Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #46
    Vòng Couronne Mortuaire Cườm Đen Băng Tím


    Vòng Couronne Mortuaire Cườm Đen Băng Tím
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-07-2017, 12:12 AM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • #47
      PHƯ0NG NAM Bờ Môi Ấy…



      PHƯƠNG NAM Bờ Môi Ấy…
      Tình Hoài Hương
      ***



      Ngày tháng qua đi, năm học mới bắt đầu, đại học đường mở cửa nghinh đón sinh viên. Mọi sinh hoạt trên đại học vẫn vui vẻ. Nam kể lại cho cô nghe nhiều điều thú vị pha mật ngọt tình yêu, giọng nói Nam êm đềm, ấm áp, cởi mở kèm theo nụ hôn ngọt lịm, nụ cười hồn nhiên, hòa nhã, tươi mát đến ngã lòng người.

      Nam, Hạnh vào đại học dự lễ bổn mạng cha viện trưởng. Đêm dạ hội thật vui, anh làm Phó Tổng Hội sinh viên và điều khiển chương trình văn nghệ, phụ trách mục ảo thuật, Nam đã “thông đồng” với cô làm một pha ngoạn mục là: “gạt” qúy vị tiến sĩ, thạc sĩ không hà. Nghĩa là Nam nhờ Hạnh bí mật viết sẵn một câu (mà hai người đã rù rì bàn định trước ở tại nhà, rồi khi đến đại sãnh đường, thì để tờ giấy ấy tại chỗ cô ngồi, nơi mà Nam dặn dò trước) để làm trò ảo thuật. (Sau lần đó cha viện trưởng gọi Nam lên văn phòng, cha thắc mắc hỏi:
      - Cha sẽ cho con một số tiền thưởng 500 đồng, nếu con cho cha biết bí quyết đó, là làm răn mà con đọc được những ý tưởng của cô nớ, hí?
      Nam vui vẻ bật mí cho cha biết, nghe xong ngài cười quá chừng, Nam đã vui vẻ “móc túi tiền” cha viện trưởng thiệt).

      Đặc biệt nhất khi anh đơn ca “Twist again, again” độc diễn màn vũ giật gân, hấp dẫn lạ lùng. Nổi hứng, Nam ca luôn ba bản nhạc ngoại quốc, khán thính giả vổ tay bốp bốp, rầm rầm rầm… nồng nhiệt hoan nghênh. Phải thú thật hôm nay Nam là người con trai “nổi nhất đám nhất đình” nầy. Xuống khán đài, anh đến ngồi bên cô vui vẻ trò chuyện mươi phút, sau đó Nam qua ngồi gần ban nhạc của trường. Trong lúc Thiên đánh đàn Hạ Uy Di bản “Tà Áo Xanh” cho Lộc đơn ca. Ngón đàn của Thiên điêu luyện, uyển chuyển, nhẹ nhàng, lâng lâng dìu dặc, đầy rung cảm, cuốn hút người nghe, quyến rũ, êm ái xoáy vào lòng người, chơi vơi bềnh bồng dường như trôi về miền quá khứ xa xăm mơ hồ nào xa lắm... Khiến Quyên-Hà ngồi hàng ghế sau lưng chàng vổ tay hoan hô không ngớt, cô trầm trồ khen ngợi Thiên, giống như Hà đã nhí nhảnh rất đáng yêu, vổ tay tán thưởng Nam lúc nảy vậy. Nhưng Thiên thật kỳ lạ, anh ta không hề thích Hà, chứ đừng nói là muốn bu bám cô, (như nhiều anh khác xôn xao đeo bén gót Hà trong vài phân khoa). Thiên thấy cô nàng sao mà ăn nói vô duyên quá, chả có gì xinh đẹp quyến rũ nỗi mình. Dù Hà là hoa-khôi ở đại học, ăn mặc model hở lưng, hở ngực, chiếc váy mini, chân dài vai mảnh dẻ càng tỏ lộ đường nét uốn lượn trên thân hình thon thon, mà ai ai cũng muốn ngắm nhìn.
      Khi Nam đến ngồi gần Hà, Hà cười hỏi:
      - Cô gái đó, có phải người yêu của anh không?
      - Không phải chỉ là người yêu, mà còn là fiancé của tôi nữa.

      Quyên Hà cười cười, quay lại nhìn Hồng Hạnh thật lâu, rất lâu. Bốn mắt họ giao nhau. Đấy là cái nheo mắt mở màn của định mệnh cúi xuống nhìn; đã chuyển hướng cuộc tình đến tương lai. Là cái nhìn từ giòng giông bão của đôi bờ vực ào ạt xô sóng vào những tháng năm sắp tới. Và, cuộc sống, hoài bão, dự kiến tương lai, tình yêu, hạnh phúc riêng ta, đã chạm trán gay gắt kinh khủng với muôn điều bất hạnh, đau khổ tột đỉnh. Mà, cả Hạnh lẫn Nam, Hà… đều gieo trên luống nước mắt vô tình đau thương tột độ, do định mệnh thờ ơ lạnh nhạt đến hững hờ cúi nhìn và ban tặng cho cả ba người.

      Trong khi các bạn khác bận rộn trình diễn văn nghệ, Nam nháy mắt với cô lẽn ra ngoài xuống xem phòng ngủ, để biết nơi ăn chốn ngủ của nam sinh viên nội trú. Nam, Hạnh vừa đi vừa trao những nụ hôn rơi rụng trên sườn đồi thông im vắng, rồi dìu nhau xuống lưng đồi mờ tối dưới ánh trăng đêm treo chênh chếch trên đầu. Đúng lúc đó, Hà cùng Vũ Anh (học ở Grand Lycée trước kia) từ trong bóng tối dưới lùm cây bước ra. Hơi bất ngờ, họ khựng lại nhìn theo bóng Nam âu yếm và trìu mến quàng tay qua ôm lưng Hạnh. Hai người lẫn khuất sau chòm cây bên hiên nhà.
      Cư xá sinh viên là hai dãy nhà ngói nép mình bên những bụi cây thưa. Ở đây nghiêm cấm người lạ, nhất là phụ nữ không được léng phéng chui vào trong khu nội trú của nam sinh viên, chuyện không cho phép phái nữ lui tới dòm ngó vô ký túc xá cuả nam sinh viên. Nếu có người nào vi phạm nội quy nầy, thì nam sinh đó bị đuổi ra khỏi ký túc xá ngay. Nhưng Nam “lén” dẫn cô xuống xem qua cho biết. Nam ở chung với Ninh. Mỗi người đều “trang trí nội thất” theo thẩm mỹ riêng: Một tủ lớn đựng quần áo ngăn giữa hai giường nệm sạch sẽ, trắng tinh, gối hoa đơn lẽ, kệ sách gần cửa ra vào, là bàn học nho nhỏ. Phòng ngủ nhìn ra dãy đồi thông bên khu Nguyên Tử Lực, cạnh hai chiếc ghế dựa là hai table de nuit. Trên tủ nhỏ có tấm hình bán thân của người yêu đặt trong khung kính. Hạnh đang gởi đến anh sinh viên ánh mắt thiết tha, nụ cười tin yêu, say đắm, trữ tình bình yên và chờ đợi.
      Nhìn những ngọn đèn pha giọi sáng từng gốc cây, từng bụi cỏ, tường gạch cao quá đầu người, cô tủm tỉm cười:
      - Thế nầy, thì anh hết đi chơi về khuya nhỉ!
      - Vậy mà bọn anh đã trèo tường mấy lần rồi, cưng ơi.

      Nam cười vui, anh hôn lên mái tóc ngắn ngủn (than ôi! vì mái tóc ngắn tủn ngắn tỉn nầy, "chàng" đã giận "nàng" mất mấy ngày). Hai người trở lại khu giảng đường xem các bạn đóng kịch. Sau buổi lễ, hai anh em chụp lưu niệm vài tấm ảnh. Nam chở Hạnh về trên chiếc xe vespa Italy lúc mười một giờ khuya. Nam ở lại ngủ trong phòng chung với anh Tuế.

      Mấy hôm nay Nam bị cảm, ho, Hạnh bắt anh về trường nhớ uống thuốc mỗi ngày, đôi khi cô còn lật lưng Nam ra để cạo gió, lưng anh bị từng sọc đỏ bầm. Không quen cạo gió kiểu nầy, Nam oằn người cứ rên i ỷ, thấy mà thương! Chị Tuế bảo Hạnh nấu cháo thịt nạc, muối tiêu, xổ trứng gà, hành, ngò, rau tía tô, lót dưới lòng tô, múc cháo nóng đổ lên. Đôi lần chị còn bắt Nam xông nồi lá hương nhu, lá sả, các lọai lá trái cây. Nam sợ chị buồn, ngồi vô xông, Nam bị nóng gần lột da, khiến anh kêu trời không thấu. Mấy ngày sau anh hết đau, Nam cười vui:
      - Thuốc của bàn tay cô tiên có khác, anh hết đau rồi.
      Hai người chở nhau đi Ga ăn phở Quỳnh, sau đó họ mua bánh mì ba tê gà, trái cây, nước ngọt, đi picnic nguyên ngày ở thác Preen. Đến thác, Nam gởi xe, rồi hai anh em giung giăng giung giẻ tay trong tay đi trên đồi, nói đủ chuyện về dự tính tương lai của chúng mình:
      - Cưng à, khi anh thành tài, đi làm việc, chúng ta đám cưới xong, em chỉ cần ở nhà chăm sóc gia đình nha. Từ từ em sẽ sanh cho anh một tá con, nếu là con trai đầu lòng, chúng mình sẽ đặt tên con là: Đỗ Trần Hương Hoàng, nếu là gái sẽ là: Đỗ Trần Hoàng Hương.
      - Đặt tên thì được rồi, nhưng về chuyện con cái, em chỉ thích hai gái hai trai, là quá nhiều.
      - Muốn như vậy cũng được, nhưng em hãy cho anh tự do... thoải mái tị chứ!
      - Ơ... Tự do theo nghĩa nào mới được hở?
      Nam cười giả lả:
      - … Tự do theo kiểu í... là... "Tự Do, Bình Đẳng, Huynh Đệ" (Liberté, Égalité, Fraternité), của người Mỹ về "Đời Sống, Tự Do, Công Lý. Hạnh Phúc". Lòng ái quốc. Tình huynh đệ… và hồi tưởng những người đã hy sinh vì tự do, á em. (Life, Liberty and the Pursuit of Happiness). Ấy dà da...!
      - Anh ngộ ghê à nhen.
      Ngừng giây lát, Nam vui vẻ nói tiếp:

      - Ý anh muốn nói thì… thì giống như bức tượng “Nữ thần Tự Do, mang vương niệm trên đầu có bảy mũi nhọn, là họ có ý tả về sự tự do được tỏa rộng tới bảy lục địa, và bảy đại dương ấy mà. Tượng đó ở hòn đảo Lyberty (New York). Bức tượng Nữ Thần Tự Do cao 152 feet (46 mét) và nặng 225 tấn, tượng đứng trên cái bệ cao 150 feet. Nền của bệ có thể tích 11,680 yard khối (8,916 mét khối). Tay phải Nữ Thần giơ cao bó đuốc, tượng trưng cho nhân cách, uy quyền và sự giải phóng. Tay trái bà cầm quyển Hiến Pháp tuyên bố độc lập của Nước Mỹ ngày 04 tháng 07 năm 1776. Dưới chân tượng đã đúc xiềng xích, gông cùm đều bị đập tan.

      - Ồ bài thơ chuyển dịch sang tiếng Việt, mà em rất thích có phải là: bài thơ “The New Colossus” của nữ thi sĩ Emma Lazarus, có những câu sau đây:
      “Hãy trao cho ta, những con người mệt nhọc, nghèo khổ.
      Đám quầng chúng tả tơi. Khao khát tự do!
      Những kẻ đói rách, đã từ chối những vùng bờ biển phì nhiêu khác.
      Hãy gửi cho ta, những con người nầy:
      Những kẻ vô giá, vừa bị bão tố vùi dập.
      Ta giương ngọn đuốc bên cánh cửa vàng son...”

      - Đúng phóc rồi em à. Nguyên bản bài thơ “The New Colossus” như thế nầy, Mười nghe nhé:

      Not like the brazen giant of Greek fame
      With conquering limbs astride from land to land
      Here at our sea-washed, sunset gates shall stand
      A mighty woman with a torch, whose flame

      Is the imprisoned lightning, and her name
      Mother of Exiles. From her beacon-hand
      Glows world-wide welcome; her mild eyes command
      The air-bridged harbor that twin cities frame.

      Keep, ancient lands, your storied pomp! cries she
      With silent lips. Give me your tired, your poor,
      Your huddled masses yearning to breathe free,
      The wretched refuse of your teeming shore.

      Send these, the homeless, tempest-tossed to me:
      I lift my lamp beside the golden door.

      - Anh tạm đọc cho em nghe theo lời dịch:
      Không giống như tượng đồng danh tiếng của Hy Lạp,
      Với những cánh tay chinh phục sải dài từ xứ này sang xứ khác;
      Nơi đây tại cửa biển hoàng hôn sóng vỗ
      Đứng người đàn bà phi thường với ngọn đuốc, lửa đuốc

      Là sấm sét bị cầm tù, và tên nàng
      Mẹ của những kẻ tha hương.
      Từ bàn tay cầm đèn hiệu đó
      Sáng rực lời chào tỏa khắp thế giới;

      đôi mắt dịu hiền của nàng trị vì
      Hải cảng lộng gió giữa hai thành phố. *
      “Cứ giữ lấy những mảnh đất xa xưa,
      những cổ tích hoa lệ của các ngươi!”,

      nàng kêu gào. Môi mím chặt.
      “Trao ta những kẻ mệt mỏi, nghèo đói của các ngươi,
      Những đám đông chen chúc của các ngươi
      đang mong ước hít thở tự do,

      Những rác rưởi khốn cùng trên bờ biển đông đúc của các ngươi.
      Trao ta, những người vô gia cư, dập vùi trong bão tố,
      Ta sẽ nâng đèn rọi bên cạnh cánh cửa vàng!” (Nguyễn Minh Hiển dịch)

      - Anh à, cũng có người dịch lại bài thơ nầy từ nguyên bản tiếng Anh:
      Hãy đưa đến cho ta,
      Những kẻ kiệt quệ, nghèo khốn
      Những đám đông hỗn độn thèm muốn được thở tự do,
      Những kẻ vô dụng bần cùng từ những bến bờ chen chúc,
      Hãy gởi tới những người cùng cực này cho ta,
      Những kẻ không nhà,
      Những kẻ bị vùi dập bởi bão tố phong ba,
      Ta nâng cao ngọn đèn, ánh đuốc,
      Bên cánh cừa đầy cơ hội bằng vàng của miền đất hứa Cờ Hoa. (*)

      Hạnh suýt xoa:
      - Ôi! Bài thơ quả thật quá tuyệt vời.
      - Em cho anh một tá con nghen. Một tá mười sáu à nha. Vừa trai vừa gái...
      - Trời đất qủi thần thiên địa ơi!
      - Anh thấy còn hơi ít đó em.
      - Làm gì mà... quá hơn con heo nái, “in ra” một bầy heo mọi, ủn ỉn ụt ịt chạy lăng quăng vậy anh!?
      - Ui, anh yêu thích trẻ con và chó lắm. Đông vui càng tốt. Các con đi đâu, sẽ xếp hàng dọc, thẳng, bước đều, bước... Còn hai ông bà già lụ khụ, thì đi sau rốt!

      Hạnh và Nam cười rõ to. Cười ngất. Đó là tiếng hét ân tình, khát khao về ảo tưởng thiên đường không kềm chế nỗi, ước mong niềm hạnh phúc vô biên, bất tận đang dâng tràn. Hạnh phúc đắm say trước mắt bừng tỉnh, ý thức nguồn hứng khởi dâng tràn trên sóng mắt đa tình, trôi vào bờ môi vụng dại.

      Bây giờ Nam, Hạnh, nằm bên nhau, ôn lại những kỷ niệm đằm thắm dấu yêu một thuở vàng son ở Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng. Mình như đôi bạn chí thân đã vượt qua tình yêu thuần khiết giữa trai và gái, để tiến tới thứ tình cảm vô cùng trân quí và thiêng liêng, cao khiết, sạch-trong vô vàn. Đó là tình đồng-cảm, trân trọng nhau, tuyệt vời, thứ hạnh phúc ngọt ngào có thật. Vì... Chúng mình đã biết kềm chế cơn tình dại, khát khao đến cháy lòng, biết dập tắt ngọn tình bừng dậy khi thủy triều dâng sóng, biết xô đuổi cơn phong ba bão táp, muốn lôi kéo chúng mình chìm trong mê đắm. Chỉ cần một chao nghiêng, một vỗ cánh, một uốn khúc, là có thể... đạt đến tuyệt đỉnh yêu thương. Ấy thế mà... Anh vẫn là Nam, em còn là Hạnh. Đôi ta tuy hai nhưng là một, dẫu một nhưng là của riêng hai trắng trong nguyên vẹn, khi “trái cấm tuyệt vời” còn xanh chưa tròn độ hái, thì có vội chi mà “ăn vụng”. Bởi thế Nam, Hạnh ung dung chờ đợi ngày vui nhất đời sẽ sẽ sẽ... đến: Đám cưới đầy hạnh phúc, ngày trọn vẹn yêu thương chân tình sẽ đến. Việc yêu thương nhau chân thật, sẽ dẫn đến hôn nhân, không trước thì sau… cũng qua ngỏ nhà. Chúng mình đã đính ước rồi, nào có vội gì đâu!

      Ngày hôm sau, là birthday của Hạnh ngày 04 tháng 12. Anh chị Tuế tổ chức sinh nhật cho em gái thật linh đình, (so với những sinh nhật cũ). Hạnh được phép mời Nam, Ninh, Cầu, Vinh, Quang, Hậu, Trí, Mô, Thành, Long, Ân, (họ là bạn của Nam). Bạn gái của cô có Yến, Vân, Hồng, Oanh, Nhi, Viên, Ngọc, Mỹ, cùng gia đình chị Ba, anh Thuyền, các cháu con của chị Tư, (cô không mời chị Tư, vì chị khó tính và rắc rối quá). Buổi tiệc trưa thân mật, vui vẻ thoải mái, hương vị thơm ngon đậm đà, đầy ắp thức ăn tươi được dọn ra trên hai dãy bàn dài trên lầu.

      Bạn bè nâng ly chúc tụng những câu bông đùa dí dỏm và hóm hỉnh. Họ hào phóng tặng cô những món quà nho nhỏ dễ thương. Trong đó, Hạnh thích nhất quyển Album màu hồng phấn, ở ngoài bìa là hình ảnh hai cô cậu bé chụm đầu vào nhau nâng quả táo vàng, có chữ HH lên ngực. Quà tặng của Nam có ý nghĩa lắm mà.
      Sau buổi ăn, bạn bè ra ngoài phòng khách, ăn bánh Croissant au Beurre hoặc bánh gateaux, uống nước trà, cà phê. Thấy các bạn mơ màng nhìn cà phê nhỏ tong tong từng giọt mọng tròn, đen đen xuống đáy ly sánh đặc, tỏa mờ hơi nóng, tạo thành những nhánh rong rêu, vo tròn từng hạt nước lung linh li ti, tí tách rơi rụng xuống đáy ly. Cà phê thoảng mùi thơm thơm, quyến rũ và lãng mạn thế nào ấy. Các bạn ung dung nhắm mắt, ngả đầu trên thành sofa, giữa khói thuốc vờn bay trong vùng tranh tối tranh sáng, nhấp môi nhâm nhi từng hớp nhỏ, trông lãng mạn quá chừng. Nhạc êm dịu du dương len lõi qua nhánh thời gian, mặc cuộc đời lâng lâng, bay bổng như bong bóng bay, ẩn hiện hay chìm khuất vào chân mây, muốn trôi đi đâu thì trôi. Thì Hạnh đâm ra thèm tự pha cà phê thưởng cho mình một ly. Lần đầu tiên uống cà phê đen, cô nhắm mắt nhăn mặt ngửa cổ uống ực một hơi, hết sạch, y như uống thuốc bắc, khiến các bạn cười ồ. Họ nào biết cô chẳng bao giờ uống cà phê đen, sợ muôn điều đắng cay và đen bạc từ đâu ập đến đời mình, trót lỡ vì sở dĩ cô đã có quá nhiều đắng, đen, như ly cà phê nầy. Họ ca hát vui vẻ thân tình đến tận chiều, mới chia tay.
      *

      Buổi trưa ngày chủ nhật hồng chẳng phai nắng có tiếng thông reo triền miên. Mây cuộn lại thành từng lọn rủ nhau về vần vũ ven đồi tạo thành đàn cừu trắng lênh đênh trôi. Không khí Đà Lạt ẩm ướt, man mác, mù sương vật vờ bay lên khỏi mặt nước hồ Lãng Ông, hòa lẫn cùng mây e ấp phiêu bồng sa xuống đầu núi. Bỗng nhiên trời trở dạ ưng rưng mưa phùn run rẩy trên lá cành oằn ngọn. Dường như gió hòa theo tiếng thông vi vu, phàn nàn khi tiết trời run run lạnh từ kiếp nầy sang kiếp khác, len lén đê mê lùa về xứ Cao Nguyên Lâm Viên ngàn đời quyến rũ và thơ mộng.

