâu nữa. Chẳng biết chị Sen có được tiếp tục đi “du học Đà Lạt”, hay là chị “du hí ngoài vòng cương tỏa” của dòng? Họ kín như bưng, câm như hến, phận hèn như Út làm sao biết! Có tin đồn là chị Sen vì khá đẹp, nghe lời dụ khị của tên "nưu manh" bên đã “yêu” ai đó, và chị tự động cỡi áo. Bố ai mà biết.)

                Các chị ở hai nhà Tập, Thử ấy cộng với nhóm đệ tử xuống kho lương thực, bưng lúa trong vựa ra; cùng nhau xay lúa, giã gạo, sàng sảy. Có hai cái cối giã gạo đạp bằng chân, và ba cái cối đá dùng chày giã gạo. Hai chị nhà tập, hai chị nhà thử thì sàng sảy trấu, cám, thành gạo. Họ làm việc nhịp nhàng xong thứ nào ra thứ đó, các đệ tử banh bao bố ra trút vào. Trấu thì đem vào nhà bếp. Tấm, cám, đem xuống khu chuồng heo, khu gia súc. Gạo đem lên nhà kho chứa thực phẩm khô.

                Những giờ làm việc nầy tự do, ai muốn hát hò, kể chuyện, nói chuyện, đều được như ý, miễn sao không nói quá to, không ồn ào, là được. Làm việc cực nhọc, nhưng rất vui, nhờ số đông, mỗi người góp một chân một tay, nên thoáng chốc công việc đều xong ngay. Có nhiều lần giã ớt bột, tiêu hột thật là gay go, ớn lạnh, rùng mình. Dù nữ dòng dùng khăn để bịt mặt, che miệng, nhưng ai nấy đều hách xì nhảy mũi, nước mắt chảy ròng ròng, ho sặc sụa. Thân thể cay và nóng như phải bỏng. Út cũng như các nữ tu đều rất sợ khi giã món ớt bột nầy.
                * * *

                “Nàng Thơ” vào dòng tu trước Út hai năm, coi như Thơ “xếp sòng” cai quản bầy "em lính mới tò te". Út sợ, bực mình và ghét Thơ, vì Thơ ưa ăn hiếp Út hoài, (như Dung ngày xưa ăn hiếp Lê). Thơ gọi Út là "con khỉ đen". Vã lại, ngày trước Út ở ngoài “đời” tự do tung tăng bay nhảy, Út chuyên đi bắt bướm, bắt chuồn chuồn, hái hoa, ép lá, khá thoải mái... Bây giờ Út vào trong dòng ai ai cũng trắng trẻo, hồng hào! Riêng Út đen thùi lùi. Thổ âm của Thơ nghe rất lạ, nên Út không mấy hiểu ý Thơ muốn nói gì:
                - Ưng đập chắt với tui khôn? Tụi mình ra ngoài cươi, thì dì quạn lý nỏ chộ mô hì.
                Hoặc là Thơ hằn học với Út:
                - Ngó chi? Tui có lẻ củi săn, lẻ nè, tui chấp chị cấy rạ nì. Tui ưng cắm một cấy nơi trắp bả của chị ghê hè.
                Thấy “nhỏ tôi” im lặng, Thơ tìm cách gây chuyện khác:
                - Có ưng tui chọi trại ội một cấy, chị lủng cấy trốt, nỏ thậy cái trọ chỗ mô bi chừ khôn? Chị có thửa tui nọi chi với chị cại chi khôn. Hỉ? Răn mà tui ghẹt chị chi lạ rứa hè. Con khị đen.
                Út ngẩn ngơ không hiểu bạn nói gì. Út hỏi nhỏ mấy người ngồi gần bên:
                - Chị Thơ nói về em cái gì vậy? Mấy chị ơi!?

                Các bạn ngồi học gần bò lăn ra cười. Họ giải thích câu Thơ đã nói, thì mặt Út bừng đỏ vì giận. Cũng may nhiều lần Thơ nói tiếng "Tây rốc ken", Út không hiểu, nên chẳng có gì gay cấn đáng tiếc xảy ra. Bạn cũng ưa trêu chọc, lêu lêu âm ngữ giọng Đà Lạt nhỏ nhẹ của Út mà. Thời gian dài một năm sau trôi qua, áo quần giặt hoài cũ đi, da dẽ trắng trẻo hồng hào, đã biến Út trở thành cô gái xinh đẹp nhất trong dòng, thì tình cảm của Thơ đối với Út thay đổi hẳn 180/o lúc nào, chẳng rõ. Thơ đã… “chịu đèn” Út mất rùi! Dù Thơ lớn hơn Út ba tuổi, quê nhà ba má cô là dân Đông Hà, mà Thơ ở tít “trong bưng”, nơi đó xa xôi không có trường học, nên khi vào tu, Thơ học lớp Nhì (tại nhà dòng nầy chỉ có bậc tiểu học). Út học lớp Đệ Lục, Đệ Ngũ… nên phải đi học ở trên phố Quảng Trị, tại trường đạo Phước Môn.

                Mấy tuần nay, mỗi chiều Út cùng nhóm bạn đi học trên Tỉnh Quảng Trị trở về dòng, Út thấy áo quần dơ của mình, có ai đã giặt giũ, xếp gọn và để ở trên góc giường?! Út ngạc nhiên không hiểu ai đã làm giúp? Luật trong dòng là đồ đạc của ai, người đó tự lo. Chỉ lúc nào mình ốm đau nặng, cực chặng đã mình mới nhờ vã chị em giúp xí. Sự bất bình thường nầy, khiến Út cảm thấy bất an, phân vân, lo lắng và ray rứt chen lẫn chút ngờ vực. Ban đầu Út tưởng áo quần của ai để sai chỗ, nhưng khi mở góc hò của áo ra, Út thấy số # 138 và tên mình, Út biết là không lầm.

                Một hôm, trong phòng học, bỗng dưng có người tinh nghịch tắt điện. Đệ tử sợ ma kêu la om sòm, họ nhốn nháo xô đẩy nhau té ngã uỳnh uỵch. Bỗng có một người nào đó ôm chầm lấy Út, cô ta hôn vào má Út mấy cái kêu chụt chụt, rồi cô ta buông ra ngay. Con nhỏ nào đó vụt biếng dạng chạy đi ra ngoài sân cùng các bạn. Út toát mồ hôi, rồi bừng nóng, do bất ngờ mà lo sợ kinh khủng, trống ngực nhảy điên cuồng. Ai trêu ghẹo cái kiểu gì ác ôn vậy không biết? Út hét to, run rẩy xô ghế chạy vụt ra ngoài đêm tối.

                Hai tuần sau đó, bị cúm không đi học, Út nằm nghỉ ở nhà. Phòng ngủ của đệ tử có bảy mươi cái giường tre trải chiếu, trên chiếu phủ đều drap trắng thẳng tưng, gọn gàng sạch sẽ. Đắp mền lên tận cổ, Út vẫn bị lạnh run, đầu nhức như búa bổ, cổ họng khô đắng. Lúc nầy Út cảm thấy thật buồn trống vắng nỗi cô đơn, cô nhỏ nhớ cha mẹ anh chị biết ngần nào. Ở nhà mình, mỗi lần đau ốm (như bây giờ) Út được má và anh chị hết lòng chăm sóc, thế nên con bé tha hổ làm nũng, vòi vĩnh nọ kia, nhõng nhẽo. Ôi! Ngày vui ấy nay còn đâu!

                Nằm thiêm thiếp trên giường, Út nghe ngoài song cửa muôn ngàn chim én làm tổ dưới mái ngói, đang ríu rít đủ mọi giọng hót líu lo trầm bổng liên tục. Đàn chim tự do sống thoải mái vùng vẫy ngoài trời, tiếng hót lảnh lót tíu tít nghe thật truyền cảm. Nếu chim bị nhốt trong lồng, thì tự nhiên sẽ ủ rũ, đôi khi tiếng hót não nề như cặp chim sáo treo trước cửa văn phòng tu viện vậy. Giờ nầy sau tiếng dệt cửi quay tơ, tiếng mấy bà dì đọc kinh đều đều văng vẵng ở phòng bên cạnh, thì trong phòng ngủ hoàn toàn im lặng. Không gian tĩnh mịch và thời gian hầu như lắng đọng, im lắng, tĩnh mịch mênh mông, u buồn trải dài ra bất tận.

                Choàng mở mắt giật mình, Út lặng người không thốt nên lời, hồn vía bay lên mây, khi Thơ len lén vào phòng, cô đi nhẹ tới giường Út, nhẹ đến nỗi Út không hề hay biết. Thơ bạo dạn ôm chầm lấy Út và tới tấp hôn chùn chụt vào má, mặt mũi cô nhỏ, rồi Thơ vụt chạy biến ra ngoài. Úi Trời ơi! Út quá sợ hãi. Vì luật dòng nghiêm cấm tuyệt đối: Không cho phép một đệ tử nào vào phòng ngủ -nếu không đúng giờ nghỉ trưa, hoặc vào trước giờ ngủ tối, phải có dì quản lý đứng ở cửa rồi đệ tử mới từng người đi vô.

                Đó là một trọng luật mà Thơ đã mắc phạm. Một trọng luật nữa là Thơ dám bạo gan bạo phổi hôn Út, một trọng tội tuyệt đối cấm hai nữ tu “yêu nhau”. Út sợ hãi muốn đứng tim, dù đó là việc quá bất ngờ không do mình chủ động gây nên. Nhưng tiến thoái lưỡng nan, nếu Út dấu nhẹm chuyện nầy kín bưng trong lòng, là mắc tội, mà phơi bày ra đi xưng tội cũng chẳng thể… Thật quá hãi hùng lo lắng sợ sệt biết bao mà Út không thể hé môi tỏ cùng ai.

                Một lần nữa sau đó ít lâu, Út đang lui cui xếp dọn áo quần trong phòng treo áo, thì Thơ đi ngang qua, cô ta ngang nhiên ôm chầm Út, hôn lên môi Út thật nhanh giữa ban ngày, rồi lủi lẹ đi ra ngoài. Út bàng hoàng run lẩy bẩy, lo sợ kinh khủng, mà không dám la, chỉ sợ người khác biết “chuyện tồi tệ” nầy, thì chỉ có nước chết. Út biết điều nầy xấu xa tội lỗi, tu sĩ không giữ lòng và trí trong sạch, (mặc dù Út không hề nắm tay Thơ, chưa bao giờ hôn Thơ một cái nào), thì dị hợm vô duyên lắm!

                Kể từ đó hình ảnh Thơ lúc ẩn lúc hiện như ma như quỉ, luôn luôn quấy rối tâm trí Út, bắt cô nhỏ suy nghĩ, nhớ nhung một cái gì đó mơ hồ, nhức nhối buồn phiền, trong lòng canh cánh phập phồng lo sợ liên miên. Thú thật là Út rất sợ "chuyện tình éo le bậy bạ” ấy đổ bể. Út sợ trong dòng phát hiện, mọi chuyện bị lộ, thì sẽ gay cấn, bị phạt nặng, bị đuổi ra khỏi dòng, thì xấu hổ ê chề mất mặt lắm. Út sợ nhất là phải xách gói trở về nhà, không do bị đau ốm, bệnh tật, mà vì lý do “tồi tệ” nhục nhã ghê gớm nhuốt nhơ kia.

                Nhưng cô nhỏ không biết làm sao xa lánh lẫn trốn “nàng Thơ quyến rũ”. Út không dám “thố lộ nỗi lòng éo le” với ai, nên tâm trí cô nhỏ không hề yên ổn, luôn bất an, dày vò tột độ. Út thật sự sợ mọi người chung quanh phát hiện, riêng ôm mối lo ngay ngáy ấp ủ trong lòng. Tuy nhiên những cử chỉ âu yếm mơn trớn của Thơ… chẳng hiểu sao Út cảm thấy ấm áp, nhớ nhung, nhẹ nhàng rung động, và… bồi hồi run rẩy trong hạnh phúc bất chợt ùa về với khắc khoải buồn đau da diết. Nửa muốn ôm ghì Thơ, nửa hổ thẹn thụt lùi!? Út luôn đấu tranh với “từng cơn bão lòng”!

                Thấy Út không ưu ái “đáp tình”, nên Thơ bực tức, lì lợm, lộ liễu, trắng trợn làm đủ mọi cách để cho Út chú ý đến mình, Thơ ngang nhiên tỏ tình giữa mọi người chẳng hề sợ ai xầm xì. Út chỉ biết nhìn Thơ gượng cười, hai giọt nước mắt đọng trên khoé mi long lanh. Thơ chọc quê:
                - Em lậy cại rạ chặt cậy cụi khô, thui vô bệp lã, rùi náng vô tóc chị, chị khôn còn tóc, thì chị sẹ ốt dột, hỗ ngươi, chợ chi mà chị nguýt tui hè. Chị nguýt tui, tui vẫn thương nhớ mối tình đầu của tui là chị đó nì.
                ***

                Một buổi trưa cuối mùa hạ chớm thu nhưng có nhiều nắng chói chang và oi nồng, có các chị: Sen, Bình, Tịnh, Quy, Cúc, Hồng, Út, xin phép (soeur) hiệu trưởng Dưỡng đi chụp ảnh, để làm thẻ học sinh. Sau khi chụp hình riêng xong, họ trẻ người non dạ nghe bà chủ tiệm hình dụ dỗ ngon ngọt, cũng thật sự là họ không biết luật dòng nghiêm cấm việc chụp hình chung một tấm ảnh mặc áo dòng, nhưng họ xỏa tóc dài, (thay vì đệ tử phải bịt khăn trắng trên đầu, kẹp tóc sau gáy). Tục lệ bịt một vành khăn trắng nhỏ trên đầu, là để làm gì? Tượng trưng cho cái gì? Thú thật là tất cả đệ tử không thể hiểu, để làm gì? phân biệt điều chi cả?

                Dì quản lý có toàn quyền lục lọi đồ đạt đệ tử bất cứ lúc nào, dì đã bắt gặp tấm hình “các nàng” chụp chung quái ác nầy. Thế là dòng liệt họ vào danh sách "kẻ trọng tội", cho bọn chụp hình chụp bóng ra rìa ở một xó góc. Bây giờ những người còn được tu ở đây, họ không có quyền lai vãng nhìn ngó, hay chuyện trò với “kẻ phạm tội”. Làm như kẻ ấy gớm ghiếc, là ma qủy có ba đầu sáu tay đã lột xác hiện hồn không bằng. Thử hỏi có ai trên cõi đời nầy dám vỗ ngực xưng danh: “ta là người chẳng có tội” không? Hoặc liệt họ mắc phải bịnh thống phong xù, cùi hủi chi, cần phải chia cách biệt lập ra một nơi, không ai dám béng mãng tới gần. Thật là các bà chủ trì chẳng đắc nhân tâm chút nào.

                Suốt ba ngày hai đêm, Út núp núp lén lén trong một góc phòng, để chờ thân nhân đến đón về. Út không được đi xem lễ, Út xấu hổ không dám ngẩng mặt nhìn ai. Mấy ngày đó, có chị Hà bên phòng thử mỉm cười lặng lẽ bưng đến cho Út bình nước lọc, mâm cơm sơ sài vài món để trên bàn. Không ai dám nói với “kẻ nầy” lời nào, vì dòng cấm tiệt, chứ không phải chị Hà không có chuyện cần nói, hay khuyên lơn vỗ về an ủi những kẻ “không trong sạch”.

                Bị gọi lên phòng họp sau chót, Út qùy lết dưới chân hai bà Nhất, bà Nhì đều to lớn mập ú, họ đang phơi hai cái đầu trọc ra, hai tay bà Nhì luôn gãi sồn sột sau lưng. Còn bà Nhất thì cào cào lên cái đầu nhu nhú tóc đen. (Trong dòng tu nầy, khi đã vào lớp tập, lớp thử, gần trở thành “dì phước” (soeur) thì các bà, các chị, đều cạo đầu tóc trọc lóc. (không như vài dòng tu khác cho các xơ để tóc, mà tu!). Ở trong phòng ngủ, họ có quyền cỡi bỏ khăn đội đầu, khi trời nóng hầm hập thế nầy). Họ là hai người quyền cao chức trọng có uy thế nhất, có uy quyền “sinh sát, tha phạt, hay tưởng thưởng” nữ tu. Tất cả mọi người ở trong dòng đây đều sợ họ xép re!

                Út quỳ dưới nền gạch, hai bàn tay bé xíu nhẹ đặt lên hai bắp đùi to bự của bà Nhất, bà Nhì. Họ an toạ trên chiếc ghế dựa mây. Út năn nỉ khóc lóc, van xin “hai bà” tha tội cho “con” được phép ở lại tu. Vì thật tình em mười ba tuổi ao ước thích thành nữ tu trong sáng, khiêm nhường, thật thà, dễ dạy chớ không muốn mất dạy!
                Bà Nhất nói:
                - Con tạm về lánh nạn ít tháng, rồi bà sẽ tìm cách cho con vô lại dòng tu. Quả thật con quá dại khờ. Theo bà nghĩ thì con có lòng ước muốn đi tu lắm. Nhưng nếu bà đuổi các chị em kia về, mà không cho con đi về luôn, thì không công bằng. Nên buộc lòng bà phải cho con về trú tạm ở phần sở An Đôn, chờ bề trên giám tỉnh là cha Lê Hữu Huệ, chánh xứ Trí Bưu, và là bề trên hạt Đinh Cát, quyết định sau. Con cứ an tâm mà đi về phần sở là chi nhánh của dòng mình. Nghe.

                Út khóc rống hụ hụ hụ… thật to, to thật to như trời tru đất diệt tận thế tới nơi. Hai bà e dè nhìn nhau, to nhỏ điều gì, và lắc đầu. Út dùng tay áo quệt lau hai hàng nước mắt, cô nhỏ lủi thủi trở về ngồi phịch xuống xó góc cũ. Khi đó Út càng ngạc nhiên thấy Thơ đã có mặt trong “chỗ xó góc ác ôn” kia. Thơ đang tự ý, tự ên chuẩn bị xếp hành trang bỏ về nhà. (Có một điều kỳ lạ là khi ở trong dòng thì Thơ tỏ vẻ “yêu” Út tha thiết. Nhưng khi Thơ đã “ra đời”, trở về nhà, hai cô nhỏ thường gặp gỡ nhau, nhưng tình cảm ấy đã khác hẳn… rất thân nhưng không bao giờ… dám hôn)!

                Còn Út không trở về nhà ba má, mà ở lại nơi phần sở An Đôn, là chi nhánh của dòng Trí Bưu được hai tháng. Mỗi tuần Út có thể gặp gia đình ba má, anh chị Uyển, chị Hạc và anh Dzoãn đi xem lễ ở nhà thờ. Hai anh chị Hạc, Dzoãn thường “quyến rũ rù quến” em:
                - Thôi em ạ, như vậy là “cái số” em không được Chúa chọn rùi. Đi về nhà mình ở cho rồi. Chớ tội gì đi tu cho khổ, ăn mắm mút dòi rứa hỉ. Ở nhà sung sướng, cha mẹ mình giàu có, của ăn của để không hết. Em ở đây quá buồn tủi, ăn uống kham khổ. Coi em ốm o xanh xao vàng vọt kìa. Về nhà nghe. Anh chị nhớ em lắm à.

