Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #91
    MẸ Dấu Yêu của Con



    MẸ Dấu Yêu của Con
    Chúng con đau đớn kính gửi ba mẹ đóa hoa hồng trắng.
    Tình Hoài Hương

    ***

    Tôi cố gắng giằng co, níu kéo, quyết giành lại chiếc áo gấm sờn nhàu nát cũ mèm với định mệnh. Dù thời gian dài dằng dặc lặng lẽ đơn điệu dần dần trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa mục nát ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai mù xa tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Không ai có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run tôi cài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng-dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm. Nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.

    Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo gãy khúc uốn lên uốn xuống, quanh co ven đồi thông rì rào ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì, bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, là cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, lí lắc ghé ghé nghiêng nghiêng đầu thẹn thùng e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt nhè nhẹ vào một bên má, mà lêu lêu Luật, để trêu chọc anh, rồi cài hộ Luật mấy nút áo, cho anh bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể.

    Giờ nầy, Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị tập trung đi “cải tạo” trong tù rồi! Chồng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng, muộn phiền giữa chợ đời sóng sánh muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn, những tủi hổ tiếc xót vô vàn, và những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu.

    Ngày bị vào tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét (veston) nầy lại, trên chiếc áo vét đã dính hai ba sợi tóc đen mướt khá dài cuả tôi, và một hai sợi tóc ngắn cuả chàng, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do anh viết dày cui, còn trang trọng cất trong túi áo. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu.

    Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng thiêng liêng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết đậm đà khắc sâu vào tim rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió… chiếc áo của anh đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian, cùng năm ba sợi tóc cuả hai chúng tôi vẫn bóng mướt đen tuyền vẫn duyên tình mãi đến tận bây giờ.

    Tôi nâng niu giữ gìn những sợi tóc, phong thư, cùng tấm áo từ hồi chưa cưới nhau. Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: Phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vào gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Mỗi khi chạm trán với thực tế bẽ bàng đắng cay, trong lòng ngút ngàn đau thương, lúc đó tôi lặng lẽ vuốt từng nếp nhăn trên tấm áo, và trang trọng nâng mấy sợi tóc trên hai bàn tay khẽ khàng khum khum bụm lại. Tôi sợ gió từ đâu vô tình lướt qua, tóc sẽ cuốn theo chiều gió bay mất hút, thì biết đâu mà tìm?

    Đó là những kỷ vật ưu ái đã theo tôi trên muôn dặm đường đời cay cực, để xoa dịu nỗi hãi hùng và bàng hoàng rất kinh ngạc trong cuộc đời phù du. Tôi ấp ủ tình luyến nhớ, thút thít, bùi ngùi khi soi bóng mình trong gương, cảm thấy lòng nao nao nỗi buồn da diết. Vì đến nay tôi chẳng thể giữ lại kỷ niệm nào thân thiết nhất về anh, khi mái tóc mình thấp thoáng những sợi tóc bạc quyện-bện cùng bao sợi tóc chẳng còn đen mướt? ngoài mấy di vật bé tí ti như đã kể. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực run rẩy dâng tràn!? Không thể chối quanh từ sau ngày mất nước, thì lòng trí tôi luôn ray rứt, thương-xót hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời xáo trộn, trái tim tôi vẫn đập thình thịch và chao đảo.

    Nay tôi đang mặc chiếc áo cũ của chồng, mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình, buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, run lẩy bẩy, tôi không làm sao cài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Thì ra… giờ đây tôi quá yếu kém và đã già! Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình, xếp lớp lớp trên kệ sách, ít khi được mở ra xem đã phủ lăn tăn bụi vàng. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua quyển mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi.

    Như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa thu. Như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi. Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi. Sau ngày “đổi đời”, tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường, dù bụng đói cồn cào, để vượt qua mọi chông gai thử thách, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
    ***

    Tôi vô cùng nhớ Mẹ thân yêu, dù đa đoan với công việc bề bộn, tôi cũng cố tìm giấy bút để nặn lên vần thơ về Mẹ:
    Mẹ tôi mắt phượng mày ngài
    Vai ngang dáng nhỏ tóc dài chấm chân
    Cười xinh chúm chím hạt huyền
    Không hề quản ngại thuyền quyên một thời

    Sớm khuya nắng gió cuộc đời
    Bán buôn tất bật (thảnh thơi bao giờ)!
    Rảnh rang chằm nón bài thơ
    Vá may quần áo, mẹ thờ song thân.

    Nhiều khi mẹ đã ân cần
    Viếng thăm người bệnh, bạn gần xóm xa
    Chia cơm xẻ áo nhiều nhà
    Những chiều tần tảo vào ra mẹ cười

    Nhẹ nhàng gánh thúng hoa tươi
    Luyến lưu mẹ nói: “Xin mời mua hoa”
    Kẻ trên người trước dần dà
    Trao tình quý mến. Thiết tha mẹ hiền.

    Mẹ tôi là một bà tiên
    Gia đình đầm ấm đoàn viên một nhà
    Ngọt ngào Con Cháu Mẹ Cha.
    Niềm vui hạnh phúc bao la tình nồng.


    Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In (khu đất thuộc cuối vùng Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối, nơi khốn cùng của vùng “kinh tế mới” khô cằn toàn sỏi đá. Chỉ nhiều rắn, rết; vô số muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng. Chúng chuyên bu bám vào người ốm để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn vào cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước, mà lăn ra chết toi.

    Cầm tờ điện tín, tôi lặng người rất lâu, không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động tuôn chảy từng dòng rồi dội ngược vào tim mình quằn quại đau điếng. Hình như tôi nghẹt thở, chết dần chết mòn, không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò, ân hận, đớn đau dâng lên tột đỉnh.

    Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng còn chiếc xe hơi riêng mới toanh mang hiệu Peugeot 404 chạy đi... Hay là tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ, tôi qùy xuống bên mép giường, cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối. Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ phút mẹ lâm chung. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát, mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé xe từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ hơn 300 cây số.

    Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than mà tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, bồn chồn lo âu, sụt sùi, băn khoăn, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng:

    Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại ở quê (tức ông bà cố ngoại của con tôi. Làng ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế, phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế).

    Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược.

    Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con mười mạng nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng. Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con. Đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn mẹ, và người thân. Đó là việc vặt trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói là hầu như suốt cuộc đời mẹ, chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi, ngưng nghỉ tay chân. Cái số mẹ cực thân đến thế mà! Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng. Mẹ dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút, rồi quên ngay.

    Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm. Mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn, ra tiền mới sau ngày mất nước 75, thì mẹ giống thầy bói mù sờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường. Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa villa, biệt thự tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen nhỏ như cái chén kiểu, nhưng khá nặng, và rất có giá trị, chiếc bình vôi nầy có mấy tiệm vàng như Kim Khánh hoặc Kim Ngọc trả giá 5 cây vàng bốn số 9, nhưng gia đình chẳng ai chịu cho mẹ bán! Thân bình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách đồng xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ khéo léo lấy cây chìa vôi têm vào mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao, còn lỗ miệng bình vôi thì teo tóp dần nhỏ xíu; trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
    - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó mới loe ra dị hợm kinh khủng nè.

    Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng buông thỏng hai từ bỏ hết. Kể cả chồng, con, cháu, chắt, dấu yêu. Mẹ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi âm thầm, mẹ về bên kia cuộc sống mới.
    Bà chị dâu của tôi đã kể lại rằng:

    Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con, cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, lất phất từng đợt mưa phùn, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng rất xa, xa ghê lắm; để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa (xa xôi khoảng hơn hai mươi cây số); anh chạy đi vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị vợ loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường không động đậy nhúc nhích. Chị (chị dâu) thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm.

    Nhà anh chị quá nghèo, sau 30/4 anh đi tù 5 năm, vừa được tha về, khi cả nhà bị đi kinh tế mới. Họ chỉ có mấy nhúm quần áo tẻo teo, vài bao bố: son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi chùng chập, vượt đồi trùng điệp. Chồng đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế như ri.

    Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, và mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bằng bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền.
    Chị e dè hỏi thăm:
    - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
    Chị Ngọ không thấy mẹ trả lời, chị liền cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vào cánh tay mẹ:
    - Mệ ơi! Con nấu cháo cho mệ ăn nghen.

    Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục, dường như đã bất thần ra, mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
    - Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
    - Dạ. Mệ đau, không ăn được măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con chạy ra chợ xép, mua chút gạo, con về nấu xí cháo.
    - Có gạo là mừng hì.
    - Mệ ráng chờ nghe. Chợ hơi xa. Con sẽ đi về ngay, nấu mau lắm.
    - Thôi con. Để dành gạo nấu… cho thằng Cu Nâu… có chút nước hồ mà uống, thay cho sữa mẹ không có… Con à.
    - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.

    Thế rồi, mẹ tôi ư hữ… ú ớ… mệt nhọc rên khe khẽ, mẹ lại lừ đừ, khó khăn mệt nhọc khi quay mặt vào trong vách. Hơn giờ sau, khi chị dâu bưng chén cháo tới gần giường mẹ. Mẹ mỉm nụ cười méo mó, từ từ nhắm mắt, và dần dần lịm thiếp vào giấc ngủ nghìn thu êm đềm không muộn phiền. Chị không hề nghe tiếng mẹ thở, tiếng nấc, chị cứ ngỡ là mẹ mệt muốn ngủ chút xíu như mọi ngày. Mẹ đã đói khát thiếu thốn năm năm rồi, và trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành lòng ăn chén cháo trắng lỏng bỏng với tí muối hột.

    Nay mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi, ngỏ hầu trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo phiền muộn vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề. Ôi Mẹ! Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi qúy báu cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ êm ái ra đi đúng vào ngày Tết Đoan Ngọ.

    Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xa xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, vân vân... Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà thăm cha mẹ. Cha mẹ con cháu hân hoan sum họp gia đình vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
    - Các con, cháu, ăn bánh tro, ăn cơm rượu, uống chút nước cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.

    Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ đã cùng nhau đến nhà anh chị Dzoãn, tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn để nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ chưa đành-đoạn bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Chiếc áo gấm xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất của đời con gái, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu. Nay thì những người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm (của ba đã ưu ái trao tặng mẹ). Họ đặt xâu tràng hạt Mân Côi vào bàn tay mẹ lạnh giá, và họ nhớ để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ thơm mủ ngo ra bên ngoài toàn thân mẹ.

    Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ hèn mọn thơm lựng mùi nhựa mới. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời lặng lẽ. Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người cho đến trong nhà tranh lụp xụp đìu hiu chật chội nầy.

    Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình. Họ nghỉ đi rừng ngày hôm ấy, không đi rẫy, nghỉ đi làm dù một ngày, là họ nhịn đói nhịn khát và có thể càng thêm đau ốm xanh xao. Họ cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, đi trên núi cao chót vót và đơn điệu, nơi đây chỉ toàn sỏi đá và gió lồng lộng hú rít, thổi đám bông lau xoay xoay trắng cả lòng quê, và từng cơn gió kéo dài lê thê lạnh thấu xương.

    Mẹ tôi nằm xuống, vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, đơn điệu chơ vơ với cây thánh giá gỗ lắc lư theo gió rì rào. Tấm bia mộ gỗ đơn sơ ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn: Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85 t. Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn lại lủi thủi buồn xo trở về lối cũ, trên con đường đất đỏ gồ ghề, nơi mẹ đã nhờ người sống thút thít ngáp ngáp mang mẹ đi qua. Khi tôi có thể đến với mẹ… thì nấm mồ mẹ đã lút cỏ xanh. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ.
    ***

    Thời gian lật đật buồn bã chán chường qua đi, tôi tất bật, bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình vẫn không đủ sống, nghĩa là thường xuyên đói khát cơ cực. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, bàn chỉ có ba chân rung rinh như răng rụng. Còn một góc bàn thì kê tấm táp lô sứt mẻ, để thay thế một chân bàn què.

    Bà Nga hàng xóm là người thân cận nhất bây giờ đã nói:
    - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy giờ nầy trời đang mưa xối xả, nhà thì dột và rách nát như ổ chuột. Ơ! cô lại bắt mẹ mặc áo gấm lội nước lụt, trong nhà y như cái ao. Cô làm gì có bàn ghế cho mẹ ngồi chò hỏ chơi, xơi cơm độn với nước. Mẹ cô chưa kịp về ăn chút xí, thì bầy ruồi ốm đói trốn mưa đã trúng mánh, bu lên mấy dĩa thức ăn tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!

    Bà Nga chẳng ngại mất lòng, líu lo nói huyên thuyên, và cười sảng khoái. Tôi lắng nghe mãi, mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà ông vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù “cải tạo”. Giọt khóc bầy con lút chút lù đù, vất vưỡng long đong cơ cực ở vòng ngoài, (tù trong và tù ngoài xêm xêm như nhau, có khác chi, như cá mè một lứa). Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lầm than khốn cùng.

    Khổ đến nỗi tôi không thể đào đâu ra tiền, chẳng có cắt bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, không hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua bột về làm bánh cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm: thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về trong hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tơ rung quá mong manh, tơ trời nhẹ tênh thiêng liêng kia đang run bần bật giữa lưng trời mưa trắng. Niềm ước mong nối liền tình yêu thương ngút ngàn giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa trong khói hương.

    Một kỷ niệm bất ngờ về những cơn mưa không sao giải thích nỗi, tâm trí tôi vụt quay về dĩ vãng xa lắc xa lơ: có một thuở nào hình như xa xôi, xa xa lắm… gia đình ba mẹ tôi đang từ trên đỉnh cao sung túc, phù vinh, giàu sang… bỗng rớt tụt xuống vực thẳm, vì ba tôi làm chủ nhà máy cưa cây, bị nó hại cho khánh tận, đã khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt thật" mà! Bao nhiêu tiền ba làm thầy thuốc đỗ vô cây cối, cũng như nước đỗ lá khoai. Hồi ấy có màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm, rất bé thơ tôi đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vào cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuống tấm kính mờ đục, tôi háo hức chờ đợi mẹ về nhà.
    “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa.
    Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”
    (cd).

    Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá cũ ướt nhẹp, toàn thân mẹ dầm dề nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong đang kẽo kẹt trên vai mẹ, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng. Mẹ đã đấu thầu được cơm thừa canh cặn từ ngoài mấy đồn lính, tự mẹ đến gánh về: Một thùng rất sạch đậy kín đựng cơm nóng, có mấy ngăn cào mên đựng thức ăn, còn nguyên trong chảo, (mà chú quản đội vừa múc ra cho mẹ, chưa có người ăn, thì để cả nhà tôi ăn buổi tối). Thùng kia đủ thứ hỗn tạp, là nuôi bầy heo vài chục con. Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ thường dúi cho tôi khi thì vài cái bánh ngọt, khi có miếng chocolate, hay trái chuối, trái bắp. Tôi thèm ăn nhất là lát bánh mì cứng hấp trong nồi nước sôi, bánh mì nóng mà chắm với nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, tôi ngấu nghiến ăn cảm thấy ngon hết sẫy.
    Thương con tần tảo sớm hôm.
    Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn”.
    (cd)

    Một lần kia, mẹ kêu chủ thầu các trường học nội trú trong địa phương đến nhà, mẹ bán mão bầy heo thịt. Mẹ và các con cháu trong nhà dẫn bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng nuôi heo, cách xa nhà bốn mươi mét. Ngả giá xong xuôi, phu cai trói bầy heo cho vào rọ, họ khiêng những rọ heo lên trên đường cái, và vất vào ba chiếc xe ngựa. Bà đầm cầm cái áo veste của bà (đã máng vào càng xe ngựa đậu trên đường cái), bà ta móc túi lấy tiền, thì đồng tiền không cánh mà bay?! Bà đầm tri hô mất ba trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà ta quyết một quyết hai bảo là:
    “Người trong nhà nầy đã ăn cắp”. (!!?)

    Bà ta tri hô lên làm hung dữ, bà kêu lính hộ tống chạy đi gọi hiến binh, phú lít tới. Hiến binh không cần biết luật lệ phải trái, không cần biết bà ta có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, để bên lề đường cái; hay không?! Họ còng tay mẹ tôi và xô dụi mẹ lên chiếc xe ngựa. Mẹ nằm với mấy chục con heo kêu la rần trời. Mặc kệ gia đình tôi kêu khóc, phản đối inh ỏi. Chúng hăm doạ:
    - Nếu lộn xộn làm mất an ninh, sẽ bị bắt - nhốt hết cả đám.

    Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại chạy như bay. Họ tống giam mẹ vào nhà lao. Hơn nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra. Mẹ về như cái xác không hồn, trông mẹ quá tiều tụy thảm thương. Ba tôi, con cháu xúm xít ngồi chung quanh mẹ, lo lắng hỏi thăm. Mẹ im lặng mà rấm rức khóc sưng húp mắt. Mãi lâu mẹ hổn hển kể lại: Suốt bao ngày mẹ bị nhốt, chúng cho mẹ ăn ngày một bữa nửa chén cơm khô, với ít muối hột. Đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng độc ác tra khảo, chích điện vào người bắt mẹ phải nhận tội, dù mẹ không hề làm.

    Mỗi lần mẹ bị bọn tà lọt gian ác tra điện, thì mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra ướt dầm thân thể mẹ. Mẹ không thể nén mồ hôi hột lạnh toát, không thể nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, mẹ đau đến ngất xỉu, thì chúng lôi chân mẹ kéo xềnh xệt về phòng giam trống không giường chiếu. Chúng tạt nước lạnh cho mẹ tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, máu đầu. Mẹ run rẩy, mặt mày xây xát, sưng húp, bầm tím. Mẹ thật chịu oan ức tột cùng, mà tiền mất tật mang. Suốt từ đó đến nay mẹ luôn luôn sợ hãi và yếu hẳn người. Mẹ bị đau tim và thường xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng. Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài hổ sói, người dân thấp cổ hé họng chỉ câm miệng cúi đầu, điếng lặng cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé than van. Vậy đó, mẹ chịu đủ mọi oan ức, khổ sở cay đắng nhọc nhằn, tủi cực trăm bề, để lo nuôi dạy đàn con nên người.

    Một lần kia, sau thời gian bị tra khảo đánh đập tù đày oan đó khá xa, mẹ vẫn lặn lội đi gánh nước cơm về nhà, mẹ đã thay bộ áo quần ướt sủng nước mưa. Mẹ ngồi bên bếp lò giơ đôi bàn tay nhăn nheo sạm nắng chai cứng, tóp teo vì thấm lạnh ra, để sưởi ấm. Mẹ âu yếm nhìn tôi ngồi kế bên bỏm bẻm ngấu nghiến nhai bánh mì. Bỗng mẹ nhìn tôi sửng sốt, lạnh lùng hỏi:
    - Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa?
    - Dạ... Của con... con... l..a...
    - Mẹ đã nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua cho con quần áo, dép guốc cho con đi học. Mẹ biết con mau lớn, giày dép cũ con mang không vừa, mà đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răn con dám cả gan, đi ăn cắp, của ai rứa?

    Tôi cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới mang vừa vặn ở chân mình. Đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, có hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Tôi thấy nó quyến rũ, ước ao vô vàn từ lâu. Khi chị Tư sai tôi vào quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Thừa lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, tôi lấm lét ngó trước nhìn sau, rồi vội thò tay chộp đôi guốc kẹp chặt vào nách, (đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng). Trống ngực tôi đánh rất mạnh, mặt mày tái mét, tôi run như cầy sấy, tôi liền lẽn ra và co giò chạy. Vừa chạy tôi vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, là bà chị dâu của tôi, chị ấy không biết gì hơn, ngoài việc chị thu nhiều tiền đầy nhóc vào tủ sắt.

    Mẹ già nua trước tháng năm đang gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc - và khóc. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ. Mẹ khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì mẹ chưa mua nỗi đôi guốc cho con, (chỉ đáng vài xu trong khi tiền ba tôi làm chủ trại cưa cây, thì bạc trăm, bạc ngàn, kể như ba đỗ xuống biển. Và, tiền bán hai chục con heo, mẹ bị bọn chúng trấn lột hết). Trong đêm trường thanh vắng, khuya lắc khuya lơ, tôi nghe rất khẽ nhưng rõ ràng tiếng mẹ đọc kinh cầu nguyện đều đều. Thỉnh thoảng kèm theo vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời mẹ nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe.

    Tối hôm đó mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt, để may áo cho tôi mặc ấm. Chiếc áo ấm gồm ba lớp: lớp nhung ở ngoài, mẹ bọc thêm một lớp gòn rất mịn ở giữa, và may chằn thêm một lớp lụa sa tanh mới lót ở bên trong. Tôi leo lên giường từ lâu, trằn trọc mãi không làm sao ngủ được, tôi rất sợ và lo âu, không dám nhúc nhích. Tôi cứ mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, mẹ lê đôi dép lẹp xẹp lần mò từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ mờ.

    Mẹ vặn ngọn đèn dầu hột vịt thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ của mọi người. Trong bóng tối, tôi hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm theo tiếng thở dài. Tôi nằm im giả vờ ngủ say. Bàn tay mẹ lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con. Mẹ đặt đầu tôi nằm ngay ngắn trên gối mỏng. Mẹ kéo hai chân tôi thẳng ra, và đắp mềm lên tận cổ tôi. Mẹ ôm tôi vào lòng và hôn lên mái tóc tôi khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu tôi.
    Nuôi con chẳng quản chi thân.
    Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”.
    (cd)

    Thì ra mẹ đã khóc. Khóc âm thầm lặng lẽ trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò đơn độc ra tay chống chèo trên dòng nước ngược đầy sóng gió, khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vào mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm và câm lặng dai dẵng; miễn sao cho con, cháu, bình yên, no ấm. Mẹ là một trong vạn triệu người Mẹ Việt Nam tần tảo, phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao suốt đời mình. Bốn tuần sau, mẹ bán bầy heo thịt khác. Ba tôi vượt núi băng rừng khổ cực trăm bề làm cúp cây, nay đã hoàn toàn ổn định. Gia đình chúng tôi lại bắt đầu khá giả, vinh sang hơn năm cũ. Nhờ mẹ tôi quáng xuyến, đảm đang, siêng năng, tháo vát. Ba tôi giàu kinh nghiệm và liêm chính đàng hoàng trong việc làm chủ trại cưa, nên ít lâu sau gia đình tôi thoát khỏi cảnh bần hàn.

    Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa nhiều, rất nhiều, thì vết thương đầu tiên về bài học giáo dục đạo đức trong lòng mẹ và con, hẳn không có cách gì lấp đầy, phôi pha được. Kể từ ngày xa xưa đó, mỗi khi tôi có ý muốn lấy cắp cái gì của ai, thì hình ảnh mẹ tôi ngồi bó gối bên bếp than hồng; nước mắt mẹ chảy ướt thấm vào da đầu tôi, vẫn hiện lên rõ nét. Khiến tôi quắt quay và lặng người, vì hối hận không hề dám tái phạm. Đó là nốt “nghịch phách” đầu tiên trong đời vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì nay tôi được chìm trong dòng sông đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình êm ấm của tôi ở buổi thiếu thời kia, để tôi có thể nói thật nhỏ:
    - Mẹ ơi! Cho con xin lỗi.

    Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy và biết nói câu nầy, thì tôi sẽ sống lại và chỗi dậy trong tâm tư tôi cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao! Và, bây giờ tôi biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần. Người đàn bà còn quá trẻ bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ, xót xa đắng cay khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa, cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay, hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Sự trầm uất nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.

    Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, và chính gia đình nhỏ cuả tôi từng lả lướt, rộn ràng líu lo ca hát trên đại lộ mỗi độ hoàng hôn… Ngày nay mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lọt tọt, líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô nứt nẻ run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời còn mấp máy và thút thít, như nghiến chặt hai hàm răng, nghiền nát hiện-tại rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng.

    Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn sần sùi nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy tong teo bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển.

    Trời bao la xanh xanh trong trong, không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây xám giăng mắc!? Giống như những sợi tơ tóc ngày xưa đen tuyền óng ả quyện cùng chùm tóc bạc trước thời gian đã phủ khắp nẽo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng tượng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng là tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh. Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt, chơi khăm chúng tôi trắng tay –và đểu giả lật ngửa quân bài ra– Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!
    _ * _

    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-14-2017, 01:51 AM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • #92
      Mẹ Thương Yêu Con Cháu Biết Ngần Nào



      Mẹ Thương Yêu Con Cháu Biết Ngần Nào
      (May-11: Happy Mother's Day)

      Trăng sáng và xa xôi chiếu lung linh xuống vạn vật mờ nhòa dưới lớp sương mỏng, như dải lụa đang vật vờ bay bay. Một dải mây hoe vàng xuyên qua lớp mây trắng xôm xốp lấp lánh ngoài ô cửa kính, trải ánh sáng bạc thành một con đường dài, rồi cắt khúc ngang ở tòa nhà lớn trên đồi dốc. Tiếng côn trùng râm ran ngân nga bản hoà tấu không nhịp nhàng âm điệu, bỗng chốc im bặt, rồi lại rè rè diệu vợi vang xa, khiến đêm khuya càng thêm mịt mùng, thăm thẳm...

      Rất yếu tim và lo sợ, nhưng mẹ vẫn xin bác sĩ Phán và cô y tá cho phép mẹ đứng trên đầu giường tôi. Mẹ lâm râm đọc kinh, đôi mắt mẹ như lạc thần nhìn chằm chằm vào mặt con. Tiếng mẹ cầu nguyện nho nhỏ thành lời rên thống thiết van xin chí tình. Hai bên thái dương mẹ ướt đẫm mồ hôi, miệng há hốc mẹ bàng hoàng nắm chặt lấy bàn tay tôi, như tiếp thêm sức mạnh. Có mẹ ở bên cạnh, tôi xiết đỗi yên tâm và bình an.

      Khi thằng “cu tí” chào đời, mẹ chảy nước mắt mà hoan hỉ reo mừng. Mẹ thở phào như chính mẹ trút được cơn đau tột cùng sau cơn vượt cạn. Mẹ muốn san sẻ tất cả đớn đau, cũng như niềm vui mừng khôn tả xiết với tôi. Ôi thế mới biết tình mẹ thương yêu con biết ngần nào! Còn thằng bé tí hon nhà tôi thì thuộc hạng rất ư khó chịu, con hay khóc nhè quá, đái dầm ướt đít, hay đi ị ra tã lót xí, thì cu cậu ngọ ngọe và la làng, hai mắt nhắm tít mà khóc thật to! Thấy cháu quấy thì bà ngoại lo sợ con không ngủ được, bà ngoại vội bế cháu ngồi nơi góc mùng, ru hời ru hỡi trong vòng tay già cho con gái thiêm thiếp giây lát. Mẹ dỗ dành tôi như đứa trẻ lên năm:
      - Con ăn hết dĩa thịt nạc kho tiêu, uống canh xúp ni đi.
      Hoặc là:
      - Mẹ thấy con không ngủ được. Phải ráng ngủ đi.
      - Dạ… Dạ.