      Sau ngày nhập học vài tuần, bất thần Nam hiện ra nơi cánh cửa mở rộng, ánh sáng xế trưa tràn ngập căn phòng ngập lụt niềm vui. Nam ôm cô vào lòng, hôn lên mái đầu lạnh lẽo.
      - Em ơi! Có chị Liên đến thăm gia đình nè.
      Hai anh em hí hửng nắm tay nhau vui vẻ chạy xuống thang lầu. Chị Liên ngồi nói chuyện với chị Tuế. Chị còn độc thân, chị đẹp nét tự nhiên đã có, lồng thêm vào đó là chị trang điểm cẩn thận, tỉ mỹ, đầy nghệ thuật, áo quần chị mặc thanh lịch, tao nhã, theo cung cách con nhà giàu được cưng chiều. Đặc biệt nhất là mái tóc chị dày rất dài, đen, óng mướt. Chị ăn nói lịch sự, có duyên. Chị nắm tay em, thân mật rủ Hạnh ra vườn hoa, chị vừa nói chuyện vừa ngắt những cánh hoa “Forget me not”, chị nhờ cô cài lên mái tóc đánh rối của chị. Và, chị cài lên mái tóc cụt ngủn của cô (vì mái tóc “quỉ xứ” nầy, Nam đã giận Hạnh mất mấy hôm). Chị cười xinh xinh:
      - Theo chị nghĩ: Em xinh đẹp, nết na, ngoan hiền lắm. Không giống như vài cô gái mà Tony quen thân (Tony là Nam í). Họ dạn dĩ, láu lĩnh, quỉ quyệt làm sao đó. Nhất là con nhỏ Thảo, Tony à.

      Hạnh ngạc nhiên, liếc mắt nhìn chị Liên, rồi nhìn Nam đăm đăm. Nam tủm tỉm cười tình, nhìn cô đá lông nheo mấy cái.
      - Chị quý mến em Hồng Hạnh dễ thương sao đâu á. Cầu chúc hai em hạnh phúc. Gia đình ba má mai mốt lên Đà Lạt, sẽ đến thăm gia đình em. Thôi, chào em, chị về nha. Hôm nay, chị bận đi phù dâu con nhỏ Thảo, em à.

      Hạnh bẽn lẽn nói lời chia tay chị trong cổ họng. Nam chở chị về nghỉ ở Hotel Palace. Cô trở vô phòng ngồi trước bàn học, Hạnh chống tay lên cằm nhìn vu vơ ra vườn thông bên hông nhà. Ngồi mãi cũng buồn, cô lại đi nằm một mình trong ngôi biệt thự ở số 2 Pasteur, tay vắt lên trán nhìn những chú kiến nhỏ do dự trong đoàn kiến vội vàng chăm chỉ cuống quýt tha trứng về tổ. Có một chú kiến ngập ngừng do dự bò đi bò lại trên vách tường, rồi bỗng dưng nó đơn độc rẽ về một lối khác, con kiến tách xa đàn, ngẩn ngơ, băn khoăn, bơ vơ và lạc lối. Nhìn chú kiến xa đàn, lòng Hạnh lại dấy lên nỗi băn khoăn về tình yêu và cuộc sống, cô đang nghĩ nhiều về Nam, nghĩ về mình.

      Hạnh thay áo quần tươm tất, định xuống nhà Lâm Viên chơi xí, thì cô nghe tiếng xe vespa quen thuộc dừng ngoài cổng. Gặp nhau nơi ngưỡng cửa, Nam ôm cô vào lòng, hôn Hạnh rồi nói:
      - Mình đi ăn cơm ở L'eau Vive Hotel Sans - Souci. Em!
      - Em nấu cơm rồi. Anh chị Tuế đi ăn đám cưới, không ăn cơm nhà. Thơ đi thăm cô bạn ở Chi Lăng. Mình đi ăn tiệm làm gì? Anh!
      - Để ăn mừng em đó.
      - Mừng... em?
      - Chị Liên "chịu đèn" em quá sá. Mặc dù chị khó tính dàng trời, như bà cụ non. À, như “cô cụ non” chứ. Vì chị ấy chưa có chồng mà. Kén lắm, chị còn ở nhà phá gạo. Chị nói:
      - “Hèn gì mà Tony bỏ học Y Khoa Sài Gòn, để lên núi “tu hú”.
      - Chị cho anh nhiều tiền, chị nói anh thay chị “khao em”, vì chị bận đi phù dâu, không mời em ăn cơm. Ui, có ai mà móc được túi tiền của “cô cụ non”, ngoại trừ em ha.

      Hạnh chỉ biết âu yếm nhìn anh ỏn ẻn cười cười. Cô không có thì giờ đóng vẻ duyên dáng, đài các trước mặt chị Liên, và cả Nam bây giờ nữa. Đối với cô, gặp Nam là điều quý giá, không cần phải trau chuốt, đầu môi chót lưỡi, táng tụng hoa mỹ, không cần thoa son dồi phấn, mới có thể đạt đến tình yêu. Hạnh thật sự tin-yêu Nam, tin vào hạnh phúc hiện hữu, không gợn chút âu lo. Không cầu mong gì hơn, sống tự nhiên như tiếng thác nước Cam Ly dội ầm ầm, đều đều quyện lẫn với tiếng thông reo vi vu từ xa vọng đến, là đủ.

      Sau khi chở nhau đi một vòng quanh hồ Xuân Hương, hai anh em vào tiệm ăn. Cơm nước xong, "chàng-nàng" trở về nhà. Điện bất chợt cúp tối om. Hạnh phải mò mẫm xuống dưới bếp tìm cây nến. Vì không thấy đường, nên cô tông vô Nam đang lui cui tra chìa khóa cửa vào ổ. Nam cười cười mở quẹt zippo, đốt nến. Cắm cây nến trên kệ sách, cởi áo veston, cởi giày, rồi Nam “hỏi tội” cô:
      - Em tông vào anh, nè bầm cả má anh rồi.

      Tưởng thật, Hạnh đi lấy hủ dầu con hổ định xức cho anh, Nam vội ôm cô vào lòng, môi hôn đắm đuối tìm trao, làm rộn ràng những ý nghĩ nấu nung, làm nóng hực những hình đá, những con thú nhồi bông trên kệ sách. Ánh sáng chao đảo lung linh từ ngọn bạch lạp, càng bừng lên ý nghĩ thiết tha: Ước muốn đôi ta thành vợ thành chồng. Thế nhưng, họ chỉ yêu nhau bằng những nụ hôn nóng bỏng, Nam không chinh phục ngọn núi lửa muốn bùng lên từ đáy lòng sâu. Nam nằm bên Hạnh như ngày cũ nơi vòm trời thơ mộng ở đất Thần Kinh. Như ngày tháng trước mới đây, khi Thái-Thạnh mượn xe vespa của Nam để chở Thơ đi chơi thác. Lúc ấy chỉ còn hai người tại Hotel du Lake, họ quấn quít bên nhau chẳng còn manh vải che thân. Ôi! "mém tí nữa" và “xém chút xíu” thôi… Nào ngờ... Phải! Chính lúc mà hiến chương tình yêu muốn gần lên chóp đỉnh, để hòa trong tiếng nói vô ngôn, sẽ rót hạnh phúc tuyệt vời có thật xuống đôi mái đầu trẻ dại, (như chùm hoa tinh tuyền uống những giọt mật ngọt ngào, long lanh ngấn thủy tinh rưng rưng tan biến vào nhau). Thì… bất chợt Thạnh vô tình gõ cửa phòng, Thạnh nhờ Nam lấy dùm cho Thạnh cái bóp tiền mà Thạnh để quên trên bàn. Thế là trong vòng tay hoang dại, Nam và Hạnh như bừng tỉnh cơn say tình ái. Họ đã hoàn trả về nhau những giọt mật ngọt ngào trinh nguyên, xiết đỗi trìu mến, rất ân tình, mà lung linh và mòng mọng giọt tinh tuyền. Trái cấm chưa một lần hao hụt, chẳng xúc phạm xí xi. Ô! Hạnh và Nam không hề mất mác điều gì. Bây giờ hôm nay cũng thế, mặc dù không còn ai vô tình cản trở, ấy thế mà... Nam âu yếm:
      - Anh yêu em kinh khủng.
      - Em cũng yêu anh, chứa chan.
      - Ôi Trời, là chán chưa á hả?
      - Vậy, cho em hỏi anh: Chán chưa?
      - Chưa chán.

      Nam lại ôm hôn Hạnh đắm đuối. Giữa hai người có sự song hành đồng cảm về tình yêu. Chung một mối tình say đắm, nên thơ, hồn nhiên và thanh sạch, không gợn mây mờ từ cát bụi phàm trần. Quả đúng thật như thế một trăm phần trăm. Và, đôi ta rất hãnh diện, trân trọng, cung kính, tin yêu mối tình nầy. Kể ra “trai gái” gần gũi mật thiết, say đắm nhau đến thế, mà Phương Nam và Hồng Hạnh không có “vấn đề ấy ấy”… Kễ cũng lạ! Không phải đâu! Tự bản thân họ biết kềm chế và trân trọng nhau thôi.

      Trong lúc anh ôm ấp nằm kề bên Hạnh bình yên, thì đầu óc Nam cuồng quay với những mối tình quá táo bạo khác trước kia. Bằng chứng là chị Liên vừa mới nhắc đến con nhỏ Thảo. Trước đó, nhỏ Thảo tuy mới mười lăm tuổi, (là con nuôi trong nhà Nam, do má anh đỡ đầu). Nó học và nội trú trong trường bà xơ (soeur) gần nhà. Nên cứ mỗi cuối tuần, thì má sai Nam đến trường xin phép “ma soeur” cho nó ra ở lại nhà họ nghỉ ngày cuối tuần, sáng thứ Hai trở vô nội trú. Ở nhà Nam nó ngủ chung phòng với chị Liên. Tuy thỉnh thoảng Nam và nó vẫn hí hửng trò chuyện cười giỡn nắm tay lôi lôi kéo kéo, anh kêu cả bầy em đi xem cine, sau đó đi ăn uống... Thật tình thì anh coi nó như một đứa con nít. Một hôm trong nhà đi vắng, chỉ còn chi Liên, Nam và Thảo. Nam đang nằm đọc sách ở trong phòng riêng trên lầu ba, thì Thảo lọt vô phòng và tiện tay khoá chốt cửa phòng. Thảo liền chạy tới ôm chầm Nam, nó tự động cúi xuống hôn môi chàng tới tấp. Nam quá bất ngờ, hoảng hốt ngồi bật dậy, vội đứng lên, xô nó ra tới cửa, thì con Thảo kéo anh ập lưng vô tường, nó bắt Nam phải lấy nó. Miếng thịt mỡ đã treo trước mõm mèo, cọc đi tìm trâu, thì dại gì trâu không “húc”, tội gì Nam không xực. Tuy nhiên do bất ngờ đột ngột, và sợ người nhà bất thần trở về, anh tìm kế hoãn binh:
      - Ở đây không được đâu.
      - Thì vô toilet.

      Nam bị con nhỏ cưỡng dâm thì đúng hơn. Lúc xong chuyện anh mới biết là: nó bị thằng Hoè phá trinh lâu rồi, hai đứa vụng trộm lấy nhau nhiều lần, hiện giờ nó đang mang thai đã hơn hai tháng. Nam nghe mà sợ rợn người. Nam sợ nó “đỗ vạ cáo gian” cho mình, thì khốn nạn chết điếng một đời trai trẻ.

      Ai ngờ, chị Liên ở dưới nhà thấy vắng bóng nó khá lâu, chị biết con nhỏ trắc nết lẵng lơ lắm, chị liền đùng đùng đi lên lầu tìm nó, và chị giận dữ la mắng cả hai đứa. Chị biết rõ con Thảo nầy lăng loàng kinh khủng, bị chị bắt gặp quả tang con nhỏ quằn quại trong tay Nam. Chị Lan chửi nó và Nam tơi bời và méc với ba má, cấm tiệt không cho con Thảo đến nhà. Tuy vậy nó vẫn gọi phone lén lút hẹn hò anh. Ngựa cũ quen đường xưa, Nam không phải là tay vừa, cũng dữ dằn chằn ăn trăn quấn lắm! Đó là một trong mấy con bồ đạn dĩ, táo bạo mà chàng quen biết. Tuyệt nhiên Nam không hề yêu ai, và dấu kín Hạnh chuyện anh đã từng lăng nhăng với mấy ả.

      Hôm nay là ngày cưới của nhỏ Thảo. Nó mời Nam và chị Liên đi dự tiệc cưới. Nam hân hạnh vinh dự ngồi với chị Liên ở bàn dành riêng cho cô dâu chú rể. Thảo ngồi ở giữa Nam và chú rể là thằng Hoè (hôm nay đã là chồng thứ thiệt của nó rồi). Cứ lâu lâu con Thảo mặt mày tỉnh bơ, tươi cười mà thò tay xuống dưới gầm bàn, nó đưa bàn tay vô ngắt ngay ở chỗ vắp vế non, sát háng của Nam, nó ngắt Nam những cú đau điếng xác, đau kinh khủng, nhưng Nam không hề dám cục cựa nhúc nhích, rên rĩ. Nam sợ chồng nó vô tình trông thấy, thì có nước độn thổ, (hắn nổi ghen cắt… cái đó của mình, mà liệng trong bồn cầu, thì tàn mớ đời). Nam sợ cả chị Liên tinh ý nhìn thấy từng cử chỉ của nó, sợ hai họ nhà trai gái trong bàn tiệc biết sự trắng trợn táo tợn của con nhỏ, thật Nam rất xấu hổ, nhục nhã trước đám đông. Nên anh phải cố nghiến răng im lặng, nén đau ngồi đơ người, thừ mặt mo ra, mà chịu trận một lúc. Cuối cùng, đau quá là đau không thể nào chịu nỗi mươi cú ngắt nhéo ác ôn côn đồ kinh hồn của Thảo, Nam đứng bật dậy vội vã bỏ dỡ buổi tiệc vừa mới bắt đầu chỉ hơn mươi phút. Nam lặng lẽ âm thầm lủi ra về, cay đắng nghẹn ngào mà không hề dám nói cho cô biết. Hạnh yêu thương của Nam quá thánh thiện, hiền lương, trong sáng, ngây thơ, dễ thương biết bao, có thể khi cô biết hoặc thấy những cục máu bầm đọng ở bên bắp vế và nơi háng của mình, thì cô không bao giờ thông cảm cho “nỗi khổ sở” của cái “thú đau thương tột cùng” ấy đâu.
      Ba Má của Nam ở Sài Gòn lên Đà Lạt thăm Nam, đồng thời đưa các cô con gái vào nội trú tại trường Dòng Missionaires de Marie. Nhân tiện má Nam ở lại một vài tuần, lo công việc làm ăn buôn bán thế nào, và lo việc dạm ngỏ Hạnh.

      Mấy lần chàng đưa má đến thăm gia đình anh chị Tuế. Một lần sau, anh chị Tuế mời anh chị Lê, anh chị Tư, anh Thuyền đến, cho má của chàng bàn tính công chuyện. Tự dưng cô lo sợ quá chừng. Run rẩy. Hồi hộp. Băn khoăn thế nào ấy. Làm như cô yêu Nam là một trọng tội không bằng, một chuyện không thể xảy ra, một cuộc đời không thể sống chung bên nhau. Tại sao vậy? Ngay các anh, chị, không thể ngờ là má của Nam tuy đã ngoài năm mươi tuổi vẫn sang trọng, môi son má phấn, móng tay móng chân đỏ tươi, áo quần đắt tiền, kim cương hột xoàn đầy cổ, tai, ngực, hai cổ tay… Má anh giàu có đến thế, đúng là có cung cách một đại thương gia.

      Bây giờ, cô mới hiểu phần nào tính tình chàng qua cách ăn nết ở, sở thích, sở trường, hoài bão của Nam. Ba má hết sức cưng chiều, yêu thương chàng, đến độ Nam luôn luôn cảm thấy mình mất tự do. Bị gò bó, bị kiểm soát từng ly từng tí. Dù chính anh tự hào về song thân. Không những thế, bạn bè cũng mến trọng Nam đúng nghĩa con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai. Đó là ưu thế của Nam đã đành. Anh sống trong cảnh giàu sang, một phần dựa trên danh tiếng mẹ cha, được nhiều người kính trọng, nể vì. Thành tích gia đình có tiếng tăm trong giới thượng lưu, gia đình bề thế luôn hoạt động xã hội. Nam thật hạnh phúc! Nhưng… Từ khi biết gia đình Nam giàu có, Hạnh lại băn khoăn, thấp thỏm. Như cô đã từng băn khoăn về chuyện Đán là con nhà giàu, có tiếng tăm ở Huế vậy. Theo quan điểm riêng của cô thì:
      - Em yêu Nam vì mối tình chân thật, say đắm, phát xuất từ con tim. Vì hai người thấu hiểu, thông cảm, trân trọng nhau, chứ không phải em yêu Nam vì gia tài của ba má anh.

      Sự kiện nầy được Hạnh khẳng định từ lâu, có lập trường từ lúc lớn khôn. Khi các cô cậu bạn học cũ đã nói:
      - Ráng giữ hắn nhe. Nhà của Nam giàu có lắm.
      - Không phải tôi yêu Nam, vì vậy đâu.
      - Đừng có xạo.
      - Các bạn thấy tình yêu chỉ có bấy nhiêu thôi sao?
      - Chứ còn gì nữa.
      - Chán thật. Thế bạn không nhớ là tôi đã từ chối Nghi, anh ta cũng là con nhà giàu số một ở Đà Lạt kìa. Thời gian đã trả lời, và có mấy lần do tự ý tôi xa biệt Nam rồi.
      - Tao tin rằng mày sẽ bám theo hắn như đĩa đói, chớ dễ gì buông.
      - Vậy ư?
      *

      Qua tháng sau, ba má Nam lại có chuyến hàng chở lên Đà Lạt. Cũng kịp lúc ba cô ở Huế vào thăm các con. Rồi, anh chị Tuế làm cơm đãi ba má chàng. Bữa tiệc kéo dài đến nghẹt thở. Các ba, các má cuủa đôi họ, các anh chị Lê, chị Tư, chị Tuế, anh Thuyền, các cháu. Hạnh thấy mới có vài gia đình, (còn bốn gia đình nữa). Mà phát ớn lạnh, đông chi mà đông lạ, “cái họ nhà vợ”, Nam nhỉ?