                Thế là ngẫm nghĩ thân phận eo xèo buồn thảm “quần vải áo sô” hèn mọn, mà tức nhiều và đầy… tủi hận xấu hổ! Mất tai thì đã mang tiếng rồi! Út nghe lời “đường mật” của anh chị dụ khị nó hoài, cảm thấy xiêu xiêu lòng, nghe thấm thía bùi tai và chí lý lạ! Út bèn nổi cơn “tự ái vặt”, liền một mình đi một mạch lên lại dòng cũ. Chính nơi đây xưa kia Út đã từng nhón nhén rụt rè khép nép lo “tu thân”. Nay Út tôi “hiên ngang” chảnh chẹ xách va ly dọn dẹp hết các thứ, rút vội về nhà ba má và anh chị của mình ở giữa hai ngọn đồi Cấm, tại làng Thượng Phước.

                _ * _
                [/SIZE]


                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-13-2017, 10:15 PM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Từ Nấc Thang Thấp Hèn Đầu Tiên




                  Từ Nấc Thang Thấp Hèn Đầu Tiên
                  (THH thương tặng nhân vật chính: Trương thị Thu Huyền (Hoa)
                  câu chuyện thật của em tôi).

                  ***

                  Ở nhà một thời gian dài khoảng bốn năm tháng “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”, Hoa đi ra đi vô ngao ngán chẳng biết làm gì cho hết ngày, vã chăng cái số của em cực thì thôi, Hoa cảm thấy cần phải “đi làm” có tiền giúp mạ nuôi bầy em nhỏ. Hoa theo người cùng xóm đi Tam Kỳ, nơi cha Hoa đi lính đổi vô đó. Tuy Hoa đã có hơi lớn: hơn mười hai tuổi, nhưng con gái một chữ bẻ đôi cũng không biết, thì làm gì đây?

                  Hoa suy nghĩ: tạm thời cứ giữ nghề “ở đợ” cho chắc ăn trước, rồi mai sau hãy “liệu cơm đó mà gắp mắm”. Hoa “làm nghề giữ em” cho gia đình ông bà Trung/úy Nguyển Trí. Tại đây họ có mướn thầy gia sư về nhà kèm cho con họ là Minh Châu và hai em trai học thêm. Ở ngoài thềm rộng Hoa bồng em ngồi xa la xết lết lắng tai nghe và học lóm hoài, rồi một hôm bé em của Minh Châu không thuộc bài, Hoa đứng ở bên ngoài phòng học đã trả bài dùm em những câu cậu Phú hỏi em Châu từ ca dao:
                  Con ơi muốn nên thân người
                  Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
                  Gái thì giữ việc trong nhà
                  Khi vào canh cửa khi ra thêu thùa
                  Trai thì đọc sách ngâm thơ
                  Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
                  Mai sau nối được nghiệp nhà
                  Trước là đẹp mặt sau là ấm thân.
                  Hoặc:

                  Con ơi! Mẹ bảo con nầy:
                  Học buôn học bán cho tày người ta
                  Con đừng học thói chua ngoa
                  Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười
                  Dù no dù đói cho tươi
                  Khoan ăn bớt ngủ liệu bài cho toan…


                  Cậu Phú gia sư ngạc nhiên nhìn ra, và hỏi:
                  - Hoa học lúc nào mà nhớ thế?
                  Hoa hồn nhiên trả lời cậu Phú:
                  - Cháu bồng bé Bê đứng đây nghe cậu dạy mà.
                  - Khi nào cháu rãnh, thì tới đây cậu dạy cháu học.
                  - Dạ, dạ, thưa cậu…

                  Đó là nỗi vui tột đỉnh trong quảng đời ấu thơ, Hoa rất mừng rỡ nhận cậu Phú: một vị thầy giáo khả kính đầu tiên vô-vụ-lợi trong cuộc sống buồn nhiều hơn vui và lắm ưu phiền của Hoa. Thế là từ đó ngày ngày cậu Phú đưa cho Hoa những bài học bài tập của các em ấy đã học. Ngày tháng âm thầm lặng lẽ trôi qua, Hoa biết ơn thầy và sung sướng có thầy ân cần chỉ dạy cho Hoa đọc viết thông thạo. Hoa không nhớ bao lâu.

                  Rồi một hôm cậu Phú báo tin buồn rằng:
                  - Cậu phải nhập ngũ, tức là cậu sẽ đi lính, không thể kèm cho cháu học thêm nữa. Cháu biết không?
                  - ...
                  Trước khi ra đi, cậu Phú có dặn Hoa:
                  - Mỗi ngày cháu cần đọc nhiều truyện nhi đồng cho lưu loát, ghi nhớ, suy nghĩ về bài cháu đã đọc. Cháu nên đồ lại từng nét chữ, từ những bài viết cậu đã đưa cháu, cho quen thuộc mặt chữ, cháu học thêm những bài mới bằng cách tìm vô thư viện. Thế là cháu sẽ biết đọc biết viết kha khá. Cháu hãy dùng chút vốn liếng đó mà tự vươn lên, Hoa nhé. Cậu biết cháu có nhiều nghị lực và kiên nhẫn.

                  Hoa bàng hoàng ngẩn ngơ nghẹn ngào cúi nhìn xuống đất, em nhẹ gật gật đầu mà nước mắt lưng tròng, Hoa ấp úng lí nhí trong cổ, vẫn không thể mở miệng để nói lời cám ơn, hoặc thốt ra câu chào từ biệt cậu. Sau khi cậu đi, ấy là khoảng thời gian Hoa càng cô độc trống vắng, cảm thấy buồn quá sức tưởng tượng, nên Hoa xin nghỉ việc tại nhà ông bà Trí. Hoa lại vào đi ở cho một gia đình khác, là ông Đại/uý Trương Nguyên Thảo tại khu tạo tác trong Thành Nội.
                  * * *


                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-13-2017, 10:33 PM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Nguyên văn bởi muahong View Post
                    Đời nhà Trần chúng ta thật nhiều tướng tài như Trần Quốc Tuấn , Trần Quang Khải , Trần Bình Trọng , Trần Nhật Duật , Trần Khánh Dư ..., trong đó nổi bật nhất là tướng Trần Quốc Tuấn - Hưng Đạo Đại Vương . Nhờ tài thao lược của Ngài mà quân ta đã đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông , dù đội quân này nổi tiếng hùng mạnh bậc nhất thế giới thời bấy giờ . Nhiều nơi trong nước đã lập đền thờ Ngài , gọi một cách kính cẩn là Chùa Thánh .
                    Đọc bài Trần Hưng Đạo Vương của THH , người đọc cảm thấy như có luồng sinh khí chạy rần rần trong cơ thể . Xin cám ơn tác giả .


                    THH chân thành cám ơn anh muahong đã chịu khó ngồi đọc bài viết : Đức TRẦN HƯNG ĐẠO Vương (& Những Chiến Trận Lẫy Lừng) dài và khô khan. Thế nhưng anh muahong vẫn vui lòng ghi lại lời khích lệ.
                    Khiến tôi cảm kích và ước nguyện sẽ cố gắng viết những bài về lịch sử hào hùng, sống động... mà tổ tiên ông cha chúng ta đã dày công xây dựng nước VIỆT NAM dấu yêu.
                    Nay kính,

                    THH
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 09-17-2014, 07:40 AM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • Danh Nhân Kiệt Xuất: NGUYỄN TRÃI (1380 – 1442).



                      Danh Nhân Kiệt Xuất: NGUYỄN TRÃI (1380 – 1442).

                      Từ khi Việt Nam rơi vào ngày 30 tháng Tư 1975 “mất nước”, thì hầu như tất cả trường, lớp, chẳng có giờ học về môn: Công Dân Giáo Dục & Sử Ký & lịch sử Việt Nam nữa.
                      Hôm nay, trước tiên tôi xin mạn phép kể hầu cùng quý vị độc giả… (và sau rốt là do đã hứa với các con, cháu… tôi sẽ ghi lại những chiến tích oai hùng, những kỳ công anh dũng, và quật cường của tổ tiên ông cha chúng ta. Họ đã dày công xây dựng và giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam hưng thịnh trường tồn đến bây giờ).
                      Tiếp theo chuyện hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị ; chuyện bà Triệu Thị Chinh; Đức HƯNG ĐẠO Vương TRẦN QUỐC TUẤN: đã ghi.
                      Nay tôi xin kể hầu tiếp quý vị về Danh Nhân Kiệt Xuất: NGUYỄN TRÃI.
                      *
                      {Xin trân trọng cám ơn giảng sư Nguyễn Văn Trung … đã dạy tôi học môn SỬ VIỆT NAM.
                      & THH biên soạn bài viết theo lịch sử Việt Nam, từ:
                      * ít sách trong Bộ Giáo Dục V N C H
                      * Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim).
                      * Nam Hải Dị Nhân (Phan Kế Bính).
                      * Đại Cương Lịch sử Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần).
                      * Wikipedia
                      }

                      Tình Hoài Hương

                      ***


                      Về thời nhà Hồ, có ông Nguyễn Tự khanh công, (nguyên gốc là người ở làng Phượng Nhỡn) ông cùng cả gia đình đã bồng bế nhau di dời linh vị tổ tiên đem đi an táng & nhập tịch tại làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc. Tại làng Nhị Khê, Thường Tín (bây giờ là tỉnh Hà Tây), năm 1380 có một nam nhi chào đời: Đó là ông Nguyễn Trãi. Ông Nguyễn Trãi (con của bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh. Đại tư đồ Trần Nguyên Đán là ngoại tổ của Nguyễn Trãi).
                      Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái-học-sinh. Ông tài giỏi về văn thơ, nhất là có công trong việc khai sáng ngành địa lý(*). Ông là một thiên tài về quân sự, là một chính trị gia xuất chúng. Ông Nguyễn Trãi làm quan trải qua hai đời vua: Lê Thái Tổ & Lê Thái Tông.

                      Tục truyền rằng: Tại làng Hoắc Sa (Sơn Tây) ngày ngày tháng tháng cũng có ông Trần Nguyên Hãn đi khắp đó đây lân la bán dầu. Một lần kia, ông Nguyên Hãn đi bán dầu tới làng Chèm thì trời đã tối mịt, ông bèn vào nghỉ chân và nằm ngủ ở một ngôi đền cổ. Nửa đêm ông Nguyên Hãn bỗng nghe một vị thần ở làng khác, đến đền rủ vị thần ở làng Chẽm: cùng nhau lên chầu trời. Ông làng Chẽm lắc đầu từ chối:
                      - Đang có quốc công ngủ trọ ở đây, tôi không đi được.
                      Thế nên một mình vị thần làng kia chỉnh tề áo mũ khăn gói ra đi. Lúc sang canh ba, vị thần làng khác đã trở về, thì thần làng Chẽm dò hỏi:
                      - Ông lên Trời có việc gì mà vội thế?
                      - Ngọc Hoàng thấy nước Nam chưa có vua, nên cho Lê Lợi (Lê Thái Tổ) làm vua. Ông Nguyễn Trãi ở làng Nhị Khê làm tôi.

                      Ông Trần Nguyên Hãn đã nghe lóm hai vị thần chuyện trò trao đổi với nhau như thế, trong lòng ông khấp khởi mừng thầm. Ông Nguyên Hãn liền lặn lội đi đến làng Nhị Khê, cốt ý tìm Nguyễn Trãi. Khi gặp bạn, hai người đã tâm đắc tương phùng, Nguyên Hãn kể rõ đầu đuôi câu chuyện của hai vị thần cho ông Nguyễn Trãi nghe. Nhưng ông Nguyễn Trãi không tin.
                      Do dự ít ngày, họ cũng tò mò nên rủ nhau đến làng Chẽm, vô ngôi đền cổ kính ấy cầu mộng, được thần báo:
                      - Việc nầy nên tới Tiên Dong hỏi, vì bà tiên ấy biết rõ ràng.
                      Hai người lững thững tìm tới đền thờ Tiên Dong, được báo:
                      - Lê Lợi ở Nhị Khê làm vua. Còn các ông là bầy tôi.

                      Họ lặng lẽ nhìn nhau. Ông Nguyễn Trãi quan niệm: “Phúc chu thủy tín dân do thủy” (lật thuyền mới biết sức mạnh của dân như nước). Có vua. Có tôi, mà không có dân thì… coi như pha! Thế rồi… hai ông băng rừng vượt núi, lò mò đến làng Lam Sơn (Thanh Hóa) lặn lội bao dặm trường… tìm vị minh vua.
                      Bất chợt họ lạc đến nhà kia, thì gia nhân ra vô chuẩn bị đám giỗ, họ thấy một người ở ngoài đồng mới về, quần lận xăn lên quá mắc cá chân, áo cánh vải cũ sờn, nhưng ông Lê Lợi bình dị nhìn hai vị khách tươi cười, tay ông còn giắt con bò già. Hai người xin vào chầu. Lê Lợi vui vẻ mời họ vào nhà nghỉ ngơi. Hôm sau trong nhà có đám giỗ tưng bừng náo nhiệt thật. Hai ông Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn xắn tay áo lên cao, cùng xông xuống nhà bếp nấu thổi, họ nhìn lên nhà ngang thì thấy ông Lê Lợi một tay xắt thịt, tay kia thỉnh thoảng bốc thịt bỏm bẻm ngấu nghiến nhai ăn. Họ nhìn nhau thì thầm to nhỏ:
                      - Bà Tiên Dong gạt mình ư! Lẽ nào một thiên tử mà cử chỉ lại tầm thường thế!
                      Họ bấm nhau cùng lẽn ra lối sau, bỏ đi cầu mộng lần nữa. Bà Tiên Dong phán:
                      - Trời đã định, có thiên tinh giáng trần rồi, người đó là: Lê Lợi.

                      Hai ông lẵng lặng trố mắt nhìn nhau trong bụng nửa tin nửa ngờ. Một lần khác cách đấy không lâu, đang đêm hai ông Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn cảm thấy bứt rứt và ấm ức trong lòng, họ lại lén đến thăm ông Lê Lợi. Họ thấy Thái Tổ ung dung phong độ thư thái, ông đang ngồi đọc một quyển sách dày. Hai ông phủ phục xuống đất thưa:
                      - Từ nơi xa xôi có muôn vàn trắc trở, chúng tôi đã lặn lội đến đây, xin ngài cho chúng tôi theo hầu.

                      Thái Tổ tủm tỉm cười, mời hai ông lưu lại nhà, từ tình cờ sơ giao tới thân thiết, ba người hàn huyên rất tương đắc về việc: tuyển chọn, huấn luyện binh sĩ, cùng lập kế hoạch khởi binh diệt Minh:

                      Núi Lam sơn dấy nghĩa
                      Chốn hoang dã nương mình
                      Ngẫm thù lớn há đội trời chung
                      Căm giặc nước thề không cùng sống

                      Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
                      Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
                      Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
                      Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ

                      Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
                      Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
                      Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
                      Chính lúc quân thù đang mạnh.
                      (*)

                      Ông Nguyễn Trãi bí mật lấy mỡ đặc trét lên những chiếc lá tươi trên cây cao. Thế là bầy sâu và đàn kiến lớp lớp bò lên cắn lủng hết những chỗ đã bôi mỡ ấy, thì những chiếc lá lòi ra tám chữ: “Lê Lợi vi quân. Nguyễn Trãi vi thần”. Sâu cắn hết cuống lá rụng đầy ắp xuống đường, gió thổi lá trôi trên sông… Mọi người tình cờ lượm lá lên xem, đã đồn đãi với nhau: “đó là điềm lành linh ứng do trời đã định”. Thế nên người ta ào ạt đi theo ngài Thái Tổ rất đông như nước vỡ bờ. Ông Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn cùng vua Thái Tổ bàn thảo với nhau chu đáo, hoạch định kỹ lưỡng về việc đánh quân Minh.
                      Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
                      Để trong nước lòng dân oán hận
                      Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
                      Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

                      Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
                      Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
                      Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
                      Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

                      Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
                      Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
                      Người bị ép xuống biển còng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
                      Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

                      Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
                      Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
                      Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
                      Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

                      Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
                      Nặng nề những nổi phu phen tan tác cả nghề canh cửi.
                      Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
                      Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
                      (*)

                      Từ năm Mậu Tuất đến năm Bính Ngọ, vua Lê Lợi cùng quân lính đã toàn thắng hơn 20 trận. Thừa thắng xông lên, vua, tướng, cùng binh lính đã ồ ạt tiến sát đến Đông Đô (nơi đây do tướng nhà Minh là Vương Thông đang trấn giữ).
                      Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
                      Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
                      Như nước đại Việt ta từ trước,
                      Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
                      Nước non bờ cõi đã chia,
                      Phong tục Bắc Nam cũng khác;
                      Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
                      Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
                      Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
                      Song hào kiệt thời nào cũng có.
                      (*)

                      Biết tin chẳng vui, nhà Minh sai Mộc Thạnh và Liễu Thăng chia ra hai hướng khác nhau, cùng đi tiếp viện Vương Thông ở Đông Đô. Thế nhưng vua Thái Tổ quan tướng và quân binh đóng tại núi Mã An, đã giết chết Liễu Thăng, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc, và hơn 300 người khác. Vương Thông hốt hoảng mở cửa thành Đông Đô ra đầu hàng. Mộc Thạnh lẽn chạy trốn về nước. Do vậy, ông Nguyễn Trãi đã ghi:
                      Thằng nhãi con Tuyên đức động binh không ngừng
                      Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
                      Đinh Mùi tháng chin: Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
                      Năm ấy tháng mười: Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

                      Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
                      Sau lại sai tướng chẹn đường tuyệt nguồn lương thực
                      Ngày mười tháng tám: trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
                      Ngày hai mươi: trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu

                      Ngày hăm lăm: bá tước Lương Minh đại bại tử vong
                      Ngày hăm tám: thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
                      Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
                      Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

                      Lại thêm quân bốn mặt vây thành
                      Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
                      (*)

                      Từ lúc binh đoàn hùng dũng của vua Thái Tổ thắng trận vẻ vang, thì tờ thảo hiệp ước do ông Nguyễn Trãi biên soạn ra đời: Nên nước Ta và Tàu lại giao tiếp với nhau. Ông Trần Nguyên Hãn được vua phong làm quốc công.
                      Hoàng Phúc (Tàu) là người giỏi về khoa tướng số và địa lý, ông ta đã lén biên chép hết những chỗ đất quý ở phương Nam, nơi sinh ra các công hầu vương tướng, hắn đều ghi trộm hết. Khi Thái Tổ bắt được thượng thư Hoàng Phúc, ông Nguyễn Trãi nhìn y có ý khinh bỉ, thì Hoàng Phúc chỉ cười:
                      - Mả tổ nhà tôi có “xá văn tinh”, chẳng qua tôi bị nạn mấy ngày. Không như ông, có đất có nhà mà bị tru di tam tộc!
                      Ông Nguyễn Trãi trừng mắt nhìn Hoàng Phúc mà lặng im suy nghĩ mông lung.
                      * * *

                      Về phần ông Nguyễn Trãi có một trang trại Tiêu Viên ở tỉnh Bắc, đến đời vua Thái Tôn, trí sĩ Nguyễn Trãi không mê danh lợi, đã về ẩn cư tại trang trại ấy. Huyền sử ghi rằng: Khi ông Nguyễn Trãi chưa thành danh, tại làng Nhị Khê, ông sai học trò ra ngoài đồng dọn cỏ từ một cái gò, để làm nơi dạy học. Thì ông nằm mơ thấy người đàn bà kêu van:
                      - Tôi mẹ yếu con thơ. Xin ông nán lại ba ngày, tôi sẽ đem con đi nơi khác, rồi ông hãy dọn cỏ.
                      Ông thức dậy đi ra đồng, thấy học trò đã dọn sạch cỏ ở đống gò. Nguyễn Trãi hỏi, học trò thưa:
                      - Có con rắn trong bụi cỏ, chúng tôi đập, nó bị đứt đuôi, đã chạy thoát, chỉ thấy hai quả trứng nầy.