      Mẹ thuê phòng hạng đặc biệt trong viện của bác sĩ Phán cho tôi nằm. Dù bệnh viện tư nhân đã có chương trình lo cho sản phụ, nhưng me chu đáo mua gạo thơm, kho thịt nạc, kho giò lụa, làm chà bông. Suốt mười ngày: sáng sáng khoảng năm giờ là mẹ lò mò dậy, tự tay mẹ nấu cơm, kèm một chén canh đổi món mỗi ngày. Mẹ vui khi thấy tôi ăn ngon miệng, âu sầu khi tôi non kém bữa. Mẹ lo lắng chu toàn từng ly từng tí. Khi tôi ăn uống xong, mẹ bưng chén bát đi ra góc phòng rửa lách cách, sạch trơn, rồi mẹ úp lên và lên sóng chén đàng hoàng. Dù tiếng nước và tô chén va chạm nhau vang nhè nhẹ, nhưng mẹ vẫn quay lại nhìn con, cháu, mẹ sợ chúng tôi mất ngủ! Mẹ loay hoay đi giặt giũ phơi phong áo quần tã lót. Thỉnh thoảng mẹ ngồi trên bộ ván, ngoáy trầu trong cối đồng nhỏ xíu. Móm mém vừa nhai trầu, mẹ vừa xếp cẩn thận áo ra áo, tả lót đúng chiều vuốt thẳng nếp. Khiến bà vợ ông bác sĩ phải khen:
      - Bà cụ lo cho con gái út chu đáo lạ!
      Không biết trả lời sao cho khỏi mất lòng bác sĩ, vốn dĩ là chỗ thân tình, mẹ cười hiền hậu.

      Thoạt tiên tôi len lén mở mắt nhìn mẹ say sưa, thấy mẹ ngẩng nhìn về phía tôi, tôi vờ nhắm mắt lại, sợ đôi mắt mình sẽ tiết lộ những ý nghĩ thầm kín. Mẹ nói lẩm bẩm một mình về sự tôi xanh xao gầy ốm. Mẹ đến bên giường, lấy khăn đuổi con ruồi đậu ở mũi cháu. Tay tôi đang gác trên trán, mẹ nhẹ nhàng cầm tay con, đặt xuống nệm. Tưởng con và cháu đã ngủ say, mẹ tôi mỉm cười, nụ cười mẹ dịu hiền làm nhạt nếp nhăn trên khuôn mặt nhân hậu. Mẹ cúi sát xem tôi có ngủ không? Hơi thở mẹ thoảng qua, gây lên cảm giác đầm ấm, thân thiết, trìu mến, ngọt ngào yêu thương, dễ chịu dường bao! giống như hơi nồng từ trái tim mẹ toả ra sức ấm, chứ không phải do mền nệm, hay do lò lửa đỏ vùi tro đang đặt dưới gầm giường.

      Nhắm mắt thật lâu, tai tôi nghe bước chân mẹ nhẹ nhàng di động đi lại chỗ nầy chỗ kia. Mẹ đứng ở bên bàn rót nước trà. À không phải, mẹ đang châm nước sôi vào bình thủy, rồi đậy nắp, đặt bình thủy lên góc bàn. Mẹ đến cuối phòng thu dọn xong, ấy là lúc mẹ ngồi xuống chỗ cũ, lò mò mở kim băng cài túi áo, mẹ lấy tiền ra đếm, tiền chẵn mẹ cất vào túi áo trong, tiền lẻ để túi áo ngoài, mẹ cẩn thận cài hai cây kim băng vào trên hai miệng túi. Đôi mắt mẹ ánh lên niềm hãnh diện khiêm tốn. Mẹ có tiền riêng lo cho con, cháu, mẹ mua các thứ thiếu do chính đồng tiền tần tảo, vun vén của mình có. Tôi nằm trên giường, người lâng lâng giữa trạng thái nửa thức nửa ngủ chập chờn, thiêm thiếp, tâm trí lâng lâng cái kiểu gì lạ, tôi bồn chồn khó chịu không thể mở mắt ra, nên choàng dậy, cả thân thể tôi mệt mỏi vô vàn. Mẹ đang ngồi bên bộ ván, vội nói:
      - Chiều mà con ngủ rứa, là bị mộc đè, không dậy nỗi con à.
      - Dạ phải. Bị mộc đè, không cách chi dậy nỗi. Mẹ.

      Nằm mãi càng cảm thấy mệt, tôi ngồi dậy, đầu óc choáng váng, tôi nghĩ: “có lẽ vì nằm nhiều, không vận động, lại mất ngủ suốt tuần, nên tôi yếu người đi”. Quơ chân xuống nền gạch tìm đôi dép, tôi lừ đừ thờ thẫn đến bên cái bàn kê ở góc tường, tay run run bưng bình thủy lên mở nắp ra. Bỗng dưng, đầu óc tôi quay cuồng, tối tăm mặt mũi, thân thể nặng nề, tôi ngả lăn ra bất tỉnh nhân sự. Khi tôi hồi tỉnh, vợ chồng ông bác sĩ và cô y tá reo mừng. Còn mẹ. Trời ơi! Tôi không thể nào diễn tả sự khiếp sợ trên đôi mắt mẹ tưởng đã lạc thần, con gà bị cắt tiết mất hết máu ra sao, thì mặt mẹ xám xanh y như vậy.

      Tất cả sự yêu thương, lo lắng tột cùng lộ ra rõ nét. Mẹ quá run sợ phải lìa con. Run cầm cập, mẹ lụm khụm đi nấu nước sôi, mẹ đắp lên hai vết bầm trên đầu, cánh tay, bắp đùi của tôi. Bác sĩ khám rất kỹ vết thương rướm máu ở đầu, ông chích nhiều thứ thuốc, chăm sóc cẩn thận nơi tôi bị đập mạnh đầu lên một chân tủ gỗ lim chìa ra ngoài. Bên thái dương kia tôi lại bị một cục u, to hơn nửa quả trứng vịt, tím bầm. Đầu tôi đau nhức kinh khủng, y như có tảng đá nặng đè lên, ê ẩm cánh tay trái và một bên sườn. Cổ xoay qua trở lại không được, khi cử động tôi phải nhờ người khác giúp. Mẹ đã bận rộn nuôi con, lo cho cháu suốt tuần. Nay tôi có thêm các vết thương, khiến mẹ càng khổ cực. Mẹ lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Vì sự bất tỉnh kia nên tôi phải nằm điều trị thêm nhiều ngày, tôi lại hoàn toàn mất ngủ. Mẹ phàn nàn:
      - Sau nầy con sẽ bị đau đầu, đau nhức thân thể hoài đó.
      Thấy tôi cựa mình, mẹ quay lại nhìn và lật đật chạy đến bên:
      - Con cần chi? Để mẹ làm cho.
      - Mẹ đừng lo cho con. Mẹ ngồi cả ngày, cả đêm, mệt lắm. Mẹ ngủ đi, kẽo con càng bị bệnh bi giờ.
      * * *
      Bầu trời nhàng-nhạt sau khi tráng nước mưa, thì trở nên trong suốt như pha lê. Lưng trời sáng bạc ngất ngây đầy lâng lâng rung cảm điểm vài hoa mây phớt hồng thấp thoáng bay bay, trôi nhè nhẹ như bong bóng mây lơ lửng giữa bầu trời rộng thênh thang. Các mái nhà như kỳ cọ gội rửa sạch bon. Những con đường cành cây ngọn cỏ đều loáng nước và trở nên xanh tươi hơn.
      Tôi rất mừng khi mẹ ở Tùng Nghĩa đến thăm, có mẹ ở lại giúp con, phụ chăm nom các cháu, là tôi rất an tâm. Mỗi lần đến thăm con cháu, mẹ mang rất nhiều quà bánh, mẹ khệ nệ bưng hết giỏ nầy đến giỏ khác, thậm chí cả gạo, rau, cá, thịt, tôm, vân vân… Có bao nhiêu tiền dành dụm, mẹ đã trút hết cho con cháu. Nhất là bà cưng các cháu ngoại hết sức; mặc dù chúng rất quậy, khiến ngoại mệt phờ người. Mẹ cầm cái quạt giấy quạt cho mình và quạt cho con, cháu. Mùi dầu thoang thoảng bay, mẹ rất thích xức dầu Nhị Thiên Đường. Trời Đà Lạt khá mát mà mẹ dùng quạt, đủ biết mẹ mệt đến thế nào. Tôi muốn khóc hết sức khi ngồi cạnh mẹ.
      “Lên non, mới biết non cao.
      Nuôi con, mới biết công lao mẹ hiền”
      (cd) là thế.

      Tôi nhìn vẽ già nua hiện lên từng đường nét rõ ràng trên khuôn mặt già và mỏi mệt, mái tóc mẹ điểm muối tiêu, vành miệng móm mém, mẹ ưa nhai trầu dập từ cối đồng nhỏ xíu cầm lọt trong lòng bàn tay. Đôi mắt mẹ thoáng màu nâu, hấp háy sau làn mi dài lưa thưa, mẹ có cái nhìn ấm áp chuyển thành niềm vui dạt dào, bộc phát mừng rỡ khi tôi đi dạy học trở về nhà:
      - Cháu đói lắm hử? Mẹ cháu về rồi. Ù ơ... Cháu tham ăn y như con mẹ của cháu từ hồi nhỏ hè. Hì hì… Cháu biết không!?

      Ơ! Tôi đây có phải là đứa con gái út (trong gia đình có mười anh chị), út lên mười vẫn còn rúc vú mẹ, vòi vĩnh mọi thứ khi thích? Út sau giờ học, tối ngày thui thủi một mình, vì thế con luôn quanh quẩn bên mẹ đó ư? Ngày ấy mẹ pha nước nóng, và ngồi trên chiếc đòn nhỏ bên hiên lát gạch hoa, mẹ bế con vào lòng, con thòng cái cổ đeo hai ba sợi dây chuyền bằng đất. Ngửa mặt lên trời cười sằng sặc lúc con cảm thấy nhột. Mẹ gội đầu cho con bằng nước bồ kết nấu với lá sả, lá cam, lá chanh, lá bưởi. Tắm cho con bằng xà bong thơm hiệu "cô Ba đeo kiềng vàng". Con có tính hư nết xấu là ưa làm nũng, dậm chân dậm cẳng không chịu tắm, khóc nhè hoài; dù mẹ đã dỗ ngọt hun hít và gói cho con đòn bánh tét nhỏ xíu bằng gan tay, có dây lạt làm quai xách cột từ đầu nầy qua đầu kia.

      Có ngày con say sưa nhìn: mẹ đeo đôi mục kính trắng, khéo léo may từng bộ áo quần đẹp nhất đầu xuân. “Con bé tôi” năm sáu tuổi ngồi bên thềm gạch hoa trong tòa nhà cao và rộng, con lân la lê lết bên mẹ, và quá phục nhìn mẹ thoăng thoắt may áo quần mới. Con nghe mẹ kể chuyện cổ tích Trầu Cau. Tấm Cám. Mẹ kể chuyện hay đến nỗi đôi khi con đòi xin cái gì đó, mà mẹ không có cho con, thì mẹ mỉm cười âu yếm: “Ngày xửa ngày xưa”… là mọi thứ hấp dẫn trên đời, đều không bằng câu chuyện cổ tích của mẹ:

      "Ngày xưa... Thuở nhỏ Công Duệ nhà rất nghèo, một hôm cùng mấy bạn đồng lớp trên đường đi học, Công Duệ lấy đất sét nặn thành con voi. Bắt bốn con cua làm chân. Bắt hai con bướm làm tai. Bắt một con đỉa làm vòi. Thành ra con voi bằng đất sét biết đi, biết vẫy tai và co vòi quơ lên xuống. Lúc đó một vị quan đang cưỡi ngựa đi qua, thấy lạ, liền dừng ngựa lại xem. Sau khi hỏi Công Duệ một vài câu, cụ thấy Công Duệ đối đáp trôi chảy, chứng tỏ là một đứa bé có học và thông minh, nên vị quan muốn thử tài mới bảo:
      - Mày đã đi học rồi, vậy ta ra cho câu đối, nếu mày đối được, ta sẽ thưởng tiền cho.
      Công Duệ đồng ý, và vị quan ra câu đối như sau:
      - Đồng tử lục thất nhân, vô như nhĩ xảo. (Trẻ nít sáu bảy đứa, không ai hơn mày khéo).
      Trước khi đối, Công Duệ hỏi vị quan:
      - Thế ông là gì đã?
      Vị quan trả lời:
      - Ta là Lang Trung, mỗi tháng lãnh hai ngàn thạch lúa.
      Quan nói xong, Công Duệ liền ứng khẩu đối:
      - Lang Trung nhị thiên thạch, mạc nhược công... (Quan Lang hai ngàn thạch, không ai bằng ông...)
      Nghe Công Duệ đối như thế, vị quan ngạc nhiên mới hỏi:
      - Tại sao mày đối thiếu một chữ?
      Cậu bé Công Duệ mỉm cười, trả lời một cách hóm hỉnh:
      - Còn một chữ nữa tôi để dành, hễ quan lớn thưởng tiền thật, thì tôi đối là “Liêm”, bằng không thì tôi đối là “Tham”.
      Vị quan nghe nói phải phục tài, bèn móc túi thưởng tiền cho cậu bé Công Duệ, để lấy được chữ “Liêm”, nên câu đối thành: Lang Trung nhị thiên thạch, mạc nhược công liêm. (Quan Lang hai ngàn thạch, không ai bằng ông liêm).
      (Cụ Trạng Vũ Công Duệ, người làng Trình Xá, tỉnh Sơn Tây, mới ngoài 20 tuổi cụ đã đỗ Trạng Nguyên, làm quan đến chức Đô Ngự Sử cuối đời nhà Lê. Tính khí của cụ rất cương trực, khiến các quan văn võ đều nể sợ. Khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, cụ cương quyết không theo phe nghịch thần, cụ mắng chửi Mạc Đăng Dung thậm tệ, rồi ôm ấn nhảy xuống cửa Thần Phù, tự tử chết. (st)
      * * *

      Ngày ấy, gia đình ba mẹ tôi sống tại ngôi biệt thự số 5 La Rose ở đường Quang Trung, (kế bên biệt thự của bà Mộng Điệp, vợ thứ vua Bảo Đại), gần nhà Ga xe lửa Đà Lạt. Con đeo đôi hoa tai vàng tòn ten đong đưa theo mỗi cử động, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ thẫm mỹ. Con diện quần sa tanh trắng, xúng xính trong chiếc áo nhung đỏ do mẹ tự cắt may, chân con mang hài cườm cùng màu với áo. Đầu con đội nón lá mười hai vành do mẹ chằm, vai đeo chiếc bóp đầm đỏ. Hai mẹ con ngồi xe kéo đi chợ Đà Lạt mua sắm đồ Tết suốt ngày. Trước khi mua sắm, mẹ cho con ăn bánh bèo xong, con bé lại lết qua hàng mì quảng ăn no nê.

      Sau đó hai mẹ con chen lấn vào chợ vải mua quần áo, giày dép, vân vân… con bị người lớn chen lấn, nên tụt lại đằng sau, kẹt giữa làn sóng người đông như kiến. Hốt hoảng, con vừa khóc vừa kêu "Mẹ ơi! Mẹ". Tay con nắm chặt lấy đuôi áo dài của mẹ rị kéo mạnh lại. Dù rách toạt mất một thân áo, mẹ không hề la rầy, hay giận dữ. Mẹ đằm thắm bế con lên, cùng với hai giỏ xách đầy vật dụng mua sắm đang móc vào khuỷu tay. Lúc ra về, mẹ lại mua cho con mấy bịch bánh thuẩn, nải chuối cau. Ngồi trên xe ngựa, con sung sướng có những món đồ chơi xinh đẹp. Nhưng, về nhà đồ chơi cũng không quyến rũ con bé mập tròn ú nù, giống hột mít (vì háu ăn). Con quanh quẩn bên chân mẹ, líu lo hỏi chuyện:
      - Mẹ nấu phở cho cả nhà ăn ha mẹ?
      - Ừ. Ra ngoài sân chơi đi con. Ây. Coi chừng bị phỏng lửa.
      - Chín chưa mẹ?
      - Chưa được. Coi chừng phỏng nước sôi.
      - Được chưa mẹ?

      Sốt ruột, do cái tật mê ăn của con, nên mẹ đã làm trước cho con một tô phở. Con cứ bu bên mẹ rồi nhón chân lên bốc một nhúm hành ngò trong dĩa ở trên bàn, chạy theo mẹ đến bên góc đi văng, bỏ đầy hành ngò vào tô. Tay cầm đủa tay cầm muỗng, con cúi xuống thổi phù phù vào tô phở nóng. Nước miếng ứa ra miệng, bụng sôi lọc ọc, con cảm thấy đói cồn cào vì mùi thơm ngào ngạt:
      - Mẹ cho con ăn thiệt no. Nghen. Con đói.
      - Để nguội đã. Ăn từ từ thôi.
      - Dạ… dạ.
      - Ngán tới con mắt chừ. Chớ tham ăn chi hì.
      - Con ăn từ từ cho đến khi nào no tới con mắt, thì thôi. Mẹ ui.
      Mẹ phì cười nguýt yêu con gái tham ăn. Qua nửa tô phở, con buông đũa, hét to:
      - Chết con rồi! Ơ hơ! Cay quá! Mẹ ơi. Mẹ.

      Cay thật. Cay đến nỗi mặt con đỏ rần, hai lổ tai ù ù, lùng bùng, đầu lưỡi nhứt nhối, rát bỏng, môi miệng đỏ chót phồng rộp lên. Con thọc tay vào miệng cào cào lưỡi, xít xà, phun nước miếng phì phì. Mắt thấy sao bay trong màng lệ, con hoảng hốt chạy quanh nhà, vừa kêu vừa khóc, bức tóc bức tai, rồi chui tọt xuống gầm bàn, nằm lăn lộn trên nền gạch hoa. Con lại bò ra, chui lòn mấy vòng qua hai chân của mẹ. Hai tay con quệt nước mắt! Khổ nỗi ớt dính ở mấy đầu ngón tay, nên càng bị cay mắt hơn. Mồ hôi vã ra trên trán như tắm, mặc dù trời khá lạnh. Khiếp quá. Cay kinh khủng. Con kêu khóc inh ỏi, mũi dãi lòng thòng (chỉ vì mắt nhắm mắt mở, và tham ăn, tôi không thấy trái ớt xiêm xanh lẫn trong nhúm hành ngò, dù mẹ cố có ý để ớt ra xa một bên mép dĩa to).

      Mẹ vội lấy nước lạnh khuấy chanh đường, bế con vào lòng cho con súc miệng nhiều lần, nhổ ra. Mẹ xổ mái tóc dài, lấy đuôi tóc lau trên đôi mắt con, lấy khăn ướt lau mặt mũi con, mẹ vạch vú da cho con mút, (mặc dù con khá lớn khôn). Có bầu vú mẹ, con dịu cơn đau, mà vẫn thút thít khóc và nấc lên từng cơn.

      Ôi! Lần ăn phở muôn đời ghi nhớ ấy, nó ớn lên tới con mắt thật. Mà mẹ yêu dấu là người họa sĩ tài ba đầu tiên đã âm thầm vẽ nét ngây thơ, hồn nhiên duyên dáng vào tâm hồn con tươi trẻ. Hình ảnh mẹ bất diệt, nên thơ, trong sáng, thân thương từng ấp ủ nơi con đây một thời xuân trẻ luôn khát khao niềm tin yêu, chưa hề phai nhạt, và làm quặn thắt lòng con. Một tình mẫu tử bất diệt và bao la co xiết thành khối mật, vừa dịu êm ngọt ngào, vừa nồng nàn lâng lâng men tình say say, trào dâng lên bờ môi con ngọt lịm từ bầu sữa mẹ tinh tuyền, ngát hương yêu trong chiếc nôi đời lắc lư đong đưa theo tháng năm qua. Trái tim con thèm khát nhịp đập cuồng quay trong lồng ngực phập phồng, bồng bềnh chơi vơi trên sóng biển rong chơi đầy dáng vẻ yêu thương mệt nhoài.

      Con cảm thấy thương mẹ không làm sao tả xiết. Tình yêu thương nồng thắm của người mẹ, giờ đây khi đã có con, tôi mới hiểu thấm thía, thâm thúy, tình mẹ bao la như trời biển, êm đềm ngọt ngào, nồng nàn xiết bao trong từng giờ, từng tháng, từng năm. Mẹ tôi tận tụy cần cù hy sinh lo cho chồng, con, cháu; là hạnh phúc duy nhất của mẹ; là lẽ sống thầm lặng, mẹ đầy tình thương yêu và thủy chung hết mực. Tôi yêu kính mẹ vô vàn, mẹ âm thầm chịu đựng, hy sinh gắn bó, nhẫn nại, dốc hết sức cạn hơi mòn, hầu chu toàn cho con, cháu, có sức khoẻ bình an, hạnh phúc. Dù con khá lớn khôn, có gia đình con cái, dù các con đã vững vàng lập thân, từng trải.

      Mẹ thân yêu! Mẹ nâng niu giữ gìn cho con bao kỷ niệm yêu thương, đậm sâu, dạt dào ân tình mặn-mà thuở thiếu thời. Đôi mắt con lẫn vào lòng mắt mẹ êm ái, ẩn chứa tất cả niềm vui tột cùng. Tuổi thơ của con trong sáng từng ấp ủ tình thương thầm lặng đến tận bây giờ. Nó vừa hiền, vừa lành, vừa vui, và trọng lượng tình yêu trong lòng mắt mẹ đã dành cho con, muốn vỡ vụn ra thành muôn hạt nước mòng mọng, tròn trịa, li ti lăn tăn long lanh rung rinh trĩu nặng trên bờ mi rưng rưng, trôi đến tận cùng tơ rung suy nghĩ, làm gợn sóng lăn tăn lung linh chơi vơi trong từng tế bào con run rẩy.

      Hạnh phúc vô ngần khi con trở về trên dáng xưa yêu kiều, đầy hoa mộng đó. Chao! Dòng đời xuôi ngược nhiều ước mơ, hoài bão, hy vọng dạt dào, tràn đầy mộng đẹp vụt tan biến quá đỗi là nhanh. Và, hôm nay con không khỏi ngỡ ngàng, bâng khuâng xao xuyến và kinh ngạc; khi mẹ nheo mắt tủm tỉm cười mà nhắc khéo chuyện: “Con tham ăn” đã lẫn vào lòng thời gian lúc nào; chẳng rõ! Hẳn là mẹ đang nghĩ đến câu:
      - "Mẹ cho con ăn tô phở, khi nào con no, no lên tới con mắt thì thôi"!

      Ha ha ha … Vui tột độ, khiến tôi dại người trong giây lát, bỗng quay qua nhìn mẹ hiền đăm đăm, và toét miệng cười ngất. Mẹ nhìn con gái lắc đầu, mỉm miệng cười đôn hậu, hòa ái. Thật đáng yêu xiết đỗi từ đôi mắt đầy bao dung, thông cảm và thấu hiểu của mẹ biết ngần nào! Đó là cái gốc rễ tình yêu, nơi chiếc nôi đời hồng hoang trinh nguyên, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi quê hương dấu yêu xứ lạnh Lâm Viên Cao Nguyên nầy tôi đã bập bẹ tiếng: "Mẹ... Mẹ" đầu tiên. Mẹ là sợi dây vàng rắc đầy kim cương lóng lánh, nối liền con cháu với niềm vui buồn quá khứ, dạt dào hạnh phúc ân tình trân qúy. Mẹ hiền mẫu sung sướng mỉm cười từ ái hằng cầu nguyện cho các con suốt bao năm trường được hạnh phúc, bình an. Phải không mẹ?
      “Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc.
      Nhớ cha mẹ già ruột thắt gan teo”
      (cd).

      Bây giờ, thời gian vút qua:
      “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều.
      Nhớ cha, nhớ mẹ chín chiều ruột đau”.
      (cd)

      Các con bé bỏng của mẹ đã lớn khôn, đã có gia đình, đã làm cha, làm mẹ. Dù vậy con đây vẫn còn nhõng nhẽo, quấy rầy mẹ và thút thít khóc hu hu hu hụ hụ hụ như thuở nào! …
      “Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ.
      Nghĩ đến chừng nào, lụy hạ tuôn rơi.
      Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ.
      Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha...”
      (cd) ... khi cha mẹ đã vĩnh viễn lìa bỏ chúng con. Cha mẹ ôi!
      *

      cd = ca dao
      st= sưu tầm đó đây.
      * * *

      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-14-2017, 07:56 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • #93
        Chẳng Thà... KHÔNG Nghe. Không Thấy... sẽ Không Nói...



        Chẳng Thà... KHÔNG Nghe. Không Thấy... sẽ Không Nói...


        Từ Rạch Giá trầm lắng u hoài phiêu lãng, bơ phờ suốt trên đoạn đường dài ngót 248 cây số ngút ngàn! Tôi đã quyết định dừng chân “phiêu bạt giang hồ”, để trở về thành đô, nhưng sao trong lòng cảm thấy quá buồn đau tê tái hụt hẫng khôn cùng? Tôi có cảm tưởng như mình thực sự mất đi một báu vật thân yêu. Chúng tôi kéo lê đôi chân mệt mỏi, rã rời lên xe đò trở về Sài Gòn.

        Có nghĩa là chúng tôi thực sự quay trở về thủ đô Sài Gòn dấu yêu tại quê hương mình. Ôi! Quê hương Việt Nam cẩm tú giàu đẹp hùng vĩ, là "hòn ngọc viễn đông" của ta ơi! Cảm giác ấm nồng xôn xao nở lăn tăn trên làn môi nóng bỏng khát khao cơn thèm âu yếm gọi lên hai chữ: Quê hương! Tôi xin cúi đầu lui gót quay về, từng bước chập choạng bấp bênh chấp nhận số phận bồng bềnh, cho dù đắng cay, sô tang, bùi ngùi, khổ đau có, ngọt ngào vui vẻ hân hoan không. Cũng đành.

        Dường như họ và tôi không còn mê những giọt sương mai đọng trên cánh hồng nhung tươi thắm vừa hé nở, từng giọt sương mòng mọng tí tách rơi trên phiến lá giao mùa. Mất rồi chiếc lá vàng xinh lịch ép trong trang sách cũ. Mất ơi đàn én chiêm chiếp líu lo véo von hót, vun vút lượn bay trong không gian chói sáng ánh bình minh. Mất hết những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, lượn quanh sườn đồi rì rào tiếng thông reo vi vu. Hết rồi thảm cỏ sân Cù mịn nhẹ êm như nhung, nơi ấy khi xưa tôi ưa ngả mình trên triền đồi quạnh vắng, mắt lim dim mơ màng, tai lắng nghe tiếng thông reo, và gió núi xôn xao thì thầm gọi nhau về ngủ trên đỉnh Lâm Viên hữu tình.

        Ôi! Có thể nay đã mất hẳn những bước chân lãng du trùng lặp bao kỷ niệm tìm về chốn cũ. Mất rồi! Thật sự mất đi không gian, thời gian, và kỷ niệm vàng son một thuở trìu mến xa xưa. Nay lòng tôi bừng bừng rung giật cơn sốt tiếc thương, môi co siết những giọt mật vừa chát, vừa đắng, đang trào dâng lên khoé mi tôi giọt sầu quắt quay niềm tiếc thương vô hạn, ẩn dấu nơi mắt nhìn tư lự, lăn tăn nét chân chim trên khoé mắt ưu buồn trước thời gian, nơi đôi má hoen màu, nơi đôi môi khô nhạt, nơi mái tóc phiêu bồng sớm ngả bụi đường lãng tử, nơi áo quần xốc xếch trong dáng vẽ tiều tụy hao mòn. Làm gợn sóng trong lòng mình biết bao sầu đắng chua cay và tê tái:
        Anh bỏ đi rồi, tôi ở lại.
        Chờ bao oan nghiệt trút lên đầu.
        Tôi vẫn đứng giữa một trời ly loạn.
        Tàn chiến chinh mùa nắng lửa mưa dầu.
        Chiều hun hút giữa rừng thiêng nước độc.