      Run run sợ sợ bưng mấy tách trà bốc khói lên phòng khách, Hạnh tần ngần ấp úng cúi chào hai bác, các chị em của Nam. Ba má anh ngẩng nhìn cô đăm đăm. Họ ý tứ dò xét, họ kín đáo gật gù to nhỏ với nhau. Nhưng khiến cô lo sợ, lạnh toát cả người. Sau đó, họ quay qua nói chuyện với ba cô về vụ trồng trọt, kinh nghiệm đất vườn, hoa màu và thương buôn. Hai bên phì phà thuốc lá, trà bánh. Thân tình giao hảo tương đắc tương phùng. Chuyện ngắn chuyện dài đến cả chuyện... đôi ta. Nào quà, nào bánh, nào rượu hồng dạm ngỏ đính ước, chờ ngày thành hôn. Ba má anh gọi Nam và Hạnh ra đứng trước mặt hai họ. Và đã nói lời giao hôn như đinh đóng cột:

      - Thưa, gia đình tôi ở xa. Được biết Nam yêu thương cháu Hạnh xinh tươi, ngoan, hiền, nết na thùy mị. Chúng tôi vui mừng, rất tán thành. Tuy nhiên, việc hôn nhân, xin hãy để cho Nam học thành tài. Khi Nam công thành danh toại rồi. Là mọi việc sẽ mãn nguyện như ý. Chúng tôi sẽ xin ước mong cưới được vợ hiền cho con. Thương yêu dâu thảo vẹn toàn.

      Ba và các anh, chị, đều đồng ý về quan điểm chính yếu trên. Ba Hoài mỉm cười, nói:
      - Dạ phải! Muốn thành công trên mọi lĩnh vực, ít ra các con phải có căn bản về cuộc sống. Không cần giàu sang. Nhưng cần có kiến thức, chút tiền hậu thân hậu thổ khi ốm đau, bệnh nạn. Không ai lý tưởng hoá để nói “một túp lều tranh, hai trái tim vàng” suốt đời không lo âu. Không bối rối. khi cuộc sống réo gọi chạy từng bữa ăn. Hãy như Exupery đã nói: “yêu nhau, không phải suốt ngày ngồi đó nhìn nhau, mà cùng nhìn về một hướng”.
      Ba má Nam mừng năm phần, còn Hạnh mừng đến mươi phần. Như thế dù sao đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, khi “nhập đề”. Tuy nhiên, điều cô vẫn lo sợ nhất là các chị Lê, chị Tư, không đồng ý Nam. Họ nói là: “trai Sài Gòn thì phần lớn mấy anh đào hoa, có vợ lớn, vợ bé lôi thôi, con trai thích ăn nhậu, mèo mở lung tung. Em lấy cậu ấy, sợ e sẽ khổ thân”.
      - Chao ơi! Định kiến gì mà ác ôn thế. Hở chị?

      Trước khi về Sài Gòn, Nam lái xe hơi nhà trông ung dung, phong nhã, lẫm liệt, oai phong ghê. Anh chở ba má, các em gái Hoa, Cúc, Loan, và Hạnh đi du ngoạn danh lam thắng cảnh Đà Lạt một vòng lả lướt. Họ vào tiệm Mê-Kông ăn cơm, nhà hàng nầy là nơi rất thân tình với gia đình Nam. Tha hồ cho các cô bé con của họ nhỏng nhẽo, vòi vĩnh đủ thứ chuyện. Xí-xọn nhất là cô Cúc, nhưng em ấy lanh lẹ, vui vẻ, hòa ái, thân thiết cởi mở với Hạnh ngay, em ấy không e dè người lạ. Cơm trưa xong. Mọi người ghé đến ngôi biệt thự xinh xinh, có khu vườn hoa rực rỡ phía sân sau. Nhà nép mình gần bên dòng suối Cam Ly. Ba má Nam dự định sẽ mua ngôi biệt thự nầy để tặng Nam Hạnh sau ngày cưới.

      Ba má Nam đưa các cô bé đi phố, mua sắm những thứ con cần thiết, và đã mua sắm quà bánh, rau quả đủ thứ để mang về Sài Gòn. Lại vào nhà hàng Chic Shangai ăn cơm tối. Có hôm đưa nhau đi ăn ở L’eau Vive Hotel Sans Souci, trước khi các cô em vào nội trú. Nam lái xe chở cô về nhà, sau khi anh đã đưa ba má về Hotel Palace nghỉ ngơi. Hạnh biết dù hôn nhân chưa hẳn là đoạn cuối một cuộc tình. Nhưng chắc chắn hôn nhân là cứu cánh đích thực, làm sợi dây xích muôn đời ràng buộc trai gái với nhau. Là khát vọng yêu thương sống chung: hợp tình, hợp pháp, hợp lý sau những mặn nồng đắm đuối nhớ thương khôn nguôi. Hai người quyết tâm cùng nắm tay nhau đi đến đích tin yêu. Yên tâm và đợi chờ ngày vui nhất.
      *
      Tình Hoài Hương
      (*) Thơ sưu tầm lượm lặt
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 06:46 AM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • #48
        Những Ngọn Nến Lắt Lẽo Trong Đời



        Những Ngọn Nến Lắt Lẽo Trong Đời


        Một buổi sáng cuối mùa xuân dìu dịu, tiết trời êm ả dưới làn nước lấp lánh ngàn tia nắng mặt trời khá ấm áp. Chung quanh núi non hùng vĩ, con thác nho nhỏ len lỏi trên khe núi cao, chạy dài xuống triền dốc tắm nắng xa xa. Lũy tre làng bao bọc vườn quê có những sợi khói lẻ loi uốn lượn trên mấy nóc nhà tranh còn ướt đẫm sương mù. Lác đác giữa cánh đồng khô mấy mục đồng lững thững trên lưng trâu. Bầy cò trắng bay lên đáp xuống bên bờ đê.

        Gà gáy te te sau bụi chuối, vườn môn. Chó gâu gâu sủa bâng quơ từng tiếng rời rạc. Thôn xóm tiêu điều vắng lặng và buồn tênh. Ngày thật sự rạng rồi, tách bóng đêm kinh hoảng u tối đối lập với nền trời sáng chói nắng, thắm hồng trên đầu cây ngọn cỏ, khắp nơi nơi. Tiếng máy phát thanh ủy lạo đồng bào cùng chiến sĩ được chị em trong Đoàn 5 cất lên từng hồi, giao hòa theo đôi cánh bình minh run rẩy, vang vọng lên tận đỉnh đèo, ngân nga đến ngàn non.

        Trong buổi họp, sau khi anh Vị đọc bản tin tức xong, thì anh Cương ra lệnh: mỗi người phải làm ít nhất vài bài văn, thơ, truyện ngắn, tùy bút, vui cười, quan điểm, nhận định, vân vân... Anh trưởng phòng Phước duyệt xong, sẽ in thành tuần báo, nguyệt san, phát cho anh em chiến sĩ, gửi đồng bào, tự phát thanh trên haut parler, để ủy lạo tinh thần anh em; hậu phương tỏ lòng biết ơn chiến sĩ tiền tuyến đang xông pha ngoài trận điạ. Nhất là an ủi chia sẻ khổ nạn cùng đồng bào.

        Ôi! Một con bé chết nhát còn thò lò mũi xanh, tóc thề thuở xưa mướt mát nay tả tơi héo úa vàng phai bụi nắng nên tóc rụng gần hết!!! Tuổi con bé chớm lớn nhưng tinh thần sa sút trầm trọng, giống cột thủy ngân tuột đáy chôn dưới tuyết. Một con bé run hơn cầy sấy giữa binh đao rổn rảng, điếc ù tai, nhức nhối, thốn tim, trí óc luôn dày vò. Con bé thường bị Trúc quệt hai tay vô má lêu lêu mắc cỡ, vì kém sút hẳn đàn anh, đàn chị đầy dũng lược can trường (họ quyết liệt chiến đấu, rất tài hoa ở chiến địa đại loạn). Con bé tép riu nầy xớ rớ xin làm tà lọt bưng bô còn thút thít, run run quệt nước mắt vô hai ống tay áo hít mũi hic hic hic..., con bé thua sút hẳn họ về mọi phương diện. Mà, trưởng phòng bắt phải cầm cây bút viết kịch đời thiên bẩm, nặng hơn ngàn cân, để: ủy lạo, yểm trợ chiến sĩ! Thật là trò hề quá tháu cáy, lạnh buốt xương sống! Múa rìu qua mắt thợ. Quả là lố lăng lố bịch! Quê không chịu thấu. Hoài nghĩ:

        - Mình chuyên về “báo”: báo danh, báo an, báo hại, báo cô, báo đời, báo oán, báo gia, báo mộng, báo tịch, báo ứng, báo tử... & Chuyên “trị” về “làm”: Làm chứng, làm thinh, làm biếng, làm tàng, làm bộ, làm tịch, làm nũng, làm le, làm dóc, làm lơ, làm liều, làm lậu, làm loạn, làm reo, làm cao, làm cỏ, làm duyên, làm giá, làm loạn, làm tới… Chớ biết chi hơn mà “làm báo"! Hoài bắt đầu viết nhật ký từ năm 1957, 1958. Kể từ nay, Hoài sẽ cố gắng viết rất trung thực tất cả câu chuyện có thật, không thêm bớt, ghi lại rõ ràng với lòng gắng bó keo sơn từng chi tiết hiện hữu. Ghi về sự góp mặt từng người, từng nhân vật mình quen, biết, lẫn không quen hầu đưa vào đời sống. Không văn chương bóng bẩy thêm thắt hoa hoè, để trân trọng nâng niu giữ gìn làm báu vật, lưu kỷ niệm duy nhất đời mình. Dù Hoài thật bối rối, lo âu khi anh Phước bảo viết bài. Hoài đã đặt nhiều câu hỏi với các anh chị trong mấy buổi họp, và đăng trong các tuần báo rõ như sau:

        1.- Về việc hư cấu trong từng câu chuyện, thì xin thú thật là em chịu thua, không có khả năng đó. -Chuyện đời Lính- có sống mới biết cuộc đời lính chiến gian truân vất vả cay đắng nhọc nhằn khổ cực ra sao. Không sống không biết, thì làm sao em dám hư cấu hì?

        2.- Có thể vì thế đa số bạn trong Phòng 5 ưa viết truyện tình, làm thơ tình. Chuyện tình dễ dàng tả ân tả oán, muốn cho nhân vật đó sống, thì sống, mà không thích thì cho nó "ngũm", (hư cấu là thế đấy phải không anh?) ít "đụng chạm" tới ai, dù ai đó khó tính nhất, cũng có chút bao dung và thứ tha. Phải không thưa anh Phước! Theo thiển ý của em, thì có sao nói vậy, (người ơi!). Mình không biết cách hư cấu thiệt. Nên, những chuyện Hoài viết trong chiến tranh hừng hực bốc lửa: ít nhiều gì cũng bị coi là... “khuynh tả” với người nầy; “khuynh hữu” với người kia.

        3.- Em muốn ghi lại sự kiện lịch sử chính xác. Bởi những điều đó không thể một mình ên tự ý ta thêm bớt, hay thêu dệt, hư cấu. Ta không thể tạo dựng nên dữ kiện, mà chỉ ghi lại đúng đắn những sự kiện mắt thấy tai nghe, trong một chu vi hạn hẹp. Thế thôi. Cũng như tự mình không bao giờ có thể làm nên lịch sử. Vâng! Chỉ tường tận nắm rõ năm bảy khía cạnh của vấn đề, ghi lại diễn tiến nào đó từng câu chuyện 90% là có thật. Em cũng biết, làm như thế thì dễ mất lòng, dễ xa nhau, dễ chửi nhau, dễ thù nhau. Nếu như chuyện thật sờ sờ ra đó, mà viết bố lếu bố láo, thì coi như bôi lọ nhau rồi, còn gì văn chương trung chỉnh chữ với nghĩa ha. Em chỉ viết lại sự thực. Thấy thì viết là thấy. Nghe thì nói là nghe. Biết sao viết vậy.

        4.- Hoài tài hèn sức mọn, không bao giờ dám mơ mình là văn sĩ, thi sĩ cả. Càng không dám tự hào cầm cây bút chiến viết văn nghị luận - Vì; Rất cảm kích và chân thành cảm ơn anh chị em, qúy độc giả, bạn hữu, đã ưu ái nâng đỡ khích lệ em nên viết văn. - Dạ xin vâng! Hoài sẽ hết sức cố gắng ngỏ hầu: “Tôi ước mong được học hỏi cùng quý vi, hầu: Trau dồi tư tưởng. Mở rộng kiến thức. Nâng cao tâm hồn. Trao nhau niềm thành tín cậy trông và biết ơn”. Nếu có sai sót, kính mong quý vị niệm tình dung thứ và chỉ giáo thêm. Hoài biết ơn. Bởi vì trong vấn đề đi làm việc, hoặc viết lách nầy, thật sự em rất đơn độc (hoàn toàn không được sự hưởng ứng của gia đình thân nhân, dù chỉ lĩnh hội ý kiến 10%).

        5.- Hoài xin nhấn mạnh: {Khi tôi sao chép lại một tài liệu, hoặc in một mẫu tin lên báo chí, thì người làm công việc đó chỉ muốn chia xẻ, hoặc giới thiệu với độc giả những gì mình thu thập được từ nơi nầy, nơi khác, mà mình cảm thấy cần thông báo cho bằng hữu, tùy nghi theo từng nhận định cảm quan cá nhân. “Bạn hay tôi” không phải là người tạo ra những mẫu tin thời sự nóng bỏng (nhất là về lịch sử hoặc chính trị đó. Do vậy “họ” không có trách nhiệm về việc đúng hoặc sai nội dung tin tức, mà họ đã copy hoặc in lên diễn đàn). Thế nên nếu có vị nào thắc mắc, muốn tìm hiểu thêm, xin đi ngược về nguồn: để trao đổỉ với người có đầy đủ tài liệu về bản gốc, có tư cách, thẩm định, và trách nhiệm; chắc chắn bạn sẽ được giải đáp thoả đáng}.

        Sau nhiều lần đoàn tâm lý chiến phát thanh và rải truyền đơn, dán bích chương, ủy lạo chiến sĩ Cộng Hòa Việt Nam; qua những bài ca mang đầy hương sắc ân tình hoài nhớ. Pha trộn nhạc vui buồn trong lúc phát thanh đã tác động mạnh mẽ, gợi lên nỗi buồn bẩm sinh trong lòng người lính cơ cực thời chinh chiến. Hoài lại đắm mình trong cô đơn. Vì sao? Có phải vì con thác nhỏ len lỏi trên khe núi cao nầy dội lại lòng mình tiếng thác nước chảy muôn trùng, bên đồi thông xưa năm nào, xa cũ lắm?

        Bao mẹ già dày dạn nắng mưa khuya chiều. Mẹ quê có nhiều kinh nghiệm chiến tranh xảy ra liên miên trong cuộc đời vũ bão. Họ chán ngán lắc đầu, tắc lưỡi ái ngại thương thương mấy cô lính mới tò te non đời lí lí lắc lắc nho nhỏ xinh xinh, đẹp đẹp. Những bà mẹ quê bàng hoàng nhìn cô gái nhí nhảnh mà lòng già đầy kinh hãi: như vừa thấy kẻ lạ từ hành tinh quái gở nào rơi xuống trần gian. Nơi khỉ ho cò gáy hầu như chưa xuất hiện lính nữ non đời lon ton xách giỏ đi chợ, có đôi lúc các con nhỏ hồn nhiên vui tươi tung tăng bên nhau sao?! Ồ! Làm con gái... cái gì cũng bị cấm.

        Má nói: Con ăn nói phải từ tốn, dịu dàng, nhỏ nhẹ. Đi đứng phải đoan trang, uyển chuyển, nết na, thùy mị. Không leo trèo trên cây. Không chạy nhảy như ngưạ. Không ăn to nói lớn như hổ gầm voi rống. Không cười ha hả! Không xù mặt ra như con nhím xù lông. Ngủ không nằm ngửa tênh hênh, dù trời nóng hầm hập, mồ hôi rịn ra dưới lưng, cũng cấm. Không xoạt hai chân vô tư lự, không giăng hai tay ra giữa bộ ván mà gãi sồn sột. Con gái, không được nằm trơ trẽn tô hô ra vậy! Con không nằm cong queo như con tôm hùm. Chân không co lên tới ngực. Không nằm sấp tay ôm lấy đầu. Con chỉ nằm nghiêng, hai chân duỗi thẳng, khi mỏi mệt thì trở bên nầy, qua bên kia nhẹ nhàng thôi, không gây tiếng động ồn ào. Nghe!
        - Con gái mà đi lính làm chi!

        Nhất là “đại kỵ” chuyện đi lính, như các cụ già vừa nói. Họ e ngại cười cười, hiền hậu ỏn ẻn móm mém hàm niếu ngậm trầu đỏ au. Dường như họ bị lỡ lời, sợ vô tình đay nghiến làm chột dạ dày vò đau lòng bọn trẻ nhỏ ưa đùa dai với khói lửa chiến tranh uà về. Ờ! Thời xưa "liền bà con cấy" thuở xa xăm chỉ ở trong phòng the trướng rũ, cửa kín song cài. Chứ có mô mà "xông pha bụi trần" rứa... Con gái thời buổi loạn ly chừ... chi mà lạ!? Ố ồ! Làm con gái không đi lính được sao!? Thế ra các cụ bà quên tiệt đất nước mình có hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị lẫm liệt. Bà Triệu oai dũng khi: “giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh” rồi he!?


        Các cô rủ nhau vào chợ mua cái nầy, cái nọ. Các cụ vội vội vàng vàng gói ít xôi đậu, xôi bắp, họ đùm trong tàu lá khô. Có cụ gói cho bọn “nữ tì thời chinh chiến” nải chuối, bọc kẹo. Có cụ cho củ khoai lang nóng đùm trong tàu mo cau cứng. Họ dúi vào tay con bé Hoài nhỏ xí nhất đàn. Các cụ già đời mỗi người một câu, ngập ngừng nhắn nhủ:
        - “Dầu ai ỷ thế cậy tài. Con giữ lòng thục nữ, dùi mài trong gương”.
        - Ăn đi con!
        - Ăn kẽo đói.
        - À không... mời con.
        - À, à... ăn cho vui.
        - Gái thì trinh trĩnh lòng son. Sớm hôm gìn giữ, kẽo còn chút sai.

        Bất ngờ và sửng sốt, Hoài cảm động, ngơ ngác, e dè giơ hai bàn tay run run ra cầm những gói quà trĩu nặng tình nghiã. Con bé ấp úng cúi mặt nói câu cám ơn lí nhí trong họng. Khóe mắt bờ mi nàng mòng mọng, nằng nặng, rưng rưng... Hoài dìm bộ óc xuống cơn mê, biết chìm đắm trong nỗi dày vò, phiền muộn có thật, có nhiều dao đâm qua tim. Khi tự mình tìm cây đuốc trời thắp sáng ngọn nến riêng tư, những ngọn nến trong cuộc đời tự tay ta thắp lên, và cuộc sống vẫn là sự chấp nhận: Cho ta niềm an ủi, cố gắng vui vẻ, tăng hy vọng; dẫu quá lung linh và tê tái.

        ***

        Có thể nào ngờ không? Năm 1960, cô Ty ở Ba Tơ (là con của ông bà Tú, mà lần trước, khi ngồi phệt dưới áo quan của cô gái xấu số, Hoài tưởng ông Tú là ông ngoại của cô Ty. Vì so ra ông Tú già khú đế, già khọm quá chừng. Chớ có ai ngờ người đàn ông ngồi trên bàn thờ kia là con trai của ông bà Tú!!). Bà Tú chữ nghĩa không giỏi không rành, bà quên dấu chấm ở trước, quên dấu phết phía sau, nói nào ngay bi chừ cũng già rùi, nên bà Tú có phần nghễnh ngãng xí, ngày ấy bà nhớ thương chồng ở phương xa, chờ khi rãnh rang, bà đã lò mò khêu to ngọn tim đèn dầu hột vịt tù mù, để viết vội lá thư gửi thăm chồng, bà kể lể chuyện con cà con kê nhớ thương chồng vô hạn, trong đó bà có viết câu:
        Ai về cho gởi bức thư.
        Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao?
        Non kia ai đắp mà cao.
        Sông kia biển nọ ai đào mà sâu!