                      Ông Nguyễn Trãi suy nghĩ: “Con rắn ấy có lẽ là điềm của người đàn bà báo mộng”, nên ông đem hai trứng rắn về nhà nuôi, chờ nở. Mấy hôm sau, ông đang ngồi đọc sách, thì có con rắn trắng ở trên xà nhà, nó nhỏ một giọt máu xuống, đã thấm giọt máu xuống ba tờ giấy trong trang sách, trúng ngay ở chữ đại (đại= ba đời). Khi hai trứng rắn kia nở ra, thì một con ngắn, một con dài. Ông Nguyễn Trãi ngậm ngùi sai gia nhân đem hai con rắn nhỏ ra thả trên sông Tô Lịch. Một hôm khi trời đã tối mịt, ông ở trong triều về ngang qua hàng chiếu, ông gặp cô gái bán chiếu có nhan sắc mỹ miều, muốn đùa với cô gái tí, ông đọc bốn câu thơ:
                      Ả ở đâu đi bán chiếu gon?
                      Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
                      Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi?
                      Đã có chồng chưa! Được mấy con?!


                      Người con gái ỏn ẻn cười, đáp lại:

                      Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
                      Nỗi chi ông hỏi hết hay còn!
                      Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẽ
                      Chồng còn chưa có, có chi con.


                      Ông Nguyễn Trãi thấy nàng xinh xinh mà đáp thơ trôi chảy, gãy gọn và hay, lòng cảm thấy hân hoan vui thích, ông liền hỏi tên, thì nàng thưa: “Thị Lộ”. Ông đã đem nàng về nhà làm hầu. Có lần khi Nguyễn Trãi có việc đi xa vắng nhà, vua Thái Tôn ngao du qua tỉnh Bắc, vua cùng đoàn tùy tùng đã vào dạo chơi trại Tiêu Viên, nàng hầu Thị Lộ ở nhà pha trà hầu vua. Khốn thay chiều tối hôm ấy vua Thái Tôn băng hà! Triều đình quyết đổ tội Thị Lộ giết vua, nên phán cả nhà ông Nguyễn Trãi bị thảm họa tru di. Thế nhân bấy giờ mới tin lời ứng nghiệm: Hoàng Phúc được vua Thái Tổ tha về nước, còn ông Nguyễn Trãi mắc oan. Khi vua mất, các quan tướng bắt Thị Lộ tra hỏi, thì nó vu:
                      - Ông Nguyễn Trãi xui tôi làm.

                      Triều đình định tội chiếu theo lời cung khai của nó, bắt cả gia đình ông Nguyễn Trãi tru di tam tộc. Riêng tên Thị Lộ thì nhốt vô trong lồng củi, và quăng ra sông Nhị Hà, thì người ta thấy nó hóa thân thành con rắn, chui ra khỏi lồng củi, đi mất (?!). Thiên hạ lại kháo nhau:
                      - Thị Lộ pha trà mời vua, chính là con rắn nhả nọc độc vô chén trà, nó đã hiện hình người, để báo thù!!!

                      Khi đại gia tộc ông Nguyễn Trãi gặp hoạn nạn, ông có người vợ bé đang mang thai, nàng lẽn trốn xuống tỉnh Nam sinh con trai tên Anh Võ. Đến đời vua Thánh Tông xét duyệt tích xưa, thương ông Nguyễn Trãi mắc hàm oan, vua đã ban chiếu giải oan, phong ông Nguyễn Trãi làm “Thái sư tuệ quốc công”, vua sai người đi tìm dòng dõi Nguyễn Trãi, mới lòi ra ông Anh Võ. Vua sai ông Anh Võ qua sứ bên Tàu, khi thuyền ông Anh Võ đi qua hồ Động Đình bị phong ba ầm ầm sóng cuộn. Bỗng thấy con rắn ở dưới nước bò lên, Anh Võ nghĩ lại là con rắn độc báo oán thuở trước, ông đã khấn:
                      - Xin cho tôi làm tròn việc nước, lúc trở về sẽ chịu tội.

                      Quả nhiên, lúc ông hoàn thành trách nhiệm trở về ngang qua hồ Động Đình, thì phong ba bão táp lại nổi lên, thuyền bị chìm và ông Anh Võ đã chết đuối.
                      * * *

                      Năm Cảnh Hưng triều đình đã duyệt lại các sắc phong cũ những vị khai quốc công thần. Lúc họ duyệt đến phần của ông Nguyễn Trãi, thì ông Lê Quý Đôn xé đạo sắc ấy, mà rằng:
                      - Bọn loạn thần tặc tử, giữ cáo sắc lại làm gì!

                      Vừa dứt lời, Lê Quý Đôn bỗng ngả xuống, ông thấy mình bị dắt đến một đền đài, hai tên lính bắt ông Lê Quý Đôn quỳ dưới thềm. Nơi có mấy chục chiếc ỷ, có một vị quan uy nghi, anh hào kiệt xuất đang ngồi chễm chệ oai nghiêm trên sập gụ, ông ta mặc áo bố tử, đầu đội mũ, chung quanh ông đầy dẫy lính hầu. Vị quan ngồi trên sập nói to mà y như hét:
                      - Ta là Tế văn hầu, ngươi là tiểu sinh, sao mà dám phỉ báng người đã có công với tiền triều hả. Tội ngươi thật đáng chết.

                      Lê Quý Đôn sợ hãi, kinh hoàng nín lặng cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩn đầu lên. Bên cạnh vị quan có người mặc áo xanh, đội khăn lượt đã cúi đầu kêu van, xin vị quan oai dũng kia tha mạng cho ông Lê Quý Đôn. Vị quan ấy lại bảo:
                      - Ngươi đừng tưởng ngươi đỗ bảng nhỡn, mà lên mặt lếu láo khinh người. Công danh sự nghiệp của ta, không thèm so sánh với ngươi. Ta tha cho ngươi, về mà xem ít câu từ: “Bình Ngô Đại Cáo” của ta nè:
                      Đánh một trận: sạch không kinh ngạc
                      Đánh hai trận: tan tác chim muông.
                      Cơn gió to trút sạch lá khô,
                      Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

                      Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
                      Thượng thư Hoàng Phúc trói tay, để tự xin hàng.
                      Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
                      Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

                      Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
                      Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
                      Bị ta chặn ở Lê Hoa,
                      Quân Vân Nam nghi ngờ

                      Khiếp vía mà vỡ mật
                      Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
                      Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
                      Chạy để thoát thân.

                      Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
                      Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
                      Thành đan Xá, thây chất thành núi,
                      Cỏ nội đầm đìa máu đen.

                      Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
                      Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
                      Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
                      Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

                      Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
                      Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước… mà vẫn tim đập chân run.
                      Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
                      Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
                      (*)
                      - Nếu ngươi làm hay hơn bài hịch ấy, thì ngươi xé sắc phong của ta, âu cũng đành.

                      Ông Lê Quý Đôn tỉnh dậy, sợ hãi tột cùng, lập tức viết lại đạo sắc của ông Nguyễn Trãi.
                      * * *

                      Tính tình ông Nguyễn Trãi điềm đạm, ôn nhã, nhưng văn chương lưu loát, hùng hồn, đôi khi trữ tình, xao xuyến vấn vương nỗi thương dân nhớ nước, văn phong của ông có khí phách nam nhân và đầy tâm huyết. Nổi bật nhất là bài văn “Bình Ngô Đại Cáo” và “Lam Kinh Thần Đạo”, điều mà trên dưới trong triều thần và dân gian: ai ai cũng tâm đắc, bội phần kính phục từ chí hướng, lý tưởng sâu sắc:
                      Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
                      Lấy chí nhân để thay cường bạọ
                      Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
                      Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
                      (*)

                      Triều đình vua Lê Thái Tông vào niên kỷ 1437 tháng 1 năm Đinh Tỵ, ông Nguyễn Trãi được giao thêm nhiệm vụ dạy nhạc, dạy vũ & chế nhạc khí. Ông Nguyễn Trãi liền khiêm tốn trình tâu vua:
                      - Kể ra thời loạn dụng võ. Thời bình chuộng văn. Nay đúng lúc nên làm lễ nhạc. Song nếu vạn vật không có gốc, thì không thể đứng vững. Nếu không có văn làm sao lưu hành! Thái bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Nay thần vâng chiếu, ngày đêm tận tâm dốc sức soạn nhạc, thần không dám lơi là qua quýt. Nhưng vì học thuật của thần nông cạn, sợ e thanh luật khó hài hòa. Nay thần dám khẩn xin bệ hạ hãy yêu nuôi muôn dân, để mọi người không còn oán hận buồn than. Có như thế mới không làm mất nguồn gốc của thanh nhạc:
                      Như nước Đại Việt của ta từ trước
                      Vốn xưng nền văn hiến đã từ lâu
                      Bắc Nam bờ cõi đã chia
                      Phong tục mỗi nơi một khác


                      Hoàng đế Lê Thái Tông nghe xong lời tấu trình của Nguyễn Trãi, thì rất ngợi khen, và vui vẻ sai thợ đi lấy đá ở núi Kính Châu để làm. Nhưng khi triều đình bàn đến chuyện sẽ chế nhạc khí, do vua còn ngây thơ ít tuổi (bấy giờ mới 14 tuổi) chưa có kinh nghiệm, non nớt về chính trị và thiếu bản lĩnh, nên vua Thái Tông nghe lời bàn ra của hoạn quan Lương Đăng: chuyên sao chép nhạc của nhà Minh, quan văn trong triều không sáng tác được điều chi. Sự kiện nầy trái ngược với sự uyên thâm đậm đà bản sắc trân quý dân tộc Việt của mình; khiến Nguyễn Trãi rất đau buồn, bèn xin thôi việc soạn nhã nhạc. Khi:
                      Chẳng những mưu kế kỳ diệu
                      Cũng là chưa thấy xưa nay
                      Xã tắc từ đây vững bền
                      Giang sơn từ đây đổi mới

                      Càn khôn bĩ rồi lại thái
                      Nhật nguyệt hối rồi lại minh
                      Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
                      Muôn thuở nền thái bình vững chắc

                      Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
                      Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
                      Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
                      Nên công oanh liệt ngàn năm

                      Bốn phương biển cả thanh bình…

                      * * *


                      (*) tác phẩm -Ức Trai Dư Địa Chí- Nguyễn Trãi.
                      (*) Bình Ngô Đại Cáo – Thơ Nguyễn Trãi - Ngô Tất Tố dịch *



                      Tình Hoài Hương
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 08:26 PM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Nguyên văn bởi hieunguyen11
                        Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị VNCH chọn Trần Nguyên Hãn là Thánh Tổ ngành Truyền Tin.

                        THH chân thành cám ơn anh hieunguyen11 nhiều.
                        Nhờ có anh ghi RE: ở QUOTE trên, mà THH được học hỏi thêm & mở rộng kiến thức .
                        Tình thân,
                        HH
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 10-28-2014, 12:42 AM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • Thái Nghệ Quân & “Thư Cứu Người Bị Hàm Oan”



                          Thái Nghệ Quân & “Thư Cứu Người Bị Hàm Oan”
                          Sau khi đi thăm em ở Pennsylvania, New York, Ohio, Canada... về,
                          THH thương tặng nhân vật chính:
                          Trương thị Thu Huyền (Hoa) một loạt bài viết về câu chuyện thật của em tôi.


                          Nắng chói chang trên quảng đường dài dằng dặc, lặng gió, oi ả, ngột ngạt, bốc hơi nóng hừng hực phừng phừng đã phả vô mặt, nên Hoa cảm thấy mệt nhoài. Nắng rót lên thân thể Hoa mảnh khảnh như ngàn mủi kim châm càng rát bỏng, khiến lưng nàng ướt đẫm mồ hôi, chùm tóc ướt dính trên hai má Hoa thắm hồng, đôi mắt long lanh, khiến cô bé chớm dậy thì càng xinh, mà em hồn hồn nhiên vô tư lự đâu có ngờ. Từ xóm Sen quạnh hiu, nghèo nàn và đơn điệu thuộc làng Trường Sanh, Hoa uể oải xách va ly cũ do chị Lộc mua tặng, để lên đường đi Huế.

                          Hoa lại đi ở đợ cho gia đình ông Đại/uý Trương Nguyên Thảo tại khu Tạo Tác trong Thành Nội, thời gian dài ở nhà nầy, ông bà Thảo là người đức độ, họ thương mến Hoa, xem Hoa như em út, cho Hoa ngồi ăn chung bàn, không phân biệt sang hèn, họ thường cho Hoa đi chơi đó đây vui vẻ cùng gia đình. Hai con trai của họ là Mỹ và Nguyện độ chừng bảy tám tuổi, mỗi khi các em học bài, Hoa cũng ngồi ngoài hè nghe các em học. Ông Thảo có vợ và năm người con, Vỹ: cậu con trai thứ, là nam sinh trường Quốc Học. Vỹ và Quân thân thiết do học cùng lớp, ở cùng xóm, hợp tính tình, vui vẻ và dí dỏm.

                          Mỗi cuối tháng, sau giờ học ở trường, họ nhàn hạ đạp xe từ trường Quốc Học về qua cầu Trường Tiền, gởi xe đạp đâu đó, hai bạn tà tà thả bộ ven phố Trần Hưng Đạo, phố Phan Bội Châu mua cái nầy, cái nọ. Nếu thấy quảng cáo có phim hay, họ nháy nhau đi xem cine xong, trước khi ra về họ ghé quán ăn: khi thì nhâm nhi vị ngọt của chè đậu xanh đánh, chè hột sen, khi ăn tô phở, hoặc ghé vô quán bánh xèo. Ăn uống no nê, hai bạn ung dung chia tay nhau ai về nhà nấy. Thường khi sau những giờ học tại trường, buổi tối Quân đến nhà Vỹ, hai bạn vùi đầu vô trang sách miệt mài ôn luyện bài tập bài học. Để giải trí, Quân ưa sưu tầm những bài thơ tình hay, thơ vui, những mẫu chuyện tiếu lâm lượm lặt đó đây, như:

                          Cạnh cuối chùa Chứa Chan có cây cầu.
                          Có các cụ ca, cười: cao cát, công,
                          Có cây cổ cọ chi chít chim chóc.
                          Càng chiu chít: cú, cò, chích choè, cưỡng,

                          Chiền chiện, chuồn chuồn, châu chấu, cào cào...
                          Con cưỡng cái cứ căm cay con cò
                          Cò chảnh: cẳng cao cao, cổ cong cong,
                          Cưỡng cấm cò chảnh chẹ, càng chua cay,

                          Cưỡng căm cay con cò có cái cẳng
                          Cánh cùn cụt. Cưỡng càng cay cú, cắn
                          cánh, cắn cổ, cắn cẳng chân cò cà!?
                          Chu choa! Cò cụt cả chân cẳng cánh.

                          Cánh cùn cụt cổ cao cao, cong cong
                          Chỉ chờ chết! Chừ cò chẳng còn chi!
                          Cò chiêm chiếp, chí chóe chu cheo chéo.
                          Chít chít, chiêm chiếp, chí chóe, chì chiết! (*)


                          Hoặc:

                          Nhật nguyệt nơi nao NGỰA ngàn năm niên
                          Ngồi nơi nầy NGỌ nồng nàn náo nhiệt
                          NGỰA nghèo nhưng nết na, nỏ nanh nọc*
                          Ngoi ngóp ngoen ngoẻn nắc nỏm NGỌ nòi

                          Nói nào ngay NGỌ nghịch ngợm nhảy nhót…
                          Nhỏ NGỰA như nũng nịu ngầm nhức nhối
                          NGỌ nôn nao nõn nà nhiều nhố nhăng
                          NGỰA nấc nấc nên “nao-nực* ngấm ngầm

                          Năm nay NGỌ ngồi nom nồi nem nấm
                          Nem NAI ninh na ná nồi… nước nhão
                          Nhà nào nấu nướng? NGỰA ngửi ngạt ngào
                          Năm ngoái NAI non nhún nhảy nơi nao!?

                          Năm nay Nai "nằm ngủ" nơi nồi nấu…
                          NGỰA ngắc ngoải nhìn NAI nhăn, nhẵn nhụi
                          NGỌ nghẹn ngào ngốn ngấu nhai ngẳng nghiu
                          Nhưng nỏ nhấm nháp nuốt NAI “nhân-ngôn”
                          (1)
                          *
                          [Nanh nọc*= *không bộc lộ sự hiểm độc. / “nao-nực*= lao-lực
                          “nhân-ngôn”*= hợp chất arsenic rất độc, vị đắng, màu vàng.]
                          (1)

                          Thật ra, với lối hành văn qua ít thể điệu cho một bài Thơ Vui dài, pha chút tiếu lâm mà vô hại, chỉ ghi ghép cùng một vần chữ duy nhất thế nầy, thì rất khó làm, đôi bạn cố moi óc ra, nghĩ cách ghi lại bài thơ hóm hỉnh cho vui cửa vui nhà, cùng cười một trận thỏa thích, cốt ý chỉ chọc cho độc giả mua vui và giải trí, cũng làm không xong. Thế nên, họ xoay qua sưu tầm chuyện tiếu lâm: Đại khái như nói về Ba nước: Ngô, Thục, Ngụy; thế nầy :
                          Một hôm, Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyên: cùng chư tướng và thân bằng cố hữu họp hội nghị G3, và ăn búp-phê trên chiến thuyền to và đẹp nhất nước NGÔ. Buổi tiệc đang vui vẻ, thì trời bỗng nổi giông bão... có một tướng chạy vào bẩm báo:
                          “Thưa tam vương: gió giật cấp 12, tầm nhìn xa trên 10 kilômét… tàu ta đâm vào đá ngầm và sắp chìm... để chống chọi chờ tiếp viện, thì phải vứt bớt đồ đạc cho tàu nhẹ bớt.”
                          Vừa nghe xong, Tháo sai Chữ vứt sạch vàng bạc mang theo xuống biển, trước ánh mắt thèm thuồng của mọi người… Tháo bèn nói:
                          “Yên tâm, nước Ngụy còn nhiều vàng bạc lắm”.
                          Tháo chưa dứt lời, Quyền sai vệ sĩ vứt hết thê thiếp đẹp hơn hoa hậu của Quyền xuống biển, trong ánh mắt kinh hãi của quan khách.
                          Quyền cười nói:
                          “Yên tâm, nước NGÔ gái đẹp còn nhiều lắm...”
                          Chưa kịp nói gì, thì Lưu Bị đã bước tới ném Tháo và Quyền xuống nước, rồi nói:
                          “Yên tâm, nước Thục (Trung Quốc ta!) còn nhiều thằng bốc phét lắm!”... (2)
                          *

                          Có lần Hoa lén nghe họ đọc chuyện tiếu lâm: Hội Nghị G3 (Tam Quốc Chí):
                          Tào Tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền họp Hội nghị G3 do vua nhà Hán chủ trì. Vua Hán cho các cung nữ cởi trần, bôi nhọ nồi vào ngực, bắt họ múa để đãi tướng. Cuối cùng, chọn ba cô đẹp nhất cho ngồi cạnh ba vị: Tào, Lưu, Tôn. Bỗng đèn đuốc tắt hết. Hồi lâu đèn nến mới sáng lên. Thì thấy tay Tôn Quyền đầy nhọ đen nhẻm. Mũi Lưu Bị cũng bị đen. Vua Hán nghĩ bụng:
                          - Tôn Quyền khua khuắng cả cung nữ của ta, thế nào nó cũng lấy đất Ngô. Lưu Bị ngửi cả cung nữ của ta, thế nào nó cũng lấy Ba Thục. Chỉ có Tào Tháo là trung thành với ta mà thôi.
                          Vua Hán bèn khen Tào trung nghĩa. Tào Tháo khoái quá, cười nhe răng. Thì… răng và lưỡi đen thui. (2)

                          Đang đút cơm cho em ăn ở cạnh phòng học của họ, được nghe lóm chuyện vừa học vừa giải trí của hai anh chàng thư sinh, Hoa ngây thơ khờ dại chẳng thể hiểu tại sao khi đọc xong câu chuyện tiếu lâm (mà theo em Hoa bé nhỏ: thì chuyện ấy chẳng thấy vui tí nào), hai anh chàng nam sinh Quốc Học đã khoái chí hả hê cười ha ha ha… Nhưng mấy hôm sau suy nghĩ chợt hiểu ra, Hoa đã không nín được cười. Đời Hoa đi làm thuê ở mướn như thế nầy, đôi khi cũng có chút vui vui và bình an.