        Đêm uy linh nhờn nhợn tiếng ma Hời.
        Từng giọt máu căng phồng bầy muỗi đói.
        Tôi bỗng sờn da, bỗng rợn người...
        (1)

        Trên xe đò vẫn chật như nêm, tôi buồn bã nhìn trên đầu của nhiều người lớn bé đang chít khăn sô, họ hớt hải vội vàng chen lấn nhau đi đâu? trở về đâu? mà tất tả lũ lượt thế nầy!? Tôi quá chán nãn nghe lòng mình phủ chụp xuống bao tơ rung suy nghĩ dập dồn. Mệt mỏi lắm! Tôi chẳng cần hé mắt nhìn lại quang cảnh hai bên đường (mà lúc mới hôm qua: khi ra đi tôi rất bồn chồn, háo hức nhìn ngang ngó dọc lung tung ấy sao)! Chúng tôi và các con cháu không thèm ăn uống gì, chỉ cúi đầu trên chiếc xe đò cà xịch cà đụi lắc lư giồng xóc, mà ngủ gà ngủ gật.

        Lủi thủi về thành phố Sài Gòn lúc 18giờ, nhóm chúng tôi thuê xe xích lô tới chỗ cũ, nhà thờ Huyện Sĩ vang ngân tiếng chuông chiều cô tịch. Vẫn có những khuôn mặt bơ phờ hốc hác thiếu ăn thiếu ngủ hôm qua đang vạ vật nằm nhờ ở đậu ngoài mái hiên. Những bộ hành tất bật, mệt nhọc, lấm lem bụi đường đầy trên phố chiều đông đúc. Vào bên hông nhà thờ Huyện Sỹ, hai bao bố đồ dùng nấu nướng linh tinh, giỏ quần áo mà hôm nao (tôi gửi nhờ lại bà từ trông coi nhà thờ) vẫn còn y nguyên chỗ cũ. Những người chăm sóc nhà thờ, những bà xơ (soeur) và ban điều hành giáo dân rón rén đi lại đọc kinh dâng lễ, chẳng có gì khác: Giống như khi tôi đến ở, khi tôi tất tả ra đi và đã trở về.

        “Ngoài đời” tôi chứng kiến không biết bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt! Bây giờ thành phố Sài Gòn xa hoa rác rưới đầy bụi nhiều ụ rác to cao ngập đầu người, tanh hôi và hằng hà sa số ruồi bọ lúc nhúc. Tình trạng khan hiếm thực phẩm, gạo, đường, kể cả muối là thứ rẻ hơn bèo cũng tăng giá lên vùn vụt. Con buôn chợ đen giành giựt từng kí gạo, từng con khô, con mắm, từng bó rau héo. Không có phương tiện di chuyển, nên rau và cây trái khắp các vựa thì ứ đọng cả đống, hư hao, thúi um. Hoạ huần lắm mới thấy vài chiếc honda dame chen lấn chật ních trên đường.

        Tôi đứng ít nhất là vài giờ mới có một chuyến xe bus chật như nêm, đông nghẹt người chạy đi chạy về trên phố. Một người đàn bà cao tuổi khệ nệ bưng mấy thúng mủng bao bị lộn xộn cố trèo lên xe khách, bị té ngả lăn cù cù khi bác tài xế bóp kèn inh ỏi. Xe chưa ngừng hẳn, người trụt xuống, kẻ chen lên, dày xéo dẫm đạp lên nhau, ai kêu la inh ỏi mặc ai. Họ lo bu bám ngoài cánh cửa xe đen nghịt. Thế là có bọn thời cơ thừa nước đục thả câu, lạm dụng nơi đông đúc chen chân không nỗi, đã trổ mòi rờ đít, bóp vú, móc túi, giựt đồ, bấm dây chuyền vàng, giựt bông tai máu chảy ròng ròng, kẻ cắp như rươi chôm chĩa đủ thứ, giành giật đánh nhau diễn ra ngang nhiên, hổn độn và náo loạn.

        Nhất là xăng, nhớt, dầu hôi, càng mắc mỏ cao độ, giá xăng là giá máu mà! Họ buôn lậu từng lít xăng, từng lít dầu, lại pha chế chút nước lạnh, khói đen mù mịt bốc cao, cay xè mắt, bay tá lả. Xe chạy nửa xăng nửa dầu, bác tài cho xe nổ máy lâu lâu bác làm bộ rồ máy, cho xe thụt lui thụt tới, cứ cà giựt, cà xịch cà đụi, rồi bác nhấn còi inh ỏi, đứng im nằm ì một chỗ, không nhúc nhích. Lơ xe luôn miệng kêu mời khách và đập rầm rầm inh ỏi vô hông xe. Thật là nhức bưng cái đầu. Không còn các loại xe chạy bằng xăng dầu nữa, thì đâu đâu cũng thấy trai trẻ lớn bé, leo lên xe đạp mới có, cũ có, hàng ngàn chiếc xe đạp chồng chất vợ con, đồ đạc linh tinh, họ tấp nập chạy đi, chạy lại trên các đường phố lớn.
        *****
        Bên kia khu trường học sát nhà thờ Huyện Sỹ, cứ mỗi buổi sáng khoảng hơn bốn giờ, loa phóng thanh đã inh ỏi “tra tấn” tai người lùng bùng điếc cả con ráy, nhức bưng bưng cái đầu! Đinh tai nhức óc nhất là mấy cái loa phóng thanh ra rã nhồi sọ dân suốt ngày sáng đêm, loa móc ở các ngả tư, ngả sáu... ngả bảy đường phố. Tôi thấy từng đoàn thanh niên nam nữ reo hò, giỡn cợt, khăn mặt vắt vai, họ dùng hai ngón tay trỏ để đánh hàm răng ối vàng. Rồi chuyện trò vanh vách, lườm nguýt nhau, cười hô hố và nói huỵch toẹt ra những điều thô tục, mà họ không nhột lổ tai, không biết ngượng mồm.

        Cô gái miền Bắc sống đời nhọc nhằn, lam lũ ngược xuôi trong dãy trường sơn, nay vào phòng tắm sang trọng trên lầu ba, cô tò mò giật chiếc dây lủng lẳng bên góc tường. Hoa sen phụt toả ra những dòng nước trong bồn tắm mát lạnh, khiến bộ-đội-cái giật mình nhảy tót ra khỏi bồn tắm, hốt hoảng cô ré lên như con bò bị chọc tiết, kêu nhau ơi ới chạy đi. Tội quá, họ chưa biết sử dụng bồn cầu tự động, nên đã nhốt cá lóc vô đó, rồi táy máy giật dây cho nó trôi tuột đi. Mấy cán ngố ấy chửi:
        - Mẹ kiếp! Bọn “Mỹ Ngụy” lợi hại thật. Đã cút xéo rồi, mà còn gài bẫy lại, hại mình đủ thứ hơ.

        Khi họ lũ lượt kéo nhau từ trường sơn đông, trường sơn tây, từ hướng bắc cầu Hiền Lương, lưng còng vác tay nải bên trong đựng ít vắt cơm khô và chén bát lọc cọc thô vụng sứt mẻ, (thời kỳ đồ đá) tay xách hai con vịt mái, mặc cho con vịt quạt cánh kêu la khắp phố. Họ hãnh diện có tiền để mua chén tô cùng vịt sống, mà đem vô Nam biếu bà con (vì họ nghe đảng đồn rằng: “Dân miền lam đói khổ hơn nhân rân ta gấp bội”). Họ ngố ngáo đi tìm thân nhân trong Nam, nhưng đã ngơ ngác sững sờ:
        Qua vĩ tuyến nón anh rơi lộp độp
        Vì ngước cao chót vót để nhìn xem
        Anh chính ủy bảo miền Nam nghèo lắm
        Nên hiểu rằng: Lời cộng sản mà em!

        Đến Nha Trang, biển xanh anh bật khóc
        Như trẻ thơ lạc mẹ giữa phố phường
        Dăm kẻ lạ, tò mò giương đôi mắt
        Có lẽ anh đã lạc cõi thiên đường.
        (NT)

        Quả thật... kể ra cũng tội nghịêp, cô ta ở tít trong rừng sâu, chưa một lần nhìn thấy những đồ dùng thời trang tinh vi, văn minh tiến bộ như thế. Cô sợ Mỹ rút đi, còn gài chất độc giết người. Có anh vênh váo mặt, mắt nai ngẩng nhìn lên cao ốc chục tầng, làm anh chị chóng mặt quay vòng vòng, đã văng nón cối xuống đất. Hắn vung tay lên trời chỉ chỏ đếm hoài... vẫn không đếm được toà cao ốc có mấy tầng! Họ ồn ào lũ lượt kéo nhau huyên náo chen ra cửa, lo đổi tiền Hồ ra thành tiền miền Nam Việt Nam, họ cười nhô hàm răng mã tấu:
        - Tớ đổi bạc hào, bạc lẽ là chuyện nhỏ. Đây! Tiền có hình bác Hồ mới vĩ đại nhá. Đấy! Xem nào.

        Ấy thế! “Ông bộ” mới vào Nam thật thà và chất phác đếm tiền miền Nam mãi không xong. Họ thích thú nhất là mua “đài” (radio) dõm, thứ “xì cúc lô can” mà chả biết! Thế là miệng la ơi ới, ổng chạy theo một tên nhãi con tự nhận là dân buôn, thằng bé nhanh tay chôm chĩa của “ông bộ”, rồi miệng huýt gió, hắn lẹ chân dzọt đi mất. “Ông bộ” tức mình chửi đổng:
        - Không hiểu rân miền Lam, nàm cái giống lanh mưu rì, mà “nưu manh” thế! Nghe ổng nổ nè:
        Ở ngoài Bắc, Ti Vi ai cũng có
        Sáng sớm ra thì nó chạy đầy đường
        Anh nhìn chiếc đồng hồ hai người lái
        Mắt thèm thuồng, cứ nhìn thấy là thương.
        (NT)

        Ngày ngày trên các khu lộ thiên, dưới những cột đèn đường là nơi tập trung bán các loại hàng rong: chuối chiên, bánh bò, bắp nướng, đậu phụng, thuốc lá, vân vân… Họ đổi chát cho bộ-đội bất cứ thứ gì ai đó mánh mung nhặt nhạnh được. Thuốc lá dổm bán dạo do nhóm dân lậu làm bằng lá khoai mì xắc mỏng dính, phơi khô, sao vàng, tẩm ủ tí rượu đế, pha trộn một ít thuốc lá cẩm lệ thật, thì hút vào thì đắng nghét, khô khốc hai lỗ mũi, rát cổ họng, lại tỏa khói mịt mù.

        Người ta đánh đập nhau loạn xạ, chỉ vì tranh giành bán mua đổi chát nhiều thứ với mấy “cán ngố”. Vài bộ đội bố láo bố lếu xưa kia chuyên uống nước vốí, nay vào miền Nam thì hí hửng mua một lần cả chục cây “cà lem” ung dung để trên cái dĩa, mặc cà rem chảy nước, mà họ vẫn khoái khẩu, ngồi chò hỏ hai chân mang dép râu chồm hổm trên ghế da, để ăn cà rem cho đã!
        Ở Sài Gòn, dân thành thường xỏ lá
        “Bộ đội ơi, miền Bắc có cà rem”?
        Nét hớn hở, tỉnh bơ như Hà Nội
        “Ồ thiếu gì, ăn không hết, phải phơi khô”!
        (NT)

        Hai chân mang dép râu cho lên ghế, họ ngồi xổm, uống trà ướp sen hương thơm tỏa bay nơi nơi. Đường phố càng tối, thì quán cà phê rẻ tiền mở vội bên vệ đường, mọc lên như nấm. Cà phê nguyên chất thật và ngon thì ít, mà cà phê trộn hột thu đủ, hột thầu dầu, rồi rang vàng cháy lại nhiều hơn. Hôi hôi, đắng đắng, chua lè. Thế mà vài bộ đội uống vào, đã khen:
        - Ngon đáo để.
        Anh tự mãn quê anh nhiều cà chớn
        Còn cà phê thì uống chẳng cần tem
        Ghé vào tiệm mua nửa đôi nịt vú
        Lọc cà phê, ừ cộng sản mà em!
        (Nguyên Thạch)
        * * *

        Những ngày đi dạy học tôi rất thích mặc áo dài, và ngắm tà áo dài tha thướt cuả phụ nữ Việt Nam tung bay trong gió chiều:
        Em cứ mặc, nhưng xin đừng ngắn quá
        Để tôi nhìn chột dạ phải liêu xiêu
        Em cứ mặc, nhưng xin đùng mỏng quá
        Để cho tôi tưởng tượng thật nhiều

        Em cứ mặc, nhưng xin đừng hở quá
        Người ta nhìn lại đổ vạ cho tôi
        Em cứ mặc, nhưng xin đừng gợi quá
        Tha cho tôi vì tôi đã già rồi

        Em cứ mặc, nhưng xin đừng lộ quá
        Người ta nhìn trông thấy cả dây leo
        Em cứ mặc, nhưng xin đừng mỏng quá
        Để mưa rơi, hàng xóm tưởng em nghèo...
        (PVT)

        Nhưng chẳng hiểu tại sao những tà áo dài tung bay uốn lượn trong gió trước kia, ngày nay sau 30-4 đã biến đi đâu mất: Bây giờ hầu hết nữ sinh, thiếu nữ, phụ nữ, bà già ở miền Nam Việt Nam, khi ra khỏi nhà chỉ đóng bộ đồ bà ba: quần đen, áo trắng, áo nâu sồng! Một số thầy, cô giáo ở “chế-độ Sài Gòn cũ” bị Đảng và Nhà Nước cho “mất dạy” gần hết phân nửa. Ui, không “bị mất dạy” sao hở!? Khi bài học vỡ lòng trong miền Nam dạy tôi học từ thuở bé thơ là:
        - “Phải biết kính trọng người lớn. Nhớ ơn Tổ tiên. Yêu mến quê hương. Yêu gia đình. Nhường cơm chia sẻ áo đến người cùng-khổ. Thương bạn học. Thân tình đoàn kết đùm bọc yêu thương lẫn nhau”.
        Thì giờ đây mọi thứ đã đảo lộn. Đảng dạy trẻ thơ bài toán hận-thù: “Phải giết bao nhiêu “tên ngụy” (rebels) một ngày. Bác dạy người ta rình mò, thi đua đấu-tố nhau, tố khổ nhau đến cùng kiệt hơi thở cuối cùng. Nhất là thanh niên trai tráng bị đi Tù. Tù đày trên danh nghĩa học tập “cải tạo”... Tôi đứng lớp mười một giờ mỗi ngày để giảng về văn học mới:
        Liên hoan có mấy quả chuồi,
        Ra đi, nhớ mãi cái buồi hôm nay!
        Anh đi chiến dịch Pờ–Lây
        Cu dài dằng-dặc, biết thuở nào... ra? (2)

        Tôi cố gắng mở ngoặc kép, ngoặc đơn, thuyết phục cho học sinh miền Nam nên thông minh hơn xí, tìm hiểu chút xíu về cách diễn đạt “tư-tưởng-lớn” của nhà “giao-lưu văn-hóa” là thế. Dạ vâng! Là thế đấy! Học sinh miền Nam không chịu tin. Không tin. Ấy dà dà...! Thế nầy là thế nào mà buồn cười nhỉ. Quả chuối trong buổi quan-hà tiễn đưa người đi Pleiku í mà! Thế là tôi càng “bị mất dạy” sau bài thơ rồi. Tôi cũng như các bạn chung ngành đã ngơ ngơ ngác ngác:
        Thầy giáo, lương lãnh ba đồng.
        Làm sao sống nỗi mà không đi thồ.
        Nhiều thầy phải đạp xích lô.
        Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh?
        Cô giáo phải bán bia ôm.
        Ôm phải học trò, ăn nói sao đây?
        (3)

        Rất may là “bần-ni-tôi chưa “trổ nghề” điêu-đứng đứng-đường moi tiền móc túi, hoặc làm nghề liếm láp bọt bia ôm, hay là vác cuốc đi đào bia mộ! Mặc dù ở thời buổi nầy ai ai cũng biết và thích “bia ôm” xí. Chứ có ai thích vác cuốc đi đào “bia mộ” bao giờ! Vả chăng “bia ôm” cũng còn có tay ôm chân đi. Còn “bia mộ” hì hì …nếu có “mộ chân” cũng ráng “bò đi”!
        Cái xứ gì đâu thiệt lạ kỳ
        Đèn xanh cũng chạy, đỏ cũng đi
        Dân không phương kế đành phải ở
        Cột đèn không cẳng cũng muốn... đi
        (Bùi Phạm Thành)
        ***

        Mất việc. Tôi lui về thôn Hốc Môn, thì gia đình tôi càng lầm than cơ cực, đói rách tả tơi gấp ngàn lần di-tản trước.
        Khi xưa vác bút theo thầy.
        Bi giờ em lại vác cày theo trâu.
        Trên đồng cạn dưới đồng sâu.
        Vợ chồng cùng “cấy”... thằng cu ra đời.

        Nhân dân thì chẳng cần lo.
        Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày.
        Hãy chăm tay cấy tay cày.
        Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang.
        (3)

        Buồn tình, tôi nhìn họ rỉ tai nhau ơi ới từ Bắc ùn ùn kéo vào Nam, như cụ Cao Bá Quát cảm hứng mấy câu thơ bất hủ:
        “Một thầy một cô một chó cái,
        Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi"...
        giống y đúc như cá nhân ba bốn tên cán bộ nọ vênh vang, vui vẻ vẫy vùng, vơ vất vùng Vịnh* (Trích dẫn thơ ngắn trong 4 Tập, 4 hồi: thể loại thơ Vần V tiếu lâm, có: Giới thiệu những nhân vật > Vững* + Vũ* + Vẹm* Vân* như sau:
        Với Vẹm* vỡ vai, vì vẩu vừa vểnh
        Vì vậy Vũ* vừa vúc vắc vênh vang
        Vả* vất va vất vưỡng vài vốc vích*.
        Vun vén vỏn vẹn vài vố vịt vương*

        Vẹm + Vũ + Vững vẫn vá víu vụ vườn
        Vả vỡ vài vồng vòi voi vắn vuông
        Vùng Vinh* vắng vẻ, vùng vẩy về Vũng*
        Vả* vòm vườn vắng vẻ với vạn vật

        Vịt vo ve vỗ vù* vai, vang vọng*
        Vích vênh váo Va* Vân vanh vách
        Vân vì vụ vịt, vênh vang vùng vằng
        Vợ Vững vác võng vào ven vũm vườn

        Vòm vườn vắng vẻ vật vờ võng vãnh
        Vật vờ vi vu vui vì vô Vũng*.
        vờ vĩnh vỡ vạc vài vồng vông vang
        Vả* vụng về vồ, ve vuốt, vòng vòng (vân vân... )

        Vì: Nhất đổng (đồng hồ có hai cửa sổ). Nhì đai (radio). Tam đeo (kính “dâm”). Tứ đạp (xe đạp). Cũng chỉ vì họ bảo chiếc đồng hồ reo chuông ở miền Nam là: “mìn nổ chậm”. Phin café là: “cái nồi ngồi trên cái cốc”. Thủy-Quân Lục Chiến là: “Lính nước đánh bộ”. Trực thăng là: “tàu bay lên thẳng”. Nhà vệ sinh là: nơi “Đái, ỉa”. Nhà Hộ-sinh là: “Tập thể Xưởng-Đẻ”. Và những câu khẩu hiệu quái đản. Biểu-ngữ giăng ngay cổng ra vào ở Từ Dũ, viết nguệch-ngoạc, sai bét, nhưng đúng hàng lối trên dưới ghi rõ như sau:
        Mọi da đình, chỉ có hai con vợ
        Chồng hạnh phúc!
        (3)

        Ô ồ!... (có "hai con vợ", thì... đặc biệt “thằng chồng” phải rất hạnh phúc hì hì hì… sung sướng là cái chắc). Hô hô! Chủ tịch hội đồng Bộ-trưởng Trung-ương ra lệnh đẩy cao kế hoạch hoá gia đình. Mỗi gia đình chỉ được phép sanh hai con, đứa nầy cách đứa kia 5 năm. Đảng sáng suốt lỏ mắt nhìn các bà, các chị lần lượt vô nhà bảo sanh để cai, nạo tuốt, khỏi nuôi báo cô; vì gạo cơm mắm muối vải vóc chả có.
        Trai khôn lấy vợ đặt vòng.
        Gái khôn lấy chồng thắt ống dẫn tinh.
        Đàn ông đi biển có đôi.
        Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
        Dù em con bế con bồng.
        Thi đua yêu nước quyết không lơ là.
        (3)

        Tất cả mọi thứ là của nhân dân: Ủy ban nhân dân. Quân đội nhân dân. Viện kiểm soát nhân dân. Cửa hàng ăn uống nhân dân. Hợp tác xã phân bón nhân dân. Công ty bách hoá nhân dân. Đặc biệt chỉ có “Kho Bạc” phì-lũ béo bở là của Nhà Nước!

        Con cháu tôi học cấp II, về nhà đã kể lại chuyện cuả thằng bạn trong trường bị đuổi học, vì tiếng Anh tiếng U như sau:
        Giờ Anh Văn, cô giáo cho học sinh tập “giao tiếp và ghi vào báo cáo”.
        Hai thằng bạn hỏi nhau:
        - Mầy thích loại nhạc gì ?
        - Pop.
        - Còn mầy?
        - Disco.
        - Rồi ghi vô đi.
        - Nhưng mà hai từ đó viết sao?
        - Tao cũng cóc biết
        – Đây là từ lai tây, thôi ghi phiên âm đi.
        - Uhm, có lấy điểm đâu mà lo...
        Thằng bạn gật gù, ghi vào báo cáo:
        - Thể loại nhạc ưa thích: "Bóp Đít Cô" (2)

        Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “siêu việt” là chỉ có thế thôi. Thế đấy. (!!! ; ???)
        *
        Vinh = ngoài Bắc / Vả = Các anh ấy, hoặc Vả lại, vả chăng / Vũng* Tàu. / Vịnh = Vịnh Hạ Long. / vích* - loại rùa / Vù = sưng vù vai / Vang vọng = vịt kêu quang quác /
        (1) Thơ Bút Tre
        (2) Sưu tầm lượm lặt
        (3) Thơ tiếu lâm Tình Hoài Hương
        * * *

        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-15-2017, 12:43 AM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • #94
          Cái Dấu ./. (Về Tình Yêu Nồng Thắm…)



          Cái Dấu ./. Về Tình Yêu Nồng Thắm…
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-14-2017, 08:55 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • #95
            Dấu Đạn Xuyên Thù Trên Chiếc Nón Sắt


            Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-15-2017, 01:10 AM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • #96
              Em Xinh Lịch Qua Tà Áo Dài



              Em Xinh Lịch Qua Tà Áo Dài
              ***

              Mẹ của Hoài từ Huế ngồi xe đò vào Đà Nẵng thăm các con cháu, ôi vui thật là vui. Anh chị, em, con cháu ai ai cũng mừng rỡ xúm xít tíu tít vồn vã hỏi thăm mẹ. Ngay lúc nầy, Hoài gặp lại bầy chim nhỏ ở chốn cũ đồi xưa, tưởng như tiếng đàn chim hót líu lo vang vọng lại từ tận quê nhà tít tắp xa mù xa, nghe sao mà thương lạ thương lùng!

              Vừa chuyện trò bên con cháu bu quanh, mẹ lấy hột sen, khoai lang, sắn mì, chuối già hương, tiêu, ớt bột, bánh bột lọc nhưn tôm thịt mẹ vừa làm, vân vân… mẹ đưa cho con, cháu, đem đặt trên bàn. Đó là kết quả tốt đẹp do sức cần lao nhẫn nhục của cha mẹ sớm chiều vất vả ngược xuôi bên vồng sắn nương khoai, mà có. Nay, có bao nhiêu quà bánh nhặt nhạnh tom góp ở trong vườn, chắc chắn là cha mẹ không dám ăn, mà bòn mót tha đi hết làm quà cho con cháu, hoặc cho lối xóm rồi đa.

              Tấm lòng mẹ rộng mở, chất phác giản dị đầy khoan thứ. Nhất là tính ba mẹ nhân hậu, thương người, không riêng gì thương gia đình, mà cha mẹ thương hầu hết bà con, xóm làng cơ cực. Hễ ai kêu than, xin xỏ cái gì, nếu có khả năng là cha mẹ cho đi không ngần ngại, chả hối tiếc, cho hậu hỉ, xứng đáng, tốt lành. Chứ không bao giờ cha mẹ cho của thừa mứa. Ui chao! Cha và mẹ sao xứng đôi về lòng nhân ái đến vậy không biết!

              Thắng đến nhà. Ô! Bất ngờ ghê. Thắng vào chào mẹ nàng, rồi anh lên phòng khách. Mẹ mỉm cười đôn hậu, nhìn Thắng chăm chú, như thể... mẹ muốn so sánh cân nhắc. Đôi má Hoài hây hây, nàng chột dạ quýnh quáng rù rì bên tai mẹ:
              - Không có chi. Mạ đừng ngó rứa, con mắc cỡ nì.
              - Chi lạ hì. Ai nói chi mà lo xa, rào đón rứa con.
              Mẹ cười, nguýt yêu con gái. Mẹ lúc nào cũng vui, khuôn mặt mẹ thật thà, hiền lành đôn hậu.
              Thắng đá lông nheo với Hoài, anh cứ chớp chớp mắt cười cười:
              - Các anh kia tính rủ mấy em đi loanh quanh.
              - Loanh quanh? Anh không muốn em bị đòn chứ.
              - Ơ. Anh em đi phố mà bị đòn gì! Em đi với anh Đan mới sợ ăn đòn, à em.
              - Ấy. Anh Đan thì thật là đồng hương, đồng hội, đồng thuyền à nha.
              - Coi chừng đấy. Có ngày nổi máu xung thiên lên, anh canh cả giàn trọng pháo, bắn vào nhà Tổ, thì tan nát hết họ hàng nhà mình bây giờ!
              - Trời ơi! Anh học đâu cái cảnh... nồi da xáo thịt vậy không biết. Anh em chúng ta bồ tèo nhau cả. Khó dễ nhau gì vậy? Điên rồi. Em ớn anh quá.
              - Khà khà khà...

              Hai xe jeep đang chờ ngoài cổng, Trúc chạy vào năn nỉ mẹ già cho phép Hoài đi chơi tí. Hoài dúi mái tóc thơm mùi bồ kết vào lòng mẹ, một tay nàng mò tìm vú mẹ. Mẹ cảm thấy nhột khi nào con xin phép mẹ cái kiễu ấy. Mẹ hất tay Hoài ra, nguýt yêu con gái, nhìn Thắng, mẹ nhỏ nhẹ nói:
              - Ừ. Cho con đi xí thôi nà.
              - Dạ, con cám ơn mẹ.