        * Có thương thì thương cho chắc.
        Có bỏ thì bỏ cho luôn.
        Đừng theo cái thói ghe buôn
        Khi vui thì ở khi buồn lại đi. (cd)

        … Tui nhớ ôn. Đôi ta là nghĩa “tạo phản” mà. (Nghiã “tào khang" mà bà ấy viết là “tạo phản”) Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau. Ôn ui ôn đi nhớ mau mau về À, ôn ui ai cũng hỏi tới ôn nay, râu tóc mọc tới đâu rùi ôn, nhớ kỳ cọ tắm rửa thường nghe, đừng để chí rận nó bu bám vô chỗ nớ... Nhớ chưa? Cho ‘boà’ vợ chú Teo gửi lời ‘thèm’ muốn ôn sống mãi trong quần chúng tui và sắp nhỏ, chờ ông vêề… tui mừng rơn hú hí xí húm nghen he. Tui gởi lời thèm hỏi anh em tất cả mạnh giỏi. .


        Ông chồng hoan hỉ bóc thư ra xem, các anh em cô bác cũng ghé tới coi, họ chuyền tay nhau đọc, và thích chí, nức nở khen bà ấy có khiếu gợi cảm viết văn hoa bóng bẩy! Có ý tình thủy chung sau trước ân cần với mọi người. Hay lắm.. Ông Tú cười vang rất tự hào vinh dự khi ông có diễm phúc cưới được “bà vợ đậm đà tình quê” ấy:
        Có phúc lấy được vợ già.
        Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh.
        Vô phúc lấy phải trẻ ranh.
        Nó ăn nó bỏ tan tành nó đi.
        (cd)

        Bà vợ ông Tú ngọng nghịu lại ưa nói, mà nói lặp bặp, lắp bắp dài dài. Sau ngày chồng bị trọng thương, kế đến con gái đầu lòng chết ở ngoài bờ tre dại nứa khi gia đình bà lâm vào đại nạn: từ một gia đình giàu sang bậc nhì ba trong xã ấp, họ đã tụt xuống đáy xã hội, thì bà càng nói lái nói lịu kinh khủng hơn là:
        - "Ẹ nó, đồ già dịch. Chính mi là ác…ác hồ ly tinh, lòm en chi ư… như cái con con… keéc…

        Bởi do hồi xa xưa ấy, ông Tú làm việc bất cẩn, ông đi công tác bị mìn mượn mất của ông một bàn chân, “gậy ông đập lưng ông mà”, nên bây chừ chân trái của ông cụt lên tới gần đầu gối. Kèm theo một cánh tay trái cụt đến cùi chỏ. Ai ai cũng tưởng ông Tú chết thật. Nào ngờ Trời bắt ông chết hụt. Hú vía. Thiệt là may! Trời cao có con mắt! Ông ưa nói với hàng xóm thân nhân là:

        - Trái thơm còn có cả trăm con mắt, huống hồ chi là ông Trời đứng trên cao ngó xuống, thì ông Trời phải có ít nhất là triệu ngàn con mắt, mới dòm được mười phương tám hướng hỉ. Bà con thấy không, Trời còn thương xót, nên chừa cho tui có "độc nhãn long" để nhìn cho rõ Đời. Hai lỗ tai tui bị điếc ù, điếc lác mất rồi, có ai nói gì, tui cũng khoan dung há hốc miệng ra: “Hả”? đó thê! Thấy chưa, tui có nói dóc làm chi!

        Sức tàn hơi cạn, thân thể ông tật nguyền lê trên chiếc nạn tre cọc cạch ọp ẹp. Sau cơn ngoại thương và nội thương trầm trọng, ông Tú biến thành "cụ ông" vượt thời gian, trông ông càng già khọm cỡ bảy tám mươi tuổi, thiệt á. Lúc thật sự lành vết thương -thể chất và tinh thần- ông Tú đã trở về theo luật “chiêu hồi khoan hồng rộng lượng”, nên được chính phủ miền Nam Cộng Hòa Việt Nam cấp cho ông một chiếc xe lăn Mỹ Quốc Viện Trợ, (có hai bàn tay Việt và Mỹ bắt tay nhau chặt chẽ đề huề). Họ còn cho ông một máy trợ thính đặc biệt. Trong khu vườn rộng mà vợ chồng ông Tú đã trồng hoa màu, và cây ăn quả trĩu cành. Chính phủ lại cho Công-binh Kiến-tạo Tiểu-đoàn 25 về xây cho ông một căn nhà gạch nho nhỏ xinh xinh. Rồi họ lại cấp phát lương thực, và cho gia đình ông Tú một số tiền hậu hĩ, để gia đình ông nương nhờ nhau, mà sinh nhai độ nhật sống qua ngày đoạn tháng, chờ mưa thuận gió hòa rót xuống đời.

        Bây giờ, trong lòng ông Tú thật sự đã có chiến tranh nóng lạnh bất ổn không bình yên, ông trở thành một cụ già đã biết xấu hổ, (từ “ông” hèn mọn thô thiển xưa, nay trở thành “cụ” hồi nào không rõ!?). “Cụ” Tú chột dạ, băn khoăn, ray rứt dày vò một điều bí mật chỉ riêng mình ta biết lỗi nơi ta, trong lòng cụ nổi lên từng cơn nội chiến giằng co nhau: bên phải phía trái tưng bừng. Cụ so sánh điều hơn lẽ thiệt giữa hai “phái”. Cụ Tú đã rướm lệ tâm tình cùng anh em Phòng Tâm Lý Chiến nhiều điều đau xót:
        - Xin đừng nói là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" mà tội trên bước đường thống hối lỡ lầm! vì vậy tui ưa đeo "kính dâm", mắc cỡ che che đậy đậy một con mắt giả.

        Con mắt giả ấy chi mà bố láo bố lếu, cứ trợn trừng tráo trưng, khiến cụ Tú cảm thấy thẹn muốn độn thổ. Cụ Tú lại thấy cái đùi cụt và cánh tay cụt trơ trẽn còn dính trong thân, ngày ngày phô bày ra giữa quần chúng, một lần đạp cứt, không lẽ mình chặt nốt chân kia? Cụ ước có phép tiên tung thần chưởng, luyện phù chú, để hóa bùa phép làm lại con mắt thiệt, kéo tay, kéo chân mình dài ra, lành lặn dễ thương như xưa. Thì hay biết mấy! Thôi thì, nhân vô thập toàn mà, ai ai cũng có vài ba lần có tội; ăn thua là mình có biết ăn năn hối cải, quyết chí không tái sai phạm, hay không.

        Với sức cạn hơi tàn, tật nguyền cùng khắp, không thể làm gì hơn, là mỗi lần ở trong Huyện, Xã, có hội họp, đình đám vui vẻ, thì cụ Tú rất chân thành ra sức lấy thân mình làm ví dụ điển hình nhất. Điều cụ Tú nói ra đây không dụng ý phủ nhận việc mình bất cẩn, hay a dua khuyến khích, bác bỏ, bất bình châm chích chọc ghẹo ai. Tuyệt nhiên cụ cũng không muốn chụp mũ, trù ẻo, vênh váo lên mặt chỉ trích phê phán ai. Cụ Tú càng không thích chống đối, miệt thị bài xích, tố khổ ai cả. Tuyệt nhiên không. Cụ chỉ muốn thân thiện xích lại gần xóm giềng, gieo hạt giống tình người... mong kề vai chung sức an tựa lên vai nhau, và quyết chí kiến thiết xây dựng lại những gì đã có trong vinh sang xưa đã mất. Cụ Tú khác nào hòn đá lớn ném xuống lòng hồ sâu, làn sóng từ hòn đá lan sóng trên mặt nước rộng toả ra mãi.

        Nầy! Chuyện ấy xưa quá rồi. Vì chính thân cụ Tú và nhiều tay bạn đi "kháng chiến" cũng là nạn nhân thật sự "khiến chán" thôi. Họ bị chiến tranh lừa bịp mình hụp xuống vực thẳm hố sâu tối đen, bị những lời đường mật bùi tai dễ ngã lòng không hơn kém. Chiến tranh phỉnh nịnh một người dân quê mộc mạc chất phác thiết tha yêu nước thương nòi: Mình tình nguyện đi làm anh hùng đấy mà! Nhưng thời thế không đãi ngộ, đã kéo lôi cụ xuống vực thẳm không đáy, chả có lối lên nà. Nay cụ đã ăn năn tỉnh ngộ! Vã lại, cụ vò đầu bứt tai suy nghĩ nát óc: Một mình ta không làm nỗi chuyện kinh hồn động địa là: xoay lại ván bài “thời thế thế thời phải thế” của định mệnh ấy. Cụ Tú càng không thể bôi bác, dựng đứng nên dữ kiện lịch sử. Mà thật tình là cụ quá ân hận, cay đắng, ưu tư nhìn sự kiện lịch sử đã xảy ra trước mắt, rồi dày vò mà thầm trách thân. Có thế thôi.
        Lúc xưa có mấy người xì xầm với nhau:
        - Quả thật cụ Tú quá rồ dại.
        - Điên hết chỗ nói.
        Cụ Tú quay ngoắt lại nhìn kẻ vừa nói, cụ trừng một con mắt thật, hét lên:
        - Điên. Phải! Tui đã nhận thức những khổ đau rồi. Tôi miệt thị đời mình cuồng ngông si dại, phi nhân, phi nghĩa. Kêu Trời không thấu nà. Xóm làng đang yên tĩnh, trù phú mới hôm nao. Hôm nay… Trời ơi! Sự thể thế nầy. Chiến tranh tàn ác húc bừa bãi vào dân cư, bất chấp hành vi tội ác tày trời, xương máu đồng bào chất ngập lút đầu, lút cổ sao ta? hu hu hu... híc híc híc... Tui căm thù chính thân tui như con cờ trân tráo, bị thí cho cuộc cờ băng hoại. Hoàn cảnh và chiến tranh đã xô tui ngã chúi xuống một tình huống nan giải trong đời, không thể gượng đứng dậy bằng một chân còn lại nơi chính tui. Xin Đời hãy bằng lòng bao dung và độ lượng tha thứ cho tui chút xí mờ. Từ nay tui sẽ cố gắng học ở trường đời những điều sâu sắc và hứa nên nết hơn!
        ***

        Sau bao ngày đoàn công tác Tâm Lý Chiến lo làm việc, họ gần gũi, thân thương, chí tình săn sóc đồng bào. Lần lần giọng nói bà con lối xóm không còn xa lạ, rụt rè, lưỡng lự, hay giữ mồm giữ miệng như trước. Họ mang đầy âm sắc ân tình trìu mến. Hoài nghĩ:
        - "Người với Người cùng chung huyết thống, giống nòi, không đến nỗi coi nhau gớm ghiết, hung ác, như họ nghĩ về ta ha”.

        Tuy vậy nàng lầm. Cũng có vài ba người trong Thôn không cùng chung chí hướng, họ có ác cảm, lạnh lùng biểu lộ ra ngoài mặt thái độ coi bất nhã, khiêu khích, châm chọc đó chớ. Ở chốn cuối núi đầu đèo, đầy gian nguy khốn khó, đau khổ và tang thương nầy, nơi mà chiến tranh đến thăm tới tấp ngủ nghỉ liên miên, và dừng lại chà đạp mạng sống. Nỗi đau đớn càng vò xé tâm can mỗi người. Sự cô quạnh cùng khổ, mất mác, đớn đau tràn đầy ngao ngán đang xảy ra mỗi ngày. Đáng lẽ ra, con người cùng chung huyết thống, nên nhích lại gần bên, ưu ái lân mẫn, thân thương an ủi đùm bọc nhau hơn. “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn” mới phải. Ấy thế mà... chính kiến tạo ra bao cảnh nồi da xáo thịt ở ngoài đời thì thấy rõ, mà đang chiến tranh cào xé trong lòng nhau thì không thể rõ mà đo lường kìa?!

        Khi Cụ Tú gối đầu lên rỗ rau muống chết đi sống lại lần thứ ba, tự chống tay vào chiếc gậy trúc tàu màu vàng làm ba ton, đã đứng vững lên từ đôi chân và khối óc có lập trường kiên định, phân minh rõ ràng, thì cụ đã tận tâm chỉ bảo cho những anh em trong Đoàn 5 nên làm gì... làm gì... trước tai ách phân chia đôi bờ khá hữu ích!
        Và khi cụ lạch bạch khập khễnh đi lại một mình tốt hơn, thì nhiệm vụ của Trúc và Hoài thật sự chấm dứt.

        Nghe tin ấy, bà Tú có “văn-chương hoa-mỹ” ân cần nắm tay hai cô gái, lệ nhòe trên khóe mắt nhăn nheo, đôi môi móm mém run run, bà không thốt nên lời. Thương chi thương lạ: “Cụ ông” mất hàm răng trên, bà Tú mất hàm răng dưới, như cảnh trâu ngựa mượn răng của nhau mỗi lần dự tiệc! Thật là đôi tình già khổ hết biết đa. Cụ ông trầm tĩnh ngồi tréo chân dài lên chân cụt. Một tay cụ vo vê điếu thuốc tròn, cụ bỏ vào bát điếu gia truyền khảm xà cừ lên nước thời gian bóng láng. Cánh tay cụt của cụ cặp cần tẩu, làm bằng ống trúc ngà trăm mắt dài, cong vút. Tay kia cụ bật lửa mồi thuốc hút gọn ơ. Cũng bàn tay độc nhất đó cụ rót trà ra chén tống, rồi chuyên sang chén quân, nước trà vàng đậm sóng sánh trong chén, nổi lên lớp bọt sủi trên mặt. Buổi sáng chưa ăn gì, mà kéo điếu cày, uống ly trà Ô Long thì phải biết: Cụ Tú bật ngửa ra đi-văng vắt chân chữ ngũ mà say bí tỉ. Giọng nói cụ ông hơi yếu, dường như muốn kềm chế lại... một cái gì cứ muốn ứa trào ra, từ trái tim, từ một khoé bên con mắt thật, và bên một con mắt giả bất động thì... nhìn hai con bé một lính một lương-(dân) trợn trừng, tráo trưng.

        Cô Ty mời hai cô gái ngồi chung chiếu với gia đình cụ Tú để ăn chén chè nóng, đạm bạc nhưng đầy ân tình. Thành thật mà nói: khoai môn là món ăn Hoài không ưa thích, vì khi múc khoai lên hay ăn vào, nó nhơn nhớt, lòng thòng sền sệt nước. Hoài có cảm tưởng như... như nước mũi. Nhưng sao hôm nay ăn vào, nàng thấy ngọt lịm ở bờ môi cuống cổ. Có phải do chất đường mía, hay do mật ngọt dạt dào ân nghĩa tình người thắm đượm lòng quê?

        Hai tay áo của Ty ướt nước mắt, cô lật chiếc chiếu hoa trên bộ ván gõ dày láng bóng, cô quét bụi cẩn thận (bộ ván này, khi hữu sự mệnh chung, người ta sẽ xẻ mỏng ra, thành tám tấm dài, bốn tấm ngắn hầu làm bạn sáu tấm chung kiếp cho hai người ấy). Cô thôn nữ Ty thực thà, nết na và đôn hậu, đẹp hồn nhiên, miệng Ty lúc nào cũng chúm chím môi trầu cắn chỉ, mắt lá răm dưới vành nón lá kéo nghiêng, mặt cô Ty che khuất bởi nửa vành khăn vuông cột thắt ra phía sau gáy như mỏ quạ.

        Anh Hai của Ty đã đi lính Biệt Động Quân đóng ở mãi tận Rạch Giá Hà Tiên. Chị Ba của cô bất hạnh đã lìa đời, (người chị nằm gối đầu lên đống gạch vụn, tay buông xuôi khi tuổi đời vừa chớm đôi mươi, mà có lần Hoài đã chứng kiến tháng vừa qua). Còn lại trơ trọi mỗi mình Ty là út ít - phải thay anh thế chị bươn bả lo toan đủ mọi thứ đắng cay trong thời loạn! Tuy ở nơi xó góc trong thôn làng đìu hiu quạnh vắng, nhưng cô Ty được sự dưỡng dục chu đáo của mẹ cha:
        Con ơi! Mẹ bảo con nầy:
        Học buôn học bán cho tầy người ta.
        Con đừng học thói chua ngoa.
        Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười.
        Dù no dù đói cho tươi.
        Khoan ăn bớt ngủ liệu bài cho toan.
        Phòng khi đóng góp việc làng.
        Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.
        (cd)


        Cô Ty vì thương mẹ yếu cha già hom hem quá, dù rằng có một lần cô đã tựa cửa ngóng tin:
        Buồn trông chênh chếch sao mai.
        Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?
        Buồn trông con nhện vương tơ.
        Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?!
        (cd)
        Ui chao! Buồn lắm chớ, anh Tùng ơi! nhưng em biết phải làm răn bây chừ:

        Anh đi em ở lại nhà.
        Vườn rau em tưới mẹ già em trông
        (cd)

        Nàng nhớ người ấy rất nhiều, khi mà ... “Anh về qua xóm nhỏ. Em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều vương mái tóc. Tình quê hương đơn sơ. Quê em nghèo cát trắng. Tóc em cũng vừa xanh. Anh là người lính chiến. Áo bạc màu đấu tranh...”

        Biết bạn hiền có tâm sự, nên đã có một lần Hoài làm bài thơ riêng tặng cô Ty:
        Lời Cô Thôn Nữ
        Gửi đến anh mối tình.
        Chân thật và quang vinh.
        Nụ hoa vẹn tuyền. Xinh
        xinh hương ngát, đượm tinh

        khôi. Dưới ánh bình minh.
        Xóm vắng đứng một mình.
        Thế mà sao lính quýnh?
        Chẳng dám tỏ mối tình…

        đằm thắm. Rồi lặng thinh.
        nâng vạt áo trắng tinh.
        Chùi lên đôi mắt mình.
        Chẳng biết có ai khinh!?

        Anh chỉ đùa. Cảm tình
        anh coi nhẹ. Hư vinh
        không mặn mà: Như vịnh
        Hạ Long em đa tình.
        (*)


        Gọi là chút quà mọn khi chiến tranh vô tội vạ chẳng đi vào lòng người, các cô nhỏ mong ước tìm tình yêu thương chân thật của "Tình Quân Dân, như cá với nước": Trúc tặng: cụ ông chiếc nón nỉ. Cụ bà con dao. Cô Ty bộ quần áo ngủ mầu xanh đọt chuối. Hoài tặng: cụ ông con dao cạo râu. Cụ bà cái cối giã trầu, đôi dép nhung, tặng cô Ty đôi bao tay vải dày làm cỏ, chiếc áo bà ba mầu nâu non, quần lãnh đen. Trúc và Hoài thì thầm nháy nhó nhau hùn chút tiền riêng đưa biếu bà cụ, để mẹ già lo cho gia đình đơn bạc bớt khó khăn. Họ ngỡ ngàng e ngại lắc đầu lia lịa quyết từ chối; nhưng hai nữ quân nhân tha thiết năn nỉ họ:
        - Vì dù sao chúng con đi làm việc, cũng có tiền lương bạc tháng, mẹ à.

        Mẹ quê ái ngại nhận những món quà thắm thiết tình thân yêu chân thật, mà bờ môi nghẹn ngào mấp máy run run... thút thít khóc, hỉ mũi rột rõt. Năm người có chín con mắt kia chảy ròng ròng những giọt nước mắt lăn dài trên má tủi mừng! Những con mắt nầy cũng mọng chín giọt buồn hoen mi dâng cao. Họ đứng lên ngồi xuống mãi không nở rời xa. Buổi chia tay thật bùi ngùi cảm động dường bao! Năm đôi mắt đỏ hoe, (à không, chỉ có bốn đôi mắt rưỡi, vị chi là có tất cả chín con mắt thôi nà). Không hiểu tại sao họ bùi ngùi quyến luyến nhau đến như vậy!? Hai cô quân nhân mới tò te đầu đội mũ sắt, mặc bộ đồ lính màu xanh cứt ngựa, bên ngoài khoát thêm chiếc field jacket xệ xệ vai (đã may sữa lại cho vừa khổ người), hai cô buồn xo, nghèn nghẹn, xót thương cúi đầu im lặng lủi thủi đi ra khỏi khúc quanh lộng gió.