                          Một hôm, chẳng biết từ đâu Quân hớt hãi vội vã chạy tọt vô nhà Vỹ (để trốn ông ba của chàng). Tuy có chút bất ngờ sửng sốt, Vỹ không muốn cho cha mẹ mình biết chuyện riêng của Quân, Vỹ kéo tay Quân vô núp trong kho phía sau nhà. Vỹ và Quân ngồi trong góc phòng nhỏ to tâm sự rất lâu. Thoạt tiên Hoa kinh ngạc, có chút bất tiện không dám đột ngột chường mặt ra, nên bối rối hồi hộp ngồi lì nín thinh, im re thập thò lấp ló núp trong xó góc tối, lâu lâu Hoa ngóc đầu lên len len nhìn Quân kể lại đầu đuôi sự việc, và tức tưởi khóc hụ hụ. Hoa hiểu rằng Quân đã bị ông ba của anh đánh đập nhiều, đánh oan vì ba anh nghi ngờ Quân phạm một lỗi tày trời, mà quả thật chàng không hề làm. Quân uất ức buồn phiền đã chạy xuống núp dưới nhà Vỹ, Quân dự tính sẽ bỏ nhà ra đi, vì tức giận mà chẳng biết thổ lộ cùng ai nỗi phi lý và oan ức.

                          Vỹ vỗ vào vai bạn ân cần lựa lời an ủi Quân, Vỹ không ngờ nơi góc kho mờ tối nầy có Hoa đang lui cui dọn dẹp lu hủ chai lọ bên cái bồ chứa lúa. Hoa ngồi chò hỏ xuống nền gạch, lắng nghe hai người kia dáo dác lo âu rù rì mãi lâu. Hoa đã biết chuyện chẳng lành xảy ra. Mãi lâu, khi họ đi lên phòng học, Hoa nghĩ mình nên ra tay làm một việc cần phải làm, để cứu người mắc hàm oan, ngoài ra Hoa chẳng hề nghĩ gì! Hoa vội vã âm thầm kiếm tìm em của Vỹ, (có lẽ Lạc lớn hơn Hoa vài tuổi).

                          Hoa kể rành mạch hết những điều đã tai nghe mắt thấy về Quân cho Lạc biết. Vì Hoa không biết chữ, nên Hoa đành khẩn khoản nhờ Lạc viết một lá thư gửi cho ba của Quân (làm ở Ty An Ninh) kể rõ đầu đuôi chuyện oan ức của con ông. Lạc hí hoáy viết lá thư xong, Lạc đọc lại cho Hoa nghe. Hoa rối rít cám ơn Lạc, và lận lá thư trong lưng quần, Hoa liền chạy tới trước cổng nhà Quân đưa lá thư cho em gái của Quân, nhờ Xoan chuyển cho cha mẹ của họ.

                          Ba của Quân đọc xong lá thư, mặt tái xám sửng sờ! do ông là một vị tai to mặt lớn trong ngành an ninh, nên điều tiên quyết là ông nghi ngờ, phân vân suy nghĩ. Ông không hiểu tại sao một sự kiện đã xảy ra trong gia đình mình, thì dĩ nhiên riêng trong nhà nầy biết mà thôi, cớ sao lại có người không hề quen, lại biết rõ tường tận như thế!? Có phải trong nhà đã có “kẻ gian” đột nhập cài vô đây làm nội gián? Thế nên, ông chỉ thị hai nhân viên an ninh đến nhà ông Thảo, tìm Quân trở về nhà. Đồng thời ba Quân gọi ông bà Thảo lên văn phòng, để điều tra xem ai là người biết rõ nguyên nhân, nguyên cớ để gửi lá có tựa đề: “Thư Cứu Người Bị Hàm Oan”.

                          Về phần ông bà Thảo… bị mời lên Ty thẩm vấn, nghe qua câu chuyện kia, họ xanh mặt, đã té ngữa ra rụng rời ngẩn ngơ, bàng hoàng khi biết vụ việc “từ thiện” do một cô bé quần thô áo vải nghèo hèn, nhưng bên trong bộ quần áo đơn sơ đó: đã chứa đựng tấm lòng trong sáng, bác ái, thương người, hiền lành, thật quý hiếm. Một “bé Hoa” mới nhúm tuổi non nớt, nhưng đầy bản lĩnh, can đảm, khôn ngoan, thông minh và từ nhân đức độ, đã làm việc “cứu người” rất đáng trân trọng, khiến gia đình Quân, gia đình ông bà chủ Thảo đều kính phục con bé đầy nhiệt huyết và quả cảm.

                          Từ khi nổi danh là cô bé ngoan hiền đức độ, Hoa đã được mọi người trong gia đình ông bà Thảo và gia đình cha mẹ, anh, chị của Quân mến thương, nhất là Quân xem “nàng bé bỏng” như một vị cứu tinh, thì Quân lưu tâm chú ý đến Hoa, nếu không muốn nói là Quân đã có tình cảm đặc biệt với “nàng Hoa áo vải”. Quân thường xuyên đến nhà Vỹ, thỉnh thoảng sau giờ cùng Vỹ ôn học, Quân gặp Hoa lúc ở bờ giếng, khi sau vườn cây quả, bên ao sen… Hai người trò chuyện vui vẻ, Quân cảm thấy lòng dâng lên nỗi dịu ngọt lâng lâng, có mối đồng cảm xao xuyến đầy thi vị. Lòng Quân bâng khuâng xen lẫn niềm ấm áp nhớ nhung mối cảm thương tình người. Cha mẹ Quân cũng thương mến Hoa, coi em như con cháu, điều nầy khiến Quân rạng rỡ vui mừng Quân đã yêu lúc nào… chẳng nhớ.

                          Mới ngày nào… khi Hoa đi “làm chuyện nghĩa hiệp” đó, thời gian trôi chảy mãi, nay hơn một năm… đôi bạn sống với nhau đầm ấm, mặn mà đầy tình thương. Quân có nhã ý nhờ mai mối cùng về quê xin đi làm đám hỏi Hoa. Thật ra, cha mẹ Quân rất thương Hoa, thương… thương như tình mến con cháu mà thôi. Chứ họ giàu có, địa vị, môn đăng hộ đối, cho dù họ băn khoăn, bâng khuâng cùng xen lẫn ít buồn phiền… nhưng không hề có ý nghĩ sẽ cưới vợ cho Quân!

                          Thôi cũng đành! Suốt mấy tháng băn khoăn lo lắng trằn trọc, ray rứt không yên, lòng Hoa buồn vô hạn và cay đắng xót xa khi nhận ra mình cảm mến Quân, không dám yêu thương Quân trong tình nghĩa vợ chồng muốn gắn bó keo sơn, như Hoa tưởng. Kỳ lạ một điều là khi Quân đi học Thủ Đức, ra trường về Huế, mỗi lần Quân đến nhà ông bà Thảo, thì Hoa luôn lẫn tránh chàng. Cho đến một hôm chẳng đặng đừng, Hoa ái ngại cúi mặt không dám nhìn Quân, e dè:
                          - Xin anh hãy quên đứa em tội nghiệp nầy. Đôi ta nổ lực đi tìm hạnh phúc, nhưng khốn thay, dù cố gắng mà không thể tìm thấy.

                          Quân lặng lẽ ra đi về đơn vị tiền đồn ở Tây Ninh. Hơn năm sau Thái Nghệ Quân về phép thăm ba mẹ, Quân tình cờ gặp em Thủy (em của Hoa) ở bến xe tải Huế. Quân năn nỉ em Thủy ngồi nán lại nửa giờ, để Quân chạy về nhà lấy quyển nhật ký của anh, đưa cho em Thủy nhờ chuyển giúp đến Hoa. Thủy đọc nhật ký của Quân tới đâu thì khóc tới đó. Thủy khóc quá trời. Cũng tội.
                          * * *

                          Rồi một ngày đẹp trời, ba Hoa được về phép, ba ghé lại nhà ông bà Thảo thăm Hoa, bà Thảo bàn với ba Hoa:
                          - Anh hãy cho Hoa học nghề may. Hoa đã lớn, mười lăm mười sáu tuổi rồi còn gì, anh đừng để con phải “đi ở” nữa, tội nghiệp con bé lắm.
                          Ba buồn rầu nói:
                          - Nghề may cần biết đọc và viết, con tôi không học được chữ nào. Thưa bà, và… tiền đâu mua máy may?

                          Bà Thảo vui vẻ trả tiền lương Hoa đã ở nhà bà là một năm rưỡi, bà ân cần tặng cho Hoa thêm số tiền tương đương như thế nữa. Đích thân bà Thảo đưa hai cha con đi chợ Đông Ba mua bàn máy may. Hoa mừng rỡ cúi đầu cảm tạ ông bà Thảo, hớn hở đem máy may và tiền bạc rủng rỉnh về quê, lớp đưa cho mạ trang trải mọi thứ, lớp lấy tiền đi học nghề. Nhờ tấm lòng bác ái bao la của vị ân nhân rất đáng quý trọng kia, hạnh phúc xiết bao.

                          Hoa chính thức từ giã nghiệp “tôi tớ” đáng buồn tủi đau buồn, để hăng hái lăng xã ra với đời (khi Hoa bước vào tuổi chớm mười sáu). Hoàn cảnh gia đình mình đông em nhỏ nheo nhóc, nghèo khó, Hoa là người chị đầu, dù chỉ mới có nhúm tuổi, Hoa đã ý thức trọng trách gia đình, quả cảm, đầy nghị lực, thế nên làm việc gì Hoa cũng ước mong cho mau lẹ và thành công, không thể thất bại.

                          Vì nếu Hoa thất bại, là bầy em sẽ càng nheo nhóc và đói rách te tua thê thảm. Nghĩ tới cảnh đó, Hoa cảm thấy lòng mềm nhũn, đau đứt ruột, nhói trong tim. Lúc nầy, nhờ Hoa đóng góp tiền tháng với mạ kha khá, nên các em trai gái được hân hoan cắp sách đến trường ăn học tử tế. Các em có đủ mọi thứ tối thiểu cần thiết giản dị bình thường của một học sinh. Hoa càng phải cố gắng xoay xở “kiến tạo sáng tác” ra việc làm hữu ích và lương thiện! Ấy là những lúc không có hàng may, Hoa theo chị Thoa, O Dỏ ra Quảng Trị mua thuốc lá về bỏ mối lại. Hai người đó tận tâm dìu dắt Hoa bước đầu, nên sau vài ba lần đi buôn, thì Hoa cảm thấy vững vàng, có thể tự xoay xở, nên may mắn có thêm tiền để giúp mạ lo cho các em đỡ cơ cực và đói khát.
                          ***[/SIZE]

                          (1) Thơ Vui Tình Hoài Hương
                          (2) Sưu tầm lượm lặt.

                          Tình Hoài Hương**
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 08:53 PM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • Võ Hải Triều... Anh Ôi!



                            Võ Hải Triều... Anh Ôi!


                            Sau khi đi thăm em ở Pennsylvania, New York, Ohio, Canada... về,
                            THH thương tặng nhân vật chính:
                            Trương thị Thu Huyền (Hoa) một loạt bài viết về câu chuyện thật của em tôi.


                            Cơn gió heo may rít lên vô tình lùa qua cửa lớn kêu kẽo kẹt, mang theo ít khí lạnh mùa thu hiu hắt và đơn điệu, càng buồn hơn khi chiếc lá vàng nghiêng mình chao cánh, cài lên mái tóc thề buông lơi xỏa trên tấm thân Hoa thon thon và mảnh khảnh. Bất chợt Hoa cảm thấy ớn lạnh và khẽ rùng mình. Hoa đưa tay kéo hai nẹp áo bung một hột nút để cài kín bờ ngực nhỏ. Hoa đứng dậy ra cửa lớn. Hoa định đóng cánh cửa kính của tiệm, nơi Hoa đang học may.

                            Nàng bỗng nghe: “Gió bay từ muôn phía tới đây ngập hồn anh, rồi tình lên chơi vơi. Thuyền anh một lá ra khơi, về em phong kín như mây trời, đêm đêm ngồi chờ sáng mơ ai. Mộng nữa cũng là không… Ta quen nhau mùa thu, ta thương nhau mùa đông, ta yêu nhau mùa xuân, để rồi tàn theo mùa xuân. Người về lặng lẽ sao đành” …!
                            - Ồ… Hoan hô anh Hải Triều hát hay quá.
                            - Anh hát cho tụi em nghe nữa đi.
                            - Anh hát đi.
                            - Anh mắc cỡ sao?

                            - Ừa… Để anh hát cho các em nghe nha, có gì mà mắc cỡ ha... “Chiều nao áo tím nhiều quá, lòng thấy rộn ràng nhớ người. Đường về miền Bắc bao cách xa. Nhìn về đường lối bao khó khăn: Đây núi cao, đây suối sâu, đây lá hoa reo như ngàn xưa. Đường về ngập gió tha phương, tiếc đời gấm hoa ta đành quên màu sắc núi rừng. Qua bao rừng núi anh về đây, nhớ nhau từng phút yêu từng giây"… Ah! Anh ca từng đó đủ rồi. Bây giờ đến lượt các em ca hát cho anh nghe, mới công bằng và đúng điệu chứ. Ha!

                            Úi ui! Hoa ngạc nhiên, ngẩn ngơ, chúm đôi môi hồng khe khẽ xuýt xoa, chen lẫn chút mến phục, nàng liền thò đầu ra khỏi cửa lớn, dáo dác tò mò nhìn quanh khu xóm nhỏ, dường như Hoa muốn kiếm tìm chàng thanh niên ấy là ai, mà anh ta ưa thích ca nhạc tiền chiến, và có giọng ca trầm ấm, trữ tình, ngọt ngào cuốn hút làm sao, y như giọng ca Sĩ Phú trong ca khúc “Tà Áo Xanh”, và “Đường Về Miền Bắc” ; nhạc và lời của Đoàn Chuẩn Từ Linh vậy hổng biết!

                            A ha! Ở mé góc đường cái quan trong làng Phú Nông, nơi ngôi nhà lai ba gian khang trang rộng rãi và hai chái ghép ở hai đầu hồi, mái lợp ngói gạch nâu nung, tường quét vôi vàng, trong khu vườn cây ăn quả (đối diện với tiệm may) có một thanh niên trẻ tuổi đã nhìn bầy nhóc và tủm tỉm cười, anh cùng bốn năm em nhỏ đang đứng bên chiếc bàn trên góc sân, nơi có tàng lá vú sữa rợp bóng. Họ vui vẻ chuyện trò vừa ca hát vừa lúi húi vót nan tre, dán giấy bóng màu, giấy bóng kiếng: để làm lồng đèn kéo quân, đèn ngôi sao năm cánh kép. Người ấy mặc quần tây đen, áo màu xám, vóc dáng cao gầy, mái tóc cắt ngắn lộ ra khuôn mặt chữ điền, mũi cao, miệng rộng, mắt hai mí to và đẹp, cằm đôi. À, thì ra…
                            Hoa nghe chị Tâm (chủ tiệm may) thường nói:
                            - Bà Tố có cậu con trai cả đã đi “lính… tàu bay” trong Sài Gòn. Cậu ấy thiệt dễ thương, vui tính, chưa vợ con gì!

                            Nhìn anh “lính tàu bay” vui vẻ ca hát và dán lồng đèn cùng em cháu trong xóm, anh ta vô tình không biết Hoa đang nhìn trộm. Tự nhiên Hoa có thiện cảm với người lạ, nàng hồn nhiên nở nụ cười vu vơ và nhẹ nhàng đóng hai cánh cửa kính. Hoa trở lại ngồi vô bàn máy cắm cúi làm việc. Hoa đang theo chị Tâm học nghề may, Hoa học thì ít mà “ma lanh” ăn cắp nghề học lóm thì nhiều. Như chị Thùy Mến đã nhận xét về mình: “Hoa khôn ngoan, dịu hiền, khá thông minh, em học một mà biết mười, giỏi lắm”.

                            Hôm sau, khi chị Tâm đã xách giỏ đi chợ vắng, ở dưới bếp Hoa đang quạt lò, gắp than hồng để bỏ vô trong bàn ủi mà làm việc. Nghe tiếng chó sũa, Hoa bỗng nhớ đến chuyện mình về ở làng Trường Sanh, một hôm Hoa đang đi trên đường, bỗng bị con chó nhà ai ở đâu trong bụi sim xồ ra cắn, đau kinh khủng. Hoa hét to lật đật chạy về nhà, máu chảy ròng ròng mà không hề có thuốc men chữa trị. May sao Hoa không bị điên dại như người ta thường nói. Ngày ngày mạ chỉ biết rửa nước nóng pha chút muối, xong rồi lấy lá ngãi cứu đắp vô vết cắn. Cả hai chân của Hoa bắt đầu sưng tấy lên to ú nù, làm độc, nhứt nhối vô cùng. Ruồi ngưởi thấy mùi máu tanh, đã bu đến, Hoa rên siết bần thần đau đớn và mỏi tay xua đuổi ruồi vẫn không xuể.

                            Rồi một ngày kia Hoa không thể ngồi đó mà đuổi ruồi hoài, càng không thể bước đi đâu, hai chân Hoa bị dòi lúc nhúc ăn sâu vào gần tủy. Cái nước đau đớn tột cùng nầy có lẽ chết mất. Thật kinh khủng! Mạ lật đật tất tả đi khắp xóm vay mượn ít tiền, mạ thuê người cõng con chạy vô bệnh viện cấp cứu. Chờ đợi không lâu, bác sĩ khám rất kỹ những vết thương sưng tím và hôi hám nhầy nhụa, ông đã buồn phiền lắc đầu ngao ngán, ông họp ban giám đốc và cuối cùng họ bảo muốn cứu sống con bé, chỉ có nước cưa cả hai chân. Thật là: Phúc bất trùng lai. Họa vô đơn chí. Đời mình chi mà đau khổ lạ lùng rủi nhiều hơn may! Làm con gái bị cụt hai chân sao!? Chẳng thà chết quách đi cho rãnh nợ, hơn là sống lê lết trên đời. Nhưng mệ ngọai cương quyết không cho họ cưa chân. Mệ nói:
                            - Vì cháu là con gái, mệ không thể thấy cháu sống tàn tật. Tội quá!

                            Mệ mang Hoa về nhà nuôi, mỗi ngày mệ ra đồng bắt con đĩa về, để Hoa ngồi trên ghế, ở ngoài sân, mệ cho đĩa đeo vô vết thương mà hút máu độc. Ui chao ơi! Hoa sợ mất hồn mất vía. Hết con đĩa nầy đến con đĩa khác hút máu mũ nhầy nhụa, Nếu nó hút máu mũ chưa đủ, Hoa nắm con đĩa để giựt rứt nó ra, nó vẫn (đeo dai như đĩa) bu bám cứng ngắt, nó không phải là con đĩa mà… hình như nó đã biến thành xương thịt của mình!