              Hoài cùng các bạn đi ra cửa. Xe chạy mấy vòng quanh đường Độc Lập, rồi quẹo qua Phan Châu Trinh. Các anh đổi ý muốn đi câu cá trên sông Hàn. Tám người thuê hai chiếc thuyền nhỏ nhẹ khua mái chèo, neo cặp sát thuyền bên nhau, họ thả lỏng tay câu. Thuyền lững lờ trôi trên sóng lăn tăn. Vui ơi là vui biết mấy! Chiến ngồi chung với Thu, Hoài. Anh nói:
              - Đi câu, mà Hoài và em mặc áo dài lướt thướt, coi bất tiện à!
              - Anh nói đi phố, đi xem ca nhạc. Bây giờ anh còn kêu la nỗi gì hử?!
              Hoài giận hờn, cầm hai tà áo dài cột vào giữa háng, coi y như đóng khố. Nàng tinh nghịch ghê. Thế là các anh chị nhao nhao lên về chuyện áo mí quần:
              - Ối giời. Áo mí khố. Nè, coi thằng Quang ngồi trong lu nước quen rồi, cứ đánh bố nó cái quần sọt, thì có chết con cá nào đâu nà.
              Hồng lên tiếng:
              - Giá biết trước là đi câu, em sẽ mặc áo quần tây, là xong. Hay... húi luôn đầu trọc với cái váy cụt, cho anh Chiến vui lòng hỉ!
              Chiến khoái chí cười:

              - Các cô nào có biết: Thời kỳ bọn thực dân Pháp đối đãi ác nghiệt với dân tộc mình, bọn họ hà khắt ghê gớm. Pháp dùng chính sách trực trị, để kềm chế, khủng bố, đàn áp gắt gao. Các cô biết không? Ngày 19 tháng 9 năm 1903, lính chiến đấu của ta, mà Pháp gọi là Khố Xanh, Khố Đỏ ấy. Tức là lính mặc quần xanh quần đỏ, mà họ kêu là "khố", để tỏ vẻ khinh bỉ miệt thị dân An Nam mình đó. Pháp bắt dân mình ở trần, mặc xà lõn, đóng "khố" hầu chạy cho nhanh, vì sợ mặc quần dài có hai ống vướng víu.
              Khiến sự bất mãn về cuộc sống, gian khổ, và mối thù giai cấp tăng cao, làm thức tỉnh người dân hồi ấy đã vùng lên mạnh mẽ. Việc cắt tóc ngắn, mặc quần áo ngắn được đồng bào ta hưởng ứng nhiệt liệt ấy nhe. Tuy vậy, tôi rất thích đàn bà thời ấy ăn mặc rất kín đáo, nhất là: dù mặc cái yếm thắm nửa kín đằng trước ngực, nửa hở một vạt sau lưng trần, mà có thể nói là không ngụ ý gì, tính tình họ đoan trang, thùy mị.

              Anh Tùng móc mồi xong thả xuống nước, tủm tỉm cười:
              - Để tôi nói cho các bạn nghe chuyện ăn mặc ở Việt Nam hồi đó như thế nào nhé: Tự ngày xưa, dân An Nam có truyền thống ăn mặc gọn gàng, kín đáo, và đẹp mắt. Lối ăn mặc nầy trước tiên phát xuất ở ngoài Bắc: đàn bà con gái khi trời nóng và ở trong nhà, thì họ đeo yếm thắm (đủ màu) cột bốn dải thắt ra sau gáy và lưng, thứ nhất là che bộ ngực, thứ nhì có thể là tiết kiệm vải ở sau lưng, thứ ba là để cho tấm lưng mát mẻ xí.
              Nếu họ đi ra ngoài hoặc đi đâu xa, họ mặc thêm cái áo dài tứ thân. Váy đen dài khiêm tốn chấm tới mắt cá. Họ mang guốc mộc, đội nón lá hay nón quai thao, khoát tay nải, coi duyên dáng xinh xắn làm sao ấy! Phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, vì mặc "khố" dài lướt thướt, rộng thùng thình, đi đứng có phần vướng vít, trở ngại, khó khăn. Nên họ cắt bớt "khố", cho ngắn bớt lên tới mắt cá chừng vài gang tay.
              Rồi thì… phụ nữ mặc chiếc váy mới, thấy dài không ra dài, ngắn không ra ngắn, họ cảm thấy dị dị kỳ kỳ, khó coi, khó chịu sao đó. Nên các bà các cô tân thời bèn làm một cuộc cách mạng nữa: Họ mặc "khố" ngắn tới đầu gối cho nó... gọn.

              Các bạn nhìn nhau cười cười. Tay nầy trầm ngâm, thâm trầm, ngầm ngầm mà đấm chết voi, chắc là có vấn đề dí dỏm gì đây.
              Anh Tùng thủng thẳng nói tiếp:

              - Tưởng như vậy là yên thân chiếc "khố đầm". Nào ngờ, đời Vua Lê, Càn Vương hay Chiêu Thống gì đó. Tôi quên mất. Đại khái là đời vua Lê. Mỗi lần Ngài ngự giá, hay thân chinh đi đó đây thăm dân cho biết sự tình, thì vua thấy "liềng bà con cấy" đi lại ở ngoài đường, ngoài chợ không mấy kín đáo, người nào người nấy cũng đưa hai ống quyển (“lem dem” mốc mốc ít gợi cảm, đen sì không ra đen, trăng trắng không ra trắng). Hai ống quyển cứ mông mốc màu tro xám. Đôi khi vua thấy họ ngồi chò hỏ ngoài ruộng, ngoài rẫy, họ vô tình bỏ quên "cái sự đời em ra" phơi nắng phơi mưa, phơi sương phơi gió. Mà thật tình họ lo lam lo làm, không mảy may hay biết gì, nên để tông hốc chỗ nớ cho gió lùa vào. Thật ra vua cũng chu đáo lo cho sức khỏe của bá tánh, thấy họ không giữ ấm thân thể, là vua thương... đứt ruột, thương đứt đuôi con nòng nọc í chứ!
              Tiến tiếp lời:
              - Khà khà! Anh Tùng nói đúng. Hồi đó có ai biết mặc “xì níp” đâu. Hê hê hê...

              - Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? À, à... Phụ nữ nước ta xưa nay đa số vốn nổi tiếng là đoan trang, nết na thuỳ mị, ăn mặc kín đáo. Bỗng dưng cái “khố" ấy nay hớt cao lên tới gần đầu gối, họ ngượng ngùng, coi cũng khó chịu ha. Nhất là khi vua ngự giá đó đây, thì họ càng lo lắng sợ sệt, bẽn lẽn, run lập cập; vì sợ, vì đói, vì rét, hay vì e thẹn? Tôi chả biết. Thế nên họ cứ té lăn chiên đổ đèn, chổng mông hoặc giơ hai cẳng chân khẳng khiu quơ quơ lên trời. Rồi thì ngọn gió vô tình lại tốc ngược chiếc "khố đụp" lên quá... bẹn. Cả họ hàng nhà nó cứ vô tình tô hô tơ hơ “cái sự đời em” ra rõ mồn một, chẳng có xì líp xì lơ chi hết.

              Mặc các bạn cười chảy nước mắt, họ nghiêng ngã người trên thuyền. Vương Gia Tùng bác sĩ “đẹp giai” nhà ta thì tỉnh queo không cười. Hứ, chuyện nầy có chi mà cười chứ! Làm bác sĩ nhiều lần phải khám hết mọi chỗ, cho dù chỗ kín nhất của ông bà nam phụ lão ấu, cũng là chuyện bình thường. Nhìn ảnh không cười, ai nấy càng mắc cười kinh khủng. Tùng ung dung và duyên dáng kể tiếp:
              - Vua Lê là người khá hào hoa, thanh lịch, văn nhã và đầy nghệ thuật vị nhân sinh, ngài nhìn cảnh trái tai gai mắt đó nhiều lần, coi cũng dị hợm, nhột nhạt và chướng quá đi, nên vua đã xuống chiếu nghiêm cấm "liềng bà con cấy" không được mặc "khố đụp". Nghĩa là cấm không mặc váy! Á à tôi quên. Ngài tao nhã không dùng tiếng "khố" miệt thị, không nói tiếng "váy" văn chương tân thời, mà Ngài nói:
              - Phải "mặc quần không có hai ống", (nghe văn nhã hơn).
              - Thế là phụ nữ bắt đầu mặc quần không có hai ống dài xuống mắc cá chân.
              Ngừng một lúc, anh Tùng liếc nhìn các bạn:
              - Có yên đâu. Phải rồi! Chưa yên. Tôi nhớ có lẽ không lầm đúng một trăm sáu mươi ba năm sau. Vua Minh Mạng thứ 9 đã ban một chiếu dụ khác, trái ngược lại là: cấm chỉ "liềng bà con cấy" không được mặc "váy đụp" tổn hổn tển hển như thế. Mà mặc quần dài phải có hai ống hẳn hoi. Thế là "quần có hai ống" ra đời từ đó. Nào, bi chừ các cô thích thứ gì: Mặc "khố", "quần có hai ống", hay là mặc "váy đụp"... Hỉ?
              Anh Đức (quân y) tủm tỉm cười:
              - Chuyện nầy hỏi Hoài thì rõ nha.

              Hoài liếc liếc nhìn các anh chị, vui vẻ thảo luận:
              - Về “Chuyện Áo Quần” đúng như thế đấy ạ! Dạ vâng! Ngày xưa phụ nữ trang phục như vậy, âu cũng là đài các quý phái lắm rồi. Thế mà sau nầy họa sĩ Cát Tường (Lemur) còn đề xướng ra một "mốt tân thời" khá hấp dẫn khác: (chiếc áo tứ thân, khăn mỏ quạ, váy xồi guốc mộc... đã được thay vào những chiếc áo dài của phụ nữ, cho thêm phần duyên dáng hấp dẫn và xuất sắc hơn).
              Áo dài có đủ kiểu: áo dài cổ truyền hai vạt, có nếp áo ôm vào thân, áo dài khi ngắn lên qua nửa ống quyển, khi dài chấm gót chân, lâu lâu thay đổi xí. Áo dài hồi xưa may bâu lót viền quanh cổ áo (nhưng bây giờ phụ nữ ít thấy ai mặc, chỉ còn áo dài dành cho ông già vẫn có bâu). Tà áo khi hẹp khi rộng, khi thấp khi cao theo thời trang. Thường thay đổi cổ áo nhất: cổ áo kiểu tròn, cổ áo kiểu áo bà Nhu, cổ áo kiểu trái tim, cổ áo kiểu hở vai hơi xệ trước đầu ngực, hai vai phồng.
              Như bây giờ Hoài đang mặc đây là áo dài cổ cao đến nỗi quay qua quay về bị cấn. Thợ may còn luồng một sợi dây nhỏ ở ngay eo, thắt rất chặt, để siết hai tà áo vô hông theo vòng eo, cho nhỏ xíu lại. Trên tà áo gắn kim tuyến, hay thêu đủ hình hoa hình phượng tuyệt đẹp. Kèm vào áo dài là chiếc quần dài màu trắng (hoặc màu đen,) rộng loe dưới ống hẳn hoi, loại vải quần mỏng mượt, mịn màng.
              - Rồi sao nữa!?

              - Dạ thưa... Chuyện Áo Quần 1 nè (thời trang theo từng thập niên) thì: Trước tiên đã được du nhập vào Việt Nam từ thời Trung Hoa {(mà thuở ấy dân ta gọi là Tàu) đô hộ nước ta 1.000 năm}. Thưa, cũng nên công bình mà nói thì… như quý vị đã thấy là: Chiếc áo Thượng Hải của Tàu dựa trên hình thức kiểu mẫu đã có từ lâu, ta cứ thẳng thắng trung thực mà nhìn, thì chúng ta thấy nó không khác gì tà áo dài Việt Nam là mấy ạ. Cũng kiểu cổ áo kín và cao, kiểu nút gài từ giữa cổ, có vạt hò bên trong, có hàng nút thắt từ cổ chéo qua ngực phải và tới nách, rồi hàng nút ấy buông xuống một bên hông phải. Còn một bên hông trái không có hàng nút, thì người Tàu may bít xuống tới dưới bắp đùi, quá đầu gối, hoặc xuống tận gót chân; phía dưới từ đầu gối trở xuống là áo xẻ cao một bên tà áo.
              Rất khác một vài điều là: áo Thượng Hải không có hai tà áo rời hẳn ra từ hông; (như hai tà áo dài của phụ nữ Việt Nam); mà họ may bít một bên hông, may bít từ bên hông trái xuống tận gót chân, na ná như áo đầm bó thân bên trời Tây. Nôm na gọi là "bên kín bên hở" hay là "nửa kín nửa hở"... Họ thường may các loại áo vải hơi dày như nhung, gấm, nĩ, nên kiểu áo Thượng Hải phụ nữ Tàu coi cứng đơ, không uyển chuyển gợi cảm là bao. Áo Thượng Hải có loại áo dài tay. Có loại áo sát nách (không có tay).

              2.- Trong khi đó thì phụ nữ Việt Nam mặc áo dài có hai tà rời từ hai bên hông, gần thắt lưng trở xuống gót chân. Thế nên mỗi cử động của phụ nữ Việt Nam đều nhịp nhàng, uyển chuyển, tha thướt, duyên dáng, hấp dẫn theo từng bước chân; hai tà áo dài e ấp nép vào đôi ống vải quần mong mỏng, nhè nhẹ bay bay trong gió. Trông ai mặc áo dài cũng tha thướt, uyển chuyển, khả ái, xinh lịch và quyến rũ. (Hình ảnh ấy tuyệt đẹp, phải không xin thưa quý vị)?

              Vào thập niên 30 ở thế kỷ 20 – Người “An Nam” ông cha chúng ta còn hãi hùng chìm đắm trong chế độ cai trị của Tàu. Sau đó họ sợ hãi bởi ách đô hộ của thực dân Pháp, do toàn quyền Đông Dương tên Pierre Pasquier cai trị. Trong bối cảnh lịch sử nói chung, đầu tiên nhờ có nhóm Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có tư tưởng cải cách tiến bộ, ông đã mạnh dạn đứng lên làm một cuộc cách mạng, bao gồm: Xã hội, giáo dục, nghệ thuật &… Le Romantisme Révolutionnnaire (lãng mạn cách mạng, truyện của nhóm TLVĐ).
              Sau đó, nhóm TLVĐ xin giấy phép lập “Hội Ánh Sáng”, để thực hiện ước mơ “tân trang” một xã hội lành mạnh (nhưng vẫn lưu giữ những hình ảnh đẹp trong tinh hoa thuần tuý cổ truyền Việt Nam). Thế là họ thành công… & có họa sĩ Cát Tường: là họa sĩ đầu tiên vẽ đủ thứ kiểu: từ nhà cửa, bàn ghế, tủ, cho đến bóp đầm, giày dép ...v.v… Trong đó có kiểu áo dài Việt Nam.
              Anh Tâm đã hất hàm hỏi anh Đức bên Quân-y:
              - Dựa trên cái gì để vẻ mẫu, hoạ kiểu cho các mùa thời trang, anh Đức hỉ?

              - Câu hỏi nầy thật là hóc búa đây, xin thưa quý vị! Theo thiển ý của tôi thì thế nầy: vẫn dựa theo sự chuyển mình tất yếu của lịch sử, sự tiến hóa không ngừng "cải cách", và sự giao mùa của từng dân tộc. (Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung). Theo đà tiến hóa không ngừng trên vũ trụ nầy, thì con người ở mỗi quốc gia ngày càng trở nên thông thái, phát huy, có óc sáng tạo tinh vi. Họ không ngừng tự nghĩ ra những “kiểu mẫu” mới, để minh họa cho các mùa, thời trang tuyệt hảo phải phù hợp theo mỗi chu kỳ của quả đất, thích hợp cho dân tộc họ, có thể cho cả thế giới đấy ạ. Tôi tài hèn sức mọn, biết chút chút đến đâu, thì xin chia sẻ cùng quý vị đến đó; ngỏ hầu mong học hỏi thêm. Ngoài ra không dám gì hơn ạ. Dẫu sao thì tôi cũng có chút kinh nghiệm về chuyện nầy.

              Khách hàng may đồ bảnh nhất và ưa chưng diện thường là mấy bà sồn sồn, hoặc có tuổi, họ dư dả tiền bạc, thích se sua “đài các”, mỗi lần họ may cả chục áo đủ kiểu, đủ màu. Hơn nữa thân hình của họ lại hơi “nẩy nở phì nhiêu”, nên áo dài mau chật, họ cũng hiếm khi may áo ôm sát (nếu người mập, mà mặc áo dài chật, “khúc lưng” sẽ có từng ngấn lõm vô lồi ra, thì chẳng khác nào đòn bánh tét, lòi mỡ ra còn gì!!) nên thợ dễ cắt may, mà ăn tiền ngon lắm. Nhưng mấy cô nhí choai choai thì đâu có tiền dư, lâu lâu mới may được một vài cái áo dài. Vả lại trẻ tuổi eo co thích mặc ôm sát thân, ngực nở, lại độn thêm cái bra gọng thép chần dần. Nếu thợ may cắt không khéo, là nhăn áo. Đức tôi kể thêm một chuyện vui nghề này hầu quý cụ nghe nhé:
              Có một khách hàng trẻ, dân Bắc đến may ở tiệm má tôi, cô ta đòi:
              - Anh làm thế nào mà “ôm”, nhưng không “nhấn” cho em nhé? (nghĩa là áo ôm sát vô thân, nhưng không nhấn ben eo...).
              Đức tôi ỡm ờ trả lời:
              - “Ôm” mà không cho “nhấn”, làm sao thích thú… làm ăn khớp cho được! Vậy ôm làm chi.
              Các bạn trai khoái chí cười ha ha ha...

              - Theo tôi nghĩ: thời trang là những gì thể hiện cái đẹp theo cách nhìn và cảm nhận của thời đại, vì thế có rất nhiều dòng thời trang khác nhau trên thế giới, tùy theo mỗi dân tộc, nhóm người, giống phái: nam nữ, già trẻ... Tuy nhiên có khi sự cảm nhận, suy nghĩ lệch ra, khác đi, thì thời trang của họ thể hiện cũng khác đi. Bây giờ đa nguyên nam nữ bình đẵng, do đó thời trang phái yếu phái mạnh gần giống nhau. Quan trọng là chọn lựa thời trang, kiểu dáng, màu sắc, hoa văn phù hợp lứa tuổi, vóc dáng của mình, và cũng quan trọng là để mình mặc vào dịp nào? Ăn diện thì hợp nhất với ăn chơi, tiệc tùng, party, dancing, kéo theo các đồ phụ tùng khác cho thích hợp, rồi phấn son, nước hoa...

              Về đề tài thời trang, quần áo thì mênh mông, có chiều dài bằng lịch sử con người, cho nên Đức tôi chỉ xin nói về một ít mà tôi đã trải qua, cũng như sự suy nghĩ riêng. Theo tôi điểm chính yếu để tạo ra thời trang nói chung là để tăng thêm sự hấp dẫn, nét đẹp của trang phục người phụ nữ là nhiều nhất. Cũng từ ý tưởng đó và tùy theo thời đại, xã hội... nếu ý thích của đa số là vẻ đẹp mong manh, liêu trai, mềm mại, thì thời trang áo quần, tóc tai, trang sức cũng theo chiều hướng đó.
              Nhưng vào lúc khác, cái đẹp là mạnh khỏe, sexy, nóng bỏng, thì thời trang ở thời gian đó cũng thay đổi như thế. Nói chung là quan điểm bây giờ về sự hấp dẫn, có thể là thiên về sex nhiều hơn, như các kiểu quần xệ, áo hở vai, lưng, ngực... Nếu nhà tạo mẫu nào nắm bắt được xu hướng sắp tới, thì họ đi trước một bước, đưa ra kiểu, dáng, màu sắc, hoa văn… rồi tung ra quảng cáo, là ăn chắc. Trong thời gian trước, hầu như thiết kế thời trang của Việt Nam đa số bị gò bó, cổ hủ, cứng ngắc, bắt chước, lệ thuộc, hiếm có nét đặc thù riêng cho người Việt mình.

              Lan vui vui bắt chuyện hỏi anh Đức:
              - Anh là quân y đã đành, bộ anh có học nghề may, hay sao, mà rành sáu câu quá vậy!?
              - Hà hà... vì má tôi là chủ tiệm may. Đúng... Hồi ấy tôi cũng thích ngắm người đẹp, rảnh rỗi có theo học nghề với một ông thầy may đồ đầm từ thời Pháp là ông Ba Cao, ông có một câu nói cho đệ tử nhập môn là:
              - “Muốn giỏi và tiến trong nghề đồ đầm phụ nữ, là phải có máu dê trong người, ai không dê, là không theo nghề được”! Lúc đầu tôi cho là ông nói giởn chơi. Nhưng sau này nghĩ lại đúng có máu dê, thì mới ưa thích nhìn ngắm, tìm hiểu về thân hình phụ nữ, sẽ thấy được cái xấu, đẹp, mới làm ra cái skirt, long dress, áo dài... phô trương cái đẹp và che bớt cái xấu của khách hàng. Nói chung là yêu nghề, nghề may và nghề Y giống nhau ở điểm này: hạ một mũi kéo, hay rạch một vết dao mổ bệnh nhân, thì phải biết dưới tay mình là gì, lơ mơ cắt trúng động mạch, nerve... là toi mạng. Cái giống nhau thứ hai về cắt may khác ngành y là: dùng cái kéo lớn, kéo nhỏ, phục vụ khách hàng khác nhau.

              Tôi làm nghề Y là thấy thương bệnh binh mặt mày đau đớn nhăn nhó, lem luốt, máu me, họ nhìn mình với đôi mắt cầu mong và tất cả hy vọng, tin tưởng, và năn nỉ. Còn nghề may thì ta làm cho “khách” thêm đẹp đẽ, thơm phức, khiến mình ưa “dòm”, nhưng mình cầm kéo cắt vải là chìu theo ý thích của họ! Một điều quan trọng nữa là môn cơ thể học cũng áp dụng được trong ngành may, nhờ đó mà tôi biết rõ “đối phương” là già, hay trẻ, người ấy là dân miền Nam hay miền Bắc. Từ đó tôi gia giảm rộng hẹp, vân vân… Giàu kinh nghiệm mà ăn tiền là ở chỗ đó, cũng có đôi khi bị tổ trác, (do ổng lo đi rờ mó chi chi), nhưng ít khi bị lầm.
              Hoài gật đầu tán thành:
              - Anh nói rất chí lý. Bây giờ em thấy họ mặc áo dài mốt mới raglan anh à.
              Đức gật gù:

              - Áo dài raglan may cho đẹp, ôm sát thẳng thớm đã khó, mà kiểu cổ thuyền (giống cổ áo bà Nhu) còn khó hơn, ta nhìn áo chưng bày trên tượng hình, thì đẹp vậy, mà mặc vào, chưa chắc à. Về áo dài Raglan: Theo tôi được biết thì người sáng chế ra kiểu áo dài này là do ông chủ tiệm may Dung ở vùng Dakao, Tân định, gần chỗ rạp Casino-Dakao). Thời thập niên 60, tiệm Dung cắt may y phục phụ nữ nổi tiếng cho tới bây giờ. Tôi thọ giáo nhiều nơi dành cho các chủ tiệm theo học, để up-grade nghề nghiệp. Có cô khách nhí may áo dài cổ thuyền, cô ta bảo làm giống như áo mẫu chưng ở tủ. Tôi cắt xong, cho thợ may đâu đó xong xuôi, cô nhí đem về nhà, không biết ở nhà cô ta có ý kiến ý cò sao đó.
              Hôm sau cô nhí ôm áo lại, chê sao khoét cổ rộng quá, mặc hở ngực ra coi kỳ. Tôi bảo mặc thử xem sao, thì đúng là có hở hang, đưa ngực ra coi hấp dẫn lắm, tôi mê. Nhưng cổ áo đã khoét rồi, làm sao thu nhỏ hẹp lại, giống như hớt tóc ngắn, cao, làm sao cho tóc dài ra liền được! Năn nỉ hoài “cô nhí” cứ làm khó dễ. Tôi đánh liều nói:
              - Cổ áo khoét rồi giờ đưa lên cao không được. Nhưng tôi có thể “bấm”... cho ngực em xệ xuống được...
              - "Con gà mái ghẹ” của tôi nó trợn mắt xù lông lên liền... Ha ha ha... Nhưng thưa các bạn, trong ngành may cũng giống như nhiều ngành khác, người Việt (và người Á Châu) dấu nghề ghê lắm, tệ trạng này kéo dài tới bây giờ, cho nên các quảng cáo ghi là: (bí truyền, gia truyền!) đó chỉ là sự ích kỷ, không thể tiến bộ được. Nói về kinh nghiệm thì đa số có thể do kiến thức không cao, không phong phú, chỉ biết là làm lâu năm, thấy gia giảm như thế... là tốt đẹp, thì từ đó họ coi đó là kinh nghiệm gia truyền. Khác với sự suy luận, kinh nghiệm có thể 10-15 năm tạo thành.
              Nhưng suy luận có thể trong 15 phút, là biết tại sao và phải làm thế nào. Công thức cắt áo của má tôi, tôi sửa lại gần hết, vì má tôi dùng công thức xưa quá, theo lối cũ, rườm rà, khó hiểu, không thực dụng. Bây giờ nhìn những áo dài thời trang hiện nay tôi mê lắm, giới trẻ học trường lớp đầy đủ kiến thức, không như mình là “học đại”! Khi nào người mình không còn tính ích kỷ, gia truyền, bí truyền... thì người Việt mới tiến bộ như đám Tây, đám Mẽo được.

              Tùng gật gù góp ý:
              - Khi nhìn vào một người đẹp mặc áo dài, đầu tiên là phần ngực, chân cổ ôm sát, không nhăn, tới phần nách tay, phần eo và bên hông, hai tà áo úp vào, khoảng hở eo cao, nhìn hấp dẫn, rồi tới phần hoạ tiết, hoa thêu... Quan trọng nhất vẫn là điểm hai đầu ngực cao thấp, khoảng cách, và xuôi vai... Người thợ chịu khó chú ý, cẩn thận, thì làm khách hàng đẹp thêm, che dấu bớt những khuyết điểm, họ thoải mái tự tin khi mặc chiếc áo dài, là thợ may thành công.
              - Về áo dài nhung, bạn may nên chú ý: chọn tuyết nhung (lông) ngược, khi ra nắng sáng óng ánh đẹp. Nhưng mau cũ và phai màu. Tuyết nhung xuôi thì giữ màu lâu, rờ tay vào thấy mịn màng mềm mại. “Nghề chơi” cũng lắm công phu, mà bàn thêm nữa... thì tôi bù trất, chỉ muốn xông vô mà “ôm nàng cho đã...”