        Bỗng, hai cô nghe tiếng Ty gọi ơi ới sau lưng. Họ giật mình quay lại. Cô gái quê vừa chạy vừa thở hổn hển, tay cô khệ nệ xách buồng chuối cau khoảng bảy nải vừa chặt, nhựa mủ chuối còn chảy lòng thòng, có vài nải đang chín tới. Nếu đem bán buồng chuối nầy, thì gia đình cô Ty sẽ có mươi ký gạo đắp đổi qua ngày. Ty nhất định ấn vào tay bạn. Rồi Ty khóc hu hu hu... cô quệt nước mắt vào hai ống tay áo sờn, Ty vùng chạy rất nhanh về ngỏ nhà.

        Hoài và Trúc ngẩn người… thật sự băn khoăn và da diết buồn. Ôi! Chân tình của người con gái miền quê sao mà đơn sơ mộc mạc, đằm thắm, thành thật, mặn-mà tình tự quê hương, ăn sâu vào lòng mình đến thế không biết! Hai cô quân nhân xúc động lại buồn xo, nghẹn ngào, nghẽn nghẹt buồng tim, cuống cổ, ngập ngừng, lủi thủi ra đi. Trên mái tóc rất dài buông lơi sau lưng vướng sót lại mấy lá tre vàng uá. Gót giày đinh thêm nặng nề nên hai cô nhỏ kéo lệch xệch, tạo thành bốn vệt dài ngoẵng uốn éo trên con đường đất. Hai cô khệ nệ khiêng vác theo quầy chuối nặng trĩu trái no tròn, bám đầy bụi phấn đỏ từ một góc trời đáng đau xót.

        Họ ưu phiền trong cảnh chiến tranh đi vào giữa lòng dân tộc... mang theo (có lẽ suốt đời) những ân tình chân chất mộc mạc, rất đáng kính trọng, thiết tha hoài nhớ, ghi lòng tạt dạ về một phương trời xa mờ xa. Cảnh chia ly ấy khiến lòng Trúc, Hoài, ưu phiền thật sự trong từng tế bào run rẩy. Ôi! Đã mềm lòng bi lụy trước buổi biệt ly, mà họ đoán trước sẽ không có ngày tái ngộ. Người đi chao đảo với muôn ngàn bâng khuâng, băn khoăn, trăn trở vò xé trong lòng. Người ở lại sau hàng dậu thưa, bên hàng hoa tường vi sắc thắm đầy giông bão và tang thương kia, mắt ai nấy đều nhòa lệ dõi trông theo đầy lo âu, bồn chồn, khắc khoải, ray rứt. Họ đứng ngồi không yên trong cảnh tao loạn.

        Hoài chợt nhớ đến cha mẹ già đơn độc đìu hiu ở quê nhà. Nhớ lạ lùng. Nhớ da diết. Thốt nhiên Hoài lo sợ kinh khủng! Rồi sẽ ra sao trên quê hương đang chinh chiến điêu linh nầy? Tháng ngày trước mặt sẽ có gì, còn gì? Hay chẳng còn gì tất cả, ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng, hụt hẫng, mất mát vò xé tâm tư… bao ngày chiến tranh bùng nổ đã qua, đang tới? Bỗng nhiên Hoài nhớ tới lời văn hào Victor Hugo nói: "Sống khốn khổ. Cô độc. Phụ rẫy. Nghèo nàn. Tất cả là những chiến trường, tạo ra những anh hùng. Số anh hùng âm thầm nầy, đông đúc hơn anh hùng lừng lẫy."

        *
        (cd) = ca dao.


        (*) Thơ Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-07-2017, 12:34 AM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • #49
          Trái Tim "Á Thánh" & Đại Mạc



          Trái Tim "Á Thánh" & Đại Mạc


          Vài tháng sau ngày Phương Nam và Thương Mười đính ước, và sau cái đêm Nam ở lại trên phòng riêng của Mười, hai người vẫn vô-tư-lự và sạch trong với nhau, không hề có một gợn đục tình cảm nào. Mừng vui thay! Thì … hôm nay do cùng chung đường về, Thu Hồng mời Mười ghé đến nhà cô ăn chè đậu ván chơi. Món chè Mười thích ăn nhất.

          Ngồi dưới bếp hai đứa ăn uống, chuyện trò vui vẻ xong, Mười vào phòng tắm rửa mặt. Gió lộng thổi cánh cửa đánh bật ra, nên Mười đến bên cửa sổ, vói tay định kéo cánh cửa vào. Bỗng nàng giật nẩy người, lùi hẳn nép người vào bóng tối, thập thò lấp ló nhìn qua bên khách sạn Mimosa. Phương Nam! Trời ơi! Phải! chàng đang hút thuốc lá, ở trần, khăn tắm vắt vai mà tựa bên cửa sổ. Sau cửa sổ là người đàn bà xoã mái tóc rối, cô ả đang kêu réo cười cợt, chớt nhã gọi Nam. Nam khuất vào một bên vách, để lộ ra giường nệm xô lệch, gối rơi xuống sàn nhà, cạnh bộ quần áo của chàng (mà tuần trước Mười đã giặt ủi cẩn thận). Tiếng người đàn bà bỗng gào rú lên, chen lẫn tiếng nước chảy trong phòng tắm lơi lả.

          Thương Mười vẫn tự hào là người đẹp chưa bao giờ bị tình phụ, để nếm mùi đau khổ, cho biết đời. Người con gái diễm kiều rất thông minh, khôn ngoan, thùy mị nết na nầy luôn luôn có những “cây tình si” ao ước làm người bạn đời, thiết tha, trìu mến yêu thương cô em. Thế nên Mười vẫn hồn nhiên với tình yêu thần thánh, sạch trong, mà cuộc đời tỏ ra ưu ái khoan dung, nuông chiều theo sở vọng riêng ta. Đến mức Mười chẳng lo lắng về hạnh phúc, tình yêu sẽ vỗ cánh bay đi. Ngược lại, Mười rất bình yên, không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ bị phản bội.

          Nào ngờ!... bây giờ sự thật đã phơi bày! Mười thấy lòng hẫng đi, điên cuồng, nhục nhã, xấu hổ, quay quắt. Giống như có vật gì bén nhọn như cây mã tấu đâm vào trái tim, khiến trái tim và đầu óc nàng tan nát, vỡ vụn ra từng mãnh, bèo bọt xót xa vô ngần. Lòng Mười trĩu nặng đớn đau, dày vò, tủi thương thân, điếng lặng. Tình yêu như chiếc mặt nạ vừa rơi tuột qua kẽ tay! Đáng lẽ ra anh không nên đưa ba má của anh lên làm dạm ngỏ, đính ước, đám hỏi, đám… “khỉ gió mốc xì” gì cả. Giờ đây ai ai cũng biết Mười là vị hôn thê của Nam. Trời ơi! Ba má anh ta đã mang quà sính hôn đến nhà, công nhận Mười là con dâu nhà họ Đỗ làm gì sớm thế. Hở Trời!?

          Khi Mười lò mò kéo lê đôi guốc kêu xèn xẹt từng bước thấp bước cao trên đại lộ vắng hoe như con điên, bờ vai nàng khoát hờ chiếc áo lạnh xề xệ. Mười đi bộ về nhà dưới cơn mưa tầm tã, thì trên phòng riêng của mình đang sáng đèn. Chị Tuế nói Nam đã đến nhà chờ Mười khá lâu. Mười mới đi khỏi căn phòng thân yêu nầy chỉ có một ngày, một buổi chiều và gần nửa đêm thẩn thờ lang thang đó đây, mà nay tưởng chừng như mình xa đã gần cả đời người, mới về đến đích gần nhất, (trong cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc dường như vừa mất).
          Gặp Nam ở balcon, Mười không thể khóc, chỉ lạnh nhạt nói:
          - Đừng đụng tới em. Chờ chút, em có chuyện cần nói với anh.

          Anh cười, nụ cười á thánh ngây thơ. Nam lẽo đẽo theo em vào phòng, Nam bình thản hút thuốc lá. Mười đi thay bộ quần áo ướt sũng nước. Lòng những tưởng là sau khi gặp anh, Mười sẽ vồ xé Nam cho tan ra từng mãnh. Hay Mười tìm những lời nói cay độc, để xỉ vả, đay nghiến, cằn nhằn Nam. Cũng có thể em lăn kềnh ra đất kêu gào, sẽ khóc lóc thảm thiết. Chứ có ngờ đâu tuy lòng đau hơn bị dao cắt, mà mặt Mười cố làm ra vẻ tỉnh bơ, lạnh tanh thế nầy! Mười bước ra phòng tắm, kéo ghế ngồi đối diện:
          - Có lẽ, không còn gì để nói với nhau nữa. Ta nên xa nhau đi là vừa.
          - Lại định giở trò gì đây? Cưng!
          - Không dám. Nam yêu em chỉ chuốc thêm ưu phiền, bực bội. Chả ích lợi gì đâu.
          - Kỳ quặc hết chỗ nói.
          - Hẳn là anh chưa quên hỉ!
          - Quên... sao được!
          - Hừ!
          - Em lộn xộn quá.
          - Có lẽ anh ngạc nhiên, vì sao em biết anh vừa ở Hotel Mimosa về đây hả! Có gì đâu, tình cờ thôi à. Quả thật rất tình cờ đó, ông Trời mở mắt cho em thấy: từ chiếc khăn tắm sọc xanh đỏ anh vắt trên vai trần; đến cái mini robe màu đỏ tươi của người đàn bà kia, bả sung sướng hét to lên cơn thống khoái, cợt nhả bên cửa phòng tắm đó. Hẳn anh chưa quên hỉ! Nam nè, anh biết tính em; Không phải là em chủ tâm đi rình mò, theo dõi, dò xét anh đâu nha. Em ngu sao cần gì đeo mặt nạ đi làm vậy. Quê lắm, thộn lắm!

          Nam trợn trừng mắt, bàng hoàng nhìn người yêu, kinh ngạc tột cùng. Có lẽ điều Mười vừa thốt ra, là một trong những chuyện quái ác, kinh dị hơn gáo dầu sôi bỏng tạt mạnh vào mặt nhau. Nóng bỏng. Lạnh lùng mà hết sức phũ phàng, đau đớn; đã để lại vết sẹo ghim trên trán Nam khó phai. Nó vô ý thức lột phăng cái mặt nạ trần trụi rơi tụt xuống, vô trách nhiệm trong cuộc tình chung nầy? Lẽ ra, Mười không nên thẳng thừng bốp chát quá vậy!? Mười đứng dậy, lấy chùm chìa khóa và đến cửa phòng mở cửa đi ra ngoài, rồi khóa trái lại. Trong lúc đó Nam cứ tưởng là em đi khóa cửa như mọi lần.

          Ở trong phòng, Nam vội vàng nhảy đến, gạt tấm màn voan sang một bên, Nam gỏ gỏ vào cửa kính liên tục, mạnh và lớn đến nỗi Mười sợ anh chị Tuế ngủ dưới lầu nghe thấy. Lưỡng lự đôi phút, Mười đành bước lên bậc thang, đút chìa khóa vào ổ, mở ra. Mặt Nam đỏ bừng vì giận. Anh xoay tay nắm giật cánh cửa mở tung ra, cơn gió canh khuya ào ào lùa vô phòng lạnh giá. Anh kéo cánh tay Mười vô phòng, đóng sập lại, mạnh đến nỗi làm cánh cửa tung ra. Mười thản nhiên đến bên giường, rủ gối mền, cười gằn:
          - Lãng chưa! Người đau khổ nhất cần được vỡ tung ra là em. Chứ cánh cửa nào có tội tình gì, mà anh hành hạ nó đau. Tội quá!
          Nam khóa cửa lại, cất dấu chìa khóa ở đâu đó, Nam thay bộ veston vắt trên ghế dựa, (anh mặc bộ pirama vẫn để lại đây phòng hờ, mỗi khi đến nô đùa với cháu), Nam cởi giày, rồi lặng lẽ úp mặt nằm lên giường, hai tay ôm lấy đầu, thở vắn thở dài. Trong khi Mười quay mặt vào vách, hai hàm răng nghiến chặt, lòng dặn lòng cương quyết không khóc lóc, không kêu la, không rên xiết, không van nài, không xin xỏ. Phải nhất định quên chuyện đau đớn đang dày xéo lên trái tim, phải đoạn tuyệt với con người dã man tàn ác nầy.
          - Thương Mười!
          -. . .
          - Em ơi, hãy cố gắng hiểu nguyên nhân của dữ kiện, đừng tìm hiểu sự kiện trước mắt, để rồi vội vàng kết luận. Sự việc xảy ra ít lâu nay, phần lớn do bạn bè thách thức, khiêu khích, cá độ anh, nhất là vì anh tự ái khi bạn bè thách đố anh. Họ nói: anh chỉ là thằng hề trước mặt người đẹp, anh không cua được cô hoa khôi kia đâu. Thế nên, để... xác minh cho họ tận mắt chứng kiến, thì hồi xế chiều họ đã đến đây tạ lỗi cùng em. Chờ em không nỗi, họ vừa về. Anh xin lỗi em.
          - Hừ… Thật tình em không nghĩ các anh lại nỡ… “bẽ cành bán rao”.
          - . . .
          Hai người nói chuyện gần đến sáng. Mười cười khẩy:
          - Họ không nhào vô cô đó, mà chỉ ranh ma đứng ngoài khiêu khích anh, để anh hí hửng nhập cuộc. Họ vỗ tay hoan hô ai đây? Ấy, tình yêu là gì? khi anh dám đánh giá… cá độ cả tình yêu, tương lai và hạnh phúc, để đổi lấy hư danh hão huyền. Vì chút danh dự hay tự trọng “dỡm đời”, bồng bột của thằng con trai háo sắc và háu chiến. Xin lỗi nếu em nói quá lố. Chữ “yêu” bắt đầu từ chỗ dễ dàng trao đổi một lần… năm bảy lần… và có con cái, dù không phải tác phẩm của anh chăng nữa, nhưng có bạn bè chứng kiến mà. Ừa, cũng vui ha.
          - Làm gì có chuyện đó. Anh xin lỗi em.
          - Anh có lỗi gì mà xin.
          - Anh khẳng định trước em và bạn bè, anh không hề yêu cô ấy. Em nghe rõ nhé, anh không yêu ai cả, ngoại trừ anh yêu em.
          - Lạ quá! Chờ đến lúc tình yêu giữa anh và em hoàn toàn tan vỡ, anh mới tỉnh ngộ chắc. Kể cũng lạ!
          - Chuyện vớ vẩn xui xẻo qua đường mà em. Anh đã đạt đến đỉnh danh dự, xoa dịu lòng tự trọng, tự ái rồi, anh hứa chẳng bao giờ bị vấp ngã nữa.
          - Anh biết là em rất yêu anh, em từ bỏ tất cả để có anh. Thế nhưng tại sao anh lại làm vậy? Gia đình em thấy anh với Hà nhiều lần, chính em và bạn bè cũng thấy. Ngồi trên xe lam em thấy anh chở Hà và Hoàng Hồng Anh đó. Họ nghĩ thế nào về chuyện nầy, hở anh?
          - Anh với Hà, hay với Hồng Anh, chỉ đơn thuần là bạn.
          - Hừ! Bạn gì mà ôm eo nhau, chở đi ngoài phố, bạn gì mà thân mật như anh với em bi giờ. Ngộ ghê.
          - Em nói nhiều, ồn quá.
          - Nếu không thích ồn... Anh có hoàn toàn tự do đi về nhà.

          Thương Mười giận, nằm quay mặt vào sát tường, nàng nghiến chặt hai hàm răng, cho khỏi bật thành tiếng khóc. Chàng quay mặt ra ngoài hút thuốc liên miên. Thỉnh thoảng Nam thở dài thườn thượt. Thấy mà ghét. Khi điếu thuốc cuối cùng trong bao đã tàn, Nam xoay người trên nệm, nhẹ nhàng nâng tấm mền bông đắp lên ngực Mười. Nam vòng tay qua ôm Mười, anh hôn lên tóc, lên má cô em, rồi nói:
          - Đừng buồn vì những chuyện nhỏ mà em. Em biết là anh rất yêu em. Ngoài em ra, trước em và sau em, anh không hề yêu ai. Anh nhắc lại: em không chỉ là người yêu thôi, mà em chính là tình yêu duy nhất, là tình đầu mà cũng là tình cuối của anh. Muôn năm.

          Mười nhắm nghiền mắt, bĩu môi không đáp vì nghe “muôn năm” khiến em tức cười, nhưng Mười cố nìn khe không dám cười. Mãi lâu, anh tiếp:
          - Chính vì vậy, có lần anh dấu em vài chuyện, vì anh xét thấy nó không là cái đinh gì cả. Không cần thiết. Không quan trọng. Chuyện nhỏ mà em! Nói chung, anh chỉ yêu một mình em. Hãy tin tưởng nơi anh.
          Nam vuốt má, tha thiết hôn lên môi Mười, ân cần nói:
          - Anh xin lỗi, vì anh có điều không phải với em. Nhưng anh muốn khuyên em một điều: Hãy tin tưởng và nghe những gì anh nói: Anh yêu em nhiều kinh khủng!
          - Mười ngúng nguẩy nguýt Nam một cái rõ dài, bắt chước nói:
          - Anh nói nhiều, ồn quá!
          Nam cười say đắm, hai người ôm nhau vào lòng, môi tìm môi. Hơi thở dập dồn, nồng say, như quyện lấy hai thân thể. Mười quên giận Nam ngay, khe khẽ nói:
          - Nam ơi! Hãy làm chồng em, đêm nay.
          - Không được. Anh yêu em ngần ấy, đủ rồi.
          - Anh chẳng yêu em.
          - Chính vì yêu em kinh khủng, nên anh mới giữ gìn cho em đó. Mình để dành tuần trăng mật sau ngày cưới chứ em. Lo gì mà sợ mất. Đêm tân hôn thì em... chết mí anh.
          - Vậy thì mình đi ngủ nghen anh. Chúc anh ngủ ngon.
          - Từ hồi nhỏ đến giờ, anh quen ngủ một mình, không ngủ chung với ai, nhất là ai ôm anh, thì coi như anh thức trắng đêm. Em đừng ôm anh nhe. Chúc em ngủ ngon.
          - Dạ, hổng thèm ôm anh đâu.
          Nam hôn lên môi, lên má Mười, rồi nằm ngửa, mắt nhắm lại, hai tay vòng trước ngực, chỉ mươi phút sau, giấc ngủ an lành dễ dàng đã đến. Trong khi Mười nằm im, không dám nhúc nhích cục cựa, sợ quấy rầy Nam đang say giấc mộng đẹp. Chẳng hiểu tại sao Mười nhẹ dạ và dễ dàng tha thứ cho Nam, tha một sự phản bội tình yêu trắng trợn như thế!?

          Hai người lại ở bên nhau đằm thắm như ngày tháng đong đưa sợi tơ nhện trên cành thông là đà, như đôi bạn chí thân, tri kỷ. Họ yêu nhau chân thành, say đắm, ngọt ngào và thanh cao. Vì hai tâm hồn đồng điệu, vì thấu hiểu hạnh phúc vô bờ. Chứ không vì thể xác hèn mọn. Đôi khi anh chỉ âu yếm Mười qua môi hôn ngọt lịm tươi nguyên nét xuân thì, nương nhẹ. Tuyệt đối Nam không tìm cơ hội “chiếm đoạt tài sản quốc cấm cuả Mười”. Điều nầy khiến Mười suy nghĩ nhiều... Rất có thể đúng: Nam thật yêu Mười kinh khủng! Một tình yêu cao khiết, thánh thiện, nâng niu giữ gìn và trân trọng. Nếu đêm hôm đó, Mười hân hạnh trở thành vợ Nam, dù chưa chính thức làm lễ cưới, hay nói đúng ra chưa làm giấy hôn thú, mà Mười đã trở thành người đàn bà của Nam, thì giờ đây chắc sẽ không có sự việc đáng tiếc xảy ra. Mười quả quyết như thế, sau khi suy nghĩ nhiều đêm ngày.
          * * *

          Suốt ngày Merry Christmas Mười trông đứng trông ngồi, nhưng bóng dáng Nam vẫn bặt tăm. Buổi tối, Thu Nhi, Vân, Đấu, tới rủ Mười đến nhà chàng dự party. Các anh ở cùng nhà trọ đã mời họ. Còn anh không hề nói với Mười việc nầy, cũng như không hề nhắc nhở Mười đi xem lễ Noel. Vì quá yêu Nam, Mười đâm ra mù quáng, quên cả tự trọng, nàng thay quần áo đẹp đi cùng các bạn. Các anh ở chung nhà nhìn Mười bằng con mắt xót thương, ái ngại. Họ không thể nói những điều khiến cả chính họ cũng thấy đau lòng thay. Họ im lặng và dè dặt, càng khiến Mười cảm thấy đắng cay, đau đớn tủi hờn hơn!