                            Hoa không thể rứt nó ra khỏi người mình, vì khi cầm con đĩa giựt ra, thì chân Hoa đau đến tột cùng! bị đau thấy mấy ông trời. Nó hút máu no nê, thân thể mập ú thù lù vì no, thì nó mở miệng tự động lăn kềnh ra đất thành một cục to to đen thùi lùi nằm ngay đơ y như chết. Thế là chân Hoa lành. Hoa tạ ơn mệ ngoại! thời đó mà mệ thật kiên nhẫn chịu khó vì cháu, mệ văn minh, thông minh… mệ đã nghĩ ra được cái kế như vậy nhỉ? Chớ không có mệ ngoại thì “đã tàn đời Hoa” !

                            Bỗng nghe có tiếng gõ cửa ở nhà trên, Hoa vội chạy lên mở cửa ra. Hoa sửng sốt:
                            - Ô Chào anh Hải… Triều!
                            - Ơ hơ! làm sao em… em… biết tên anh vậy?
                            Hoa toét miệng cười:
                            - Dạ… em biết mà.
                            - Anh mới ở Sài Gòn về đây, anh chưa đi đâu thăm ai trong xóm. Vậy cho anh hỏi: em cũng là người lạ tại nơi nầy. Phải không?

                            Hoa tủm tỉm gật gật đầu mời Triều vào nhà, nàng né qua một bên, nhường lối cho Triều bước vô tiệm may. Triều ngồi xuống cái ghế dựa cạnh chiếc bàn to đang bày nhiều vải vóc, thước dây, kéo và quyển sổ dày:
                            - Tại sao em biết tên anh. Hở?
                            - Hi hi… chuyện nầy có chút bí mật. Em không bật mí cho anh Triều biết đâu. Nhưng anh tới đây hỏi ai rứa?
                            - Anh hỏi em chớ hỏi ai.
                            - Không phải.
                            - Úi Trời! Tức thì thôi.
                            - Nếu anh muốn hết tức, thì anh trả lời câu em vừa hỏi. Rồi em sẽ nói cho anh Triều nghe: tại sao em biết tên anh nha.
                            - Anh chịu thua em, thì… anh hỏi chị Tâm thợ may.
                            - Dạ, chị chủ tiệm vừa đi vắng ạ. Lát nữa anh trở lại nghen.
                            - Vậy sao!
                            - Dạ.
                            - Em không muốn tiếp anh à?
                            - Em không dám.

                            Triều ngạc nhiên nhìn Hoa chằm chằm, nàng liếc nhìn Triều, bốn mắt chạm nhau, Triều hóm hỉnh đá lông nheo mấy cái kịch kịch, khiến nàng mắc cỡ, liền e dè cúi mặt xuống nói lãng:
                            - Vậy thì mời anh ngồi đây đợi chị chủ về nghen. Em đang bận xí.
                            - Em không sợ anh khiêng hết đồ đạc… đem đi bán à?
                            - Em nghĩ anh không làm chuyện nớ mô.
                            - Em cứ vắng mặt nơi đây, thử coi anh có dám hay không nà.
                            - Em sợ anh rồi.
                            - Mà em nè… cho anh biết: em tên gì?
                            - Dạ, anh biết tên rồi còn hỏi.
                            - Em… ui! Em nói đi.
                            - Em tên “Em”.
                            - À… cô bé nầy khôn ghê nơi. Vậy anh đoán nghen, nếu sai, thì anh không rinh hết vải vóc, bàn ghế, máy may đi về nhà anh. Mà nếu anh đoán trúng, thì em phải chịu điều kiện anh đưa ra, nghe: Lan. Mai. Hồng. Cúc.
                            - Sai anh ơi.
                            - Vậy thì: Trúc xinh trúc mọc đầu đình
                            Em xinh em đứng một mình cũng xinh
                            Thân tui thui thủi một mình
                            Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang
                            Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng
                            Tôi xin được dạo cung đàn tình chung


                            Hoa lắc đầu cười tươi. Triều hơi nhíu mày:
                            - Cổ tay em trắng như ngà
                            Con mắt em liếc như là dao cau
                            Miệng cười như thể hoa ngâu
                            Cái khăn đội đầu như thể hoa sen



                            Triều vui vẻ cười ha ha ha, và giơ ngón tay xỉ xỉ về phía Hoa, ngâm tiếp:

                            Trèo lên cây bưởi hái hoa
                            Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân
                            Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
                            Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay
                            Ba đồng một mớ trầu cay
                            Sao anh không hỏi những ngày còn không
                            Bây giờ em đã có chồng
                            Như chim vào lồng, như cá cắn câu
                            Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
                            Chim vào lồng biết thuở nào ra.
                            (*) Có phải em tên Xuân, Ngâu, Sen... không?

                            Thốt nhiên Hoa giật mình, le lưỡi xuýt xoa, trợn mắt, co rúm người lại, vì trong mấy bài thơ có chữ “hoa”. Hoa chỉ sợ Triều đoán ra tên mình, thì phiền. Triều ngẩn ngơ bần thần nhìn Hoa giây lát, lòng anh đột nhiên… Phải! phải, đột nhiên anh cảm thấy lâng lâng tràn ngập niềm vui khó tả, xao xuyến dịu dàng ấm áp trong sự hồn nhiên ngây thơ đầy thi vị của “nàng”. Phần Hoa thật lúng túng bẽn lẽn hồi hộp làm sao! Kịp lúc đó, từ đằng xa vừa bước xuống xe xích lô, chị chủ tiệm may đã ơi ới gọi tên Hoa…
                            - Hoa ơi! phụ chị ra sân bưng đồ vô nhà. Em.

                            Hoa vụt đứng dậy bước ra sân chào Tâm, lanh lẹ xách giỏ thức ăn rảo bước vô sau bếp, lúc Triều cũng trờ tới giơ tay xách quầy chuối nặng trĩu. Chị Tâm thấy Triều, vội đon đả chào:
                            - Chào cậu. Cậu mới về thăm cha mạ hả.
                            - Dạ, em về khuya hôm kia chị à.
                            - Cậu về phép được bao lâu?
                            - Mười bốn ngày, mà em mất hai ngày đi đường rồi. Tiếc ha chị.

                            Triều nói xong, nhìn chị chủ tiệm cười cười, hất hàm ra dấu về phía Hoa như ngầm ngụ ý: mất hai ngày thì “chàng tiếc vì nàng”. Chị chủ là tay từng trải chuyện yêu đương bồ bịch, có lý nào lại không biết! Chị Tâm toét miệng cười, nói nho nhỏ với Triều khi Hoa đã xách giỏ khuất xuống bếp:
                            - Em thích không!?
                            - Thích gì… chị ha!?
                            - Gớm! Còn làm bộ làm tịch.
                            - Chị đi guốc trong tim em rồi còn gì! Chắc là em phải xin nghỉ phép thường niên dài dài, ở lì nơi đây quá, chị à.
                            - Thì ai cấm em. Cô ấy còn rất trẻ, hiền lành, nết na, cần cù, giỏi, xinh xắn mà đoan trang. Bỏ qua cơ hội ngàn vàng, rất uổng.
                            - Vâng… Em qua đây để nhờ chị lựa vải, may cho cha mạ, mấy đứa em… mỗi người ít là ba bốn bộ đồ vía. Cũng sắp đến Tết rồi còn gì. Em thúc giục hoài, mà mạ không chịu đi mua sắm gì. Mạ em nói “già rồi không muốn may áo mới”. Chị coi, bộ già rồi, thì không thích mặc áo mới sao!?
                            - Ừ. Các cụ tiếc của, vã lại áo quần các cụ thì mặc làm sao cho xuể.
                            - Em xách quầy chuối xuống bếp, nhân tiện chào Hoa. Nhờ chị mà em biết tên cô ấy. Chớ Hoa không chịu nói tên.
                            - Phải.
                            Triều dựng quầy chuối cạnh tủ đứng, Hoa quay lui thấy Triều, liền nói:
                            - Em cám ơn anh giúp em mang quầy chuối, cho em đỡ bị vác nặng…
                            - Vậy… em còn mắc nợ anh đó nghe.
                            - Nợ anh!?
                            - Chẳng phải anh đã biết tên em là Hoa rồi sao!
                            - Anh ăn gian thấy mồ.
                            - Ha ha… bây giờ anh phải đi với chị Tâm ra chợ lựa vải cho cha mẹ và mấy đứa em. Hẹn gặp em sau nghe.
                            - Dạ, dạ…
                            ***

                            Ngay xế trưa hôm ấy, chị Tâm muốn cố ý cho “hai anh chị nhỏ” có dịp thân tình làm quen, nên chị biểu Hoa mang quyển sổ may, viết Bis, thước dây, cùng chị đi qua nhà Triều, đo kích thước của họ để may áo quần cho gia đình anh. Đến phòng khách thoáng mát, rộng rãi, tranh sơn mài trang nhã và lịch sự treo trên tường không rườm rà, gian giữa là tủ đứng đồ sộ và bàn thờ ông bà tổ tiên. Hoa thấy ông Tố đang nằm trên võng đọc tờ báo. Bà Tố ngồi ngoáy trầu trên bộ ván gõ cẩm lai, mấy em cùng Triều xúm xít bên nhau đánh cờ tướng ở bộ bàn gỗ sao hình chữ nhật bóng láng có mười ghế dựa bọc da.

                            Chị Tâm đon đả chào hỏi ông bà. Khi Hoa mở miệng lí nhí chào ông bà Tố, thì nhận ra Hải Triều đã đến bên cha, anh dìu ông rời khỏi võng, để chị Tâm đo kích thước cho ông. Hoa lúi húi ghi chép từng người xong, hai ông bà ngồi trên sofa đối diện với Hoa, họ tủm tỉm cười, thì thầm to nhỏ những gì Hoa không nghe rõ, nhưng ông bà vẫn chằm chằm nhìn Hoa ghi chép. Sau khi đo cho các em ấy xong, chị Tâm và Hoa chào gia đình ông bà Tố ra về, thì Hải Triều cười:
                            - Ớ… còn phần em nữa chớ. Chị Tâm.
                            - Vậy sao?
                            - Ở bên tiệm may của chị có mặt hàng vải kia, em thích may một áo sơ mi giống loại đó.
                            - Vải đó là của khách hàng đem tới may. Không phải của chị bán.
                            - Thì em… muốn may một áo sơ mi giống như vậy, để kỷ niệm mà. Em nhờ chị…

                            Thế là ba người kéo nhau trở về tiệm may. Chị Tâm bắt Hoa thực tập và thực hành “ca may” bằng cách tự Hoa đo đạc, cắt, may tấm áo đầu tiên, mà hoàn toàn độc lập, tự tin, không có sự trợ giúp của chị. Ban đầu Hoa cảm thấy e ngại, rụt rè, lúng túng… càng ngượng ngùng nhất là khi Hoa đo ở vòng ngực, vòng cổ Hải Triều, thì Hoa phải đứng đối diện với Triều, lấy cái thước dây choàng từ ngực Triều qua lưng anh ta, rồi vòng trở lại phía trước, coi như bụng, ngực Hoa và Triều phải “ôm sát” vào nhau, (thì mình ôm trọn anh ta rồi còn gì)!

                            Kinh khủng hơn lúc Hoa đo ở vòng cổ… eo ơi! Thiệt “hãi hùng” khi Triều quá cao, anh mỉm cười cúi xuống, Hoa thấp bé lại phải nhón gót ngửng đầu lên mắt chạm mắt… xao xuyến, rung động, ngẩn ngơ nhìn muốn nổ con ngươi! ngực nầy bám riết vào ngực kia, hơi thở dập dồn, ấm áp và bờ môi run run vụng về nở nụ cười coi ngây ngô vụng dại! Thiệt tình mắc cỡ hết biết! Nghề thợ may có lắm chiêu bất hủ, độc đáo và tình dễ sợ ha! Kể từ lúc đó, lúc đó đó… họ đã phải lòng nhau đậm sâu khi nào, chẳng rõ. Suốt tám chín ngày Hải Triều quanh quẩn bên Hoa nhìn nàng đi lại, nhìn Hoa nói, nhìn Hoa cười. Triều nhận thấy Hoa run rẩy ngại ngùng bẽn lẽn may một cái áo cho mình mãi vẫn không xong:
                            - Anh về nhà nghỉ đi. Có anh ngồi ở đây, em không may vá gì được.
                            - Tại sao?
                            - Anh nhìn em chằm chằm, khiến em ốt dột, run rẩy cả tay chân nà.
                            - Thì anh đã nói thiệt:
                            Anh nói em hủy hủy hoài hoài
                            Biểu em đừng kết ngãi với ai
                            Xin em kết ngãi lâu dài với anh.
                            (*)

                            Hoa cảm thấy lòng ngất ngây hạnh phúc mừng vui bất chợt ùa về, nàng nhớ đến những câu ca dao... mình cần nhắn nhủ với Triều:
                            Anh có thương em thì thương cho trót
                            Có trục trặc thì trục trặc cho luôn
                            Đừng làm theo thói ghe buôn
                            Nay về mai ở cho buồn dạ em
                            Anh ơi làm sao phải phải phân phân
                            Thì em mới dám trao thân gởi mình


                            - Hoa à: Anh lấy em đồng cheo đồng cưới
                            Đủ mặt họ hàng xóm dưới làng trên.
                            Vì em là “mối tình sấm sét” của anh nờ.
                            - Cái gì là sấm sét?
                            - Tạo nên sấm sét là do nhiệt độ trong không khí xung quanh tia chớp bị mặt trời hâm nóng đột ngột, khiến không khí nở ra mau hơn tốc độ của âm thanh, không khí xung quanh bị nén lại, tạo nên shock wave, ta nghe như tiếng sấm. Anh thấy em… thì từ giờ phút đó cũng hâm nóng điên lên như vậy thôi.

                            Hoa chỉ tưởng một thanh niên trẻ trung, hào hoa đẹp người và đức độ ấy chỉ nói câu bông đùa chốc lát, cho vui cửa vui nhà. Mai kia mốt nọ khi anh hết những ngày nghỉ phép, Triều sẽ bay đi biền biệt như cánh chim trời phiêu lãng, anh chẳng buồn quay lại chốn cũ đồi xưa, nơi miền quê nghèo khó và anh nhớ chi cô học làm thợ may nghèo nàn nép mình bên lũy tre xanh!

                            Nào ngờ… Hải Triều đã thưa cùng cha mẹ, họ hàng thân hữu, anh quyết đưa gia đình về xóm Sen cách xa nhà anh chừng ba cây số, khẩn khoản cầu hôn Hoa. Trước bàn thờ tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, có sự chứng kiến đông đủ mọi người… cha mạ Hoa đã rưng rưng ứa nước mắt nhận sính lễ từ chàng trai phong trần. Đó là một ngày tuy trời không lạnh lắm, nhưng Triều cảm thấy ấm lòng, hạnh phúc hân hoan cùng niềm tin yêu trỗi dậy dâng cao trên mỗi bước chân. Bây giờ thì anh không phàn nàn gì chuyện thay đổi đơn vị, trái lại Triều cảm thấy sung sướng được biệt phái đi về ở Quảng Ngãi, vì nơi nầy anh sẽ gần vị hiền thê một đoạn đường khá dài.

                            Kể từ lúc Hoa mới hơn mười lăm tuổi non nớt, Triều ngoài hai mươi tuổi, hai cô cậu ríu rít quen biết mến thương và yêu nhau, hí hửng hạnh phúc nhận món quà -tình sét đánh- làm sính lễ đầu tiên, -vị chi vỏn vẹn chỉ có mười ngày. Trước khi Hoa bịn rịn khóc lóc nức nở nói lời chia tay, để Hải Triều lặng buồn ra đi, Triều âu yếm hôn vị hôn thê trẻ, anh cho Hoa biết địa chỉ KBC rõ ràng, hướng dẫn cho Hoa biết nơi anh sẽ trú đóng một thời gian dài trong quân ngũ.

                            Triều hy vọng một ngày đẹp trời nào đó Hoa sẽ lặn lội lên tận miền gió núi mây ngàn quanh năm quạnh hiu, Triều không có gì vui bằng nhận thư người yêu, nhớ thương người anh sẽ âu yếm gọi em là vợ mãi mãi! Hoa sẽ thăm người lính chiến ở chốn giang đầu. Hai người sẽ nồng nhiệt trao nhau trọn trái chín ân tình bấy lâu hằng ấp ủ. Thời gian xa cách dài lâu, thỉnh thoảng hai người vẫn liên lạc thư từ trao đổi. Tuy không thường xuyên, nhưng biết tin nhau, là Triều vui mừng như bắt được viên ngọc quý.

                            Khoảng chín mười tháng sau, gia đình mạ và các em Hoa thu dọn nhà cửa tươm tất, giao các thứ lại cho mệ ngoại nhờ trông coi, mạ, Hoa, các em cùng lên đường vô Tam Kỳ sống với cha... Yên ổn gia đình cha mạ con cái đoàn tụ đâu vào đó xong, một hôm Hoa nhận được thư Hải Triều, ấy là lúc Hoa giật thót mình, chua xót nhận ra rằng: Hoa bồng bột, nông nỗi vô cùng, Hoa trẻ người non dạ ăn chưa no lo chưa tới, Hoa chỉ thương vớ thương vẩn, vu vơ… chứ Hoa không hề nhớ nhung thương yêu Triều thật tình, Hoa càng không thể lấy chồng bây giờ! (như Hải Triều hẹn vài tháng tới anh sẽ về phép, xin cưới Hoa, mang vợ đi cùng anh qua khắp nẽo đường quê hương, nơi nào có gót giày đinh dẫm lên, là chốn ấy sẽ có bước chân ngà ngọc của vợ sánh cùng chồng)! Ui chao ôi! Lúc đó, trong lòng Hoa dậy sóng, lo lắng, bồn chồn, sợ hãi… Hoa không biết làm sao, có cách nào êm đẹp để hồi hôn.
                            Khi xưa nhận sính lễ, trước mặt quan viên hai họ, năm ấy mạ đã hỏi Hoa:
                            - “Con suy nghĩ kỹ càng chưa”! Nếu đã ưng rồi, không được thay đổi. Nghe không!?

                            Chính lúc ấy Hoa lia lịa gật đầu không do dự, Hoa còn thộn mặt nhíu mày, bặm môi, tỏ ra có chút bất bình, vì mạ hỏi chi ngớ ngẩn trong ngày vui. Bây giờ, nếu mạ biết chuyện từ hôn nầy, tính mạ đàng hoàng, không muốn mất mặt mất mũi với họ hàng, xuôi gia, (chữ “xuôi gia” có nghĩa là "xuôi chèo nhà mát mái", chớ không có chuyện “xui xẻo" từ hôn từ hiếc tréo cẳng ngỗng)! Lời hứa như đinh đóng cột: một là một hai là hai, không nói lui nói tới… thì mạ sẽ đánh Hoa nhừ tử; vì tội bất tín, bất trung, bất nghĩa, bất nhân, phản bội. Suốt nửa tháng bất thần sửng sờ như người mất hồn, tâm trí bay lên đọt cây, lo lắng, bồn chồn, sợ hãi, Hoa suy nghĩ nát óc, bị dằn vặt, dày vò kinh khủng giữa trao nhận và từ chối! Phải chọn… thiệt chết mất thôi. Một buổi sáng không thể nào im, Hoa khèo em Chiến ra ngoài bờ đê, thổ lộ hết tâm sự, Hoa nói trong hai hàng nước mắt lăn tròn trên má:
                            - Em ơi! Chắc là chị phải nhờ em nói giúp với cha mạ.
                            - Em làm răn dám quyết định chuyện to tát nớ. Hay chị đi gặp anh Hải Triều, nói hết với anh ấy. May ra…
                            - Phải… phải! Em có ý kiến rất hay.
                            Chị em Hoa lật đật trở về nhà, Hoa lấy hết can đảm xin mạ cho phép đi thăm Hải Triều. Mạ nhìn Hoa, chỉ nói:
                            - Nếu con biết chỗ hắn ở chắc chắn, thì liệu đi mau về sớm.