              Các cô quê xệ che mặt cười khúc khích. Còn các cậu thì khoái chí lêu lêu các cô, và cười ha ha ha thả thuyền câu theo dòng nước. Các bạn chuyện trò vui vẻ, họ kể nào là chuyện Đại Đế Napoléon Bonaparte. Chuyện Ludwigvan Beethoven nhà soạn nhạc lừng danh; họ lại chuyển qua chuyện Michael Faraday, nhà bác học lỗi lạc. Kể cả những chuyện tiếu lâm khôi hài vui hết biết. Có thi sĩ đã viết về áo dài:
              Ngực eo không vừa lại tháo chỉ ra
              Ráp chưa xong trống đã điểm canh ba
              Nơi cuối xóm tiếng gà gáy dội.
              Hai bên vắt chéo xâu xâu vội (*)
              Một sợi đâm ngang đạp đạp mau (*)
              Chân vịt đưa mấp máy suốt đêm thâu
              Xong một cái, nhẹ chiếc đầu biết mấy!
              (*TNL)

              Hoài mỉm cười xin thầm hỏi: Chuyện áo quần “tiếu lâm” có thật, và chuyện đại đế Napoleon Bonaparte lừng danh như thế. Quý vị thích nghe chuyện nào. Thưa quý vị? Còn Hoài thì… ỏn ẻn thủ thỉ tự thú nhận: Em chả… “thíc” đại đế đại điếc chi cả; mà em chỉ thích mặc “quần không có hai ống” thôi đấy ạ!!!

              (*) Lược áo ráp thử.
              (*) Xỏ chỉ đạp máy (“Thức đêm may áo” thơ Trần Nhất Lang).

              _ * _


              Tình Hoài Hương


              Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-15-2017, 01:49 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • #97
                Cách huấn luyện CHIM & CHÓ


                Cách huấn luyện CHIM & CHÓ



                Ngôi nhà ngói ba má tôi đã sinh sống cao năm bậc cấp, có ba gian hai chái, thềm sân rộng lát gạch tàu, bên một gian chái là giàn hoa thiên lý treo chiếc lồng cu gáy sơn son thiếp vàng, chúng đang gù gáy bạn đời, nghe thật hay. Lồng bên cặp cưỡng đen tuyền đang nhảy nhót, chim hót don dỏn giọng tiếng Việt, nghe líu lo. Ngoài những giờ bận rộn, ba tôi có thú tiêu khiển điền viên tao nhã, tri thức mỗi khi trà dư tửu hậu; ấy là ba cùng vài bạn tri âm ngồi dưới giàn hoa thiên lý cạnh hàng hiên bên giại nứa, họ đầm ấm hiền hòa ngâm thơ, vịnh nguyệt, trồng cây kiểng, nuôi sáo, nuôi cưỡng, huấn luyện bồ câu đưa thư, và nuôi chó quý. Họ bàn thảo với nhau về kinh nghiệm nuôi, chọn chim: Chim mà có mỏ quắp, là chim hung dữ, đáng sợ . “Chim hồng chim hộc cất cánh bay cao, là nhờ lông cánh. Lông to dưới bụng, lông nhỏ trên lưng, mọc thêm một nắm, bay chẳng cao hơn, Rụng mất một nắm, bay chẳng thấp hơn”. (Hàn thi ngoại truyện).

                Ba tôi có biệt tài nuôi chim và giàu kinh nghiệm khi huấn luyện loại chim bồ câu đưa thư, cũng như nuôi dạy chó khôn đưa tin đi xa. Trước khi muốn nuôi chim bồ câu, ba tôi tự cưa cây, bào gỗ làm một cái chuồng xinh xắn khá to lớn, chuồng sơn xanh sơn đỏ, vẽ hoa lá cành, nóc lợp ngói, có hành lang song gỗ tròn chạy chung quanh chuồng chim. Ba làm việc gì cũng khéo tay, coi thật cầu kỳ, đẹp lạ thường. Chuồng chim núp dưới bóng mát của những tàng cây rợp lá, chuồng đặt trên một cây cột cao, có rào kẽm gai ở dưới (đề phòng mèo rình bắt chim con). Chuồng có những “ngăn phòng” riêng biệt đóng kín, chỉ có một cửa ra vào hình tròn, mỗi “phòng chim” rộng khoảng 30cm, mỗi bề mặt của các ô cửa có tấm màn lưới mỏng treo lơ lửng.

                1./ Chọn mua vài ba cặp bồ câu có chân đỏ, mỏ đỏ, mắt đỏ, bộ lông mịn trắng (cũng có khi chọn bồ câu lông màu nâu, màu xám). Khi tôi vãi lúa, bắp khô ra sân rộng, nhìn cảnh gia súc: gà, vịt, ngỗng, ngan… vui vẻ nhộn nhịp “tưng bừng nhậu nhẹt”, coi thật thú vị lắm. Đặc biệt ở cạnh trên bốn góc chuồng bồ câu cao, loài chim thông minh nầy được ăn thêm: đậu xanh cà hột giả dập dập, rồi nhào trộn với cám hơi nhão, (do có tẩm xíu nước, để các thứ ấy dính với nhau). Sau khi từng cặp chim bồ câu lớn lên, trở thành “có đôi có cặp”, (việc chọn và biết con chim nào là con trống, con chim nào là chim mái, cũng công phu, phải hiểu biết và có kinh nghiệm). Chim đẻ trứng, ấp trứng nở ra con. Có nhiều cách huấn luyện bồ câu đưa thư:

                2./ Khi bồ câu đã có con, và “bồ câu nhí” mở mắt, ra ràng, ta để cho bồ câu nhí làm quen và thân thiết với ổ của mình, thì sau đó thả cặp “bồ câu cha mẹ” ra ngoài ổ.

                3./ Kéo tấm lưới ngăn lại (cho bồ câu nhí không thể bay ra khỏi chuồng, chúng chỉ quanh quẩn ở trong tổ). Bồ câu cha mẹ sẽ đứng ở ngoài tấm lưới mắt cáo, để chúng có thể thò mỏ vô mớm mồi cho hai con nhỏ ăn, uống, dễ dàng.

                4./ Đem nhốt một trong hai con chim nầy (bồ câu cha, hoặc bồ câu mẹ) ở một cái lồng khác. Chừa lại một con chim ở ngoài trời, Vì cha (hoặc mẹ) không được ở gần con, nên nó luôn luôn quyến luyến, nhớ thương (vợ, hoặc chồng, và con) mà chim sẽ quanh quẩn bên chuồng, bên con.

                5./ Đem bồ câu cha đã nhốt trong lồng mới, xách lồng đi thật xa chuồng cũ sơn son thiếp vàng kia, để lồng chim ở đó một ngày đêm. Ngày hôm sau, thả con bồ câu nầy ra. Bồ câu cha (hoặc mẹ) lập tức bay về chuồng cũ, và chung thủy “tìm vợ, tìm con”. Ta sẽ thay đổi vị trí, kiên nhẫn làm lại y như thế nhiều lần (với bồ câu cha, mẹ kia).

                6./ Từ đó, ta sẽ kéo đường dài (kéo cây số) đi một khoảng cách khá xa xa. Ví dụ trước kia khoảng cách giữa chuồng chim ở nhà, và lồng chim là 50 mét, nay bồ câu đã quen bay lui bay tới chuồng, thì tuần lễ sau, ta sẽ kéo dài khoảng cách thêm xa xa thành 100 mét. Ở góc khuất rất xa đó, ta thả bồ câu ra, cho nó tìm đường bay về tổ. Vân vân…

                7./ Cặp bồ câu nhí không nên thả ra cùng một lúc, vì cả hai con nhí nầy khi đã được bay nhảy, thì tung tăng ngoài bầu trời thênh thang và tự do, chúng sẽ hẹn nhau bay đi xây tổ ấm “mút mùa lệ thủy”, chim bay đi… một bay không trở lại.

                8./ Hai con nhí đã trưởng thành, (mọc đủ lông cánh) thì ta kéo tấm lưới sắt lên, cho “cha mẹ con cái” sống chung một nhà, để cha mẹ chúng huấn luyện con cái tập bay chuyền, bay bổng, và nhập đàn với bạn trong một thời gian dài.

                9./ Cách phân ly khác: Tách bồ câu trống ra khỏi chuồng, đem một con bồ câu trống cũ nầy thả cho nó bay ra ngoài trời. Ta nhốt một con bồ câu trống xa lạ khác vô trong chuồng, cho nó ở chung với “con vợ cũ”. “Thằng chồng bồ câu cũ” đang cảm thấy mình bị phản bội, bị kẻ khác ve vãn và sẽ cướp đoạt mất vợ, nên nó điên cuồng nổi cơn ghen, cứ lẩn quẩn bên chuồng chim. Ta vẫn làm “cái sách cũ”, nghĩa là cột một cái ống trúc khô, nhẹ, nhỏ, ở cổ chân chim, sau đó nhốt con trống (hoặc mái) vô trong lồng bịt kín, đem lồng chim đi thật xa, xa hẳn chuồng. Ở địa điểm mới, ta thả bồ câu ra, nó sẽ tung cánh lên cao, liền vội vã bay về tổ ấm. Thế là thành công. Ba tôi còn bẫy chim sáo, nhồng, cưỡng… cho chim ăn ớt, ăn bắp xay, lúa… nuôi dạy chúng biết nói tiếng người. Nghe líu lo hay lắm.

                Ba tôi còn có một “ngón nghề” tuyệt vời nữa là: cách huấn luyện nuôi dạy chó đưa thư, loại giống chó berger khôn thế nầy:

                1./ Đại cương về cách chọn giống chó: Không chọn giống chó chấm lông ở ngay chính giữa trán, và bị chấm lọ (bất cứ màu gì) ở đuôi, thì không nuôi giống ấy. Nhưng phía trên, gần hai mắt ở cạnh lông mày của chó, nếu có hai chấm tròn, lông xoáy (vàng, đen, hoặc trắng… khác với màu lông của thân thể chó), là giống tốt “đốm đầu thì nuôi, nhưng đốm ở đuôi thì thịt”. Đặc điểm cần chọn của giống chó tốt: Đuôi chó luôn ở bên trái. Lưỡi chó có đốm đen dài. Bốn chân chó cứng cáp trên thân hình chó vạm vỡ. Có nghĩa là ngực nở to, nhưng phần bụng phải thon gọn. Hai tai chó luôn đứng thẳng, chó thính tai nghe rõ (tai chó không cụp qua một bên). Muốn hai lỗ tai chó thẳng đứng và tinh khôn, (vì hai tai chó đứng thẳng, thì nó nghe rất thính) một tuần vài lần, ta nên cho chó ăn trứng gà tươi trộn phổi bò.

                2./ Chọn giống chó: Nên chọn chó mõm dài. “bạch cẩu hoàng đầu lưng bối nguyệt” = Thân có lông trắng, đầu lông vàng, lưng chó có lông như hình trăng rằm, mắt to đen láy, mũi hồng, lưỡi dài có đốm đen, tứ túc huyền đề. Giống chó nầy đặc biệt rất quý hiếm, ít thấy.

                3./ Thân chó lông màu đen, bốn chân lông màu trắng, giống như ở chân chó mang đôi vớ trắng (tất), gọi là = “hắc cẩu tứ bạch”.
                - Toàn thân chó có màu lông vàng óng ả, gọi là = “hoàng cẩu”.
                - Lông xoáy ở trên lưng chó mọc xuôi từ đầu chạy về đầu đuôi, gọi là = “Bối kiếm cẩu”.

                a./ Ngoài bốn chân chó, có thêm bốn cái móng đeo nhỏ lủng lẳng ở mỗi chân, gọi là = “Tứ túc huyền đề”.
                b./ Ngoài bốn chân chó, có thêm hai đeo nhỏ ở mỗi chân trước, và một đeo ở mỗi chân sau. Gọi là = “Lục hợp cẩu”.
                c./ Ngoài bốn chân chó, mỗi chân chó có thêm hai móng đeo nhỏ. Có 8 móng đeo ở bốn chân, gọi là = “bát long cẩu”.
                d./ “Lưỡng cẩu” = là bốn chân chó chỉ có hai móng đeo ở hai chân.

                4./ Ta thân thiện với “chó nhí” từ khi chúng còn nhỏ. – Biết tính nết chó – Đặt tên chó & gọi tên nó mỗi ngày nhiều lần, cho chó quen biết tên của nó - Huấn luyện chó nhí từ việc nhỏ nhất, ví dụ: thường xuyên dạy chó đứng – ngồi – nằm - bắt tay mình – dạy chó ăn, uống khi nào được cho phép – cùng chó đá banh - ném banh, ném lon ra xa, ta và chó đi nhặt về, nhiều lần. Sau đó để chó tự đi nhặt về đưa cho mình. Mỗi lần chó “làm việc giỏi”, ta thưởng cho chó món ăn mà nó ưa thích.

                5./ Sau đó ta dần dần huấn luyện thêm những việc khó hơn, ví dụ: dạy chó giữ nhà. Chó biết phân biệt người thân và khách lạ, (chó thông minh, chính vì thế mà chó ưa sủa rần trời, mỗi khi có người lạ, hoặc nhà có kẻ trộm rình). Dạy chó phân biệt gia súc của nhà mình nuôi, khác với gia súc của hàng xóm. Dẫn chó đi săn bắt: chuột, chim, gà rừng, vân vân… Dạy chó đi nhận thư ở nhà nầy đến nhà khác: Ta cùng chó đi gửi thư ở bưu điện nhiều lần, cho chó quen hơi người lạ ấy, ta gọi tên của ông ấy hoài, cho chó ngửi mùi người ấy, sẽ quen hơi. Nó biết nơi chỗ cần đến. Sau đó, một mình ta cột thư ở cổ chó, và dẫn chó đến cho người sẽ nhận thư (người mà chó quen hơi biết mặt trước kia), ta vỗ vỗ vào đầu chó, thân thiện vuốt ve và gọi tên chó: “To Bi… hãy để ông (tên X…) mở túi xách ở cổ ra, nhận thư”. Nhiều lần như thế, tất nhiên con chó thông minh, tinh khôn, và hiểu ra ngay.
                Ba tôi kiên nhẫn dạy chó, chim (tận tụy, giống như ba tôi đã kiên cường trong việc chữa trị bệnh nhân), nên ba tôi rất thành công trong việc nuôi dạy chim & chó.

                ***
                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-15-2014, 09:12 PM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • #98
                  CHA MẸ Tôi (đã từng) Nén Lại Chân Quê




                  CHA MẸ Tôi (đã từng) Nén Lại Chân Quê
                  THH xin cống hiến quý độc giả HQPD bài viết về CHA.
                  Thân quý,

                  ***

                  “Tinh thần gia đình là gì?
                  Đó là: Pha trộn tình mến sợ cha. Tình âu yếm sợ mẹ. Kính trọng cả hai. Thán phục nhân đức của cha lẫn mẹ. Bỏ qua các lỗi lầm. Ghi nhớ công ơn. Thông cảm đau khổ. Cảm kích các hy sinh của cha lẫn mẹ” (P. Janet).


                  Ba tôi là người con thứ tư sinh trưởng trong một gia đình bề thế, giàu có, ở Làng Hưng Nhơn, thuộc Tổng An Thơ, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ba làm nghề thầy thuốc Đông Y, lương thiện, ân cần và đạo đức, chu đáo tận tụy trị bệnh nhân khá mát tay. Đúng là “lương y như từ mẫu”. Ngoài ra, ba tôi còn có vài ba nghề tay trái nữa là: nghề cưa xẻ cây gỗ, làm nông, và mở một trang trại ươm cây giống rất to lớn. Dĩ nhiên, mọi công việc nặng nhọc về vườn tượt, đồng áng, ba tôi có nhờ lực điền, tá điền & quản gia phụ việc.

                  Nhắc về ba, tất nhiên tôi phải nói lướt sơ sơ ti tí về má. Má tôi sanh ở Làng Thuận Nhơn rợp bóng hai hàng cây sát bên con sông xanh êm đềm uốn khúc, nước sông rất trong, ngon và ngọt. Làng nầy thuộc Tổng Cù Hoan, Huyện Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ông ngoại là một võ quan rất giỏi trong triều đình Huế thời xưa. Gia đình ông bà ngoại khá giàu có, ruộng lúa cò bay thẳng cánh. Má tôi lớn lên công dung ngôn hạnh vẹn toàn và hiếu học, biết chữ. Má sinh ra trong một gia đình đông con, nhưng rồi ông bà ngoại tôi chỉ may mắn còn lại cậu Cửu Ổn và má, mà thôi. Má tôi luôn tôn trọng chồng, nhỏ nhẹ, đôn hậu, hòa nhã yêu thương chồng con hết lòng.

                  Ba Má tôi rất hiền, đạo đức và giống nhau là có lòng nhân ái, phúc hậu, (mà các con ưa nói ba má có tính tào lao: ăn cơm nhà vác ngà voi). Ba má tôi sống cuộc đời khá hoàn thiện, ngày nào họ cũng xem là ngày cuối cuộc đời trước mặt Chúa: Họ không gian dối, không thất đức, không lừa gạt ai, họ chỉ biết sống bác ái, ôn nhu, an lành, yêu tha nhân, tận tình giúp đỡ người cùng khốn, cần mẫn tận tụy chăm chỉ làm việc.

                  Ba tôi có hẹn với đại gia đình anh chị em tôi khi ba ở Đà Lạt là: “ba sẽ ra Huế để lo thu xếp công chuyện, chuyển giao việc trại ươm cây và đồng áng lại cho người thân. Sau đó ba má sẽ vào sống yên ổn ấm no ở Đà Lạt với các con, cháu”. Ấy thế mà… đâu vẫn hoàn đó, ba má chưa rứt ra nỗi.

                  Điển hình nhất là ba má bị quật ngã biết bao phen trong cuộc đời thăng trầm sướng khổ, cay cực, mà không chịu lùi bước. Ba má tôi khi đã đắn đo suy nghĩ quyết chí làm một việc gì, thì họ đồng tâm hiệp sức phải thực hiện tạo thành cơ nghiệp ấy cho kỳ được. Dù gian truân đến đâu mặc lòng. Ở quê nhà nay chỉ còn hai ông bà cụ lom khom lui cui đi ra đi vào thui thủi. Tôi cảm thấy ba má sống thật neo đơn, vắng vẻ buồn rầu không ít. Thế mà hầu như ba má không lấy đó làm phiền bên ngọn đèn dầu hột vịt tù mù tỏa sáng, đầu ba tôi luôn suy tư cúi xuống quyển sổ bệnh nhân dày cộm, mà cuộc sống của ba má vẫn cùng khó, đạm bạc, khiêm nhường… là sao thế hở ba?

                  Cuộc đời ba má hầu như cắm rễ khá sâu vào miếng đất gia tiên; gắn liền với ruộng nương, vườn sắn, ao bèo, gốc tre, bụi chuối. Chúng tôi chưa có cách gì gỡ ba má ra nỗi trong cái “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” nầy. Dù chỉ một phần điền tẻo teo, bé tí nị, mà ba má vẫn trìu mến ưa thích nén lại chân quê. Nơi mái nhà xiêu vẹo mà ba má đang ở đó, tôi thiết nghĩ đó là chân trời mở ra một cửa ngỏ buồn thảm, không hứa hẹn vui vẻ, tươi sáng, bình an gì hơn, lúc thời kỳ bắt đầu có chiến tranh.

                  Dù có những viên đạn xoáy tít trong không gian tối đen, tạo thành những luồng vàng sáng, loé ánh lửa rực đỏ xẹt xẹt bay vút qua vút lại trên đầu. Thì sự sụp đỗ của một gia đình bề thế do chiến tranh đã bị uốn cong gập, như con đại bàng gãy cánh trên những đống hoang tàn. Mặc cho mặt trời pha máu lửa đỏ chói từ phương Đông lan qua phương Tây. Mặc súng đạn gieo tang tóc lầm than, khốn đốn dày xéo đến bao gia đình, rồi tàn bạo kéo nhau đi nơi khác. Mặc bệnh tật đói rách ở lại, đau thương và khốn nạn trăm điều điêu đứng vẫn còn đây. Ấy vậy mà ba tôi vẫn điềm nhiên ngồi bốc thuốc, vẫn cầm cuốc, cuốc lại từng lát cuốc trên đất cứng pha sỏi đá khô cằn nứt nẻ, với hy vọng bừng lên.

                  Cũng thế, ba má tôi luôn đắn đo, chần chờ, do dự mãi; nếu họ dọn đi ra khỏi vùng Mỹ Chánh, nơi chó ăn đá gà ăn muối, thì ba má thấy thương quá là thương những người dân quê cần cù lao động quá nhọc nhằn, quanh năm cư dân vẫn đói khổ, rách rưới triền miên. Ốm đau bệnh nạn, họ chỉ có nước nằm đó ngáp ngáp quằn quại chịu trận, mà chờ chết. Nếu họ có ba tôi thường lui tới, đi lại an ủi vỗ về, chăm lo, giúp đỡ, săn sóc, thuốc men (có nhiều lần ba tôi làm việc thiện, bỏ công sức và tiền của hoàn toàn không tính toán), thì tình trạng khốn khổ của từng bao nhiêu người đã được vỗ về, an ủi, họ cũng giảm bớt nỗi đau rất nhiều. Họ không có gì đền trả… ngoài sự tận tụy làm việc kiếm sống, niềm tin tưởng, tấm chân tình cưu mang ơn trọng nghĩa cao với ba tôi, bằng cách chia sẻ ngọt bùi, nụ cười thân thiện ấm nồng trìu mến tình quê.

                  Ngoài nghề chính là nghề thầy thuốc, những thì-giờ còn lại, ba tôi muốn vận động cơ thể khỏe mạnh xí, nhưng trên hết là do ba tôi rất yêu đất, mến vườn; nên ba tôi thích đi làm việc bằng tay chân, tùy theo tháng năm chất chồng, chiếc áo cần lao của ba ngày trước còn mịn và mới, do thời gian đã bào mòn sức lực con người, mà những chiếc áo ấy trở thành vá chằn vá đụp, dày cui, khô và cứng đơ. Mỗi lần ba tôi cử động, nó kêu sột soạt như mo cau cọ siết rít vào nhau, tiếng kêu hãnh diện, đắc thắng của người dạn dày kinh nghiệm làm đất đai phải thuần thục.

                  Ba chế ngự mọi thử thách gian khó bằng hai bàn tay “thư sinh lẫn cần lao” cần cù, cùng sự từng trải, thấu hiểu. Hai tay làm việc thoăn thoắt, vất vả, ấy vậy ba má tất bật, chân nầy chưa kịp đặt xuống, chưa kịp bén đất thì chân kia đã nhấc lên. Nhiều lần mãi mê làm việc, ba má tôi quên cả ăn uống. Việc đồng áng nhờ có kiến thức và giàu kinh nghiệm, nên ba tôi có thể truyền đạt lại cho những bạn bè thân hữu nông dân cùng quê khá tốt. Đó là kết quả một đời ba má lao lực, suốt ngày đêm phơi mình giữa nắng mưa khuya chiều, cuốc cuốc cày cày đất cứng khô cằn nứt nẻ không ngơi tay.

                  Ba má tôi thật vất vả nhọc nhằn quá chừng. Khiến một người tao nhã, khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, trí thức như ba, đôi khi trở thành trầm lặng, lầm lì, cáu gắt, nghiêm nghị và khó tính. Đã một đời ba vì đất vì đai, vì dân quê làng xã, vì bệnh nhân cùng đinh nghèo khổ đói rách tả tơi rồi. Từng ấy nhọc nhằn khốn đốn, mà ba tôi chưa thất kinh, vẫn không chịu ngồi yên. Nay ba lại bươn bả đi mở đất khai hoang, mong đem bình an ấm no cho bao nhiêu người. Đó là niềm tự hào dân tộc, là niềm vui duy nhất còn sót lại trong đời, khi ba tôi tuổi già sức cạn. Tôi nghe quá đắng cay chua xót trong lòng.

                  Làm sao mà ba có thể mang hết cuộc đời, cả gia tài khiêm nhường dành dụm gần suốt đời người, để lo cho bá tánh nghèo khổ quá đông đúc, cho nỗi hỉ!? Hở ba? Khi tôi tận mắt nhìn thấy ba má xắn tay áo lên, lo cho người thương tật, ốm đau, mà ba má không cảm thấy gớm, ghê, không một lời thở than. Niềm vui đó có phải do ba tôi đã vắt cạn kiệt ra từ chất xám để chia sẻ ban tặng cho đời thụ hưởng!?

                  Ba tôi thường lấy câu của bậc tiền bối, thánh hiền, để răn dạy con cái. Ví dụ như: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên. Trạch kỳ thiện giả, nhi tòng chi. Bất kỳ thiện giả, nhi cải chi”. (Ba người cùng đi, tất nhiên có người là thầy ta. Hãy theo đó mà bắt chước từ thiện. Nhìn người xấu, nên tự sửa mình). Hoặc những câu: “Lễ. Nghĩa. Liêm. Sỉ: là bốn rường cột để duy trì, giữ vững quốc gia. Bốn rường cột ấy nếu không căng được lên, có nghĩa là người trong nước mà vô lễ, vô nghĩa, vô liêm sỉ - thì quốc gia phải sụp đổ, và diệt vong mất. (Quan Tử).

                  Đôi khi mộc mạc đơn sơ bình dân hơn: “Tiên học lễ, hậu học văn”. “Nhân bất học bất tri lý, ấu bất học lão hà vi”. “Sĩ phu mà ba ngày không đọc sách, thì soi gương mặt mũi đáng ghét. Nói chuyện nhạt nhẽo, khó nghe”. (Hoàng Đình Kiên). Ba tôi ưa nói câu của cổ nhân để gián tiếp răn dạy con cái:
                  - “Nếu ta có đứa con phải giáo dục. Ta sẽ lo cho nó cái gì? Tạo cho nó thành thiện nhân, hay vĩ nhân?” Ta tự đáp: - “Phải tạo cho nó thành thiện nhân”.


                  Có một lần, tôi và anh trai ngồi học bài ở phòng bên, hai anh em nói chuyện lung tung về việc học hành trong lớp. Sau đó tôi to tiếng phê bình giáo sư của mình thế nầy:
                  - “Ông ta đã thiên vị, và trắng trợn có tình ý riêng tư thân mật đặc biệt với một con nữ sinh nọ, có bầu rùi”.

                  Thế là hai anh em say sưa hí hửng, vui vẻ thao thao bất tuyệt nói xấu, chế nhạo “con nhỏ kia, và vị giáo sư khả kính”. Chúng tôi không ngờ ba tôi đang làm việc ở phòng kế bên, đã nghe rõ mồn một. Lúc khá lâu, ba tôi gọi:
                  - Hai đứa con: Dzoãn và Tuyết Thụy mau qua bên nầy, ba biểu.

                  Chúng tôi chưa biết ba gọi các con qua phòng tiếp bệnh nhân của ba để làm gì, nhưng hai anh em vâng dạ rõ to, và vui tươi hí hửng dắt nhau đi qua phòng ba, vừa đi anh em khúc khích tươi cười về chuyện “ông giáo và con nhỏ” ấy. Ở trong phòng làm việc của ba đã vắng khách, nhưng ba tôi cúi xuống trên quyển sổ bệnh nhân một hồi lâu. Ba còn cặm cụi làm việc, dường như ba không quan tâm về sự hiện hữu của con cái. Chúng tôi đứng xớ rớ gần cửa sổ, anh Dzoãn xích lại sát bên em, khều khều vào tay tôi, thì thầm:

                  - Chắc là ba sẽ thưởng cho anh em mình ha… vì anh và em đều có tên trong bảng danh dự tháng nầy đó em.
                  - Dạ… phải.