          Anh Cầu đang ốm nặng nằm dưới lầu, mượn cớ đi thăm người đau, Mười ngồi riết trong phòng anh ấy, hai người nói đủ thứ chuyện vớ vẩn. Tuyệt nhiên Mười không đề cập đến chuyện Nam. Nhạc dìu dặt bắt đầu cho buổi “bum” khá lâu, những cặp trai gái đã dìu nhau nhảy lộp cộp trên đầu. Vả chăng ngồi hoài cũng thấy kỳ, nên để Cầu nghỉ ngơi, Mười từ giã anh ta trở lên lại trong phòng khách. Bất ngờ, Nghi hiện ra nơi khung cửa tối đèn. Nghi dạy Mười mấy điệu nhảy, nàng yếu kém trong chuyện “nhảy với nhót”, nên cứ bị dẫm lên chân Nghi hoài. Nghi trêu Mười. Thấy ngượng, nàng buông bạn ra ngồi trên ghế, xem các anh chị trình diễn “khiêu vũ thời trang”. Nghi thú nhận vẫn yêu Mười câm lặng, mặc dù Nghi biết trái tim nàng đã thuộc về ai. Và, Nghi đã có “bồ”, Nghi nói rõ ràng là bồ, chứ không phải người yêu, người tình!?

          Khoảng hơn mười một giờ khuya, Nam về. Nhìn nét mặt anh, Mười biết chắc chắn là anh đang tức giận, bất đồng, để đưa đến chuyện bực bội gì đó với cô ta. Vì cuộc đi chơi riêng không thú vị đã qua. Hình như có ai đã tàn nhẫn tháo chiếc mặt nạ rời ra, để lộ khuôn mặt Nam ủ dột đầy buồn phiền trước mặt Mười rồi! Có lẽ anh không nghĩ là Mười đã có mặt trong buổi party nầy, nên Nam tỏ ra lúng túng, hơi ngượng, và bất ngờ. Nam ngồi thừ người ở góc phòng khá lâu, cạnh Mười xem các bạn nhảy đầm. Mười mở lời:
          - Chào anh mới về.
          - Chào em.
          Một lúc sau anh thì thầm bảo Mười vào phòng riêng. Quả thật không ngờ Mười đến nhà hôm nay, anh không hề báo tin cho nàng biết là các bạn mở cuộc vui nầy, nên Nam quên lững chuyện tấm ảnh của Mười đã bị úp vào tường, (thay vào đó là tấm ảnh Hà). Nam vội quay lưng lại, thò tay để dấu khung ảnh của Hà vào trong hộc tủ. Mười làm ra vẻ không nhìn thấy cử chỉ ấy, nàng vén tà áo dài tím, e ấp ngồi xuống trên nệm, lòng thầm nghĩ: Đã muộn rồi, anh ơi!

          Nam ôm hôn cô như bao lần gặp gỡ, Nam thẩn thờ âu yếm mình như người mất hồn, như kẻ mộng du, như khách phiêu bồng lỡ hẹn. Mật ngọt thật sự mất rồi ở đầu môi tình phụ! Một lần nữa, đáng lẽ ra thừa cơ hội nầy, Mười nên tỏ ra là người vợ tương lai dễ thương, khôn ngoan chìu chuộng, âu yếm vuốt ve Nam mới phải. Nhưng nàng buồn nãn, đau đớn, khổ sở buông xuôi. Mặc cho tình yêu vỗ cánh xa bay, kệ con thuyền tình muốn trôi đi đâu, thì đi, đến đâu thì đến. Mười không thèm khát nữa. Nói trắng ra nàng cảm thấy chán ngấy kinh khủng! Đó là mãnh tình-sầu đã trôi theo nụ hôn nhạt nhẽo lần cuối cùng.

          Mười hai giờ kém mười lăm phút, cùng nhau đi lễ với các anh chị ở nhà thờ Domain De Marie. Gió lồng lộng thổi trên ngọn đồi cao, trời lạnh kinh khủng, cái lạnh tê buốt, xoáy vào thịt da, se sắt cả lòng người. Mười đăm đăm nhìn lên cung thánh, thì thầm lời cầu xin. Thật ra từ đáy lòng Mười bật lên tiếng rên xiết, than vãn, oán trách vô biên mọi vị thần linh đứng trên bục cao, sao vừa nhìn, vừa cúi, vừa lạnh, vừa im lìm, thờ ơ. Không chịu để tâm nhìn xuống kẻ phàm trần cơ-khổ, bỏ mặc Mười trong cơn đớn đau, khốn cùng thế nầy? Bao đau khổ đã xảy ra trong những ngày kế tiếp. Mười sống trong ngọn lửa yêu mến, với lòng nhớ nhung không tắt. Mười hy sinh tất cả, để sống trọn vẹn cho người chồng tương lai. Buồn một nỗi là nàng không uốn lòng biết niềm nở “dẽo mồm, dẽo miệng” săn đón chàng, hầu kéo Nam về với mình. Mặc dù chàng vẫn ân cần, niềm nở; nhưng Mười tự bảo lòng: đó là sự giả dối tráo trở đáng nguyền rủa. Vô tình Mười đứng về hướng đối nghịch, đá hất Nam ra khỏi vòng ôm mê đắm, xua chàng đi về hẳn với kẻ tình địch bất cộng đái thiên rồi.
          *

          Khi tán lá còn vương từng mảng tối, sương muối kéo từng bè, như chiếc sô tang mỏng tanh quấn trên đồi cỏ non. Rồi tấm màn mây màu lưu huỳnh trùm lên đỉnh đồi khu Domain dần dà hé mở ánh mặt trời vươn lên, trở lại màu sắc rạng rỡ tự nhiên mỗi ngày. Cả vùng rộn lên tiếng thông reo triền miên. Tiếng chim hót líu lo từ trong thinh không đang im vắng. Buổi sáng tinh mơ, một mình Mười đứng vẩn vơ trước ngôi biệt thự nơi Nam cư ngụ. Bỗng nhiên Mười cảm thấy do dự, ngập ngừng, không muốn gõ cửa vào nhà Nam. Lỡ đằng sau cánh cửa phòng riêng vô tình kia, lại vén lên tấm màn đau xót quá thật, thì tan nát cõi lòng hơn. Mười ngập ngừng, e dè rón rén quay gót trở về nhà. Thật não nùng!

          Ôi! Noel năm xưa sao cả anh và em đều rộn ràng dấu ấn hoan ca, sao ngọt ngào, thắm thiết lạ thường, ríu rít trìu mến xiết đỗi! Thế sao Noel bây giờ không còn dư vị đắm say ngày cũ? Tình yêu bây giờ không còn tuyệt vời thuở trước? Bây giờ cũng là Noel rồi đó anh, sao anh nở lòng nào! Mình đã nhẫn tâm tạt vào mặt nhau hũ mật đắng, nhuộm đen cuộc đời kinh khiếp thế cho đành? Vòm trời Cao Nguyên Lâm Viên lồng lộng, có gió lạnh sương mù vây kín núi, có tiếng thông reo vi vu rất nên thơ, đầy xao xuyến một thuở tôi mến yêu người. Giờ nầy hết mộng với mơ, hết quyến rũ rồi. Mười đau đớn nhận thấy tự mình đã nhận chân được giá trị tình yêu hiện hữu, trước khi nó trở thành quá tệ. Đây chính là giờ phút Mười cần có nghị lực, kiên cường, quyết định dứt khoát mối tình say đắm nầy, chen lẫn nỗi niềm đắng cay, chua chát, buồn phiền, thách đố, chán nãn, và long trọng phủ định biện chứng tin yêu.

          Nỗi đớn đau (và thù hận) làm Mười dại người. Mười trơ mắt nhìn cuộc đời trôi đi, (trong đó có chàng đã dối trá, đả thương nàng). Ở đâu, nghe gì, thấy gì lòng cô em cũng lạnh lùng, trắc ẩn, ngờ vực, khinh dễ. Chính vì thế Mười đã phá tan mối thâm giao với chàng từ gốc rễ. Mười nghĩ sự ân cần nhã nhặn của chàng đối với mình; chỉ là sự phỉnh phờ, lừa dối. Thất vọng làm sao khi dòng đời tách rời hai người đi về hai hướng riêng biệt: gạt Mười và Nam ra một bên, không có cục nam châm nào thu hút, quyến rũ lôi kéo hai người trở về nguyên thủy tình yêu thánh thiện, sáng ngần xưa cũ.

          Những ngày tháng cuối cùng trong năm, Mười lấy làm lạ một điều là nàng không tìm cách chinh phục hay chiếm đoạt chàng. Tại sao? Mười không quá chán nãn, buồn phiền, hụt hẫng, đớn đau, như mình tưởng. Nàng chỉ băn khoăn, ray rứt, xót xa cảm nhận sâu sắc ngày vĩnh biệt sẽ đến. Mười phải cương quyết chối từ Nam. Phải cứng rắn đoạn tuyệt chàng cho nhẹ nỗi ưu phiền, dù đau thương hay tuyệt vọng suốt đời, cũng đành! Vì thế, mỗi lần chàng đến nhà, nàng không thể tha thứ bao lần Nam phạm lỗi lầm, Mười không vồn vã mời chào, ríu rít nói chuyện nọ chuyện kia. Nếu không trốn đi đâu được, Mười tiếp Nam nhạt nhẽo như người xa lạ. Ba bốn lần ngồi với hau hằng giờ, hai người im lặng nhìn vu vơ ra rặng thông xanh sau hiên nhà, Mười nhếch môi cười hờ hững, buồn tênh! nàng không còn thú vui mời Nam dạo bước dưới vườn hoa. Không mời lên phòng nhờ Nam chỉ dạy Anh-văn. Hay đòi chàng chở đi một vòng quanh bờ hồ Xuân Hương. Mà, Mười ngồi né một bên góc bàn, chỉ giả vờ cúi đầu chăm chú đọc sách, hoặc lặng lẽ ngồi một xó thoăng thoắt đan áo. Dù lòng nàng quặn siết cơn đau tê buốt, tim cào xé bởi những vết dao âm thầm xuyên qua trái tim, tan nát vì hận yêu thương.
          * * *

          Muôn vạn ánh đèn màu lung linh dưới kẽ thông ba lá đong đưa, rì rào. Anh chị Tuế, Mười, bé Cường đi phố đêm Trung Thu, mua bánh và đèn kéo quân cho con. Mười cùng gia đình chị đi phố lựa đèn, bất chợt Mười thấy Nam đi đến gần với một tốp năm sáu mạng trai gái đang nói cười “nhố nhăng”. Gặp anh chị Tuế, Nam dừng lại, khi mấy người kia kéo nhau vào cà phê Tùng. Để mặc chàng nói chuyện với anh chị Tuế hồi lâu. Mười bước qua tiệm giày Tân Việt, nàng dán mắt nhìn vào cửa kính, như say mê nhìn giày dép chưng bày trong tiệm. Kỳ thực Mười nào thấy gì! Thật chả thấy, chả nghe, chả biết cái gì sớt.

          Như thế là hai người đã xa nhau gần chín tháng rồi! Không có cái gì có thể thu hút, quyến rũ được. Mười bây giờ – không phải là Thương Mười hoa hậu xinh đẹp ngày xưa, không là thiếu nữ yêu kiều vàng son hạnh phúc một thuở! Mắt đã nhuốm vẻ ưu tư kể từ đêm chứng kiến chàng ở khách sạn Mimosa. Thì, một bóng vô hình ập đến, khiến ngực nàng luôn ứa máu. Thì, kỷ niệm xưa dù vàng son một thuở, vẫn trở thành mỗi ám ảnh tột cùng kinh dị! Làm héo úa khuôn mặt Mười ủ dột, luôn nhíu mày suy nghĩ, như đang thể hiện điều gì gay cấn lắm.
          Mãi một lúc lâu sau, đến gần Mười Nam nhìn nàng cười, ái ngại, bối rối, dè dặt:
          - Chào em.
          - Chào anh.
          - Em đi phố, vui không?
          - Vui.
          - Em còn làm ở chỗ cũ. Hở?
          - Còn.
          - Công việc dễ chịu hơn trước. Ha?
          - Cũng được.
          - Mười à... Có chuyện nầy... Chuyện chị Tư của em đó. Anh rất muốn nói cho em biết, là chị Tư ngăn cấm anh... Không phải chị Tư cấm lúc xưa. Mà lần nầy, chỉ là mới đây thôi em.
          - Em biết chị Tư ngăn cấm mình từ khuya, là phải rồi.
          - Cho anh nói rõ với em chuyện nầy nhe!
          - . . .
          - Em có định đi đâu bây giờ không?
          - Trời! Nam muốn dẫn em trở về đường hầm tự sát à? Lầm lỗi hai ba lần thôi chứ.
          - Nói với nhau làm gì những lời chua cay đó. Em!

          Trong giọng Nam, Mười nghe thấy một uẩn khúc vô bờ đau xót, Nam không muốn tỏ ra bất nhã. Mặc dù do thái độ lạnh nhạt, lời nói cuả Mười khiêu khích từng lát gừng, làm buồn lòng chàng không ít. Nam lặng lẽ nhìn Mười, chờ đợi nét thân thương hơn. Nhưng Nam chỉ thấy nơi Mười cái bĩu môi và nhún đôi vai nhè nhẹ. Nam bất mãn nhận lấy trái tim á thánh cô độc ấy, nên chàng đã bất cần theo.

          Còn Mười, từ lúc bước chân vào đời, em chỉ thấy chiến tranh, thù hận, tàn phá, đau khổ, tang tóc vây bọc. Mười thu thập sự độc ác, phỉnh lừa, dối trá và nhất là sự phản bội tình cảm trắng trợn của người yêu dấu. Nàng nhặt lấy thứ vũ khí cay cú, mà con người, nhất là vị hôn phu- đã đả thương mình. Lòng bao dung, nhân ái, khoan hồng, tha thứ... Thế là hết! Nay, chả ngần ngại gì mà không lạnh lùng chứ!

          Nửa tháng sau, chàng lại đến khi Mười đi phố về, áo quần chưa kịp thay. Nam nhìn vào giếng mắt u hoài của người yêu thật lâu. Khiến Mười bối rối, sợ hãi mình lại “lạt lòng”, nàng phải cúi mặt nhìn lãng đi chỗ khác. Chàng đến gần cô em, giọng nói trầm lắng, u uẩn, hay không thốt nên lời, (mà Mười nghe lại tưởng như tiếng thầm-thì ngọt ngào gọi nhau thuở trước kia). Thì... Bây giờ nàng nghe sao mà giống lời phỉnh phờ, dối gạt... thế nào ấy! Khổ thật! Mười chưa thể đặt niềm tin trọn vẹn nơi người yêu cũ. Dẫu thế, Mười bỏ buổi cơm trưa, cơm tối, bỏ đi làm việc, bỏ tất cả. Mặc chàng chở đi đâu thì đi. Đi cho biết Nam muốn nói gì. Làm cái trò trống gì nữa đây?

          Dọc đường xe vespa bị hư, đạp hoài không nổ, anh dừng xe bên lề đường sữa mãi. Nam ngẩng lên nhìn cô em đăm đăm. Đôi khi Nam gục đầu lên yên xe, thở dài thườn thượt. Mười lờ đi, quay nhìn xuống thung lũng buồn. Nhìn cảnh vật ấy có lúc Mười thầm nghĩ: Giá mà cả hai người lọt xuống chân đèo Datanla, đâm đầu khuất bóng dưới con đường quanh co uốn lên cao, rồi uốn xuống vực thẳm, chết quách không ai biết, thì hay xiết bao! Ừ nhỉ! Tại sao đã đến lúc uống cạn đáy ly men hạnh phúc, tưởng ngọt ngào, say đắm, mà mình không chịu chết đi, có lẽ sẽ trọn vẹn hạnh phúc hơn. Để rồi từ nay mở bừng mắt ra, chỉ còn lại hủ mật đắng, rỉ từng giọt, thấm từng giọt; tạo thành từng giọt nước mắt, và tình yêu trổ màu đen bạc, đắng cay, đã trở thành mật đắng xuyên qua từng hơi thở, lồng vào từng chân tơ kẽ tóc thế nầy!?

          Hai người xuống cuối chân thác, lò mò tìm lại chỗ ngày xưa mình thích ngồi. Mặc dù Mười chưa ăn cơm trưa, chẳng có giọt nước lót bụng buổi chiều. Nhưng nàng từ chối ổ bánh mì batê gà, chai nước ngọt. Mười giữ thái độ lạnh nhạt, xa cách, ngồi xa xa. Cách xa chàng hai vòng ôm, để khỏi chạm người vào Nam. Mười giữ nét mặt cố gắng bình thản, bất cần. Tự ái nàng cao hơn núi, sâu hơn thác Datanla mà. Thật ra trong lòng Mười cảm thấy đau ghê gớm, và thèm khát từng nụ hôn dịu ngọt, chút yêu thương cuồng nhiệt thuở xưa vô vàn. Nàng tựa đầu lên nhánh thông già, tay vân vê thảm cỏ nâu bồng, khiến nó nát nhừ cả vạt. Chàng lấy thuốc thơm ra hút liên miên mấy điếu, rồi mở lời:
          - Em ơi! Anh rất ân hận, vì đã lỡ đánh mất niềm tin-yêu trong lòng em. Anh chỉ xin em đừng tự dày vò...
          - Không đâu. Chỉ những lúc lặng lẽ thế nầy, dù ngồi một mình. Hay ngồi với ai, em cảm thấy thoải mái, vui vui.
          - Đừng dối lòng. Em! Anh biết. Anh hiểu em như hiểu chính mình.

          Ôi chao! Mười chỉ muốn ôm chầm lấy Nam, gục đầu vào ngực chàng mà khóc nức nở, cho vơi mối hận không sao xua tan đó. Nhưng, làm như thế để làm gì nữa! Khi Mười đã cảm thấy chán Nam thật. Nàng không còn nghị lực vượt lên con đường đất vòng vo quanh, co dù có trải hoa hồng. Những đoá hồng ẩn gai sắc nhọn, đã đâm nát tim mình. Chàng đã ôm nàng thẩn thờ hôn lên môi giá lạnh. Nhưng bờ môi ấy giờ đây không còn là những giọt mật nồng say. Mà chỉ còn lại những giọt mật đắng in dấu bờ môi tình phụ bẽ bàng!
          - Thương Mười! Đã nhiều lần anh gọi tên em. Em bướng bỉnh quay mặt đi, không thèm dạ. Tiếng “dạ” ngoan hiền, dịu dàng mà anh rất đỗi yêu thương. Mười ơi! Em nghe những gì về anh? Thấy những gì về anh? Muốn biết những gì riêng anh, về mối tình đầu (mà anh đã yêu em đến cỡ nào). Xin em hãy đối diện với anh. Hãy nhìn thẳng vào mắt anh, hỏi ngay anh. Anh hứa sẵn sàng trả lời, và chịu trách nhiệm về lời hứa đó. Em đừng nghe ai, đừng hỏi ai. Đừng làm thế em. Vì nếu em làm như vậy, thì càng ngày em sẽ đẩy chúng ta càng xa rời nhau, càng xa hơn thôi. Em.