                            Hoa không ngờ mạ lại dễ dàng đồng ý, chẳng vặn vẹo hỏi nguyên do làm sao Hoa cần đi gặp Triều để làm gì! Có lẽ mạ đã từng lặng lẽ sống xa cha, mạ thông cảm thế nào là sự âm thầm nhớ thương chồng lúc xa vắng. Thật vui mừng thoát nạn. Hoa liền túm một bộ áo quần, chạy ra chợ mua ít quà vặt cần thiết để tặng Triều, dẫu sao không có tình cũng có nghĩa. Từ bến xe lam ở Tam Kỳ Hoa đón hãng xe Phi Long chạy từ Đà Nẵng đi Qui Nhơn, Nha Trang… xe chạy đường trường chẳng hạn, dĩ nhiên xe đò ấy chạy càng nhanh và thuận tiện, nếu Hoa đi xe đò chỉ tới bến Quảng Ngãi, e rằng phải chờ rước khách xe thụt lui thụt tới lâu lắc, phiền phức.

                            Hoa nôn nao nóng ruột như ngồi trên đống lửa, không có thì giờ. Hoa tụt xuống xe tìm lối vào Mộ Đức đúng hai giờ chiều, chẳng hiểu sao lúc đó Hoa cảm thấy rã rời, hai chân nặng như đeo tảng đá, không thể cất bước, bụng dạ không có hột cơm miếng nước nào, nhưng cứ như ứ hơi no nê, lòng trí Hoa nặng trĩu, bồn chồn, lo lắng, đầy ắp âu sầu.

                            Hai hàng nước mắt tự động lăn dài trên má, khi Hoa ngỡ ngàng nhìn Triều mừng rỡ hân hoan ôm eo Hoa bước vô văn phòng trại. Không thể nào diễn tả được nỗi vui mừng rạng rỡ hiện ra trên nét mặt phong sương rắn rõi kiên cường của anh. So với lúc trước Triều mặc âu phục, trông anh bình thường như một thư sinh bạch diện. Nay Hoa nhìn Triều mặc bộ quân phục, tuy anh sạm đen, gầy ốm, cao, nhưng anh có dáng oai hùng đỉnh đạt phong trần! Có một lúc Hoa mềm lòng nhũn chí không thể thốt nên lời ngăn cản, khi Triều vui vẻ nói:
                            - Em chịu khó ngồi đợi đây chút nhe. Anh lấy phép xuất trại, mình đi Quảng Ngãi, nơi đó đầy đủ tiện nghi ăn nghỉ. Ôi là mừng biết mấy.

                            Nói xong, Triều vui vẻ huýt gió nhanh nhẹn bước ra khỏi văn phòng. Hoa ngồi điếng lặng khoảng hơn nửa giờ, sững sờ suy nghĩ: “mình đến đây mục đích chính là gì?! Phải cương quyết lựa lời bày tỏ dứt khoát nói với anh, cho dù khó khăn, bẽ bàng”! Khi Triều đã có giấy phép xuất trại ngày thứ Bảy cuối tuần, Triều mặc bộ thường phục chiếc áo sơ mi màu xanh có sọc đen nhỏ li ti, mà Hoa đã tập may cho anh ngày ấy, quần tây màu đen, mang giày da, Triều ung dung bỏ ít đồ dùng cá nhân vô ba lô, khoát tay Hoa rời khỏi doanh trại. Không để Hoa kịp nói gì, Triều kéo tay Hoa tót lên một xe jeep của bạn. Đến thành phố Quảng Ngãi, Triều vẫy tay chào bạn, âu yếm ôm vai Hoa cùng bước vô tiệm ăn. Triều nhìn Hoa:
                            - Em dạo nầy… rất lạ nghe. Tự dưng ít nói ghê ta.
                            Hoa liếc nhìn anh, nụ cười méo xệch, nghẹn ngào ấp úng:
                            - Anh thấy vậy sao!?
                            - Phải. Sắp làm vợ anh, còn lạ nỗi gì!
                            - Rồi em sẽ còn xấu hổ gấp ngàn lần.
                            - Là con gái ngoan hiền, ai mà chẳng vậy.

                            Triều vui vẻ gọi các món Hoa đã thích ăn, (khi ở quê nhà có lần họ đã cùng nhau đi ăn, lúc sắp làm đám hỏi). Muốn để cho Triều thoải mái ăn uống, vui vẻ được phút nào hay phút đó, hay là… Hoa không đủ can đảm thốt lên những câu mà Hoa biết sẽ quá tàn nhẫn, ác độc, khiến giấc mộng xây dựng lâu đài tình ái của anh đang huy hoàng phải sụp đỗ trong chớp mắt!? Quả thật, ít ra lúc nầy Hoa không nỡ! Triều nhìn dĩa thức ăn của Hoa:
                            - Em mệt sao, hoặc là thức ăn không vừa ý em nào!
                            - Dạ, dạ… do em mệt mỏi thôi.
                            - Bậy bạ quá, anh thật vô tình không nhớ là em vừa đi đoạn đường xa. Xin lỗi em.
                            - Không có chi anh.
                            - Mình vô phòng trọ trên lầu, em đi tắm, sẽ cảm thấy khỏe ngay thôi.
                            - Đừng anh ạ. Không cần tốn kém vậy đâu anh. Mình ngồi đây nói chuyện riêng xí, cũng được mà.

                            Triều nhất định không chịu, vì ở đây có khách ra vô ăn uống ồn ào, đông nghẹt, làm sao có thể nói chuyện riêng tư! Anh dìu Hoa đứng dậy bước lên lầu, Hoa riu ríu đi theo, tâm trí trống rỗng. Khi Hoa thay bộ đồ ngủ từ phòng tắm bước ra ngoài, thì đúng thật là Hoa cảm thấy có phần dễ chịu, bình tĩnh và bớt căng thẳng. Hai người ngồi đối diện bên chiếc bàn vuông nhỏ kê cạnh cửa sổ. Hoa nhìn Triều đang âu yếm mỉm cười. Hoa vội vàng cụp mắt nhìn xuống hai bàn tay lạnh cóng buông trên đùi, Hoa buột miệng nói một hơi dài:
                            - Anh Hải Triều ôi! Xin anh bình tĩnh ngồi yên lặng, anh đừng ngắt lời, anh nghe em nói. Em van xin anh. Em nói liền kẽo không còn cơ hội. Dạ, ý em là là… dạ, em xin được từ hôn với anh. Em không thể lấy anh. Em không hề yêu anh. Đó chỉ là một phút bồng bột của tuổi trẻ. Xin anh tha thứ lỗi lầm nầy.

                            Ban đầu Triều ngỡ Hoa nói đùa, nhưng nhìn kỹ lại, anh thấy mặt Hoa nhợt nhạt, lúng túng, chẳng có ý đùa cợt, trái lại rất thật tình. Hoa vẫn cúi gầm mặt xuống nhìn mấy giọt nước đá vo viên ngoài ly thủy tinh, giống như những giọt nước mắt long lanh chực trào ra từ khóe mắt nàng.

                            Tái xanh mặt, Triều bàng hoàng ngẩn ngơ, không thể tin ở mắt thấy tai mình nghe, anh xô ghế đứng bật dậy, một tay vịn song cửa sổ, một tay Triều chống ngang hông, mọi thứ trước mắt anh hầu như mờ nhòa và sụm xuống. Triều nghẹn cứng cổ họng, miệng mồm đắng chát, khô lông lốc không thể thốt nên lời. Họ im lặng như thế rất lâu. Lâu lắm, Triều nói nhỏ :
                            - Nếu muốn từ hôn, cần gì đến đây cho bẽ bàng. Em viết ít chữ gửi anh, cũng được mà.
                            - Dạ… dạ, nhưng nếu em nói với mạ chuyện từ hôn: là do em, thì mạ rất giận, mạ sẽ giết em chết thiệt.
                            - Hừ… Vậy em muốn gì ở anh nào!?
                            - Xin anh cứu em… ngày mai anh cùng về với em, anh trực tiếp nói với mạ: "Anh từ hôn là do anh đã lỡ lấy người con gái khác, làm cô ta có bầu".
                            - Úi Trời đất ơi!

                            Triều kinh ngạc trợn mắt bàng hoàng đăm đăm nhìn Hoa. Cuối cùng Triều uể oải buông mình ngồi phịch xuống ghế:
                            - Em có biết không, anh yêu em nhiều lắm… Làm sao bây giờ!
                            - Dạ… thưa anh, em rất xấu hổ, nhục nhã, và hèn hạ, em không xứng đáng.

                            Bỗng nhiên Triều bước tới bên Hoa, anh quỳ xuống sàn nhà, úp mặt anh vô hai bàn tay mình mà buông thỏng trên đùi Hoa. Triều đã khóc nức nở. Hoa ôm chầm lấy đầu Triều, òa khóc to như đứa trẻ vừa bị đánh cắp món đồ quý giá. Cũng lâu rất lâu, không biết đêm khuya và gió lạnh đã tràn vô phòng lúc nào, lạnh như những giọt nước mắt thấm ướt da đầu anh. Triều thở dài từ từ gỡ hai bàn tay Hoa ra, anh đứng dậy nhìn Hoa:
                            - Bây giờ trời đã khuya, mình về Tam Kỳ không kịp rồi. Đành phải nghỉ lại đây. Em nằm nghỉ trên giường nầy. Anh sẽ nằm ở sofa kia. Chúc em ngủ ngon.

                            Triều thản nhiên đi tắt hết đèn đóm, và quay ra sofa nằm gác tay lên trán, Hoa trông anh bình thản đến độ lạnh lùng. Hoa ái ngại lấm lét nhìn anh, hết sức ốt dột, xấu hổ lịm người. Hoa rón rén mò mò đến bên giường len lén vật mình nằm lì im re bên trong xó góc, không dám nhúc nhích. Sáng hôm sau Triều vẫn mời Hoa đi ăn sáng bình thường, anh lên xe đò đi Tam Kỳ cùng Hoa, làm y như giữa họ không hề xảy ra chuyện đáng tiếc. Hai người vô nhà lúc mạ vừa đi chợ về. Triều nói mạ vui lòng ngồi xuống ghế, cho anh thưa chuyện. Triều quỳ xuống bên chân mạ:
                            - Con xin mạ tha lỗi khi con từ hôn: Hồi hôn với em Hoa, là do con đã lỡ lấy người con gái khác, làm cô ta có bầu.

                            Vừa nghe xong, mạ giận quá, đã mắng nhiếc Triều đủ điều xấu xa, nhục nhã ê chề, mạ thẳng chân đạp Triều một cái vô ngực anh thật mạnh. Bất ngờ, khiến Triều té ngửa ra sàn nhà, đầu đập vô chân tủ, lỏa máu. Hải Triều đứng dậy lặng lẽ cúi đầu bước ra khỏi nhà. Các em của Hoa khóc lóc thảm thiết, các em rống to hụ hụ hụ... vì các em biết rõ phần lỗi về ai, mà tụi em không hề dám lên tiếng bênh vực anh. Họ thương Triều bị oan ức, không hề than van trách móc. Thật là một người quá cao cả, vô cùng hy sinh vì người mình yêu, anh Hải Triều ơi! anh rất cao thượng.
                            ***

                            Năm 1993 Hoa và các em trở về quê Trường Sanh, Phú Nông, Lương Điền, xóm Sen: xây mấy nhà thờ tổ của dòng họ Trương; bên nội, cũng như bên dòng họ ngoại. Nhờ xây nhà thờ to lớn, sầm uất, cúng tổ linh đình, Hoa đã làm một việc nở mày nở mặt hai họ biết bao. Hoa làm cơm đãi họ hàng thôn xóm, rồi theo các em đi thắp nhang hầu hết những ngôi mộ trong làng. Khi dợm bước lên xe hơi, thì có một cô gái đến bên Hoa dịu dàng bảo:
                            - Em cần dẫn chị đến nơi nầy.

                            Hoa nhìn cô gái có ý dò hỏi, nhưng cô ấy không nói gì, lặng lẽ đi trước dẫn đường khá xa. Lúc đến gần cuối bức tường rêu phong, cô ấy nhìn Hoa e dè nói:
                            - Có lẽ chị quên em, nhưng chắc hẳn chị chưa quên anh trai của em. Anh ấy đã có vợ và hai đứa con trai còn nhỏ. Vì khi xa người mà anh ấy rất yêu, thì lâu lắm anh ấy mới lấy vợ. Em không hiểu vì sao, có thể cũng do buồn, nên thay vì anh ấy được trở về ngành điều hành không lưu cũ, nhưng anh ấy muốn ở lại phục vụ tại Quảng Ngãi. Năm 1972. Nhân một hôm nghỉ việc, anh ấy không làm ở phi trường quân sự Quảng Ngãi, mà anh ấy đi chơi theo mấy bạn Bộ Binh, để phát lương ở Minh Long, anh trai đã bị mìn, anh chết vô cùng tội nghiệp.

                            Cô em vạch đám cỏ may cao lút đầu gối giạt qua một bên, Hoa thấy ngôi mộ hoang phế vôi gạch rữa nát, trên bia mộ lờ mờ mấy hàng chữ: Võ Hải Triều sinh 10 tháng Giêng năm 1947. Từ trần ngày 20-12 năm 1972.

                            Hoa chết sững ngồi hụp xuống đám cỏ may vàng òa lên khóc nức nở, y như hồi nào đó trong quá khứ Hoa đã khóc rống lên trước những cơn đau khổ đầy chua xót bẽ bàng của chàng. Nỗi đớn đau và dày vò chua xót đó, cho đến mãi tận hôm nay mới thấm đẫm sự ân hận trong trái tim khô héo nầy. Hoa không biết nói gì hơn là lẽo đẽo theo cô em đi về trên đường nhựa dẫn tới khu xóm cũ, nơi Hoa đã từng học nghề may. Hoa vô ngôi nhà lai ba gian hai chái thuở xưa, nước mắt lưng tròng Hoa đặt một phong thư dày cộm lên bàn thờ, thắp mấy cây nhang cắm vô lọ sứ, ánh lửa lập lòe lung linh hơi khói phảng phất bay bay trên khuôn mặt cố nhân. Hoa cúi đầu lâm râm khấn vái, mắt long lanh, nghiến chặt hai hàm răng:

                            - Anh Hải Triều ôi! Tuy em biết rằng món tiền nầy không thể nào chuộc lại sự đau đớn nhức nhối do từ em gây ra, không bao giờ có thể đền bù, xóa tan, rửa sạch, hay hàn gắn. Em xin anh hãy nhận cho tấm lòng em tan nát, dày vò, biết ơn và rất trân trọng anh vô vàn.
                            Dĩ vãng đầy ắp đang lừ đừ trôi về trên hiện tại não nề bi đát, không kém muộn phiền chua xót làm sao!
                            ***

                            Tình Hoài Hương
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 09:23 PM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Tạ Ơn Đời. Ân Nhân & Bạn Hiền Thân Mến



                              Tạ Ơn Đời. Ân Nhân & Bạn Hiền thân mến.


                              Nắng lung linh xuyên qua song cửa rót lên nền nhà, tạo thành những vệt sáng lấp lánh nhảy múa trên bàn, trên những tấm vải treo khắp đó đây trong tiệm may vắng như chùa bà Đanh, khiến Hoa càng buồn và thất vọng dường bao! Suốt mấy tháng không có khách hàng tới may vá gì, buồn chán lắm, nên cô nhỏ cứ bỏ tiệm may ra đứng thẩn thờ trước trường đánh máy chữ. Hoa nhìn vào bên trong lớp học mà mơ ước mình được sung sướng đi học như họ, thì hạnh phúc biết ngần nào!

                              Một hôm, Hoa đang mơ màng đăm chiêu, lấp ló phiền muộn nhìn vô trường học nghề như thế, thì có một bàn tay nhẹ ôm vai Hoa:
                              - Ê bồ! sao ngày nào cũng đứng đây vậy?

                              Hoa kinh ngạc nhìn người con gái xa lạ ăn mặc hợp thời trang, nàng cao to hơn Hoa một chút, nàng không đẹp không xinh, nhưng ai nhìn nàng cũng cảm thấy dường như từ nơi nàng tỏa ra một sự quyến rũ, có hấp lực thu hút cái duyên ngầm kỳ lạ. Hoa nhìn lại thân phận mình quần thô áo vải nên mắc cỡ bỏ chạy. Người ấy vội chụp cánh tay áo Hoa lại, đầu Hoa chúi vào vai người ấy. Chẳng hiểu sao Hoa oà khóc vì xấu hổ và tủi thân. Cô gái ân cần vỗ vỗ vào lưng Hoa, tự giới thiệu tên:
                              - Mình tên Bích Thuỷ. Còn bồ tên gì? Ở đâu vậy?

                              Thủy hỏi thăm Hoa ở nơi nào ư? Hoa nghẹn ngào không nói, đưa tay chỉ vô tiệm may. Thủy gật đầu tươi cười bước vô lớp. Hết giờ học đánh máy, Thuỷ ghé lại tiệm may, nàng muốn làm thân kết bạn cùng Hoa:
                              - Có thích học đánh máy không, mà ngày nào tui cũng thấy bạn đứng dòm chằm chằm vô lớp học hoài rứa?
                              - Ồ, mình rất thích. Nhưng nhà nghèo lắm, không thể có tiền đóng học phí, cùng các chuyện linh tinh khác.
                              - Bạn đừng lo chuyện ấy. Tiền bạc, ăn uống, học phí để tui lo cho, đến khi nào bạn học thành tài, mới thôi nghe.

                              Ồ! Làm sao mà có chuyện “động trời” thế nầy được!? Hoa lắc đầu trố mắt nhìn cô gái, chẳng thốt nên lời, không thể tin vào tai mình. Nhưng mỗi ngày sau giờ học đánh máy, Bích Thuỷ đều ghé lại tiệm may của Hoa, vui vẻ ân cần Thủy “mớm mồi” một vài câu “nhắc khéo” với Hoa về “chuyện ấy”. Nghĩa là Thủy đi sâu vào vấn đề muốn tận tâm giúp đỡ bạn học một nghề có căn bản cho tương lai, đại khái là nghề thư ký đánh máy. Hoa mủi lòng chỉ biết khóc... và khóc vì thân phận nghèo thôi. Bích Thuỷ mở lời tâm sự:
                              - Hoa biết không, ở đời không phải ai ai cũng hoàn toàn sung sướng, như ta nhìn phiến diện về một ai đó. Nè bạn, họ không khổ sở vì vật chất, thì cũng đau đớn, dằn vặt, cô đơn về tinh thần. Ví dụ như mình đây: Ba mình là Quận Trưởng, mình có hai người anh đã thành đạt trên đường đời, nhưng rất buồn và cô độc do chúng tôi mồ côi mẹ lúc còn nhỏ. Ba mình có phải là gà trống nuôi con độc thân tại chỗ không, chuyện ấy xét lại, bây giờ ông có nhiều đào! Mình sống giàu sang nhưng rất cô đơn và trống vắng. Là vậy đó.