                  Một lúc sau, ba tôi xếp quyển sổ dày cui và cất trong hộc tủ. Ba tằng hắng vài cái, rồi ba tháo mắt kính xệ xuống ; (vì cái kính lão bị bể mất một bên tròng, khiến bên có mắt kính bị nặng, cọng kính lỏng lẽo kéo đã xệ xuống, bên trống lổng không có mắt kính, thì treo lên cao, nhẹ hẩng, coi thật tức cười). Ba tôi ngẩng lên nhìn hai con:
                  - Hai đứa ngồi xuống đó.
                  - Dạ, thưa ba.
                  - Hồi nãy có khách ở đây, nên ba không tiện kêu hai đứa vô nói chuyện. Bây giờ, hai đứa kể lại việc “ông thầy giáo” cho ba nghe rõ coi nà.

                  Hai anh em liếc nhìn nhau, tôi len lén thò tay qua cào béo vào đùi anh mấy cái, cảm thấy phập phồng, hồi hộp… không biết có chuyện gì đây! Như thế, chắc chắn là chẳng phải do anh trai em gái học giỏi, sẽ được ba “thưởng” cho rồi. Anh ấp úng:
                  - Dạ, thưa ba… con… con…
                  - Sao? Hồi nãy hai đứa ngồi bên phòng học, không lo học, mà chuyên nói xấu người thứ ba, nói xấu người vắng mặt. Hừ… Khách và ba đã nghe rõ mồn một mà. Tại sao bây giờ tụi bây lại im re, hả?
                  Anh em chúng tôi lo lắng cúi gầm đầu, anh Dzoãn lí nhí:
                  - Dạ, con… biết lỗi.
                  - Biết lỗi sao!?
                  - Dạ, …thưa ba.
                  - Vậy tốt. Con… (ba chỉ vào anh trai) đi ra ngoài chuồng vịt, bắt hai con vịt mái, nhớ là bắt con vịt mái thôi nghe, đem vô đây. Còn con Thụy xuống dưới bếp lấy muối, cây đèn, cái rổ, con dao, rồi đem lên đây luôn. Mau.

                  Chúng tôi vâng vâng, dạ dạ… dù có băn khoăn, bỡ ngỡ, ngạc nhiên, thắc mắc… nhưng anh em hí hửng chạy đi làm việc ba sai. Lòng tôi cảm thấy vui vẻ lạ thường, vì nghĩ ba đã bỏ qua chuyện “nói xấu”, ba tha lỗi cho “con dại… cái mang”. Ba sẽ du di xí xóa chuyện con nói hành nói tỏi, nói xấu… và ba sẽ “khao” cho hai anh em đã học giỏi, nên được ba cho ăn thịt vịt, mà ăn thịt vịt mái tơ… thì có trứng non, trứng già, có bộ lòng mềm cùng cái “dồi trường” thơm ngon bá cháy! Khi hai anh em lí lắc cười reo khệ nệ bưng các thứ vô phòng làm việc của ba, hai con vịt bị anh Dzoãn xách cánh, xách chân, thì chúng luôn dẫy dụa kêu la inh ỏi. Thiệt là điếc con ráy quá đi! Ba ra lệnh:
                  - Con Thụy cắt cổ con vịt.
                  - Ôi, dạ… con không thể cắ… cắt… cổ vịt… Con sợ…
                  - Vậy cứ để con vịt sống như vậy, mặc kệ nó kêu la, hai đứa ngồi xuống nhổ lông (khi con vịt còn sống). Sau khi nhổ lông vịt, thả hai con vịt ra, cho nó chạy về chuồng, mặc nó bị trọc lóc thân thể, mà đau đớn kêu la, và bị đồng bọn vịt bu lại đấu đá, cắn xé, vì con vật không cùng chủng loại dị hợm kia. Thì tụi bây bỏ lông vịt trong cái rổ nầy, đem lông vịt đi vất ra ngoài trời, cho lông vịt bay đi mọi nơi. Sau đó, hai đứa bây đi lượm lại đầy đủ, lượm sạch lông vịt, đem về đây. Ba sẽ thưởng công cho.

                  Tôi kinh ngạc, làm sao có thể đi lượm lại đầy đủ lông vịt khô? Anh Dzoãn chưng hửng vì nghĩ rằng: “Chắc ba đã già, nên khù khờ, lù đù, lẩm cẩm rồi chăng. Vậy mà ba cũng làm ông thầy thuốc, chắc là ba sẽ cà tửng “bóp cổ, diệt” hết bệnh nhân chết queo rùi. Anh “trả treo” :
                  - Muốn nhổ lông con vịt, thì phải cắt cổ vịt, cho nó chết, và trụng nước sôi. Nếu để vịt sống mà nhổ lông, thì không thể nào! Ba nói con đem lông vịt khô ráo, thả ra ngoài trời, thì lông bị gió cuốn bay đi hết, làm sao con đi lượm lặt lại được. Ba.
                  - Không làm được như ba đã nói, hay sao?
                  - Dạ phải.
                  - À… Vậy thì… hai đứa bây đã biết có lỗi gì chưa?
                  - Lỗi… ?
                  - Vẫn không biết mình đã phạm lỗi gì à?
                  - Dạ… thưa ba không.
                  - Hừ… Hứ!... Tụi bây xúm lại a dua nói xấu người ta khi họ vắng mặt, mà không cảm thấy xấu hổ nhục nhã hay sao? Lời nói vọt ra từ cửa miệng, bay xa… ai ai cũng nghe, cũng biết; thì giống như con vịt bị trọc lóc, lõa lồ, không còn lông… đang quang quác kêu la đó. Lời nói xấu thoát ra khỏi miệng, cũng giống như những cái lông vịt khô bay đi, thì tụi bây có lượm lại được không? Hả!?
                  “Câu nói như mủi tên, không nên bắn bậy. Tên đã lọt vô tai ai, thì không tài nào rút ra được”. Về việc “muối” và “cây đèn”, thì... Thịt. Cá nếu không ướp muối, thì thịt, cá sẽ bị ươn, thúi. Cây đèn khi đốt lửa là cho ta ánh sáng, (tượng trưng cho sự thông minh của trí tuệ). Nếu các con không thấm nhuần nền giáo dục chu đáo, có căn bản từ gia đình, học đường, xã hội, không có đức dục và rèn luyện trí dục. Không tri thức, không có ánh sáng, thì các con sẽ hư đốn, như cá không ăn muối, như cây đèn không tỏa sáng vậy.

                  Chúng tôi cúi gầm đầu im re. Dạ, con hiểu rồi! Hai anh em đã bị ba phạt một ngày. Anh Dzoãn lớn hơn tôi, nên anh đi cuốc đất làm vườn trà. Ba “đì” tôi đi nhổ cỏ cú, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ tranh. Thiệt là quá nhọc nhằn, mệt muốn đứt hơi, tôi quá thất kinh vì cái tội vạ miệng “ăn mắm ăn muối, nói bậy bạ” nên ngồi “lam lũ” ở ngoài nắng. Đáng kiếp! Ôi! Cái chuyện “nhổ lông vịt” muôn đời đáng ghi nhớ ấy… là bài học quý giá hơn trăm ngàn vàng, chẳng thể quên!

                  Anh, chị, em chúng tôi đã được sự giáo dục rất mực tôn nghiêm và chu đáo của mẹ cha. Tôi học hỏi nhiều điều bổ ích từ ơn cha nghĩa mẹ sinh thành dưỡng dục. Con xin trân trọng cảm ơn cha mẹ vô vàn. Tôi nguyện muôn đời ghi nhớ, sau nầy tôi hy vọng… sẽ truyền đạt kinh nghiệm sống và hữu ích lại cho con cháu mình noi theo gương lành.

                  Lòng buồn khi bước về phố cũ
                  Con ra đi đời lãng tử mộng trăng thềm
                  Mơ hồng trần theo sông nước cảnh chiều êm
                  Con nhớ lắm khi trăng lên xóm nhỏ
                  Chân bước ngại ngần mây tím đổ
                  Chiều về khắc khoải áo hồng vương
                  Mẫu thân bên xoan đỏ phía sau vườn
                  Cha dạy: Lý. Văn. Cửu chương. Hóa. Sử cũ
                  Giờ đất khách tri ân mẹ cha trên phím chữ
                  Hiển đạt đời con, ấp ủ mẫu phụ thân
                  Vinh sang hạnh phúc bội phần
                  Công cha dưỡng dục muôn vàn khắc sâu
                  Nghĩa mẹ ngàn thuở bền lâu… (THH)
                  * * *

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-14-2017, 12:30 AM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • #99
                    Nguyên văn bởi Ai Uu Du View Post

                    (từ BM, phải có nhạc...)


                    CHA MẸ Tôi (đã từng) Nén Lại Chân Quê
                    Happy Father' Day. Happy. Happy...
                    THH xin cống hiến quý độc giả HQPD bài viết về CHA.
                    Thân quý,
                    ***


                    “Tinh thần gia đình là gì?
                    Đó là: Pha trộn tình mến sợ cha. Tình âu yếm sợ mẹ. Kính trọng cả hai. Thán phục nhân đức của cha lẫn mẹ. Bỏ qua các lỗi lầm. Ghi nhớ công ơn. Thông cảm đau khổ. Cảm kích các hy sinh của cha lẫn mẹ” (P. Janet).


                    Ba tôi là người con thứ tư sinh trưởng trong một gia đình bề thế, giàu có, ở Làng Hưng Nhơn, thuộc Tổng An Thơ, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ba làm nghề thầy thuốc Đông Y, lương thiện, ân cần và đạo đức, chu đáo tận tụy trị bệnh nhân khá mát tay. Đúng là “lương y như từ mẫu”. Ngoài ra, ba tôi còn có vài ba nghề tay trái nữa là: nghề cưa xẻ cây gỗ, làm nông, và mở một trang trại ươm cây giống rất to lớn. Dĩ nhiên, mọi công việc nặng nhọc về vườn tượt, đồng áng, ba tôi có nhờ lực điền, tá điền & quản gia phụ việc.

                    Nhắc về ba, tất nhiên tôi phải nói lướt sơ sơ ti tí về má. Má tôi sanh ở Làng Thuận Nhơn rợp bóng hai hàng cây sát bên con sông xanh êm đềm uốn khúc, nước sông rất trong, ngon và ngọt. Làng nầy thuộc Tổng Cù Hoan, Huyện Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ông ngoại là một võ quan rất giỏi trong triều đình Huế thời xưa. Gia đình ông bà ngoại khá giàu có, ruộng lúa cò bay thẳng cánh. Má tôi lớn lên công dung ngôn hạnh vẹn toàn và hiếu học, biết chữ. Má sinh ra trong một gia đình đông con, nhưng rồi ông bà ngoại tôi chỉ may mắn còn lại cậu Cửu Ổn và má, mà thôi. Má tôi luôn tôn trọng chồng, nhỏ nhẹ, đôn hậu, hòa nhã yêu thương chồng con hết lòng.
                    Ba Má tôi rất hiền, đạo đức và giống nhau là lòng nhân ái, phúc hậu, (mà các con ưa nói ba má có tính tào lao: ăn cơm nhà vác ngà voi). Ba má tôi sống cuộc đời khá hoàn thiện, ngày nào họ cũng xem là ngày cuối cuộc đời trước mặt Chúa: Họ không gian dối, không thất đức, không lừa gạt ai, họ chỉ biết sống bác ái, ôn nhu, an lành, yêu tha nhân, tận tình giúp đỡ người cùng khốn, cần mẫn tận tụy làm việc.

                    Ba tôi có hẹn với đại gia đình anh chị em tôi khi ba ở Đà Lạt là: “ba sẽ ra Huế để lo thu xếp công chuyện, chuyển giao việc trại ươm cây và đồng áng lại cho người thân. Sau đó ba má sẽ vào sống yên ổn ấm no ở Đà Lạt với các con, cháu”. Ấy thế mà… đâu vẫn hoàn đó, ba má chưa rứt ra nỗi. Điển hình nhất là ba má bị quật ngã biết bao phen trong cuộc đời thăng trầm sướng khổ, cay cực, mà không chịu lùi bước. Ba má tôi khi đã đắn đo suy nghĩ quyết chí làm một việc gì, thì họ đồng tâm hiệp sức phải thực hiện tạo thành cơ nghiệp ấy cho kỳ được. Dù gian truân đến đâu mặc lòng. Ở quê nhà nay chỉ còn hai ông bà cụ lom khom lui cui đi ra đi vào thui thủi. Tôi cảm thấy ba má sống thật neo đơn, vắng vẻ buồn rầu không ít. Thế mà hầu như ba má không lấy đó làm phiền bên ngọn đèn dầu hột vịt tù mù tỏa sáng, đầu ba tôi luôn suy tư cúi xuống quyển sổ bệnh nhân dày cộm, mà cuộc sống của ba má vẫn cùng khó, đạm bạc, khiêm nhường… là sao thế hở ba?

                    Cuộc đời ba má hầu như cắm rễ khá sâu vào miếng đất gia tiên; gắn liền với ruộng nương, vườn sắn, ao bèo, gốc tre, bụi chuối. Chúng tôi chưa có cách gì gỡ ba má ra nỗi trong cái “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” nầy. Dù chỉ một phần điền tẻo teo, bé tí nị, mà ba má vẫn trìu mến ưa thích nén lại chân quê. Nơi mái nhà xiêu vẹo mà ba má đang ở đó, tôi thiết nghĩ đó là chân trời mở ra một cửa ngỏ buồn thảm, không hứa hẹn vui vẻ, tươi sáng, bình an gì hơn, lúc thời kỳ bắt đầu có chiến tranh. Dù có những viên đạn xoáy tít trong không gian tối đen, tạo thành những luồng vàng sáng, loé ánh lửa rực đỏ xẹt xẹt bay vút qua vút lại trên đầu. Thì sự sụp đỗ của một gia đình bề thế do chiến tranh đã bị uốn cong gập, như con đại bàng gãy cánh trên những đống hoang tàn. Mặc cho mặt trời pha máu lửa đỏ chói từ phương Đông lan qua phương Tây. Mặc súng đạn gieo tang tóc lầm than, khốn đốn dày xéo đến bao gia đình, rồi tàn bạo kéo nhau đi nơi khác. Mặc bệnh tật đói rách ở lại, đau thương và khốn nạn trăm điều điêu đứng vẫn còn đây. Ấy vậy mà ba tôi vẫn điềm nhiên ngồi bốc thuốc, vẫn cầm cuốc, cuốc lại từng lát cuốc trên đất cứng pha sỏi đá khô cằn nứt nẻ, với hy vọng bừng lên.

                    Cũng thế, ba má tôi luôn đắn đo, chần chờ, do dự mãi; nếu họ dọn đi ra khỏi vùng Mỹ Chánh, nơi chó ăn đá gà ăn muối, thì ba má thấy thương quá là thương những người dân quê cần cù lao động quá nhọc nhằn, quanh năm cư dân vẫn đói khổ, rách rưới triền miên. Ốm đau bệnh nạn, họ chỉ có nước nằm đó ngáp ngáp quằn quại chịu trận, mà chờ chết. Nếu họ có ba tôi thường lui tới, đi lại an ủi vỗ về, chăm lo, giúp đỡ, săn sóc, thuốc men (có nhiều lần ba tôi làm việc thiện, bỏ công sức và tiền của hoàn toàn không tính toán), thì tình trạng khốn khổ của từng bao nhiêu người đã được vỗ về, an ủi, họ cũng giảm bớt nỗi đau rất nhiều. Họ không có gì đền trả… ngoài sự tận tụy làm việc kiếm sống, niềm tin tưởng, tấm chân tình cưu mang ơn trọng nghĩa cao với ba tôi, bằng cách chia sẻ ngọt bùi, nụ cười thân thiện ấm nồng trìu mến tình quê.

                    Ngoài nghề chính là nghề thầy thuốc, những thì-giờ còn lại, ba tôi muốn vận động cơ thể khỏe mạnh xí, nhưng trên hết là do ba tôi rất yêu đất, mến vườn; nên ba tôi thích đi làm việc bằng tay chân, tùy theo tháng năm chất chồng, chiếc áo cần lao của ba ngày trước còn mịn và mới, do thời gian đã bào mòn sức lực con người, mà những chiếc áo ấy trở thành vá chằn vá đụp, dày cui, khô và cứng đơ. Mỗi lần ba tôi cử động, nó kêu sột soạt như mo cau cọ siết rít vào nhau, tiếng kêu hãnh diện, đắc thắng của người dạn dày kinh nghiệm làm đất đai phải thuần thục. Ba chế ngự mọi thử thách gian khó bằng hai bàn tay “thư sinh lẫn cần lao” cần cù, cùng sự từng trải, thấu hiểu. Hai tay làm việc thoăn thoắt, vất vả, ấy vậy ba má tất bật, chân nầy chưa kịp đặt xuống, chưa kịp bén đất thì chân kia đã nhấc lên. Nhiều lần mãi mê làm việc, ba má tôi quên cả ăn uống. Việc đồng áng nhờ có kiến thức và giàu kinh nghiệm, nên ba tôi có thể truyền đạt lại cho những bạn bè thân hữu nông dân cùng quê khá tốt. Đó là kết quả một đời ba má lao lực, suốt ngày đêm phơi mình giữa nắng mưa khuya chiều, cuốc cuốc cày cày đất cứng khô cằn nứt nẻ không ngơi tay.

                    Ba má tôi thật vất vả nhọc nhằn quá chừng. Khiến một người tao nhã, khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, trí thức như ba, đôi khi trở thành trầm lặng, lầm lì, cáu gắt, nghiêm nghị và khó tính. Đã một đời ba vì đất vì đai, vì dân quê làng xã, vì bệnh nhân cùng đinh nghèo khổ đói rách tả tơi rồi. Từng ấy nhọc nhằn khốn đốn, mà ba tôi chưa thất kinh, vẫn không chịu ngồi yên. Nay ba lại bươn bả đi mở đất khai hoang, mong đem bình an ấm no cho bao nhiêu người. Đó là niềm tự hào dân tộc, là niềm vui duy nhất còn sót lại trong đời, khi ba tôi tuổi già sức cạn. Tôi nghe quá đắng cay chua xót trong lòng. Làm sao mà ba có thể mang hết cuộc đời, cả gia tài khiêm nhường dành dụm gần suốt đời người, để lo cho bá tánh nghèo khổ quá đông đúc, cho nỗi hỉ!? Hở ba? Khi tôi tận mắt nhìn thấy ba má xắn tay áo lên, lo cho người thương tật, ốm đau, mà ba má không cảm thấy gớm, ghê, không một lời thở than. Niềm vui đó có phải do ba tôi đã vắt cạn kiệt ra từ chất xám để chia sẻ ban tặng cho đời thụ hưởng!?

                    Ba tôi thường lấy câu của bậc tiền bối, thánh hiền, để răn dạy con cái. Ví dụ như: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên. Trạch kỳ thiện giả, nhi tòng chi. Bất kỳ thiện giả, nhi cải chi”. (Ba người cùng đi, tất nhiên có người là thầy ta. Hãy theo đó mà bắt chước từ thiện. Nhìn người xấu, nên tự sửa mình). Hoặc những câu: “Lễ. Nghĩa. Liêm. Sỉ: là bốn rường cột để duy trì, giữ vững quốc gia. Bốn rường cột ấy nếu không căng được lên, có nghĩa là người trong nước mà vô lễ, vô nghĩa, vô liêm sỉ - thì quốc gia phải sụp đổ, và diệt vong mất. (Quan Tử).
                    Đôi khi mộc mạc đơn sơ bình dân hơn: “Tiên học lễ, hậu học văn”. “Nhân bất học bất tri lý, ấu bất học lão hà vi”. “Sĩ phu mà ba ngày không đọc sách, thì soi gương mặt mũi đáng ghét. Nói chuyện nhạt nhẽo, khó nghe”. (Hoàng Đình Kiên). Ba tôi ưa nói câu của cổ nhân để gián tiếp răn dạy con cái:
                    - “Nếu ta có đứa con phải giáo dục. Ta sẽ lo cho nó cái gì? Tạo cho nó thành thiện nhân, hay vĩ nhân?” Ta tự đáp: - “Phải tạo cho nó thành thiện nhân”.


                    Có một lần, tôi và anh trai ngồi học bài ở phòng bên, hai anh em nói chuyện lung tung về việc học hành trong lớp. Sau đó tôi to tiếng phê bình giáo sư của mình thế nầy:
                    - “Ông ta đã thiên vị, và trắng trợn có tình ý riêng tư thân mật đặc biệt với một con nữ sinh nọ, có bầu rùi”.
                    Thế là hai anh em say sưa hí hửng, vui vẻ thao thao bất tuyệt nói xấu, chế nhạo “con nhỏ kia, và vị giáo sư khả kính”. Chúng tôi không ngờ ba tôi đang làm việc ở phòng kế bên, đã nghe rõ mồn một. Lúc khá lâu, ba tôi gọi:
                    - Hai đứa con: Dzoãn và Tuyết Thụy mau qua bên nầy, ba biểu.

                    Chúng tôi chưa biết ba gọi các con qua phòng tiếp bệnh nhân của ba để làm gì, nhưng hai anh em vâng dạ rõ to, và vui tươi hí hửng dắt nhau đi qua phòng ba, vừa đi anh em khúc khích tươi cười về chuyện “ông giáo và con nhỏ” ấy. Ở trong phòng làm việc của ba đã vắng khách, nhưng ba tôi cúi xuống trên quyển sổ bệnh nhân một hồi lâu. Ba còn cặm cụi làm việc, dường như ba không quan tâm về sự hiện hữu của con cái. Chúng tôi đứng xớ rớ gần cửa sổ, anh Dzoãn xích lại sát bên em, khều khều vào tay tôi, thì thầm:

                    - Chắc là ba sẽ thưởng cho anh em mình ha… vì anh và em đều có tên trong bảng danh dự tháng nầy đó em.
                    - Dạ… phải.

                    Một lúc sau, ba tôi xếp quyển sổ dày cui và cất trong hộc tủ. Ba tằng hắng vài cái, rồi ba tháo mắt kính xệ xuống ; (vì cái kính lão bị bể mất một bên tròng, khiến bên có mắt kính bị nặng, cọng kính lỏng lẽo kéo đã xệ xuống, bên trống lổng không có mắt kính, thì treo lên cao, nhẹ hẩng, coi thật tức cười). Ba tôi ngẩng lên nhìn hai con:
                    - Hai đứa ngồi xuống đó.
                    - Dạ, thưa ba.
                    - Hồi nãy có khách ở đây, nên ba không tiện kêu hai đứa vô nói chuyện. Bây giờ, hai đứa kể lại việc “ông thầy giáo” cho ba nghe rõ coi nà.

                    Hai anh em liếc nhìn nhau, tôi len lén thò tay qua cào béo vào đùi anh mấy cái, cảm thấy phập phồng, hồi hộp… không biết có chuyện gì đây! Như thế, chắc chắn là chẳng phải do anh trai em gái học giỏi, sẽ được ba “thưởng” cho rồi. Anh ấp úng:
                    - Dạ, thưa ba… con… con…
                    - Sao? Hồi nãy hai đứa ngồi bên phòng học, không lo học, mà chuyên nói xấu người thứ ba, nói xấu người vắng mặt. Hừ… Khách và ba đã nghe rõ mồn một mà. Tại sao bây giờ tụi bây lại im re, hả?
                    Anh em chúng tôi lo lắng cúi gầm đầu, anh Dzoãn lí nhí:
                    - Dạ, con… biết lỗi.
                    - Biết lỗi sao!?
                    - Dạ, …thưa ba.
                    - Vậy tốt. Con… (ba chỉ vào anh trai) đi ra ngoài chuồng vịt, bắt hai con vịt mái, nhớ là bắt con vịt mái thôi nghe, đem vô đây. Còn con Thụy xuống dưới bếp lấy muối, cây đèn, cái rổ, con dao, rồi đem lên đây luôn. Mau.

                    Chúng tôi vâng vâng, dạ dạ… dù có băn khoăn, bỡ ngỡ, ngạc nhiên, thắc mắc… nhưng anh em hí hửng chạy đi làm việc ba sai. Lòng tôi cảm thấy vui vẻ lạ thường, vì nghĩ ba đã bỏ qua chuyện “nói xấu”, ba tha lỗi cho “con dại… cái mang”. Ba sẽ du di xí xóa chuyện con nói hành nói tỏi, nói xấu… và ba sẽ “khao” cho hai anh em đã học giỏi, nên được ba cho ăn thịt vịt, mà ăn thịt vịt mái tơ… thì có trứng non, trứng già, có bộ lòng mềm cùng cái “dồi trường” thơm ngon bá cháy! Khi hai anh em lí lắc cười reo khệ nệ bưng các thứ vô phòng làm việc của ba, hai con vịt bị anh Dzoãn xách cánh, xách chân, thì chúng luôn dẫy dụa kêu la inh ỏi. Thiệt là điếc con ráy quá đi! Ba ra lệnh:
                    - Con Thụy cắt cổ con vịt.
                    - Ôi, dạ… con không thể cắ… cắt… cổ vịt… Con sợ…
                    - Vậy cứ để con vịt sống như vậy, mặc kệ nó kêu la, hai đứa ngồi xuống nhổ lông (khi con vịt còn sống). Sau khi nhổ lông vịt, thả hai con vịt ra, cho nó chạy về chuồng, mặc nó bị trọc lóc thân thể, mà đau đớn kêu la, và bị đồng bọn vịt bu lại đấu đá, cắn xé, vì con vật không cùng chủng loại dị hợm kia. Thì tụi bây bỏ lông vịt trong cái rổ nầy, đem lông vịt đi vất ra ngoài trời, cho lông vịt bay đi mọi nơi. Sau đó, hai đứa bây đi lượm lại đầy đủ, lượm sạch lông vịt, đem về đây. Ba sẽ thưởng công cho.

                    Tôi kinh ngạc, làm sao có thể đi lượm lại đầy đủ lông vịt khô? Anh Dzoãn chưng hửng vì nghĩ rằng: “Chắc ba đã già, nên khù khờ, lù đù, lẩm cẩm rồi chăng. Vậy mà ba cũng làm ông thầy thuốc, chắc là ba sẽ cà tửng “bóp cổ, diệt” hết bệnh nhân chết queo rùi. Anh “trả treo” :
                    - Muốn nhổ lông con vịt, thì phải cắt cổ vịt, cho nó chết, và trụng nước sôi. Nếu để vịt sống mà nhổ lông, thì không thể nào! Ba nói con đem lông vịt khô ráo, thả ra ngoài trời, thì lông bị gió cuốn bay đi hết, làm sao con đi lượm lặt lại được. Ba.
                    - Không làm được như ba đã nói, hay sao?
                    - Dạ phải.
                    - À… Vậy thì… hai đứa bây đã biết có lỗi gì chưa?
                    - Lỗi… ?
                    - Vẫn không biết mình đã phạm lỗi gì à?
                    - Dạ… thưa ba không.
                    - Hừ… Hứ!... Tụi bây xúm lại a dua nói xấu người ta khi họ vắng mặt, mà không cảm thấy xấu hổ nhục nhã hay sao? Lời nói vọt ra từ cửa miệng, bay xa… ai ai cũng nghe, cũng biết; thì giống như con vịt bị trọc lóc, lõa lồ, không còn lông… đang quang quác kêu la đó. Lời nói xấu thoát ra khỏi miệng, cũng giống như những cái lông vịt khô bay đi, thì tụi bây có lượm lại được không? Hả!? “Câu nói như mủi tên, không nên bắn bậy. Tên đã lọt vô tai ai, thì không tài nào rút ra được”. Về việc “muối” và “cây đèn”, thì... Thịt. Cá nếu không ướp muối, thì thịt, cá sẽ bị ươn, thúi. Cây đèn khi đốt lửa là cho ta ánh sáng, (tượng trưng cho sự thông minh của trí tuệ). Nếu các con không thấm nhuần nền giáo dục chu đáo, có căn bản từ gia đình, học đường, xã hội, không có đức dục và rèn luyện trí dục. Không tri thức, không có ánh sáng, thì các con sẽ hư đốn, như cá không ăn muối, như cây đèn không tỏa sáng vậy.