          Cả hai lại im lặng khá lâu. Nắng lướt thướt trải mình trên đồi cỏ non, xa xa tiếng chim lạ lảnh lót, ríu rít hót bản tình ca muôn thuở, hoà cùng tiếng gió lao xao, tiếng thông reo triền miên, lồng trong tiếng thác rì rầm từ xa vọng lại. Chàng thẩn thờ ném những viên sỏi trắng, thỉnh thoảng rơi đánh “bủm” một tiếng gãy gọn trên con suối gợn sóng lăn tăn, xô bờ. Nam gằn giọng:
          - Đối với những cô gái đó, cho đến giờ phút nầy, anh vẫn coi là chuyện tầm thường, lạt lẽo. Nếu không muốn nói là bạn. Hay là một tình hờ, tự do dễ dãi, không đòi buộc gì. Nhưng đôi khi cần thiết như... chẳng hạng như… khi anh đau khổ. Khi anh và em giận nhau thế nầy, anh cần đến bên kẻ ấy, để tìm an ủi. Em hiểu không!
          - Anh có thể nói… Anh có thể làm cho mười đàn bà yêu anh một lần. Tuyệt nhiên anh không thể chỉ trọn vẹn thủy chung với mười đàn bà ấy - trong suốt năm mươi năm. Thế nên, em chỉ là một cô gái khờ dại và lù đù. Xin anh thứ lỗi.
          - … ; … Mười. Em nhớ bài thơ “Cần thiết” của Nguyên Sa không? Chúng mình thuộc lòng, rất yêu bài thơ nầy nhỉ! Trong đó, anh yêu nhất đoạn kết:
          Không có anh – Lỡ một mai em chết.
          Thượng Đế hỏi anh: Sao tóc em buồn?
          Sao vai gầy, sao đôi mắt héo hon?
          Anh sẽ phải cúi đầu, đi về... địa ngục!

          - Cám ơn anh đã “gợi giấc mơ xưa” cho em nghe. Rất tiếc, chuyện ấy không còn phù hợp. Chúng ta đã ở trên hai lối ngoặt chia xa, quan trọng hơn. Em không còn là người say đắm tin yêu, mà anh tìm gặp hôm nao. Em không là cô gái ngây thơ ra đi theo tiếng vẫy gọi tình đời, để giờ đây ôm mối hận, vì bị hắt lại nỗi thất vọng não nề... Nỗi đau đớn rã rời của Thương Mười chưa chai sạn đến mức có thể hy sinh, chịu đựng, vị tha, dung thứ lỗi lầm của người yêu, mà em không hãi hùng ghi dấu ấn trong tiềm thức, trong khối óc, {(theo quan điểm mỗi người) trong việc anh “lăng nhăng quá dễ sợ, chơi hoa rồi lại cùng bạn bẽ cành bán rao” với bạn bè cùng lớp kia}.

          Bỗng nhiên Mười nhớ lại vụ Nam cùng cô gái áo đỏ trong Hotel, nhớ các bạn của chàng lấp ló rình mò đâu đó, để xem màn kịch họ diễn... Mười cười ngất, Nam thấy thái độ ngạo mạn và “bất cần đời” như vậy, đã rất bực mình, phiền lòng không ít. Mặt Nam trắng toát vì giận, lạnh lùng tiếp:
          - Sao em cứ ghép mình ngang hàng với những hạng gái anh quen biết ấy? Lẽ ra, em nên dùng tình yêu say đắm. Nghĩa cử của vị hôn thê dịu dàng như ngày xưa, khả ái, bao dung và vị tha, em khoan dung nhân hậu giơ tay ra để kéo anh quay về. Đó là sợi dây bền chặt, mà chính em khôn ngoan đã ràng buộc anh chặt chẽ mới phải. Đằng nầy, em lại xô đẩy anh ra khỏi vòng tay em. Anh nhắc lại lần cuối cùng: Dù bây giờ hay mai sau. Nếu xa nhau nghìn trùng, anh vẫn yêu em kinh khủng. Vì em chính là tình yêu của anh.
          - . . .
          - Anh trao về em tất cả tình yêu, cuộc đời mình cho em giữ, em vẫn không chịu. Em có thấy ngày nầy năm trước, anh “ngoan” như thế nào. Sao bây giờ anh hư đốn đến thế? Em không chịu tìm hiểu nguyên nhân là em cũng có lý do riêng. Em không tin lời anh. Được rồi. Đời anh kể như đã hỏng. Anh đã phóng lao, thì phải theo lao. Từ nay, em sẽ thấy anh sống phóng khoáng, buông thả, tự do và “du đãng” cho mà xem.

          Khổ nỗi! Mười không còn tin vào “những lời đường mật” khi mắt mình đã thấy rõ những hành động của Nam làm với kẻ khác. Bởi vì những hành động và lời nói của anh ta, khác xa với thực tế - Khác xa muôn trùng - Nên chi bây giờ đã trở thành nguyên nhân ngẫu nhiên cho những ngày tháng cãi cọ, xung đột xảy ra. Ngược lại, Mười càng ngờ vực chàng dối gạt, có dụng ý trả thù đẩy Nam vào cảnh tiến thối lưỡng nan. Trả thù chính Mười, Hà, hay trả thù đàn bà, mấy cô gái khác cũng nên. Nam có dự-mưu, tính toán chi đó. Nghĩ thế, Mười nhếch miệng cười khinh dễ, nghĩ mình phải nói câu gì khá nặng, để Mười có cái cớ, mà vĩnh viễn xa nhau - là vừa. Mười rất giận câu Nam nói nghe thiệt chói tai: “phóng lao, theo lao” là có ý thách thức, buông thả gì? Mười muốn dùng lời cay cú, để dày vò làm khổ Nam, cho hả giận. Mười đốp chát ngay một câu, (mà chính cô em không thể ngờ):
          - Anh... em đã nhổ bãi nước bọt, nay em cúi xuống liếm lại rồi.

          Nam giận run, bây giờ mặt chàng không trắng toát nữa mà đỏ bừng đau đớn kinh khủng, anh đứng phắt dậy, sửng sốt nhìn nàng. Những điều Mười vừa buột miệng nói câu vô ý thức do từ một hoa hậu. Nam khám phá điều thô thiển từ con ong khi thò nọc độc ra, để châm chích người khác. Anh thất vọng bỏ về, sau câu nói:
          - Thật không thể ngờ...

          Thì ra câu Nam nói “phóng lao, theo lao” ngày nay Mười đã hiểu: Vì mấy lần sau đó ít lâu không xa, nàng tình cờ gặp chàng cặp tay ca sĩ Lan (ca sĩ hạng bét hát phòng trà Maxim’s ở Đà Lạt). Họ vào tiệm Chà Và, cô ả mặt mày tầm thường, phấn son loè loẹt, áo quần diêm dúa, hở hang, đúng là hạng “gái tồi” chẳng giống con giáp nào. Ả trơ trẽn chỉ chỏ đủ thứ đồ đạc, đòi mồi chài xã láng nhiều thứ, bắt Nam mua cho. Mười nghe vài anh bạn nói: thời kỳ nầy Nam đã tâm sự với bạn là: Nam ăn ở chung với ả Lan như vợ chồng. Thật vậy, cô ả nầy sống với chàng lâu nhất, được khoảng năm sáu tháng. Tuy thế, vì kế sinh nhai riêng ả, chàng vẫn phải “thả” cho ả đi nhảy dù với kẻ khác những show thâu đêm suốt sáng. Những lúc đó, Nam không hề ghen tương, nhưng lòng thấy buồn bã và trống vắng, Nam mặc quần áo đi lang thang suốt đêm, như bóng ma.

          Những ngày tháng sau đó trôi qua nặng nề, buồn thảm kéo dài sự xúc động, đớn đau triền miên, choáng ngợp góc trời thinh lặng mà Mười vẫn hít thở, run rẩy chờ đợi rất tuyệt vọng sự bình lặng trong tâm hồn. Đúng là nỗi đau đớn, tuyệt vọng, tủi nhục lần nầy, còn cay đắng dày xéo lên trái tim Mười gấp trăm ngàn lần cũ. Chết lịm từng ngày, từng tháng, từng năm, nàng chỉ muốn tan vào cõi vô cùng. Thì đó, mặt hồ muốn phẳng lặng, ấy mà, gió mưa cuốn trào những đợt sóng ngầm tàn khốc, xoáy thẳng vào đời nhau, làm xao động cuộc sống, luôn tách bạch hai tâm hồn đồng điệu, chia xa hai tầng cao, thấp. Quả thực ngày xưa ấy, họ sống bên nhau hài hoà theo nhịp đập cuồng quay, đầy rung cảm, cuống quýt, xao xuyến, rộn ràng vui tươi, trữ tình, niềm vui nỗi nhớ đập nhanh trong đôi trái tim.

          Khi xa nhau họ cảm thấy trống vắng, hụt hẫng, quay quắt, đứng ngồi không yên, ưu phiền, hoang dại, thấm thía niềm cô lẽ. Thì ngày nay hai người quan niệm tình yêu hoàn toàn trái ngược nhau, đã trái ngược lại trăm phần trăm. Đó là lời đáp từ trong định nghĩa tình yêu đích thực là gì? nơi bến bờ hạnh phúc, tình yêu vĩnh cửu một đời của chàng và nàng là thế đấy! Tình yêu Phương Nam và Thương Mười đã xoáy mạnh theo dòng giông bão. Cơn lốc khốc liệt, xô đẩy hai người tốc về hai ngỏ chia xa, vĩnh viễn tách bạch mất rồi, hỡi tim đại mạc

          Tôi gọi đò yêu, chẳng trả lời
          Sáng chiều trưa tối vẫn im hơi
          Tiếng kêu vọng giữa vùng sa mạc
          Như áng mây trời gió cuốn trôi.

          Đại mạc hoang vu cát cuộn bay
          Đêm tường cô tịch ai nào hay
          Tương tư... tôi trái tim mềm nhũn
          Những buổi chiều buồn chén cúc say.

          Bão tố phím loan sóng nhấp nhô
          Hoàng hôn từng đợt nước triều xô
          Gió trong gan ruột vờn tim lạnh
          Lại nhớ kêu ai tựa gọi đò.

          Kỷ niệm trao nhau đẹp thuở xưa
          Dìu tay từng bước tránh cơn mưa
          Tình sao đẹp mãi sân trường cũ
          Ngây ngất thư nồng thuở ấy đưa...

          Tôi vẫn chờ ai dưới rặng dừa
          Đếm từng sợi nhớ buổi trời mưa
          Một lời ước hẹn lòng không đổi
          Tôi đợi ai về bến nước xưa... (*)

          (*) Thơ Tình Hoài Hương

          _ * _

          Tình Hoài Hương
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-06-2017, 06:42 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • #50
            Ván Bài Phiêu Lãng



            Ván Bài Phiêu Lãng
            (các lăng ở Huế)


            Trả phòng ở bên Vĩ Dạ, hai người gọi taxi qua bên phố Phan Bội Châu vào Hotel Đồng Lợi. Phòng ốc ở đây tương đối sạch sẽ, thoáng khí, lịch sự, yên tĩnh. Khi Nam qua nhà Vinh ở bên kia sông, (đối diện gần phòng trọ hai người) thăm các bạn. Mười tắm rửa xong liền xuống lầu, ra chợ Đông Ba mua ít trái cây. Chàng về phòng, sau đó họ đi thuê bao một chiếc xe lam rộng thênh thang, họ không mời các bạn, muốn riêng tư đi với nhau, chỉ có hai người đi thăm các lăng tẩm nổi danh ở Huế: Minh Mạng. Thiệu Trị. Đồng Khánh. Tự Đức. Gia Long. Khải Định…

            Lăng KHẢI ĐỊNH nằm riêng biệt ở phía Tây tĩnh mịch ở kinh thành Huế. Lăng tẩm uy nghi được xây dựng khi vua còn ngự trên ngai vàng nghinh tiếp tình yêu đôi trẻ. Họ dìu nhau đi dưới hai hàng hoa bằng lăng nở đầy cành, bước chân đôi trẻ phiêu bồng dẫm trên xác phượng vĩ đỏ thắm. Những con rồng to, những vị quan thần đá, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai nghiêm. Hiện nay các lăng chẳng còn giữ được nguyên thể, dù đã nhiều lần trùng tu để nối dõi tông đường! Đầu tiên là hại bạn đi thăm: Lăng Khải Định (Ứng Lăng) tên thật của vua: Nguyễn Phúc Bửu Đảo, (1885-1925) Trị vì: 9 năm.

            Chàng và nàng đã cười to, tiếng cười vang dội núi đồi thinh lặng, hai người nắm tay nhau, vừa chạy lên năm bậc thềm của các tầng sân tạo thành một trăm hai mươi bảy bậc cấp (127). Lăng đứng sừng sững trên triền núi phía Tây làng Châu Chữ, xã Thủy Bằng, Huyện Hương Thủy, có núi án núi chầu: Núi Chóp Vung, núi Kim Sơn. Lăng cách thành phố Huế 10 km, ngọn đồi nầy cao chót vót, chung quanh toàn cây đại thụ mọc um tùm, râm mát, che kín một vùng núi non có khe Châu Ê nước đục và độc. Lăng không trang trí hồ vọng nguyệt, không có cầu. Diện tích lăng rộng khoảng 330,05 héc ta. Lăng mới xây kết hợp hài hoà giữa kiến trúc Đông và Tây, bê tông, gạch nung, đá, cột paratonnetrre, tháp nhọn stoupa v.v...

            Thanh long bạch hổ của tiền đình, hậu chấn, rồng chầu, hổ phục: tượng trưng bằng 2 voi. 2 ngựa. 10 tượng người đứng chầu quanh sân đại điện. Gian đại sãnh sơn son thiếp vàng, vòm cung nhọn, tường cột chạm trổ tinh vi, chi chít kỳ quan của ngành phù điêu khắc giao thoa độc đáo, đầy thẩm mỹ, khiến người xem rất kính phục, coi hùng vĩ, uy nghi hoành tráng bậc nhất với các loại bê tông, sắt, thép, sành sứ, long vân thủy họa, ghép ngàn vạn mãnh sành sứ thủy tinh, tạo thành nhiều bức họa long lanh sống động tinh xảo với “phúc” và “vạn thọ” phong thủy địa lý thủy thổ vững vàng:

            Hai người bạn trẻ đứng trước ngai vàng có pho tượng đồng vàng bao phủ, ở ngoài tạc hình vua Khải Định, sau lưng vua ngự là phong cảnh mặt trời lặn. Còn một pho tượng vua Khải Định đứng thì đặt ở Trung Lập đình của cung An Định. Tay Mười nương nhẹ sờ lên nếp nhung-y, tưởng chừng nơi đây đang trỗi dậy thời oanh liệt, vàng son với vua chúa, quan đại cận thần, dũng tướng kiêu binh, cung phi mỹ nữ. Vua cai trị triệu dân, giữ gìn xã tắc sơm hà, giang sơn ấm no, hạnh phúc một thời lừng lẫy. Nam Mười cùng nhau hét thật to, tiếng vang ngân từ xa vọng lại, như những dịp sấm rung dồn. Khi chàng hái được bông hoa thọ sim, anh cười ngặt nghẽo, chọc quê Mười. Hai bạn trẻ vừa chạy lên rồi chạy xuống những bậc cấp lăng, vừa đếm những (127) bậc cấp:
            - Một, hơi, boa, bốn, nem, séo, bởi, tém... chín mừi… một trem lẽ tớm...
            - Cha cố bà, mấy lâu ni, tui mới tìm thấy một bông thọ sim để tặng em. Hí!
            Thế là Mười lượm lặt sưu tầm ít văn thơ đặc biệt của thổ ngữ miền Trung, đọc lên cho Nam nghe. Anh con trai miền Nam khoái chí cười ha hả, cố học thuộc lòng:
            "Khôn" là đồng nghĩa với không
            Chẳng muốn lấy chồng = "khôn muốn lấy dôn"
            "Đoản hậu" là "Ác" en ni.
            Tui đã... im lặng cứ đi theo hoài
            Nhà tui còn khoảng đường dài
            Có chi noái nấy, ngày mai hết rồi
            Trên cao thì nói "trên côi"
            "Đi rượng" là lúc sóng đôi như chừ
            "Phủ phê" là lúc thặng dư
            Như là tình cảm "đã nư", no đầy
            "Như ri" có nghĩa như vầy
            Mô Tê Răng Rứa, em quay... mòng mòng.
            (*)

            Bởi vì hôm nay là ngày thường, nên các lăng tẩm rất vắng khách vãng lai. Đôi bạn đi giữa hai hàng hoa bằng lăng tim tím, mỗi khi có gió lùa thì nhiều cánh hoa rơi lả tả ven tường. Trước thềm rộng, hồ vọng nguyệt sen nở rộ, lá sen ôm kín mặt nước ao tù thăm thẳm. Chàng và nàng tha hồ chơi trốn tìm, rượt bắt cứu tù náo loạn. Rồi họ đi đánh trống dộng chuông inh ỏi. Khiến một cô gái xinh đẹp, cỡ trạc tuổi Mười đang ngồi học bài (có lẽ là con gái của người gác lăng), cô gái nhăn mặt, nhíu mày tỏ vẻ khó chịu. Thấy thế, MườI và Nam trêu cô gái:
            - Trời đéc thánh thiền thiên địa quơi, ui! tui noái thặc dư ri… em đừng théc méc nghen: reng mờ im đệp chi, mòa im đệp éc ôn, đệp ớc liệt rứa, hỉ!
            - Em ui, cho anh Nam hỏi nè, có phải lờ” :
            "Răng chừ" đồng nghĩa "khi mô"
            "Khi mô" có nghĩa khi nào đó thôi
            Khi mô có cặp có đôi
            Răng chừ hết cảnh tuổi đời bơ vơ
            Đơn côi "cái trốt" dật dờ
            Là ôm đầu bạc "cà ngơ" một mình
            Lặng yên thì nói "mần thinh".
            Để nghe len lén duyên tình giăng tơ
            . (*)
            Nói xong, Nam đưa thỏi chocolate cho cô gái:
            - Cô đeng mần cới chi rứa, cô có en sô cu la khôn? Cô khôn en, thì cô tét đèn đi ngủ, hén. Chớ không thì, súng sép bén đùng đùng. Mà nè cô cô cầm cái kéo và noái: ẻm của tui cần két mớ tóc dời tới lưng dư rớ. Cô két tóc đứa em trụi lủi, thì em của tui sẽ giơ ra cấy trốt, lòi da đầu ra răng? Rùi cô hô: Cô sẽ đi xung phen, để bén cái thèng cha người Nôm ni phẻn động... Chéc là tui chết. Hỉ!

            Cô gái không vừa, nàng cũng có một khối sưu tầm thơ văn nguyên bản của Cai Vĩnh, cô gái đã đem thơ ca ra đốp liền:
            "Mần chi" ai hỏi làm chi
            Em muốn làm gì, "răng hoải mần chi?"
            Thế này thì nói "ri nì"
            "Rứa tề", thế đó mần chi đây hè?
            Cái cây thì noái cái "que"
            Còn ở trước hè lại nói cái "cươi"
            Cái "ôn" bản mặt tươi tươi
            Ưa đi tán bậy là người "vô duyên"
            (*)
            Sẵn trớn, Nam vui vẻ ôm Mười vào lòng và “ca” mấy câu thơ đã lượm lặt:
            - A ha. Như vậy là O nớ đã có dôn rồi hí, để tui thỏ thẻ noái cho O nghe hí:
            Nếu biết rằng em đã có chồng.
            Cho anh gặp chàng có được không?
            Để anh hậu đãi chồng em đã…
            Rước giùm của nợ, lập đại công.
            Nếu biết rằng em sắp lấy chồng
            Anh về tát nước cạn dòng sông
            Để cho đám cưới không qua được
            Đừng có mà mong được động phòng.
            (*)

            Cô gái ngượng quá nguýt hai người một cái dài, dài có đuôi… cô ta xù mặt ra, vội quơ tập sách chạy biến vào hậu trai, giữa tràng cười của Nam và Mười trải dài trên khu đồi quạnh vắng. Nam Mười cùng nắm tay nhau, chạy xuống trăm bậc tam cấp.
            Hai người đến lăng TỰ ĐỨC xa thành phố Huế 7 km. Chu vi 1200/m, diện tích 10/ha. Lăng ngự tọa ở núi Khiêm Sơn, hướng Tây Đông có núi án, núi chầu Dẫn Khiên Sơn, Động Án tại thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân.