                              Thì ra là như thế. Bích Thủy ân cần năn nỉ Hoa cho phép mình đi thăm nhà mạ và các em của Hoa. Ngần ngại hết sức, nhưng cuối cùng Hoa mềm lòng đã dẫn Thủy về nhà mạ. Nhìn cảnh nghèo nàn xơ xác khó khăn của bạn phơi bày, Thuỷ bùi ngùi cảm động xót xa quay mặt đi len lén chùi nước mắt. Thuỷ hết lời năn nỉ xin mạ cho Hoa đi học đánh máy, Thủy hứa khi Hoa học thành nghề, Thuỷ sẽ xin việc làm cho Hoa, để bạn có điều kiện dồi dào hơn về khoản tiền nong, mà nuôi mạ và em út.

                              Mạ chẳng hiểu đầu đuôi chi hết, nên nỏ ừ chẳng hử. Hoa kinh ngạc nhìn cô bạn mới ấy đăm đăm, chỉ tưởng là cô gái lạ kia trêu chọc nói đùa cho vui. Ai ngờ… có nàng tiên thật trong đời của Hoa đã giáng thế! Bích Thủy hoàn toàn xa lạ, không bà con thân tộc, không hề quen biết Hoa, nhưng Thủy chẳng toan tính đắn đo suy nghĩ gì, nàng đã hậu ái lo đầy đủ chu đáo hết mọi thứ, dìu dắt Hoa đến nơi đến chốn: nào là Thủy đóng trọn khóa tiền học đánh máy, nào là Bích Thủy đưa Hoa đi mua sắm mấy bộ áo quần. Thủy lo lót ở một trường tư thục ngoài Đà Nẵng cho Hoa có một chứng chỉ học trình lớp Đệ Tứ. Tóm lại Thủy hết đóng mọi chi phí. Thủy đưa Hoa đi làm giấy thế vì khai sinh, tên “Trương Thị Thu Huyền” khai sinh chào đời, lột xác Hoa từ nấc thang thấp nhất, tên cũ xì và quê mùa "Chắt" đã lùi về quá khứ, tên mới của Hoa lâng lâng bay lên… bay lên cao vút từ nơi đó.

                              Lý Thị Bích Thủy: Đó là một người thầy thứ hai trong đời đáng kính và quý trọng của Hoa (sau cậu Phú): Lúc ở Tam Kỳ Chu Lai, muốn đốt giai đoạn, nên Thủy dịu dàng dạy Hoa học thêm đánh máy cho thật nhanh và chóng nhớ, bằng cách Thủy lấy sơn màu viết 24 chữ cái lên tấm carton, những mặt chữ cái, làm giống y như trên bàn phím của máy đánh chữ thật. Đúng là có kết quả nhanh chóng tốt đẹp và vô cùng khả quan. Ôi! Hạnh phúc biết dường nào khi ở trường học đánh máy: mỗi lần Hoa ấn tay lên bàn phím, thì những con chữ vô tư lự vui vẻ gõ lóc cóc, nhảy tưng tưng như rộn ràng reo hò mời gọi, thì nhịp tim Hoa cũng lâng lâng hòa điệu tương ca.

                              Hoa có ý chí, tự rèn luyện đức tính kiên cường, ngày đêm cố gắng học chữ, học Anh-văn, học đánh máy chữ. Ngày đó Thuỷ bảo vệ Hoa lắm, dù những bạn học của Thuỷ có vẽ xem thường Hoa một tí, là Thủy từ bỏ họ luôn, đôi khi Hoa thấy ngại quá, khuyên Thuỷ hãy để em sang một bên, Thủy hãy tiếp tục chơi với bạn học. Thuỷ lắc đầu bảo rằng:
                              - Mấy con đó thiếu sự hiểu biết, không có đạo đức, không thèm chơi với chúng nó.

                              Ngoài giờ học đánh máy, Bích Thủy còn dạy Hoa nói tiếng Anh với Thủy, để Thủy biết chỗ sai hay đúng, mà sửa. Thật tình thì Hoa thích nói tiếng Việt hơn, nghe thân thiện, tha thiết nồng nàn, ấm áp ngọt lịm sao đâu. Bởi hằng ngày Hoa nói chuyện với người Việt thân thiết quen rồi, nay học thêm tiếng Anh, Hoa bị lớ quớ lộn xộn ngỡ ngàng và và… dị dạng nói lắp bắp, líu cả lưỡi. Hoa cảm thấy ngượng ngùng không tự nhiên khi phát âm. Thủy sợ Hoa không hiểu, Thủy giải thích dông dài rất cặn kẽ. Chẳng biết Thủy sưu tầm lượm lặt đó đây một lô thơ lục bát ghép chữ Việt và Anh-ngữ rất hay, thực dụng và dễ hiểu vô cùng, Hoa rất thích học những câu, có nhiều lúc Thủy vừa hỏi tới bài học, thì Hoa trả lời những câu đã thuộc làu:

                              Cằm CHIN có BEARD là râu
                              RAZOR dao cạo, HEAD đầu, da SKIN
                              THOUSAND thì gọi là nghìn
                              BILLION là tỷ, LOOK nhìn , rồi THEN

                              LOVE MONEY quý đồng tiền
                              Đầu tư INVEST, có quyền RIGHTFUL
                              WINDY RAIN STORM bão bùng
                              MID NIGHT bán dạ, anh hùng HERO

                              COME ON xin cứ nhào vô
                              NO FEAR hổng sợ, các cô LADIES
                              Con cò STORKE, FLY bay
                              Mây CLOUD, AT ở, BLUE SKY xanh trời

                              OH! MY GOD...! Ối! Trời ơi
                              MIND YOU. Lưu ý WORD lời nói say
                              HERE AND THERE, đó cùng đây
                              TRAVEL du lịch, FULL đầy, SMART khôn

                              Cô đơn ta dịch ALONE
                              Anh văn ENGLISH , nổi buồn SORROW
                              Muốn yêu là WANT TO LOVE
                              OLDMAN ông lão, bắt đầu BEGIN

                              EAT ăn, LEARN học, LOOK nhìn
                              EASY TO FORGET dễ quên
                              BECAUSE là bởi, cho nên, DUMP đần
                              VIETNAMESE, người Việt Nam

                              NEED TO KNOW... biết nó cần lắm thay
                              SINCE từ, BEFORE trước, NOW nay
                              Đèn LAMP, sách BOOK, đêm NIGHT, SIT ngồi
                              SORRY thương xót, ME tôi

                              PLEASE DON"T LAUGH đừng cười, làm ơn
                              FAR Xa, NEAR gọi là gần
                              WEDDING lễ cưới, DIAMOND kim cương
                              SO CUTE là quá dễ thương

                              SHOPPING mua sắm, có sương FOGGY
                              SKINNY ốm nhách, FAT: phì
                              FIGHTING: chiến đấu, quá lỳ STUBBORN
                              COTTON ta dịch bông gòn

                              A WELL là giếng, đường mòn là TRAIL
                              POEM có nghĩa làm thơ,
                              POET thi sĩ nên mơ mộng nhiều.
                              ONEWAY nghĩa nó một chiều, (*= sưu tầm)

                              Có lần Thủy nói: văn chương không cần trau chuốt hoa mỹ, chỉ cần xác thực, trung thực, có chút tỷ mỹ trong sự uyển chuyển hài hòa, thì sẽ thành công. Thế là Thuỷ vừa dạy Hoa học đánh máy vừa dạy Hoa tiếng Mỹ. Thuỷ xin với chị Toàn (là chị của Thuỷ) cho Hoa ở trọ cùng Thuỷ, tiền ăn ở Thuỷ lo hết cho Hoa mấy tháng đầu. Khi vững vàng chuyện học rồi, tại nơi phồn hoa đô hội đó không ai biết mình là ai, nên Hoa không để lộ tông tích “đi ở đợ hèn mọn” của mình ra làm chi nữa. Hoa luôn mặc cảm về dĩ vãng bất đắc dĩ, buồn tủi đen tối và thấp hèn ấy.

                              Một ngày kia có hai ba ông Mỹ bước vào trường dạy đánh máy chữ nói chuyện với cô giáo Xuân. Khi họ về rồi, cô Xuân cho cả trường biết là họ muốn tuyển nhiều thư ký đánh máy, ai thích đi làm thơ ký cho bộ Hải Quân Mỹ thì đơn đây, điền vào. Thế là Hoa cùng một số bạn trai gái ghi tên đi làm. Sáng thứ Hai người ta tập họp nhân viên ở trung tâm dạy Anh-văn tại Tam Kỳ, nơi nầy có xe bus chở họ đi Chu Lai làm việc đến chiều, thì xe bus trả về chỗ cũ, mạnh ai đi về nhà đó.

                              Ngày đầu tiên Hoa vô phòng dự thi của Mỹ, có ban giám khảo cho thí sinh thi ngành thư ký đánh máy: Tuyển sinh phải trình bày và đánh máy một văn bản hai tờ giấy bằng tiếng Anh khá dài– phải đánh nhanh và không sai lỗi chính tả: gồm 41 chữ trong một phút. Thời gian thi là nửa giờ! Ối Trời ơi là Trời!!! Hoa rợn người lo sợ bủn rủn cả tay chân. Chỉ 1 phút mà phải nuốt trọn 41 chữ, nhanh hơn tên bay sao xẹt thôi sao? Đúng là đánh máy tốc ký! Văn chương Việt-ngữ là ngôn ngữ mẹ đẻ, Hoa còn hạn hẹp chưa thông thạo, huống gì tiếng Anh tiếng U. Hoa lại càng mù mịt như thầy bói rờ con voi. Làm sao bây giờ!

                              Hoa choáng váng không thể nào đoạt được kỷ lục thư ký tốc hành 41 chữ trong một phút đó. Mơ làm thư ký đánh máy là một việc cao sang quá tầm tay với làm gì, mà bây giờ từ trên đỉnh cao chót vót, Hoa đã vỡ mộng tan tành… bị rớt cái đụi. Tủi thân Hoa ngồi bệt xuống nền nhà khóc hụ hụ… ngon lành không hề biết xấu hổ! (giống như một đứa trẻ thơ lúc không nhận được quà theo ý muốn, nó đã phụng phịu ngồi phệt xuống đất chà hai chân giãy giụa và khóc ngất).

                              Nhưng may thay, ở đây họ cũng đang cần người làm việc trong Warehouse clothing, nên Hoa được “lọt mắt xanh” ban giám đốc IRO, họ tuyển chọn Hoa và mấy người nữa vô đó làm việc. Hoa suy nghĩ: “trước tiên mình nên nhận công việc tàm tạm nầy đã, khi ngồi vững trong IRO rồi, mình sẽ tính tiếp. Nếu Hoa không nhận công việc nầy, e rằng sẽ không còn cơ hội may mắn tiến thân”.

                              Hoa là người chân thật, giản dị, đơn sơ và rất bình dân giáo dục, không biết nói những câu văn hoa bóng bẩy, không biết thêu dệt những ý tình đẹp đẽ thơ mộng, nên tự đáy lòng Hoa chỉ muốn nói lời khẩn thiết cảm ơn, biết ơn, và tạ ơn: Trước tiên là ghi ơn ôn mệ nội, ngoại đôi bên. Tiếp theo là tri ân cha mạ sinh ra con. Ôn mệ, chị Thùy Mến là người dưng khác họ, mà thương Hoa vô cùng. Kế đến là chị Lộc. Ông bà Trương Nguyên Thảo. Anh Đoàn Mùi, anh Thái Nghệ Quân, Võ Hải Triều. Thầy Phú dạy Hoa học chữ quốc ngữ. Nhất là Hoa vô cùng biết ơn và tạ ơn Lý thị Bích Thủy, một người bạn tình cờ chỉ gặp gỡ một ngày, mà trọn kiếp tri ân người đã nâng vực Hoa: cô bé lọ lem từ nấc thang thấp hèn trong xã hội được leo lên làm người hữu dụng. Tạ ơn đại diện hãng IRO thuộc đất nước Hoa Kỳ đã đến Việt Nam & tuyển chọn Hoa vô làm việc trong ban ngành của họ.
                              Hoa hạnh phúc xiết bao, hôm nay xin ghi lời tạ ơn đời ưu ái ban cho mình những hồng ân trân quý.
                              ***

                              {Thời gian quen biết nhau không lâu, thì Thủy cùng chồng đi Mỹ ở Fort Lauderdate, Florida. Thế là hai đứa mình xa cách nhau cuối năm 1967. Tại Hoa Kỳ, Thuỷ hào phóng giúp ai cần giúp, mặc dầu có nhiều người ruột thịt của Thủy cản ngăn, nhưng Thủy vẫn đi theo lý lẽ của con tim, đến nỗi người chồng thứ hai, rồi tới người chồng thứ ba và Bích Thủy cũng đổ vỡ nốt. Chỉ vì một hôm có cơn bão đến, Thủy vội vàng chạy xe ra đường, lật đật chở những người vô gia cư nào là "đen, trắng, già, trẻ, Lào, Miên, Phi, Tàu…” ; tất cả… chẳng kể số, Thủy đem họ về nhà, cho họ áo quần, ăn, ở tạm trú một thời gian dài, kể cả chó, mèo, nai, thỏ, chim, sóc…, tất cả mọi thứ… thứ gì Thủy cũng tha vô nhà đầy nhóc. Ồn ào, bừa bộn, hỗn độn, lộn xộn hết biết.

                              Ông chồng thứ ba thấy ở trong nhà mình giống như một… sở thú của “thảo cầm viên và cầm… người” thật quá kinh hoàng, chồng Thủy chẳng thể nào chịu đựng thêm “cố tật bẩm sinh” của cô vợ ngày ngày thích làm chuyện bác ái, từ thiện, hảo tâm: càng chất chồng lên cao ngút. Ông đã nổi cơn điên, cả hai người thường xung khắc, bất đồng ngôn ngữ và không cùng chung chí hướng & “lý tưởng”. Họ đã đi đến chuyện không thể dừng, không thể cảm thông, đành lôi nhau ra tòa ly dị.

                              Từ đó Thủy không lập gia đình nữa, nàng hái ra tiền dễ dàng, nhưng cũng dễ bị đàn ông phỉnh gạt tình và tiền… Bích Thủy sống cuộc đời độc thân, làm những gì mình muốn, tự do du lịch dó đây khi mình thích, khỏi bận bịu vì ai hết}.
                              * * *

                              Tình Hoài Hương
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 11:27 PM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • Em và Tôi


                                Em Thu Huyền (Hoa) thương yêu cuả chị,
                                Chị bồi hồi nghẹn ngào và cảm động vô vàn khi nghĩ đến (các em nhỏ) – nhất là em Hoa cuả chị. Các em thời ấu thơ hồn nhiên xinh xinh và ngoan hiền biết bao.
                                Mặc dù thuở ấy các em chỉ thoáng qua trong đời chị như cơn gió nhẹ, như vần mây bồng bềnh lơ lững trôi trên không gian bao la. Nhưng, tình cuả chị đối với các em ngày xưa & bây giờ (chị được gặp lại tất cả các em đã “thành nhân”) vẫn ngút ngàn nguyên vẹn: các em luôn ngự mãi trong lòng chị Hoài Hương.
                                Thương mến tặng các em một bài viết về “Chuyện của CHÚNG MÌNH” sau đây:

                                *
                                Em và Tôi
                                Tình Hoài Hương

                                ***

                                Mây trắng lững lờ bay hoài trên không trung ngút ngàn theo năm tháng chất chồng không biết mệt. Có mấy ai luyến lưu, bâng khuâng, ngẩn ngơ nhìn cánh chim bay lạc soãi cánh nương theo áng mây chiều não nuột thê thiết khắc khoải kêu đàn? Khiến lòng mình băn khoăn, sầu lắng, xao xuyến bùi ngùi… gợi nhớ một niềm đau khẽ khàng bùng vỡ; từ buổi ban đầu tình cờ gặp gỡ trong quá khứ, (giống như tôi không nhỉ)?
                                Một hôm sau khi từ thành phố Lâm Viên thơ mộng và trữ tình, tôi nôn nóng trở về quê thăm cha mẹ già trong dịp nghỉ hè, vô tình đọc được mấy bài thơ hay, ý nghĩ thiết tha về mẹ cha (đang ở dưới lũy tre làng bao bọc một đời quạnh hiu); trong đó theo thiển ý cuả mình, tôi có chút trùng hợp niềm nhớ nhung về song thân với thi sĩ Huỳnh Kim Sơn:
                                … Ta cũng có mẹ già mòn mỏi đợi
                                Những mùa xuân biền biệt bóng ta về
                                Tóc mẹ trắng đã bao chiều sương khói
                                Mắt đìu hiu sầu mấy dặm sơn khê…

                                Sau những ngày vui mừng cuống quít hạnh phúc được đoàn tụ với mẹ cha, gặp gỡ thân nhân họ hàng, biết em Hoa không còn ở với anh chị Thuận, nên tôi cảm thấy đơn điệu trong nỗi tiếc xót buồn bã khó tả. Ngày từ giã em Hoa để đi Đà Lạt vô trường nội trú Couvent dex Oiseaux đến bây giờ, đã một năm dài, nay tôi trở về chốn cũ đồi xưa, sông nước mênh mông, núi đá rêu phong qua thời gian và đồi sim cùng suối nước sóc rách vẫn còn đó, có thay đổi chăng, là bi chừ dưới triền đồi sim và từng vạt tranh ngã mình trước từng cơn gió ùa về, bây giờ đã mọc lên ngôi nhà gạch cao rộng nung ngói đỏ, thế mà em tôi không còn nơi đây! Nên tôi cảm thấy rất buồn và nhớ em da diết.

                                Xin phép ba má lặn lội đi tìm thăm Hoa ở làng Trường Sanh, (quận Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị), tôi mặc áo dài tím, quần trắng, mang guốc mộc, đầu đội nón lá, tay ôm gói quà to tướng, như đã hẹn cùng cô em bé nhỏ xinh xinh ngày ấy. Từ tỉnh lộ Huế - Quảng Trị, khi tới hơn nửa phần đường, thì tôi xuống xe đò, trời nắng chói chang trên con đường quê lạo xạo sỏi đá dưới gót chân khua động. Chung quanh vắng lặng, không có một gốc cây, bờ ruộng sau mùa gặt chỉ còn trơ gốc rạ, khiến đất cát càng khô cằn nức nẻ từng miếng vụng về thô thiển, biểu lộ sự nghèo nàn đói kém lầm than và cơ cực của người nông thôn lam lũ nhọc nhằn một nắng hai sương. Đoạn đường trên xa lộ xuống nhà Hoa rất xa mà trời nắng gắt, oi nồng, không có chút gió phe phẩy, mặt đất xông lên hơi nóng thiu đốt da người rát như phải bỏng, nên tôi cảm thấy ngất ngư, quá mệt, mồ hôi vã ra nhễ nhại trên thân, đầu tóc ướt nhẹp, lưng áo đẫm mồ hôi rít rát. Vốn dĩ từ thuở bé đến giờ tôi chưa bao giờ bước đi trên cây cầu chỉ có ba bốn cây tre chong chênh, vắt vẽo từ bờ nầy qua bờ kia, nên tôi ngại ngùng, chán ngán, phập phồng lo sợ lúc đứng bên nầy bờ nhìn về làng Trường Sanh xa tít tắp.