                    Chúng tôi cúi gầm đầu im re. Dạ, con hiểu rồi! Hai anh em đã bị ba phạt một ngày. Anh Dzoãn lớn hơn tôi, nên anh đi cuốc đất làm vườn trà. Ba “đì” tôi đi nhổ cỏ cú, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ tranh. Thiệt là quá nhọc nhằn, mệt muốn đứt hơi, tôi quá thất kinh vì cái tội vạ miệng “ăn mắm ăn muối, nói bậy bạ” nên ngồi “lam lũ” ở ngoài nắng. Đáng kiếp! Ôi! Cái chuyện “nhổ lông vịt” muôn đời đáng ghi nhớ ấy… là bài học quý giá hơn trăm ngàn vàng, chẳng thể quên! Anh, chị, em chúng tôi đã được sự giáo dục rất mực tôn nghiêm và chu đáo của mẹ cha. Tôi học hỏi nhiều điều bổ ích từ ơn cha nghĩa mẹ sinh thành dưỡng dục. Con xin trân trọng cảm ơn cha mẹ vô vàn. Tôi nguyện muôn đời ghi nhớ, sau nầy tôi hy vọng… sẽ truyền đạt kinh nghiệm sống và hữu ích lại cho con cháu mình noi theo gương lành.

                    Lòng buồn khi bước về phố cũ
                    Con ra đi đời lãng tử mộng trăng thềm
                    Mơ hồng trần theo sông nước cảnh chiều êm
                    Con nhớ lắm khi trăng lên xóm nhỏ
                    Chân bước ngại ngần mây tím đổ
                    Chiều về khắc khoải áo hồng vương
                    Mẫu thân bên xoan đỏ phía sau vườn
                    Cha dạy: Lý. Văn. Cửu chương. Hóa. Sử cũ
                    Giờ đất khách tri ân mẹ cha trên phím chữ
                    Hiển đạt đời con, ấp ủ mẫu phụ thân
                    Vinh sang hạnh phúc bội phần
                    Công cha dưỡng dục muôn vàn khắc sâu
                    Nghĩa mẹ ngàn thuở bền lâu… (THH)

                    * * *

                    Tình Hoài Hương
                    Cô Ba xem tin nhắn BM gởi.
                    Last edited by BachMa; 06-16-2014, 01:47 AM.

                    Comment


                    • Cám ơn ANH BẠCH MÃ

                      Nguyên văn bởi BachMa View Post
                      Cô Ba xem tin nhắn BM gởi.
                      ***


                      Anh Bạch Mã ui!
                      Thiệt tình, là HH đã SỬA cả buổi vẫn không xong.
                      Link HH đã post về CHA ME TÔI... (old) không có nhạc, chắc chắn là SAU KHI anh BM vô đó SỬA GIÚP rồi, nên nó mới chạy nhạc kèm theo.
                      Cám ơn "anh không thành công" thì đã "thành PHƯỢNG" RỒI ha. Phượng tuyệt vời hơn hết!

                      Chúc anh chị hạnh phúc & dồi dào sức khoẻ nhe
                      HH
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Kinh thành HUẾ Thơ & Lăng Tẩm




                        Kinh thành HUẾ Thơ & Lăng Tẩm

                        “Đi bộ thì khiếp Hải Vân
                        Đi thuyền thì khiếp sóng thần hang Dơi”...


                        Khi đoàn xe mỏi mệt "bò" rất chậm xuống khỏi đèo Hải Vân Bắc, ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhỏm, tuy lúc nầy thì khí hậu ở vùng dưới chân đèo phía Bắc đã thay đổi hẳn, nghiã là ở đây khá nóng, còn trên đỉnh đèo Hải Vân luôn luôn rất lạnh.

                        Xe đi một đoạn ngắn là tới Làng *LĂNG CÔ nằm về phiá tay phải, sát cạnh quốc lộ 1. Bãi biển Lăng Cô còn gọi là "Vịnh Lăng Cô” an lạc giữa đèo Phú Gia và chân đèo Hải Vân Bắc. Lăng-Cô nép mình dọc rặng núi Bạch Mã hùng vĩ. Lăng Cô nơi suốt tháng năm biển xô sóng bạc đầu ì ầm gào thét, nước biển trong vắt, bãi cát mịn màng tuyệt đẹp. Lăng Cô nổi lên trên ba hướng biển bao bọc như một cù lao bồng bềnh, nhấp nhô uốn lượn sóng vỗ ngày đêm xôn xao nỗi nhớ thương dìu dặt. Lăng Cô gần giống chiếc thuyền trăng lả lướt trôi đi trôi về trong đại dương bao la. Thấp thoáng đó đây bao lọng dừa xanh, hàng thùy dương nhã nhạc dìu dịu êm êm, vi vu dưới bầu trời vần vũ mây trắng lãng đãng bay bay.

                        Xa xa rừng *BẠCH MÃ với đường xe hơi ngoằn ngoèo leo lên núi dài 19km. Nơi đây có khoảng hơn một trăm ba mươi ngôi biệt thự được người Pháp xây dựng từ lâu. Núi Bạch Mã có 172 bậc cấp nện đất cứng dẫn tới thiền viện Linh Sơn Trúc Lâm. Khí hậu trên núi trong lành thoáng mát. Mặt trời ban mai nhảy nhót lung linh lóe lên những chùm nắng vàng anh, đan trong biển nước xanh xanh, tạo thành màu xanh cổ vịt lấp lánh. Đôi khi hừng lên màu cánh cam sáng chói, rực rỡ như chiếc cầu vồng uốn cong trên bầu trời thênh thang gió lộng. Xe ghé lại Lăng Cô, khách lữ hành mua tôm hùm, tôm sú, tôm vằn, tôm đất, mực khô, cua, ghẹ, sò huyết. Các loại cá biển vừa tươi ngon, lại rẻ nhất vùng. Họ khệ nệ bưng lên xe để mang về nhà làm quà biếu.

                        Thoáng chốc xe đã chạy ngang qua vùng đất dọc ven biển: *THỪA LƯU, *CẦU HAI, *TRUỒI ở xã Lộc Hoà, huyện Phú Lộc; bờ biển có nhiều bãi đá nhỏ to chồng chất xếp lớp ven bờ. Truồi có những dòng suối mát lạnh và trong vắt. Rồi *HƯƠNG THỦY, qua phi trường *Phú Bài là một trong những phi trường lớn ở miền Trung, cách đất Thần Kinh không xa mấy (khoảng mười bảy, mười tám cây số). Qua cầu An Cựu là ta chính thức bước vào cửa ngỏ HUẾ thơ!
                        “Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
                        Sông An Cựu nắng đục mưa trong” .


                        Đúng là sông An Cựu mùa nắng nước đục, mùa mưa nước trong, kỳ lạ đặc biệt, dễ ghét mà rất dễ thương, sông nước là thế mà núi thật lạ lùng: Núi Ngự phiá trước trọc trọc tròn tròn, lơ thơ cây cỏ, phiá sau có méo méo thiệt dị dạng; nhưng mang tính đặc thù bí ẩn làm sao! Núi Ngự cao 105 mét, kèm hai bên núi đất nho nhỏ là tả Phù Sơn và hữu Phù Sơn. Thuở trước xa xưa núi Ngự có tên là Bằng Sơn (hoặc Bình Sơn). Sau nầy vua Gia Long đổi tên núi là Ngự Bình.

                        Sông Hương bắt nguồn từ dãy núi Bạch Mã chảy dài dài qua dọc theo nhiều thác nguồn, rồi hợp lưu với Tả Trạch, Bằng Lãng, Hữu Trạch. Sông Hương trải rộng và chạy dài uốn lượn xanh thẳm giữa kinh thành, nước xuống nước lên lúc giận dữ cuộn sóng xô bờ, khi êm đềm nước thong dong chảy lặng lờ êm xuôi về Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Gia Hội, Đông Ba, Bao Vinh; tạo thành dòng Hương Giang dài ngoẵng mênh mông lượn lờ trong thành phố Huế. Sông Hương yêu kiều không kém phần thi vị và lãng mạn:
                        Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
                        Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
                        Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
                        Lá trúc che ngang mặt chữ điền

                        Gió theo lối gió, mây đường mây
                        Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
                        Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
                        Có chở trăng về kịp tối nay?

                        Mơ khách đường xa, khách đường xa,
                        Áo em trắng quá nhìn không ra...
                        Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                        Ai biết tình ai có đậm đà?
                        (HMT)

                        *HUẾ ! di sản đặc biệt quý giá là tặng phẩm độc đáo của Trời ưu ái ban tặng, và cũng là sính lễ sang trọng của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân. Huế là vùng khí hậu nhiệt đới, có bốn mùa rõ rệt: Mặt trời luôn rót nắng vàng hanh chảy xuống Đại Nội. Mùa đông buồn lặng, đìu hiu ướt át, lụt lội gió bão mịt mù.

                        Mùa Xuân xanh tươi, mát mẻ êm êm, trời trong xanh mây trắng nhẹ lâng lâng bay bay khắp đường đi nẽo về & đầy mùi hoa thơm. Mùa Hạ rực nắng tình hè, trời hâm hấp nóng nực kinh hồn với những hàng phượng Vỹ đỏ rực soi mình trên sông Hương, phượng nghiêng mình đứng bên hồ Tịnh Tâm. Ít ra từ mỗi sân trường, từng xóm làng… đâu đâu cũng có thể thấy hoa phượng rực rỡ tươi màu giữa nắng gió khuya chiều rộn rã tiếng ve sầu.

                        Mùa Thu gợi nhiều lãng mạn, hiu hiu gió heo may đưa đẩy lá vàng hững hờ rụng lả tả bay bay.

                        Mùa Đông buồn lặng, đìu hiu ướt át, lụt lội gió bão mịt mù, ảm đạm, não nề ốm nắng, trần mây xuống thấp, mưa bão triền miên, nhiều ngày lụt lội dâng cao. Dù gió lạnh buốt xương sống, nhưng thanh niên nam nữ vui thích ưa mặc áo mưa đi ra phố, họ đứng đông đúc xếp lớp dọc hai con phố chính là: đại lộ Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu, để nhìn thiên hạ bì bõm lội nước lụt.

                        Nhắc đến Huế, nghe tên Huế… sao lòng mình cảm thấy rạt rào rung cảm, luyến thương dập dồn đến thế không biết!? Mười xin nói với Huế, nghĩ về Huế, ghi lại hình ảnh quần thể di tích lịch sử Huế từ những kỷ niệm long lanh lắng sâu trong hoài niệm. Mười thương Huế thuở còn rất nhỏ (lần đầu tiên với gia đình ba má từ Đà Lạt trở về quê cũ). Mười được thân nhân họ hàng anh chị cho du lãm rong chơi khắp kinh thành cổ kính trầm mặc đó đây: Cô nhỏ (trong mắt trẻ thơ) ngơ ngác nhìn dãi mây mềm mại vàng óng, vắt ngang lớp lớp hàng cau, chen cánh những hàng dừa trong hoàng hôn nghiêng bóng. Nhất là lúc nhìn thấy tổng thể kinh thành Đế Đô Huế quá mới mẻ lạ lùng, đầy tráng lệ nguy nga, ấy là lúc cô nhỏ cảm thấy choáng váng, bàng hoàng.

                        Từ năm 1775 Đế-đô Huế được các vua chúa Nguyễn chọn nơi nầy làm Kinh-đô. Huế là một chỉnh thể kỳ quan, xây dựng tuyệt hảo nhất từ triều đại vua Gia Long. Huế có giá trị về văn-học-sử, cung điện vàng son mang đậm nét đặc thù, dân tộc tính, có những tên nghe khá “oai, hách, đài các, vinh sang” như: Điện Cần Chánh, Đại Cung Môn dành riêng cho hoàng gia. Càn Thanh là nơi vua nghỉ ngơi. Thái Bình Lâu đọc sách gần vườn Ngự Uyển.

                        Trước tiên là kỳ đài, sân đại triều rộng lát đá xanh có cửu đỉnh, điện Thái Hoà là nơi an ngự và làm việc của vua, nơi quan trọng tổ chức các buổi thiết triều. Có ao sen cầu vồng, hồ cá hòn non bộ lung linh dưới nước khi chiều tà xế bóng. Đại nội có hệ thống kiến trúc cung đình, đền đài, chùa miếu rất hoành tráng, tuyệt mỹ, kiên cố, cổ kính, vĩ đại: từ kèo, cột, câu đầu, thượng lương, vân vân... Có Hoàng Thành là vòng thành thứ nhì. Tử Cấm Thành tách bạch với bên ngoài. Cửa chánh khởi đầu là cửa Ngọ Môn coi bề thế. Trên vòm cổng là lầu Ngũ Phụng. Cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba, cửa Chánh Tây, nhà Đồ, cửa Ngăn, cửa Hiển Nhơn, Chương Đức, cửa Hậu. Nội Thành trang nghiêm kín đáo có hai ổ súng thần công: Một bên là: Kim, Mộc, Hoả, Thủy, Thổ. Bên kia là: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hồ Tịnh Tâm vời vợi tình luyến thương hoài cổ, ngậm ngùi thương cảm một thời hưng thịnh.

                        Thời vàng son vua chúa có những nghi thức và cung cách riêng, biệt lập cùng những tên gọi nghe “rất kêu; rất hách và đỏm đáng” như: Hoàng hậu, qúy phi thì ở trong cung có tên gọi “Không Thái”. “Duyệt Thường Thị” là phòng dành cho mọi người xem văn nghệ; nơi đặc thù văn hoá kết hợp sít sao giữa giao-ca dân dã tình tứ, có thứ tự, hài hoà, bài bản, lớp lang với giao-ca cung đình khuê các. “Thái Y Viện” là trung tâm y tế. “Thượng Thiện” là nhà bếp.
                        * * *

                        Phía Nam sông Hương và phía Tây núi Ngự là khu quầng thể lăng tẩm, tích tụ nhiều lối điêu khắc tinh vi, có cửu đỉnh đúc đồng thau kỷ thuật tinh xảo, mỗi đỉnh mang một tên riêng, tượng trưng cho mỗi vì vua. Đỉnh có 18 hoạ tiết phong cảnh, hoa chim, khắc chữ nổi mang tên mỗi đỉnh, như: Cao. Nhân. Chương. Anh. Nghị. Thần. Tuyên. Dụ. Huyền. Cao Đỉnh cao 2m rưỡi là to lớn bề thế nhất. Huyền Đỉnh cao 2m,31phân, nhỏ nhắn xinh xinh. Bên phải có miếu Triệu, Thái, Hưng, Thế, Phụng Thiên. Mái nhà lợp ngói hoàng lưu ly, cột chạm rồng to uốn khúc giác vàng kim nhũ. Trần phi vân. Vách khắc kỳ công, chạm trổ tinh vi, có giá trị vô cùng phong phú.

                        Từ những hình bát mã, bạch tượng, kỳ lân, tứ linh, tứ quý, quan văn, quan võ, đại thần phân chia rõ thứ hạng, phẩm trật từ các lăng: Minh Mạng. Thiệu Trị. Đồng Khánh. Tự Đức. Gia Long. Khải Định… vân vân… Lăng tẩm Đế Đô đất Thần Kinh nghìn năm vang bóng, gồm hai phần chính: Lăng là mộ phần. Tẩm là nơi thờ cúng.

                        1./ Lăng GIA LONG (tên thật vua: Nguyễn Phúc Ánh, 1762-1819, miếu hiệu: Thế Tổ Cao hoàng đế). Lăng xây ở làng Định Môn, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, xa trung tâm kinh thành Huế khoảng 16 km về hướng Bắc – Nam, quần thể “hiệp lăng” do quy tụ có nhiều người thân tộc đã chết trước, sau, chôn rải rác quanh vùng, nên chu vi rộng 2.875ha; (riêng lăng 1800m, 20ha) có 43 ngọn núi đại Thiên Thọ chầu quanh mộ chính, thuộc quận Nam Hoà, lăng về hướng Nam đơn sơ xây từ 1814 rộng thênh thang, đơn giản, bao la trầm mặc, buồn thiu bên bờ Tả Trạch, có sông nhỏ nước chảy lặng lờ. Có hồ bán nguyệt đầy sen. Hàng quan văn= 5 tượng đá. Võ sĩ quan= 5 tượng đá đứng thẳng tắp với hai con rồng ở các tầng cấp của bậc sân đắp gạch vôi. Hai con ngựa to, hai con voi đá lớn ở Bái Đình. Sân sau rợp bóng cây cổ thụ chằng chịt.

                        Lăng Gia Long đặc biệt độc đáo bởi có hai mộ táng phẳng lì, màu nhờ nhợ đen đen than đá bình dị, đơn sơ, không chạm trổ của thi hài vua và hoàng hậu nằm song song yên nghỉ bên nhau. Lăng Gia Long xa xôi bao bọc núi rừng trùng điệp âm u, chen lẫn đồng bằng bị mài mòn bởi tiếng thổn thức của thời gian. Cảnh trí lăng hài hoà im lắng, thâm sâu, không có la thành, tuy thế vẫn hùng tráng, đơn điệu ngó thật quá buồn phiền sao đâu. Khi vua Gia Long đã thu phục giang sơn từ Bắc xuống Nam, vua đã đặt tên nước: Việt Nam, lúc bấy giờ chính trị trong nước đỗ nát, mọi việc cần phải chỉnh đốn, sửa sang.

                        Triều chính trải qua những khó khăn, khốn đốn rất nhọc nhằn, vất vã, gian nan vô cùng, nào là: thưởng, phạt, tặng phong, làm đền thờ cho chiến sĩ tử vong. Phát huy và xây dựng đất nước, từ các việc: - Tổ chức lại thuế đinh bạ, điền bạ. Mở sở đúc tiền đồng, kẽm, nén bạc, nén vàng. Vua chuẩn định lại thước đo, cái cân chính xác. Sửa sang quan lộ, đường sá, đắp đê điều, cầu cống, sông ngòi, xạy chợ, nhà thương, v.v… Tới việc in sách làm ra luật pháp. Mở mang trường học gồm các trường: võ, văn, quốc sử, địa dư. Song song với việc an cư trong nước, vua Gia Long đã mở rộng bang giao với: Tàu. Chân lạp. Xiêm La. Anh Cát Lợi. Pháp. Thời kỳ thịnh trị của vua Gia Long có những tháng năm phú cường, (sau chiến tranh giành thắng, vua đã nghe lời nịnh thần xiểm nịnh, mới ra nông nỗi… !!!

                        a./ [*Vua Gia Long có tài trí mở mang bờ cõi, khôn ngoan, lừng danh trong thời chinh chiến gian truân, đã thống nhất giang sơn, khôi phục nghiệp lớn là thế. Tuy nhiên, ngài có yếu điểm là sự “căm thù tột đỉnh” (nghe lời nịnh thần)… khi vua (Thế Tổ) về kinh thành năm Nhâm Tuất 1802, thì vua Gia Long đem vua tôi nhà Tây Sơn về kinh, làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu xong, vua Gia Long đem họ ra pháp trường trừng trị. & Ông cho quật mả vua Nguyễn Nhạc & vua Nguyễn Huệ lên, vứt thây đi, còn đầu lâu thì đem giam ở trong ngục tối* (*)=ít trích dẫn từ Việt Nam Sử Lược, (VNSL, Trần Trọng Kim),trang 172)].

                        b./ ông Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc chết. Nguyễn văn Thuyên bị chém. Ông Đặng Trần Thường bị bắt bỏ ngục xử tội giảo (trích dẫn VNSL trang 187).

                        2.- Lăng MINH MẠNG (tên vua Nguyễn Phúc Đảm 1791-1840, miếu hiệu: Thánh Tổ Nhân hoàng-đế) Bao quanh núi Cẩm Khê, và có núi Kim Phụng án chầu, lăng xây năm 1840, xa trung tâm kinh thành Huế 12km, ở La Khê Bãi, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, lăng về hướng Tây-Đông rộng 1732m, 15ha. Bửu thành xây hình tròn, tường thành cao cỡ 3m, có ba cửa vào lăng.

                        Tổng thể lăng Minh Mạng nhìn phần trước thì rộng, thoáng và phóng khoáng, bề mặt đăng đối, uy nghiêm, đường bệ. Nhưng càng bước tới khu chính điện thì chu vi và chiều dài khu lăng sâu hun hút, vời vợi. Càng vào gần lăng thì lối kiến trúc lại dày, quy mô. Lăng đường bệ an ngự trong vùng đầm phá đất cổ thoáng mát, núi đồi, sông ngòi, khe suối, có hồ Trừng Minh nước xanh mơ màng đầy sen đung đưa trong gió thoảng mùi hương dìu dịu, và cầu Hữu Bật nhịp nhàng tiết tấu với hàng tượng đá phân chia thứ hạng, phẩm trật, quần thần. 5 quan văn đá= (có năm bậc, gọi là ngũ phẩm). 5 quan vỏ đá (có bốn bậc, gọi là tứ phẩm). Có hai voi, hai ngựa chầu thánh điện.

                        Quan tài vua Minh Mạng chôn tại Bửu Thành. Vua Minh Mạng là người tài trí, thông minh, văn hay chữ tốt, uyên thâm nho học. Chính vì vua là người rất sùng đạo giáo, trọng đạo Khổng, Mạnh, coi đạo nầy là chính đạo. Vì thế vua nghiêm khắc, chuyên chế, nhiều cương ít nhu, rất uy quyền, bạo tàn trong việc cấm ngặt người Việt theo đạo Ki tô, vua ra nhục hình cho người Việt có đạo Thiên Chúa, ít độ lượng khoan dung bằng các nhục hình dã man, nếu họ không chịu từ bỏ đạo, thì họ phải bị: lăng trì, cho ngựa xé, voi dày, giết họ đến chết không tha, (vì cái tội mình là người Việt lại theo “tả đạo, là đạo ngoại lai Tây phương”).

                        Đối ngoại thì Vua thân chinh đi ngàn dặm xa xôi muôn ngàn cách trở mà đánh Xiêm La, Lào, ổn định bờ cõi Việt Nam. Vua thành công trong việc nâng cao đời sống cho dân giàu nước thịnh sửa sang việc nhà, việc nước. Tuy nhiên vua Minh Mạng là người rất hết lòng lo cho quốc thái dân an, luôn sống trọn vẹn vì tổ quốc vì dân, ngài muốn nâng dân trí lên cao, hiếu học. Vua mở Quốc Tử Giám, vào những năm: tí, ngọ, mẹo, dậu thì có trường thi Hương.

                        Năm: thìn, tuất sửu, mùi, thì mở trường thi Hội, Đình, cho giám sinh có điều kiện học hành, dễ dàng có cơ hội thi thố tài năng, và tuyển chọn xứng đáng người khoa bảng ưu tú mỗi năm. Ngài nghiêm cấm và xử luật những kẻ cường hào ác bá, chuyên bắt nạc dậm dọa bá tánh hiền dân. Kẻ cờ bạc, rượu trà say sưa phải trừng trị thỏa đáng. Ngài lập ra nhà dưỡng tế cứu giúp bần nông cùng đinh nghèo khổ.
                        (… ít trích dẫn ghi vắn tắt: …)… Vua Minh Mạng, quan tướng, binh sĩ vất vả vô cùng diệt “giặc trong khởi loạn” khi nhiều dư đảng đang nhiễu loạn khuấy rối trong nước, như: Phan Bá Vành. Lê Duy Lương. Nông Văn Vân. Lê Văn Khôi (con nuôi của tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt). Tuy rằng Lê Văn Duyệt là một đại công thần đã chết, nhưng do bè đảng nịnh thần ác ý bới móc dâng sớ liên tiếp tấu trình, nên vua Thánh Tông đã ra chiếu dụ rằng:

                        Nhổ từng cái tóc Lê Văn Duyệt mà kể, cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan-quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, không bỏ gia đình. Vậy, cho tổng đốc Gia Định đến mả hắn san bằng thành đất phẳng, dựng bia khắc lên câu: “Chỗ nầy là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp” ; trẫm chỉnh tội danh cho kẻ đã chết, tỏ phép nước về đời sau làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời”… ).

                        Mãi đến nhiều năm sau có quan đại học sĩ đông các tên Võ Xuân Cẩn làm sớ tâu trình xin vua gia ân cho các ông “nghịch tặc” trên ấy… như sau: “thân lại đại tướng, quận công, ví dù cậy công mà làm thành tội, có tội thì tội đã trị rồi, mà có công thì không ai nói đến, chẳng hóa ra đem công lao bách chiến bách thắng của Lê Văn Duyệt làm thành cái tàn hồn phải bơ vơ như ma quỷ ngoài đồng, không ai thờ cúng không?”. Sau nầy vua Dực Tông xem sớ ấy, rất cảm động, bèn truy phong phẩm hàm cho con cháu họ. (Than ôi!!!)


                        3.- Lăng THIỆU TRỊ (tên vua: Nguyễn Phúc Miên Tông 1807-1847, miếu hiệu: Hiến Tổ Chương hoàng-đế ). Lăng về hướng Đông-Nam Tây-Bắc, rộng 1000m, 6ha. Lăng có chân núi Thuận Đạo cận tiện, núi Chằm, núi Kim Ngọc, núi Ngọc Trản “tả long hữu hổ” chầu và động Bàu Hồ, có đồi Vọng Cảnh ở Làng Cư Chánh, Xã Thủy Bằng, Huyện Hương Thủy. Lăng xa trung tâm kinh thành Huế 7,5km, có đường hầm để đưa quan tài vua vô huyệt mộ (gọi là đường toại-đạo). Lăng Thiệu Trị trầm mặc, tuy đơn sơ khiêm nhường an phận nhất trong các lăng, nhưng không vì thế mà kém bề thế, dồi dào kiến trúc tinh xảo, sắc cạnh… với 2 voi, 2 ngựa, 10 người đá oai hùng gần ba hồ Nhuận Trạch, Ngưng Thúy, hồ Điện.

                        Cũng trong chu vi khu đất nầy còn có ba lăng mộ là: Hiếu Đông (bà Hồ thị Hoa, mẹ vua) – Xương Thọ Lăng (bà Từ Dũ, vợ vua) và những khu mộ con vua (bị chết lúc còn nhỏ gọi là “tảo thương”). Thế nên nhà nghiên cứu G.Langland (Pháp) đã nói: “Le tombeau de Thieu Tri peut être considéré comme une des réalisations les plus originales de l’art annamite du XIXe siècle” (Lăng Thiệu trị có thể nghệ thuật được xem là một trong những thành tựu độc đáo nhất của nền mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XIX).