                                Nếu đã lặn lội mò mẫm đến tận đây rồi, chỉ còn một đoạn đường ngắn ngủi trong tầm mắt, mà mình không thể đến bên em, sao đành! tôi ngẩn người do dự băn khoăn bối rối nhìn chiếc cầu khỉ đong đưa lắc lư trên không trung, giống như nó đang treo tòn ten trước gió oi nồng hiu hiu thổi, mà thỉnh thoảng nó vang lên tiếng kêu kẽo kẹt, như lời thì thầm tự thán, khiến tôi càng run sợ và choáng váng, do dự trong sự chọn lựa. Tôi thầm nhủ: Tiếp tục tìm kiếm em, hoặc là quyết định quay về (vì sợ chiếc cầu khỉ) đây? Quay về: sẽ an toàn, bình yên không lo sợ, dù phải mất đi tình thân thiết, và có thể mất nhiều thứ khác. Nhưng ngập ngừng, vì sự lo sợ mà lựa chọn việc quay về, làm mất đi một người thương, (hoặc nhiều người, chị sẽ gây tổn thương đến em, thì Hoa ơi! xin em hãy giúp tôi vượt qua sự sợ hãi, em đừng lánh xa tôi, mà em hãy dịu dàng đứng gần tôi dưới chân cầu nầy, thầm lặng khích lệ, và nâng vực tôi mạnh mẽ an tâm bước lên cây cầu khỉ “quỷ quái” đang lắc lư, để tôi có can đảm hân hoan đến với em chẳng chút ngại ngần lo sợ. Như ngày ngày em đã cùng mọi người trong xóm Sen thong dong ung dung đi lại trên cầu tre.

                                Thế là chí đã quyết, tôi run sợ, lo lắng, khổ sở rụt rè rón rén bước lên cầu (dù không thể tự nhiên thảnh thơi ung dung bước đi như những cư dân kia). Tôi cột hai vạt áo dài vô bụng, phải hé hi hí hai mắt, gồnh mình cố gắng rón rén bò bò trên cây cầu lắt lẽo rung lên bần bật và kêu kẽo kẹt trong gió lao xao rì rào từ khóm trúc bụi tre vẵng lại. Nhìn xuống hố sâu, tôi cảm thấy đầu óc quay cuồng xây xẩm choáng váng kinh khủng, chóng mặt. Ôi! Sợ hãi biết dường nào kể xiết, nhưng tình tôi thương yêu đứa em bé nhỏ nhiều hơn, nên đã cố gắng thắng lướt tất cả. Thế rồi dần dà mọi sự từ từ cũng ổn, tôi thấy những nóc gia thưa thớt khiêm nhu trên lãnh cư khô cằn vào giữa trưa, nên thôn xóm càng vắng vẻ đìu hiu. Lúc đến đầu thôn, tôi gặp một người đàn ông trung niên đi ngược chiều, tôi ân cần hỏi thăm nhà mạ cuả Hoa, thì ông ta vui vẻ dẫn tôi đi ngược trở lại. Đứng trước cửa nhà tranh lụp xụp, vách đất quét vôi úa màu lổ chổ, phên cửa xiêu vẹo èo ọp có những sợi khói trong lò bếp ấm áp tỏa bay lên cao, rộn rã tiếng trẻ nhỏ nói chuyện huyên thuyên, vui mừng chia nhau củ khoai lát sắn, mà vui. Tôi cảm thấy nơi ấy có luồng sinh khí ấm áp nồng nàn, từ mùi khoai lang nướng trong bếp lò tỏa ra thiệt thơm, dù tôi đã ăn cơm no ở nhà rồi. Ấy thế mà món khoai củ kia hấp dẫn, khiến bụng tôi cồn cào đói, miệng ứa nước miếng vì thèm ăn một món giản dị, bình dân rẻ tiền, nhưng thiết thực và đậm đà tình dân tộc.

                                Khi nghe người đàn ông cất tiếng gọi các cháu, và báo có khách đến thăm. Mấy đứa nhỏ ùa ra cửa, nhao nhao chào hỏi “chú Nhàn”. Tôi thấy bầy nhóc xêm xêm cao bằng vai bằng cổ nhau: bốn đứa khoảng từ tám chín tuổi trở xuống một tuổi. Dường như các em ngỡ ngàng lẫn sửng sốt bu quanh tôi, mấy em nhỏ và bé Thủy trên má dính đầy lọ nghẹ, hoặc vỏ khoai lang nướng. Trong số đó có Chiến là lớn nhất đàn, em ở trần đưa tấm lưng ốm nhom đen thui và sạm nắng, em mặc quần xà lỏn màu nâu xệ xệ xuống dưới đì. Khi nghe chú Nhàn giới thiệu tên tôi: thì em đon đả trả lời là đã biết chị, (do Chiến đi thăm Hoa ở nhà cha mẹ tôi, Chiến thấy tôi chụp hình cùng gia đình). Chiến lanh lẹ vui vẻ liếng thoắng nhất trong đám nhỏ đã toét miệng cười reo:
                                - Em chào chị Hương, phải không hì!?
                                - Phải đó cưng. Em giỏi thiệt.
                                - Dạ, em như ri mới “cai trị” được bọn lu la nhà em mà chị.
                                - Vậy sao!? Nhưng nè, hình như em vọc đất cát hơi nhiều, nên móng tay móng chân em dài và đen thùi lùi. Hư thiệt!
                                - Có lẽ do linh tính báo sẽ bất ngờ có quà, em thấy vui vẻ, nên móng tay cũng mau dài. Hì.
                                - Trời! Tâm trạng em vui vẻ, mắc mớ gì chuyện móng tay móng chân mau dài và đen thui chớ!
                                - Vậy mới nói.
                                Một cậu nhỏ khoảng bảy tám tuổi tên Hoài liền đẩy Chiến lên phía trước, em xòe hai bàn tay thơm mùi khoai nướng ra:
                                - Chị coi, tụi em giống anh Chiến như rứa cả.
                                - Ồ! Tại sao?
                                - Tụi em không dùng hai bàn tay có móng để bới móc củ khoai, củ sắn từ dưới đất lên, thì lấy chi mà bỏ vô miệng ăn. Chị!

                                Ngạc nhiên sửng sốt và câm miệng nghẹn cứng cổ họng khô lông lốc, tôi không thốt nên lời. Được cha mẹ cưng chiều cho ăn đi học từ lúc còn là đứa trẻ “mầm non” mới dứt bình sữa, đến nay tôi đã là một thiếu nữ, chưa bao giờ mình đụng tay chân làm bất cứ việc nhỏ nhặt nào. Ở nhà khi ăn uống xong, tôi không rửa một cái chén, một cái ly! Tại trường nội trú, đã có bồi bếp làm thay, mình không hề lo lắng gì ngoài việc sung sướng an nhàn “ăn, học, nghỉ ngơi”. Tôi không thể tưởng tượng nỗi trẻ con ở nhà quê sao lại dùng bàn tay bé xíu để bới móc, vất vả làm việc nặng nhọc, mới có cái ăn mỗi ngày! Sao tôi không tìm hiểu cặn kẽ các dữ kiện, chỉ nhìn sự kiện thoáng xảy ra trước mắt, để rồi vội vàng kết luận, trách móc các em nhỏ đáng thương đến thế!? Sao mình có thể mất nhân tính, tỏ ra trịch thượng, ta đây kẻ cả, vì những lời nói cho dù bông đùa, hoặc vô tình một cách thẳng thừng như thế cho đành! Khi mình hiểu ra nguyên cớ, thì thật là… ân hận. Tự trong thâm tâm tôi cảm thấy tổn thương và dày vò đáng hổ thẹn! Tôi ngao ngán thở dài, sực nhớ đến một câu chuyện người xưa:
                                (Ông Khấu Tố dẫn ngựa đi uống nước sông, chẳng may ngựa bị chìm xuống đáy. Khấu Tố ỷ sức mình, liền nhảy xuống sông để chiến đấu với thủy thần. Chẳng may bị chột mất một mắt, ông phải trồi lên bò vô bờ.
                                Yếu Ly bất bình mắng:
                                - Ngươi tự vỗ ngực xưng là dũng sĩ, đánh nhau với thủy thần sao, ngươi đã không dám chết, dẫn xác về với con mắt mù chột, mà không biết nhục, còn hiu hiu tự đắc khoe khoang, là làm sao?
                                Khấu Tố bị mắng, hổ thẹn ra về. Phần Yếu Ly dặn vợ con: “Không đóng cửa”, có ý chờ Khấu Tố đến. Quả nhiên nửa đêm ấy Khấu Tố xông vô phòng chĩa gươm vào cổ Yếu Ly, mà kết tội:
                                - Ngươi có ba tội đáng chết. Một: Làm nhục tao giữa đám đông. Hai: Không biết phòng ngừa lo xa, ngủ không đóng cửa. Ba: Thấy tao vô đây mà không chạy trốn.
                                Yếu Ly bình thản đáp:
                                - Theo ta, ngươi có ba tội hèn hạ mới đáng chết. Một: Ta làm nhục ngươi giữa đám đông, mà chẳng dám nói một lời. Hai: Ngươi lẽn vô nhà ta lén lút không lên tiếng, chỉ như kẻ trộm. Ba: kề gươm vô cổ ta xong, mới dám mở miệng dọa nạt. Thế thì ngươi hơn ta ở chỗ nào?
                                Khấu Tố tưởng mình tài giỏi hơn người, nghe xong lấy làm xấu hổ đã ném gươm xuống đất, mà đập đầu tự sát.)

                                Không ai biết chú Nhàn đã bỏ đi lúc nào. Được em Chiến cho tôi biết mạ của các em vừa có việc qua xóm bên vắng nhà, tôi có chút thất vọng, ngồi chò hỏ xuống bậc thềm, soạn giỏ xách lấy mấy gói kẹo bánh, ít bộ quần áo mới, tôi xoa đầu và đưa cho từng em. Các em ríu rít vui vẻ, hí hửng, khiêm tốn, hiền hậu và ngoan ngoãn đứng chờ đợi tới phiên nhận quà, không chen lấn giành giựt. Tôi lấy một bì thư đựng tiền và nhét trong lưng quần em Chiến, cột dây rút, tôi bảo em hãy cẩn thận cất dấu tiền đâu đó, không làm mất, chờ khi nào mạ về em trao cho mạ.

                                Tuy mình ở lại tiếp xúc với các em không lâu, cha mạ các em đi vắng, mà trong nhà anh em nhỏ biết đùm bọc bảo ban vâng lời nhau, tôi thấy các em nhỏ dễ mến ngoan hiền, mặt mày em nào em nấy sáng sủa dễ thương lắm. Thương quý các em, nhưng không dám ngồi lâu, vì tôi sợ trời tối nhất là lần đầu tiên tới làng nầy, tôi sợ sẽ lạc đường. Chẳng biết làm thế nào cho phải phép hơn, chỉ sợ mình mủi lòng mau nước mắt khóc òa trước bọn trẻ. Tôi nghẹn ngào lý nhí nói lời chia tay, các em ngẩn ngơ đứng bên nhau nhìn tôi đăm đăm rồi oà khóc. Tôi nghẹn ngào cũng khóc và lủi thủi đi về! Vừa đi qua khỏi cánh đồng khô mông quạnh rất xa xóm Sen, nhìn lại ngôi nhà tranh đã lẫn khuất dưới hàng tre, thì cơn mưa bỗng chốc ùn ùn ào ào ập đến, tôi không thể chạy đi chỗ nào trốn đụt mưa, nên cứ thế đội mưa và sấm sét mà đi. Lòng tôi rất buồn, sợ hãi và thương các em nhỏ vô cùng, khi nghĩ tới mái nhà xiêu vẹo và ọ ẹp, nơi có sáu bảy người đang quanh năm đói khát và trốn dột, khiến tim tôi co thắt lại từng cơn đau điếng, một nỗi buồn vu vơ mà sâu thẳm đang dày vò đầy uất nghẹn về kiếp người dâng lên làm tôi nghẹn ngào.
                                Kể từ ngày gặp các em lần đầu tiên đó, và có thể là chưa có thêm lần sau, cho đến tận bây giờ tôi không còn cơ duyên gặp lại các em nhỏ ấy nữa. Sau muà hè tôi lại trở về Đà Lạt, các em nhỏ, gió bão và cây cầu khỉ… đến một lúc nào đó sẽ cuốn trôi hết mọi ý niệm về không gian, thời gian, cuộc sống. Nhưng tình cảm chị dành cho các em mãi mãi không tàn phai.
                                ***
                                Cho đến sáu năm sau, kể từ ngày run rẩy lo sợ bò bò trên cây cầu khỉ đầy mưa gió và sấm sét... tôi sửng sốt kinh ngạc và rất vui mừng khi nhận ra em Hoa tóc quăn ngoan hiền dễ mến dạo nọ, và Liên (bạn của Hoa) hai cô gái đẹp dịu dàng đoan trang đang ngồi trong phòng khách nhà tôi ở Đà Lạt. Hai chị em dường như không hẹn mà đồng loạt mừng rỡ hét to, cùng xộc tới ôm chầm lấy nhau, hôn chùn chụt, mắt mờ lệ vừa khóc vừa cười, cả hai người lôi nhau vô phòng riêng tíu tít rôm rả chuyện trò huyên thuyên. Một lúc sau Hoa lật đật chạy ra phòng khách lấy bóp móc xấp tiền để biếu ôn mệ (ba má cuả tôi). Hoa soạn ra nhiều vải vóc em đã mua tặng: các anh, chị. Riêng anh Dzoãn, Hoa tặng một cái cassette màu đỏ nhỏ xíu bằng hộp bánh bít quy, loại máy thu có cuộn băng nhựa ở hai đầu, lúc nầy ở Việt Nam đang thịnh hành, và là sản phẩm Mỹ quý hiếm vừa nhập vô Việt Nam.

                                Cả nhà tôi cùng hai em Hoa, Liên, quây quần bên mâm cơm nóng sốt, ngon lành. Không ai nhìn vào Hoa, Liên, mà biết họ có một thời hèn mọn xa xưa. Họ diện nhiều bộ áo quần đẹp rất sang, sành điệu. Tiền bạc em tôi chi tiêu đúng nơi vừa chỗ. Đời em tôi đau khổ quá. Năm 1966, em chính thức từ bỏ tên Chắt, đổi tên Hoa thành tên: Trương Thị Thu Huyền. Em đã xin vô làm thư ký đánh máy tại Bộ Tư Lệnh của Thuỷ Quân Lục Chiến "3rd Maf Marine Co Head Quarters" trực thuộc Sư Đoàn 2 ở Đà Nẵng.

                                Em lên Đà Lạt trước là thăm ôn mẹ, các anh chị, các cháu, sau là em hỏi ý kiến ôn mệ, anh, chị về việc em xin phép xuất ngoại đi Mỹ, em lên đường biệt xứ để lấy chồng. Có lần ngồi trên đồi cù Hoa đã nói với chị:
                                - Chị ơi! Em ít khi tin vào duyên số, nhưng có lẽ bây giờ em đành chấp nhận, chịu thua. Chị à.
                                - Ừa. Chắc là em không muốn:
                                Còn duyên đỏng đảnh lấy chồng.
                                Hết duyên ngồi gốc cây hồng nhặt hoa
                                Hoặc là: Còn duyên kẻ đón người đưa
                                Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng. Đời người con gái chỉ “xôn xao” có một thời xuân trẻ. Hạnh phúc không chỉ tạo ra ở một phía, nếu mình cảm thấy con đường nầy chưa hẳn không có hạnh phúc, thì Hoa sẽ không đi, bởi vì hạnh phúc chưa hẳn do người khác đem lại, mà do cả hai quyết định ân cần tìm về. Đi là xa, là cách biệt nghìn trùng, biết khi nào gặp lại? Hay chẳng bao giờ! Nhưng em đi là phải Hoa ơi. Nước Mỹ là vùng đất phì nhiêu, đầy mỏ vàng và kim cương, không dễ gì có người được diễm phúc hân hoan ung dung ra đi từ nước nhược tiểu, mà người ấy không có trình độ học vấn, không có “vai vế” hoặc giàu có đâu. Cũng có gia đình cho dù giàu xụ, chưa chắc con của họ có đủ điều kiện khi đứa con ấy không học hành ưu tú, nếu cha mẹ giàu không lo lót chạy chọt cho con được du học, để hội nhập vào một xã hội thượng thặng nhất thế giới. Xin cho em giữ mãi niềm vui nha em.
                                - Dạ vâng.
                                Bây chừ em đang ở bên chị, tâm hồn Hoa lâng lâng khó tả, thì giờ hạn hẹp ngắn ngủi, mà tình cảm quá bao la, những giây phút bên cạnh chị, Hoa nghĩ em là bé Hoa chín mười tuổi thôi. Rồi Hoa chợt buồn trong giây lát, vì đời ngắn quá, mà kỷ niệm đong đầy, dài lê thê đương luẩn quẩn đâu đây. Hoa úp mặt vô cánh tay chị, ngậm ngùi nói:
                                - Nếu ra phố, chị thấy đứa bé nào trạc tuổi như em thuở nọ, chị chỉ cho em thấy: ngày ấy em ra sao, mà được ôn mệ, chị, anh Dzoãn, và cả nhà thương em như vậy nghen. Chứ một đứa nhỏ tôi tớ ở đợ tầm thường như em, thì làm sao được diễm phúc thế hở chị?

                                Cũng trong đêm Noel đầy thi vị ấy, nằm bên cạnh chị như ngày xưa còn ở Mỹ Chánh, Hoa mơ thấy sợi dây chuyền có cây thánh giá nơi cổ em rớt xuống trên đồi sim, nơi mà ngày ấy chị vẫy tay chào em, để chị lên xe vào Đà Lạt đi học. Trong cơn mơ Hoa cúi xuống nhặt sợi dây chuyền lên, Hoa tần ngần đứng nhìn xuống căn nhà của ôn mệ đã ở xưa kia, thì Hoa không thấy nhà cửa chi hết, mà chỉ thấy đồi cỏ tranh xào xạc reo trong gió sớm, có ánh bình minh rực rỡ xuyên qua từng hàng dừa, hàng cau đan quyện vào nhau, ánh sáng đầu ngày rọi xuống khu rừng núi xanh biếc, có dòng suối lóng lánh đang duỗi mình trên nương khoai, cảnh vườm ươm cây đẹp mờ mờ ảo ảo như một bức tranh địa đàng. Sáng ra vừa thức dậy, nghe Hoa kể chuyện em mơ. Chị nói:
                                - Tuy ôn mệ đau khổ đời nầy, (vác tháng giá) nhưng lương thiện và đầy ắp tình người, thì đời sau sẽ được về Thiên Đàng. Em cũng sẽ như vậy thôi.
                                Điều nầy không làm Hoa ngạc nhiên, Hoa biết chắc chắn đúng, vì ông mệ ở trong con bao giờ cũng như vị thánh. Hai cô bé Thu Huyền Hoa và Liên từ giã đại gia đình tôi, họ lên máy bay từ phi trường Liên Khương (Đà Lạt) trở về Đà Nẵng. Thân nhỏ nhắn trẻ trung xinh đẹp mảnh mai và chính chắn trước tuổi, em ấy mang trọng trách nặng trĩu trên vai oằn xuống, run rẩy từng bước thấp, bước cao, bước dài bước ngắn... để ra đi làm lụng vất vả bất cứ làm công việc gì, ngỏ hầu có tiền phụ trợ cha mạ nuôi đàn em nhỏ. Nhưng em Hoa đầy uy quyền, chững chạc, để có thể quyết định vận mệnh đời em, khiến tim tôi lỗi nhịp liên hồi rung vang âm vọng bồi hồi thấp cao, xen lẫn mến phục và bối rối triền miên.
                                ***

                                Tình Hoài Hương
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-24-2018, 12:58 AM. Lý do: Si~ Phú hat per AUU request
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X