                        4.- Lăng TỰ ĐỨC (tên vua: Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1829-1883, miến hiệu: Dực Tông Anh hoàng đế). Lăng xây 1864 trên núi Khiêm Sơn, Động Án về hướng Tây-Đông, thuộc Dương Xuân Thượng, (thôn Thượng Ba), xã Thủy Xuân, xa trung tâm kinh thành Huế 7km. Khu lăng có 2 voi đá, 2 ngựa đá, và 8 tượng đá quan thần. Rừng thông reo vui trong gió ngút ngàn, đất đai phì nhiêu rộng vài chục mẫu. Thành quách cao uốn lượn hài hòa bao bọc theo địa hình khuôn đất màu mỡ và phóng khoáng, có hồ Lưu Khiêm, thủy tạ sinh động, hào, cây cảnh tạo hình, hồ sen bạt ngàn hoa, đắp đất thành đảo Tịnh Khiêm soi bóng xuống mặt hồ trong xanh, nhà bia được bài trí hài hòa bởi rừng thông ngút ngàn ngày đêm reo vi vu, nơi nầy vua cùng các quan văn, võ ưa làm thơ phú, hoặc bàn chuyện chính trị. Trong hậu cung xây nhiều tòa nhà ngang dọc đền đài nho nhỏ xinh xinh.

                        Vua Tự Đức tâm tính hiền lành, nhân hậu, có tiết tháo và phẩm cách cao quý. Ngài vô cùng hiếu thảo với cha mẹ và thương quan, dân, như con. Vua uyên thâm nho-học, đa cảm mà đầy nghệ thuật tính. Vua giỏi: sử, triết, văn, thơ. Vua làm 600 bài văn, nhất là vua thi sĩ trữ tình có 4.000 bài thơ chữ Hán, 100 bài thơ Nôm rất hay). Vua chú trọng đến việc nước, nhất là Sĩ: chăm lo về việc giáo dục, học hành, thi cử. Nông: chuyên làm ruộng. Công: dạy nghề, học những nghề căn bản tiểu công nghệ, dệt vải, thợ mộc, thợ rèn, v.v….

                        Thương buôn bán nhỏ từ trên thuyền, dưới bến đường bộ, đường núi. Những phẩm chất cao quý của vua Tự Đức rất đáng trân trọng, tuy nhiên do việc triều đình vua Tự Đức không mở cửa buôn bán với ngoại quốc, việc nghiêm cấm người Việt theo đạo Kitô và giết những giáo sĩ: Y Pha Nho. Bonard. Charbonnier. Matheron… khiến mối giao hảo Pháp-Việt đã nhạt nhẽo, bất hòa, càng thêm rạn nứt trầm trọng (xin xem thêm “Histoire de la Cochinchine” – tác giả P. Cultru).

                        5.- Lăng DỤC ĐỨC (tên vua: Nguyễn Phúc Ưng Chân 1853- 6-10-1883, miến hiệu: Cung Tông Huệ hoàng đế). Lăng ở đông–tây Phường An Cựu, xa kinh thành Huế chưa đầy 3km. Lăng thuở trước rất bé nhỏ, đơn sơ, nhưng sau nầy vua Thành Thái xây lại coi cũng không đến nỗi nào bé. Từ khi vua Tự Đức chết, thì cái ngai vàng oái oăm ấy đã trở nên vô cùng rối rắm, hỗn loạn vô biên với 3 và thêm 4 đời vua (những người thuộc các hệ khác của hoàng tộc Nguyễn Phúc… thay phiên nhau lên ngôi chỉ trong vòng 4 tháng: Dục Đức. Hiệp Hòa. Kiến Phúc. Khốn thay lại có thêm 4 đời vua ngắn ngủi nữa: Hàm Nghi. Đồng Khánh. Thành Thái. Duy Tân).

                        {Ở giai đoạn lịch sử triều đình Việt Nam lúc bấy giờ quá rối rắm, phức tạp, do bọn chuyên quyền gian ác phụ chính đại thần trong triều thao túng, gây ra đẫm máu. Vua Dục Đức là hoàng trưởng tử khi lên ngôi lúc 32 tuổi, chỉ làm vua 3 ngày, là bị phế, bị quản thúc, bị giam. Sau 1 tuần họ không cho vua ăn, uống, nên ngài bị chết đói. Vua chết mà trong triều không cho gia đình của vua biết tin, chỉ bó tấm chiếu sơ sài, có một ông lính canh, và hai người gánh thi hài vua đi giữa trời mưa gió lạnh lẽo, đến một khe mương thì chiếu bị đứt dây, vua Dục Đức rơi xuống vũng nước. Thế nên họ đào đất sơ sơ rồi chôn vua tại đó}.

                        - (ít trích dẫn trên là rất đại cương, vắn tắt. Mời xem thêm từ “Lăng tẩm Huế, một kỳ quan. Phan Thuận An).

                        6./ Lăng ĐỒNG KHÁNH – (Tên vua: Nguyễn Phúc Ưng Đường, 1853-1883 - miến hiệu: Cung Tông Huệ hoàng đế). Lăng về hướng Đông Nam–Tây Bắc, tại thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, cách xa kinh thành Huế 7,5km. Lăng có lối kiến trúc tương đối dày, có lan can xây chung quanh, trước khu vực tẩm lăng có một hồ bán nguyệt đầy sen, mây in hình trên mặt nước hồ êm ả, mây bay ngang qua núi Thiên Thai. Cửa Nghi Môn dựng ở mặt trước sân lát gạch giữa sân chầu có 2 voi, 2 ngựa, và 8 quan viên gầy và cao đã đắp vôi gạch (khác hẳn với lăng tẩm khác đã tạc bằng đá, khổ người đá lùn, thấp). Tại các tầng sân tế, Bi Đình, Bái Đình, Bửu Thành đều sử dụng gạch carô, xi măng, gạch hoa màu tráng men. Cửa Nghi-môn ở Bái Đình, có hàng tượng văn võ quan viên lát gạch giữa sân chầu, có bài văn bia của vua Khải Định viết và khắc ở hai mặt bia.

                        Tòa nhà kép được pha trộn mỹ thuật kiến trúc Á-Âu tuy nhiên lối thiết kế, tạo hình đặc sắc, hội họa, thủ công tinh xảo ấy đã ghép vào các nơi rất tuyệt từ: vì kèo hình chữ tam mắc máng xối ở chính giữa và chảy xuống một bên hè. Nội thất điện Ngưng Hy là tòa nhà lộng lẫy có kính màu lắp vào các ô cửa. Trên bờ quyết, nóc, đầu hồi, cổ diêm… sơn son thiếp vàng, đa số làm đất nung tráng lớp men màu ngủ sắc. Chung quanh các vách tường, cây cột… thường: khắc, viết, vẽ, trên pa-nô, những hình ảnh sống động nổi ra, lộ ra bên ngoài tường, vách, tường, cột khảm xà cừ, đất nung tráng men màu, điêu khắc tuyệt hảo với nhiều màu sắc chói lọi, từ: chuyện cổ truyền dân gian, chuyện “Nhị thập tứ hiếu”, “ngư tiều canh mục”, cây cỏ hoa lá, cầm kỳ thi tửu, rắn, tắc kè, gà, ngựa, voi, v.v… Quan tài vua quàn tại điện Ngưng Hy ngày 18.4.1889.

                        7.- Lăng KHẢI ĐỊNH (tên vua: Nguyễn Phúc Bửu Đảo, sinh 1885-1925, miến hiệu Hoằng Tông Tuyên hoàng-đế). Lăng Khải Định uy nghi trên ngọn đồi khá cao lồng lộng gió. Thiên nhiên hùng vĩ với rừng thông ngút ngàn, và ngoại cảnh hữu tình êm ả, hồn nhiên an ngự trong tư thế hổ phục rồng chầu bên tả hữu lăng. Lăng an ngự hướng Đông-bắc Tây-nam, tại làng Châu Chử, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách xa kinh thành Huế 10km. Có dòng khe Châu Ê chẻ ra hai phía loanh quanh khu đồi, rồi tụ lại theo phong thủy “chi huyền thủy”, có núi Kim Sơn & Chóp Vung làm bối cảnh.

                        Lăng đứng sừng sững ở mé núi Châu Chử có khe Châu Ê nhiều nước độc, nên dân gian thời đó đã có câu: “Châu Ê ơi hỡi Châu Ê. Khi đi thì có. Khi về thì không”. Từ dưới chân đồi ta phải đi lên 127 bậc cấp, và chia ra thành 5 tầng cấp có những con rồng ngồi trên bờ tường rào gạch dài và rộng. Lăng an ngự trên sườn núi kiến trúc theo kiểu mới (éléments modernes) như một tòa lâu đài rộng rãi, nguy nga, tráng lệ nhất được tô điểm hài hòa khéo léo từ kiến trúc cảnh quan hơn các lăng kia (landscape architecture). Biến tấu giữa thiên nhiên cẩm lệ và toà lâu đài độc đáo, tráng lệ, hùng vĩ, đồ sộ, theo kiểu tân thời đúc bê tông cốt sắt, ngói ardoise, xi măng, cửa sắt, cột thu lôi (paratonnerre), đèn diện, vật liệu… phải mua bên Pháp chuyển về. Loại sành ngang chở đến xây từ Hà Đông. Vỏ chai, sứ tốt, thủy tinh tân thời được nhập về từ Nhật và Tàu. Bậc cấp đá hoa cương dẫn lên chính điện đẹp. Trên bậc sân vẫn có 2 voi, 2 ngựa và 20 người đá to lớn bằng người thật, 10 quan văn đội mũ có thẻ ngang, 10 quan võ đội mũ tròn và cầm gươm, mà thi sĩ Pháp Charles Patris đã ghi:

                        Voici tes éléphants, armés pour la bataille. (Đây là voi, sẵn sàng ra chiến trận)
                        Et tout auprès, dressés en leur très haute taille. (Và đây là các tướng lãnh hiên ngang)
                        De ton palais futur les nobles maréchaux. (Ta nhận ra, qua nghi biểu nghiêm trang)
                        Je reconnais tel vieux ministre à son air grave. (Quan thượng thư già, nhà thơ đức độ)
                        Ce fin lettré, modeste, et si maigre et si hâve. (Người tiều tụy, mặt gầy gò, khắc khổ)
                        Dans sa rigueur d’ ascète allait à pas déchaux. [(Giữa sân chầu đang lê bước chân không. (‘Lời Việt PTA’)]

                        Chính điện lăng Khải Định có nền lăng láng xi măng xanh xám, những bức họa long vân trên trần rộng dài và rộng ở ba gian chính uốn lượn tinh xảo, nhịp nhàng. Tường vách, vẽ chim chóc bay lượn, thú vật nhảy nhót, hoặc khắc mai, lan, cúc, trúc. Bát bửu. Ngũ phúc. Hoa văn làm mô hình đắp nổi chữ vạn thọ, phúc… Tường ghép thủy tinh, sành sứ màu xanh, đá tai mèo. Tượng vua Khải Định ngồi trên ngai vàng vua ngự có mạ một lớp vàng bên ngoài, do hai do ông người Pháp: ông P. Ducuing tạc, và ông F.Barbedienne đúc.

                        Phía sau ngai vàng là một hình phong cảnh buổi hoàng hôn mặt trời đỏ ối bên núi đồi sông nước và gió thổi bờ tre cây cành nghiêng bóng. Còn một bức tượng toàn thân vua Khải Định đang đứng thì đặt tại Bi Đình do một ông lính thợ Việt Nam quê ở Quảng Nam đúc. Những di tích còn để lại ở lăng Khải Định còn chưng bày áo mão, nhung y lễ phục, tủ giường, bàn ghế, v.v… khay trà, cơi trầu, bình vôi, hộp thuốc, trắp cẩn xà cừ, đèn, gương soi mặt, mắt kính, sách vở, bút mực…

                        Ở trong miền Nam Việt Nam thì có các lăng:
                        - Lăng Thượng Công Lê Văn Duyệt ở tại chợ Bà Chiểu.
                        - Lăng Phò Mã Hậu Quân Võ Tánh nằm trong vùng đất quân sự.
                        - Lăng Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu ở trên đường Trương Tấn Bửu.
                        - Lăng Bình Giang Bá Võ Di Nguy ở Phú Nhuận.
                        - Lăng Bá Đa Lộc thường gọi là Lăng Cha Cả ở Tân Sơn Nhứt.
                        - Lăng Nguyễn Văn Học được người Pháp gọi là "Tombeau du Marechal Nguyễn Văn Học".
                        - Lăng Ông Nhiêu Lộc trong sân bay Tân Sơn Nhứt).
                        * * *

                        Kinh thành Huế có Phú Văn Lâu nổi cao trên mặt thành. Chợ Đông Ba là ngôi chợ lớn nhất nơi xứ Huế an ngự bên dòng sông Hương, dướI bến ghe thuyền chở đầy cá tôm lên bờ, trên đường người vô kẻ ra tấp nập, ồn ào huyên náo. Họ nói nhỏ nhẹ ríu rít dập dìu như những tiếng chim, như điệu hò mái nhì, điệu nam ai. Hầu hết nhà nhà đều có vườn cây hoa trái tốt tươi. Nhiều giọng nói ân tình nghe rất nhẹ ríu rít lao xao trong chợ Đông Ba chộn rộn. Mười xuống đò xuôi mái chèo lần theo ven bờ sông Hương, lên cầu Bạch Hổ văng vẵng nghe hồi chuông Thiên Mụ (xây năm 1601 có tháp Phước Duyên xây 7 tầng) ngân nga vang vọng:
                        “Gió đưa cành trúc la đà.
                        Tiếng chuông Thiên Mụ canh ga Thọ Xương”.


                        Và một bài thơ về Huế:
                        * Lâu chưa về thăm… nhớ Huế
                        Nắng hồng vương Vĩ Dạ ấp hàng cau
                        Áo màu sim em khép nép qua cầu
                        Tay giữ nón ngang Phú Vân Lâu phượng đỏ.

                        Núi Ngự chiều dâng chim kiếm tổ
                        Sông Hương trăng luyến khách đưa đò

                        Nắng ngày xưa nay trôi giạt nơi mô?
                        Đường phố cũ và cơn mưa dầm Thượng Tứ.
                        Làn gió thoảng hồi chuông từ cổ tự
                        Ngả bên sông Tháp Thiên Mụ in dòng
                        Hương Giang sóng vỗ trong lòng
                        Xa nhau từ đó hết Đông lại Hè
                        Nhớ sao phượng đỏ lời ve...
                        (*THH)

                        Bờ môi Mười trào dâng vị ngon, tuổi thích mè xững, ô mai xí muội, me chua khế ngọt, ổi đào, cầm trên tay trái cóc ngâm muối đường chua chua ngọt ngọt chấm muối ớt, cắn vào răng hít hà hít hít… cay cay mà ngon ơi là ngon, làm chết thèm mấy đưá bạn đứng nhìn mình chảy nước miếng ròng ròng chớ chẳng chơi! Dẫu có nhắm mắt, lớn nhanh lên hay đã già, Mười tin mình vẫn hình dung được dĩ vãng trôi về trong hiện tại, khi xe đi ngang qua cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp nầy.

                        Ngày ấy, Mười, nữ sinh lớp Đệ Thất ríu ra ríu rít trong đồng phục trắng, cô đơn, (vì “ẻm” ở xứ lạnh mới về, chưa hề quen trường mới, không có bạn mới, từ trường nữ Trung học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry, chân Mười mang guốc vông lẹt đẹt, vành nón lá kéo nghiêng che muôn sợi mưa li ti, bay bay, phủ mờ nhoà thành phố, khi mùa Đông mưa gió, lụt lội tràn về. Tóc thề mướt mát, nặng trong gió, Mười ôm cặp kè kè bên hông, thân co ro, môi run run bởi gió rét mưa phùn buốt lạnh. Khi muà Xuân tới mặt trời nhú dạng trên những lùm cây, Mười cùng hàng hàng lớp lớp nữ sinh, tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, trong sáng, vui tươi bước đi hân hoan dưới những vòm cây rợp bóng, có lọng dừa lọng cau bao bọc tứ bề. Mùa Hạ về Mười cùng bạn Huế có giọng nói chính gốc nội thành, khi họ cất tiếng oanh vàng thỏ thẻ thì nghe thanh tao, nhã nhạc như reo vui với tuổi trẻ an thư hồn nhiên.

                        Họ tung tiếng cười bay theo tiếng ve ra rã trên chùm phượng vỹ cao vời vợi, hoa đỏ thắm nhuộm đầy vùng trời Đế Đô. Mấy bạn xứ Huế ưa chọc ghẹo con nhỏ Đà Lạt là: …“khách ngất ngây khi hoa nở trên má, … nhớ hoa đào trên má ai…, màu hoa in trên má, làm khách lưu luyến mãi…”
                        Khiến con nhỏ tức tưởi hờn dỗi nghĩ rằng:

                        - “Mình nào có làm cho đôi má hồng hồng, đôi môi mòng mọng tươi tắn đâu, mà là do Trời ưu ái ban cho các cô gái Đà Lạt xinh xinh đẹp đẹp tự nhiên đều như thế! Chứ nào phải tự ên dồi phấn thoa môi son”! Các bạn lại tha hồ quệt quệt vô má con nhỏ mà lêu lêu mắc cỡ: Khiến con nhỏ òa khóc ngon lành, và trốn biệt xứ Huế thơ mộng, để trở về Đà Lạt chui vô nội trú trong trường Couvent des Oiseaux. Vì,:
                        Chi lạ rứa chiều nay tui muốn khóc
                        Ngó chi tui loài cỏ mọn hoa hèn
                        Nhìn chi tui hình đom đóm trong đêm
                        Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
                        (NTH)


                        Lòng Mười dạt dào niềm luyến thương cảm mến vô tận với Huế. Chỉ vì, cô bé trước kia là cư dân sinh trưởng ở vùng Đà Lạt nho nhỏ xinh xinh, hiền hoà, (không kém phần thi vị, thơ mộng). Nay quay gót về kinh thành Huế rộng thênh thang, ngây dại bảng lảng trước phách lá hồn hoa: Mộc lan, mẫu đơn, hoàng lan, hoa sen, hoa súng, hoa lục bình, hoa cau, hoa ổi, hoa ngâu, hoa lài, hoa trang, hoa quỳnh, hoa hướng dương, hoa me li ti, hoa phượng đỏ rực rỡ. Huế nên thơ trầm lặng, len lỏi trong lòng cô bé chớm lớn niềm an thư sạch trong, sáng ngần… chẳng hụt vơi tình xanh. Cô em cứ tưởng đời mãi mãi là một màu xanh, xanh xanh trên con đường thiên lý thênh thang ngút ngàn. Ai ngờ… con nhỏ Đà Lạt ngu-ngơ chẳng hiểu anh xứ Huế ghé tai… "noái chi, mô, tê, răng... mà lạ lùng dị dạng rứa… hè:

                        Để nghe len lén duyên tình giăng tơ.
                        "Mua lửa" thì thật phải lo
                        Vì là mua chịu ai cho "lửa" hoài

                        "Mắc lửa" là thiếu nợ dài
                        "Lửa" chi không thiếu, chẳng phai "lửa tình"
                        "Sáng mơi" là lúc bình minh
                        Của ngày kế tiếp, nong tình đem phơi

                        "Bữa tê" em hẹn lại chơi
                        Quên bẵng cái việc em mời bữa kia
                        Bữa tề" mang lịch ra chia
                        Bữa tể" là trước bữa kia hai ngày

                        "Bữa ni" là bữa hôm nay
                        Là lúc đương nói hàng hai đây nì
                        "Mần chi" ai hỏi làm chi
                        Em muốn làm gi`, "răng hoải mần chi?"

                        Thế này thì nói "ri nì"
                        "Rứa tề", thế đó mần chi đây hè?
                        Cái cây thì noái cái "que"
                        Còn ở trước hè lại nói cái "cươi"

                        Cái "ôn" bản mặt tươi tươi
                        Ưa đi tán bậy là người vô duyên

                        ---

                        (*) Thơ Tình HOÀI HƯƠNG
                        (**) Tác giả: Cai Vĩnh có bản quyền đăng kí - Không "đạo văn”
                        ***

                        Tình HOÀI HƯƠNG
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-14-2017, 07:36 PM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • CHA MẸ Tôi (đã từng) Nén Lại Chân Quê
                          Happy Father' Day. Happy. Happy...
                          THH xin cống hiến quý độc giả HQPD bài viết về CHA.
                          Thân quý, ***


                          “Tinh thần gia đình là gì?
                          Đó là: Pha trộn tình mến sợ cha. Tình âu yếm sợ mẹ. Kính trọng cả hai. Thán phục nhân đức của cha lẫn mẹ. Bỏ qua các lỗi lầm. Ghi nhớ công ơn. Thông cảm đau khổ. Cảm kích các hy sinh của cha lẫn mẹ” (P. Janet).

                          Chị Hoài Hương quý mến

                          Những kỷ niệm viết về người cha kính yêu của chị thật là chi tiết và đầy tình cảm. Sao chị nhớ nhiều và viết dễ dàng đến thế. Em cũng đã và đang viết một bài về ba mình mà do trí nhớ kém cỏi, em viết hoài không xong. Cám ơn chị đã chia xẻ một bài viết gây xúc động lòng người (như em) làm em nhớ ba em quá! Em nghĩ, nếu không có người cha bên cạnh thì những đứa con sẽ không bao giờ trưởng thành.
                          Kính chúc chị luôn vui khoẻ để sáng tác nhiều hơn.
                          Quý mến
                          TL

                          Comment


                          • THH gửi Thiên Lý

                            Nguyên văn bởi thien ly View Post
                            CHA MẸ Tôi (đã từng) Nén Lại Chân Quê
                            Happy Father' Day. Happy. Happy...
                            THH xin cống hiến quý độc giả HQPD bài viết về CHA.
                            Thân quý, ***


                            “Tinh thần gia đình là gì?
                            Đó là: Pha trộn tình mến sợ cha. Tình âu yếm sợ mẹ. Kính trọng cả hai. Thán phục nhân đức của cha lẫn mẹ. Bỏ qua các lỗi lầm. Ghi nhớ công ơn. Thông cảm đau khổ. Cảm kích các hy sinh của cha lẫn mẹ” (P. Janet).


                            Chị Hoài Hương quý mến

                            Những kỷ niệm viết về người cha kính yêu của chị thật là chi tiết và đầy tình cảm. Sao chị nhớ nhiều và viết dễ dàng đến thế. Em cũng đã và đang viết một bài về ba mình mà do trí nhớ kém cỏi, em viết hoài không xong. Cám ơn chị đã chia xẻ một bài viết gây xúc động lòng người (như em) làm em nhớ ba em quá! Em nghĩ, nếu không có người cha bên cạnh thì những đứa con sẽ không bao giờ trưởng thành.
                            Kính chúc chị luôn vui khoẻ để sáng tác nhiều hơn.

                            Quý mến
                            TL

                            Thiên Lý thân mến,
                            Tình HOÀI HƯƠNG hân hạnh khi quen một bạn nhỏ "có tâm hồn thi-văn-sĩ" (tuy tuổi trẻ nhưng có hoài bão, lập trường & kiến thức sâu rộng).
                            Càng hơn nữa THH vui lắm được TL đọc và ghi lời nhận xét, tôi cảm động vì như TL cũng biết: Lúc chúng ta ngồi gò lưng để tự viết bài (chẳng biết TL thì sao), nhưng riêng tôi nghĩ: mình đã mòn mỏi, hụt hơi... vắt cạn kiệt chất xám ; mà có người đọc... ân cần chia sẻ. Quả thật hạnh phúc. THH biết ơn về những khích lệ ấy, xin sẽ cố gắng.


                            THH
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-22-2014, 12:02 AM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Chị Hoài Hương quý mến

                              Cám ơn chị đã dành cho em nhiều ý nghĩ tốt đẹp quá, nhưng em cảm thấy mình thật chưa xứng đáng. Về kiến thức em hãy còn yếu kém lắm, em không có nhiều kinh nghiệm sống cũng như kiến thức sách vở để mang vào các bài viết của mình. Em chỉ có một khối tâm tình chất đầy lòng, sẵn sàng trút ra trên giấy khi có cảm xúc buồn vui nào đó bất chợt đến. Những chuyện thật thì em viết rất nhanh và dễ dàng, nhưng chuyện mà cần có chút hư cấu (như chuyện tình yêu) thì khó khăn vô cùng .Vì thế, sau mỗi lần viết xong một truyện ngắn là em phải uống thuốc hạ áp huyết.

                              Em rất thích những bài viết về phong cảnh quê hương đất nước của chị. Em ao ước sẽ có dịp nào viết về những nơi mình đã đi qua với vài kỷ niệm như thế. Tiếc thay cuộc sống đơn điệu chỉ có từ nhà đến chỗ làm và ngược lại, nên em không biết viết gì xa hơn ngoài đề tài gia đình. Hầu hết thời giờ còn lại trong ngày thì em đi du lịch bằng sự tưởng tượng qua đọc các bài viết trên net, trong đó có những bài viết của chị.

                              Hôm nay em đọc bài “Kinh Thành Huế Thơ & Lăng Tẩm” thì mới nhận ra hết được cái kiến thức sâu rộng kèm theo trí nhớ tuyệt vời, mà đã được chị diễn tả rất đẹp, rất sống động về những Lăng Tẩm, đền, chùa, các triều đại vua quan…Đọc qua đoạn giới thiệu:

                              "*HUẾ ! di sản đặc biệt quý giá là tặng phẩm độc đáo của Trời ưu ái ban tặng, và cũng là sính lễ sang trọng của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân. Huế là vùng khí hậu nhiệt đới, có bốn mùa rõ rệt: Mặt trời luôn rót nắng vàng hanh chảy xuống Đại Nội. Mùa đông buồn lặng, đìu hiu ướt át, lụt lội gió bão mịt mù. Mùa xuân xanh tươi, mát mẻ êm êm, trời trong xanh mây trắng nhẹ lâng lâng bay bay khắp đường đi nẽo về & đầy mùi hoa thơm. Mùa hạ rực nắng tình hè, trời hâm hấp nóng nực kinh hồn với những hàng phượng Vỹ đỏ rực soi mình trên sông Hương, phượng nghiêng mình đứng bên hồ Tịnh Tâm. Ít ra từ mỗi sân trường, từng xóm làng…" khiến cho em vốn đã yêu đất Huế giờ lại còn yêu thêm. Xứ Huế thơ mộng đã sinh sản ra nhiều nữ sĩ tài năng như chị.

                              Hèn chi chị HH biết không, chàng cựu SVSQ Không Quân nhà em rất yêu cô gái Huế, và chàng đã từng mơ ước có một nàng Huế về “ nâng khăn sửa túi” cho chàng suốt cuộc đời còn lại, nhưng xui xẻo làm sao chàng lại gặp em không phải là cô gái Huế … Riêng em, hồi còn trẻ cũng mơ một chàng Huế đó chứ, để được chàng “làm thơ tình em đọc”… Thế mà sự đời tréo ngoe hết!!!

                              Dài dòng với chị nhiều quá rồi, em xin gửi lại đây lòng mến mộ, và sự khâm phục một bút pháp rất công phu. Đúng là chị đã “vắt cạn kiệt hết chất xám” để gửi đến người đọc một bài viết hay, có giá trị lịch sử.

                              Em xin gửi tặng chị một bó hoa hâm mộ và một ly sữa dâu tươi “ bồi dưỡng” chất xám chị nhé.



                              Mến chúc chị luôn vui khoẻ để sáng tác dồi dào hơn.
                              Quý mến
                              TL

                              Comment


                              • Chuyến Bay Đầu Tiên (của Khóa-sinh Không-Quân)


                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-21-2017, 02:19 AM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X