            Lăng Tự Đức có cửa tam quan hai tầng, vào sâu bên trong sân là những tòa nhà xây gạch, có lối kiến trúc độc đáo; nhưng nhìn chung thì nhà cửa phòng ốc có phần rườm rà. Khiêm Lăng, tên thật vua là Nguyễn Đức Hồng Nhậm 1829-1883. Trị vì 35 năm. Vua là người nhân hậu, đa cảm, uyên thâm học vấn: Sử, Triết, Nho, xuất sắc nhất là văn học, một ông vua tinh tế có óc thẩm mỹ, và là một thi sĩ đa tình, thâm trầm, vua đã để lại nhiều bài thơ trữ tình. Khiến Mười hình dung đến vị vua cao trọng tôn qúy ấy mỗi khi rãnh việc nước, vua cùng đoàn mỹ nữ nhàn du, từng đặt chân đến nơi nầy, họ thi ca vịnh nguyệt, ngự tửu yến tiệc, đọc sách ngâm thơ. Phía tả hồ có bắc ba cây cầu, hồ mang tên Lưu Khiêm có dựng đảo Tịnh Khiêm. Trên hồ nước trong xanh mọc đầy sen trắng, tím, hồng coi sinh động, cạnh ven hồ là những con đường xinh xắn uốn lượn, và một rừng thông xanh ngút ngàn suốt tháng năm phóng khoáng reo vi vu dưới màu trời sắc nước rất yên tĩnh trầm lắng mà thơ mộng.

            Qua phần núi Đại Thiên Thọ cách kinh thành Huế 16km, là lăng GIA LONG có chu vi 1800/m, diện tích 20/ha. Thọ Thiên Lăng tên thật vua là Nguyễn Phúc Ánh, 1762 – 1819. Trị vì 17 năm. Phong cảnh hữu tình, địa thế hài hòa, khung cảnh trầm lắng thơ mộng mà uy nghi. Đây là lăng của một ông vua đã tiên phong khai sáng một triều đại phong phú đa dạng. Lăng ở nơi xa xôi, rộng rãi mênh mông, hoang vu, và bình dị. Lên những bậc tam cấp, nơi chính điện xám xịt đồ sộ, mái cũ rêu rong thâm u, đặc biệt có hai ngôi mộ đá thanh xam xám, đơn giản, màu than đá không hoa mỹ, đó là: vua và hoàng hậu đã nồng ấm nằm an giấc ngàn thu bên nhau, không có lăng tẩm nào có hoàng hậu nằm chung mộ phần với vua giống lăng Gia Long như thế. Hai hàng quan Văn, Võ gồm 10 người.

            Những con rồng chầu, kèm hai voi, hai ngựa. Sư tử đắp bằng vôi gạch mặt xanh, mắt đen, lưỡi thòng dài xuống quá cổ, đuôi cúp giữa bốn chân, mang tư thế trung thành, nhẫn nhục đứng chầu trước ngọ môn. Mặt hồ phẳng như gương soi, nước im phắt rất mang tên Dài, vẫn gợi lên trong lòng Nam Mười cảm giác rờn rợn, lạnh lẽo u tịch, đầy hình ảnh sự tích thời cổ xưa nối đuôi nhau lướt bóng thời gian, như bóng mây nhẹ lướt qua đời, bay trên cánh đồng cỏ xanh rờn vào những tháng ngày nắng ấm. Nơi đây, Mười thích nhất là lối kiến trúc độc đáo, sâu sắc, điêu khắc tinh tường, đặc biệt chiếc ngai vàng kê giữa chính điện, quả là một kiệt tác diễm lệ dường bao!

            Hai người lững thững trở về lối cũ gọi đò đưa sang bên kia song. MườI và Naṃ đưa nhau đi qua lăng MINH MẠNG tức Hiếu Lăng, (tên thật vua Nguyễn Phúc Đảm 1791-1840) Trị vì 20 năm. Lăng an ngự ở hướng Tây Đông, chu vi 1732/m, diện tích 15/ha trên vùng núi Cẩm Kê. La Khê, xã Hương Thọ, Huyện Hương Trà. Lăng Minh Mạng cách xa thành phố Huế 12 km, có địa thế án núi do Kim Phụng núi chầu. Lăng đường bệ, hài hoà, được bao bọc bởi bức tường thành cao 3m, dày nửa mét. Mặt trước có ba cửa vào lăng đăng đối theo trục thẳng. Lăng nổi tiếng hoang-vu, ảm đạm, tàn phế. Lăng chiếm cư trên vùng đất xa xôi, vắng ngắt, rêu phong hoang dã, mái vòm gạch ngói tróc lở.

            Suốt dọc hai bên đường đất đỏ cỏ rậm chằn chịt với cỏ tranh mọc lên lút ngực, trông càng tiêu điều, hoang phế, cô liêu. Buồn tênh phiền não đến ghê rợn. Trong lăng đường bệ, im ắng, uy nghiêm, đăng đối. Bên ngoài thỉnh thoảng có nhiều tiếng chim hót líu lo trên cành. Mấy cái hồ xanh biếc im lìm mọc đầy hoa sen và cảnh nước mây trời. Đứng trên cầu Hữu Bật chia đôi mặt hồ thành con dường dài dẫn lên lăng, thì nơi hoang tịch nầy chỉ có Nam và Mười. Cảm thấy rờn rợn, sợ hãi, nên hai người thì thầm bảo nhau trở về.

            Ra tới bờ sông, hai người nằm ngửa trên lớp cỏ mềm và dày để đợi ông lái đò sang đón. Chàng hú lên những tiếng quái dị, đầy man rợ. Khi thì Nam trổ giọng kim, khi đổi giọng trầm ồ ồ. Rồi anh xổ một tràng dài tiếng Anh, tiếng Tây, tiếng Tàu, chen tiếng Ấn Độ, tiếng Miên, hay tiếng ba xàm ba láp “tào-lao” nghe rất quái gở! Trong khi đó Mười bụm hai tay trên miệng phụ-họa Nam là những tiếng hót chiêm chiếp, tiếng khẹt khẹt, tiếng ụt ịt, tiếng ò ó o...ù ú u... “Giỡn hớt” với nhau giữa chỗ không người, hai người sung sướng thoảI mái cười đau thắt ruột.

            Bất thần, Mười Nam trông rõ có một đám du khách bốn người đang xuất hiện trên đường mòn, cỏ tranh lút gần tới bụng họ. Do Mười, Nam đang nằm trên cỏ bồng khuất lấp, bởi thế những du khách kia không thể trông thấy hai người, nhất là vùng nầy quá hoang vắng. Nên khi vô tình nghe những tiếng tru hú dị hợm ấy, họ hốt hoảng, lo sợ, xô nhau chạy về bên bờ song cạnh con đò ngang. Du khách yếu bóng vía đành trở về bên kia sông, không được thưởng ngoạn danh lam thắng cảnh của Đế Đô rồi. Lăng Minh Mạng nổi tiếng là có yêu tinh, ma quái mà lị! Càng nổi tiếng là có phường gian, ăn cướp, kẻ cắp đang ẩn núp đó đây, nên ít ai dám lên đò qua sông vào lăng Minh Mạng lúc choạng vạng hoàng hôn cả.
            Nam kéo tay Mười đứng lên, vội vàng chạy theo họ, để lên đò qua song. Trả tiền cho bác lái dò xong:
            - Nếu có máy ảnh, lúc đó mình chụp lại vài tấm, để lộng-kiến, em nhỉ!
            - Để liệng-cống thì có. Nhìn chúng mình cười rũ rượi như đười ươi í.
            - Lý tưởng chứ.
            - Lý tưởng gì! Lý tưởng là mình tưởng những điều ấy có lý ha.

            Môi hôn chàng phớt nhẹ trên môi nàng, Nam tủm tỉm nhìn Mười, cười cười như trêu ghẹo. Họ nhảy tót lên xe lam lúc nãy đã thuê bao. Hai anh chị ngồi thở dồn, giả vờ đứng đắn, nghiêm trang nhất thế giới. Nhưng Nam và Mười âm thầm kín đáo liếc nhìn bốn anh chị du khách kia, (họ xin Nam cho họ đi nhờ theo xe Nam đã thuê bao để về phố). Nam không do dự, đã đồng ý. Trên xe Mười và Nam cứ tủm tỉm, nháy mắt nheo mày, ngầm ngầm hân hoan vui thích những chuyện trêu chọc người ta, mà khoái... Không có gì ở đời khiến đôi trẻ hạnh phúc bằng tình yêu chân thành, say đắm và sự trìu mến đạt đến mọi cảm thông.

            Xe lam đưa họ tới chùa THIÊN MỤ xa kinh thành Huế 5 km, chùa uy linh nằm trên đồi Hà Khê, chùa cao bảy tầng, mỗi tầng có tượng Phật soi mình chếnh chếch trên sóng nước ở tả ngạn sông Hương. Người dân thị thành luôn nghe tiếng chuông mỏ ngân rền dưới tháp. Tựa mình bên nhau, Nam Mườị đứng nhìn xuống dòng sông Hương lờ lững trôi giữa hai bờ tre trúc uốn mình trong gió hiu hiu. Những con đò nhẹ nhàng khua sóng, tìm về bến đậu, tiếng hát câu hò thoảng đưa, nghe đượm màu dân tộc, chan chứa ngày mai, thì còn bức tranh tuyệt tác nào qua nỗi buổi hoàng hôn, nơi vùng tranh tối tranh sáng, mờ mờ ảo ảo, giữa bè mây vàng tía, nhẹ lâng lâng, dáng chiều ươm hồng thắm mặt đất theo: "Gió đưa cành trúc là đà
            Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
            ”.

            Ngày thứ năm – chàng và nàng vào thăm THÀNH NỘI, thăm Hồ Tịnh Tâm. Buổi chiều họ đi biển THUẬN AN. Buổi tối, hai người ra ngoài balcon nhìn xuống phố Phan Bội Châu, (nơi nầy xe cộ chỉ có phép xuôi theo một chiều, để đi lên hướng chợ Đông Ba. Nếu xe cộ muốn đi về hướng Bao Vinh, là xe cộ chỉ được phép lưu thông trên con đường Huỳnh Thúc Kháng dài ngoẵng nầy ôm ven bờ sông Bạch Đằng). Người người đi bộ, hoặc chạy xe đạp, xe gắn máy, xe xích lô, xe hơi… Lòng phố đông như kiến chạy xuôi về hướng chợ Đông Ba. Chợt Mười thấy anh Bảy của nàng đang cởi chiếc xe vespa Italy, anh mặc bộ đồ sport trắng, anh đi đánh tennis. Mười chỉ cho Nam nhìn thấy anh, nàng nép sau lưng chàng, sợ anh trai vô tình ngước nhìn lên, sẽ bắt gặp mình, thì chết.

            Ăn cơm nhà hàng xong, Mười vào nằm nghỉ trên phòng. Chàng đi hội chợ với các bạn. Trong phiên chợ đêm, Nam chơi ném tên, ném cổ vịt, chơi bắn súng. Nam chơi cái gì thì trúng lớn cái đó. Nam ăn được hai chục ngàn đồng. Trong khi ấy thì các bạn thua to. Nam bù cho các bạn gấp đôi số tiền họ đã thua. (Ấy thế mà anh chả đưa cho Mười đồng nào ha!?) Khi chàng đi chợ đêm về, Nam mở khóa cửa thật nhẹ, vì ngỡ là Mười đã ngủ. Nam đi tắm, rồi lên giường hôn phớt lên má Mười. Nàng quàng tay qua cổ anh ghì xuống. Chàng và nàng muốn trao nhau mật ngọt tình yêu chân thật, run rẩy và táo bạo. Giữa lúc đôi trẻ ngỡ rằng hai người phải hòa tan tuyệt đỉnh tình yêu trong nhau, thì Nam đã thắng lướt được khuynh hướng bẩm sinh, mặc dù khuya nay, cả hai người không còn mảnh vải che thân. Chàng dặn dò Mười:
            - Nếu khi thấy anh “đi quá trớn”, em nhớ tát tát vào má anh, cho anh tỉnh người. Nhé.
            - Dạ vâng!
            - Mười yêu của anh. Anh quyết giữ gìn em trọn vẹn. Không muốn xâm phạm em. Bởi vì, anh rất yêu em.
            - Chúng mình đã thắng định mệnh một ván bài rồi đó anh.

            Kỳ diệu thay. Lý trí đã vượt lên cao, để dập tắt ngọn lửa tình hừng hực cháy trong đôi trái tim: Ôi! “chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy trong đôi mắt mỹ nhân”. Cả hai người cùng hiểu rất sâu sắc rằng: Chuyện trở thành vợ chồng, sẽ không bao giờ xảy ra giữa hai người. Khi mà Nam + Mười chưa chính thức làm đám hỏi, đám cưới. Chàng - nàng quyết giữ gìn tình yêu sạch trong, không xâm phạm đến tiết hạnh cuả nhau. Để lãng quên ngọn lửa tình đang bừng bừng, chực đốt cháy hai thân thể, chàng gọi Mười đi ra ngoài balcon. Họ nhìn qua nhà Vinh ở phía sau khách sạn, trước bến sông Bạch Đằng, họ ngắm trăng rụng xuống dòng sông mờ đục. Chàng nói:
            - Anh đố em biết: Có hai người chạy đua xe đạp, trên đoạn đường dài ba cây số. Đích cuộc đua là một bờ sông. Ông A chấp ông B, chạy trước ông ta bảy phút. Hỏi em rằng: Ai sẽ thắng?
            - Ông A dám chấp ông B, như vậy có lẽ ông A giỏi hơn, ông A sẽ thắng.
            Chàng mỉm cười, hôn lên má Mười cái chụt, lắc đầu lia lịa. Nàng nói:
            - Vậy thì ông B. Phải không anh?
            - Sai quá sá rồi.
            - Vậy chứ ai nào?
            - Cả hai cùng thắng.
            - Kỳ lạ nhỉ!
            - Nếu cả hai ông không ai chịu thắng... xe, thì rơi tỏm xuống sông, chết đuối sao! Ngu gì chết? Hở em!

            Cả hai người cùng cười vang. Tay trong tay, họ trở về phòng. Ngày thứ sáu- Nam Mười đi thăm Truồi, lúc về ghé núi Ngự, ăn bánh bèo ở Ga. Chiều qua ăn bánh xèo ở Trần Hưng Đạo. Ối Trời! Lúc đó Mười thấy Đan đứng trước sân nhà, anh ấy chống tay lên hông nhìn ngược lên hướng cầu Trường Tiền. Bên cạnh anh là mấy cô em gái rất xinh, họ đang nói chuyện vui vẻ. Chẳng hiểu sao Mười run run, lấm lét nhìn Đan, rồi quay phắt đi nép mình bên Nam. Mười nói nhỏ đến nỗi Nam phải cúi sát xuống đầu nàng, hỏi lại:
            - Ấy, anh đừng qua lối đó. Anh Đan đứng kia kìa.
            Theo hướng Mười chỉ, Nam ngước nhìn, rồi cười nhẹ:
            - Anh Đan beau trai, em nhỉ!

            Mười gật đầu. Hai người rẽ qua đầu cầu Gia Hội, lững thững trở về phòng. Chàng đã rõ câu chuyện Đan có dự tính sẽ về bàn tính với gia đình, xin làm đám cưới với Mười (sau ngày anh đi phép). Nam chỉ nghe Mười kể thoáng qua, không ngờ chàng vẫn ngậm ngùi. Buổi tối, chàng thuê chiếc đò, cùng Mười, Thạch, Vinh, Phong, Hải, Trí, ngồi đò chèo đi dạo trên sông Hương thơ mộng. Các anh có trò chơi chọc phá nhau ngộ lắm. Cứ thỉnh thoảng có một anh giả vờ gọi tên bạn nào ngồi ở trước, anh kia quay lại, liền bị ngón tay mình chỉ vô má. Thế là cả nhóm cười vang. Hoặc ai đó nói câu gì nho nhỏ, một vài anh không nghe rõ, liền quay lại, tức mình “há” lên một tiếng to. Thế mà cả nhóm vẫn vui vẻ cười vang.

            Ngày thứ bảy cuối cùng – (trong một tuần lễ rất hạnh phúc), thật bình an – chàng - nàng nằm bên nhau suốt ngày, đêm, như đôi bạn chí thân, cả hai người đọc lại cho nhau nghe những lá thư đã viết. Sau khi đi ăn cơm tối, Nam đi mua vé xe bao các anh Thạch, Phong, Hải, Vinh, Trí, đi về Đà Nẵng. Nàng ở trong phòng, lo thu dọn hành trang, áo quần vào valy mỗi người, chuẩn bị sáng mai lên đường. Đúng lúc nầy Mười “bị” sớm hơn mọi tháng những 5 ngày. Không ngờ bị sớm thế, nên nàng đâu chuẩn bị gì. Nam đi mua vé xe xong đã về phòng, biết Mười “bị”, chàng lại xuống phố mua serviette giúp cho Mười. Ôi, nàng mắc cỡ, ngượng ngùng không sao tả hết, cúi cúi liếc liếc, ỏn ẻn Mười nhỏ nhẹ cám ơn chàng.
            * * *

            Trở về Đà Nẵng, Mười đã quyết định nghỉ việc, chấm dứt mọi liên lạc với bạn bè cũ. Nam ở nhà anh chị bạn tên Phong tại đường Hoàng Diệu. Thỉnh thoảng hai người gặp nhau ở nhà anh chị Thương. Những ngày ngắn ngủi còn lại, Mười sống riêng cho Nam. Ngày cuối, chàng & nàng, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, đi picnic tại biển Mỹ Khê. Chưa đi tắm biển nầy lần nào, nên Mười dẫn Nam, các cháu, đi lạc vô khu dân chài sinh sống. Không có bãi tắm. Nước đục và dơ ơi là dơ. Trên bãi cát đủ thứ phóng uế bừa bãi. Bẩn thỉu kinh khủng. Ngồi một lúc, ruồi xanh ở đâu bu vào đầy người. Dì cháu Mười, Nam, đành xách giỏ thức ăn, đi bộ lên phía khác xa chỗ cũ. Nơi đây vẫn không lấy gì sạch sẽ tươm tất, tuy thế đỡ dơ hơn chỗ lúc nãy khá nhiều. Chàng, nàng đều tiếc rẻ, nếu biết bẩn thỉu như vậy, anh em dì cháu cứ đi đến biển Thanh Bình, như hôm trước có lẽ thích hơn.

            Chàng mặc chiếc soọt đỏ chạy đi tắm, chiếc quần đỏ in hẳn màu da trắng ngần trên nền trời xanh biếc, biển bao la xanh thẳm một màu sau lưng Nam, mái tóc bay xô lệch theo chiều gió. Nam đứng chống tay lên ngang hông, nụ cười đầy tin tưởng, mắt ngời sáng nhìn những cánh buồm căng gió. Ngâm mình trong nước, chàng bơi lội thoải mái. Khá lâu, Nam lững thững lên bờ. Trong khi các cháu còn nô đùa với biển cả, anh chạy về dưới hàng phi lao. Nằm ngả lưng bên Mười, Nam quay sang ôm hôn Mười, bỗng đâu có đám trẻ con của làng chài đã phục kích ở mấy bụi cây lúp xúp, chúng đồng loạt bò lổm ngổm tới gần rình xem. Thật là quê xệ một cục! Mắc cỡ muốn dộn thổ! chàng, nàng, bẽn lẽn gọi các cháu đi về phố.

            Buổi chia ly đã đến. Mười nghe tiếng gió rít trên tàng cây me trước sân nhà, cung đàn trầm lắng, xôn xao, ríu rít, bâng khuâng và băn khoăn vô ngần. Tai Mười nghe dư âm tiếng sóng gầm ngoài bờ biển Thanh Bình. Tiếng gió mưa ào ào, dội lên nóc nhà tôn bên Vĩ Dạ. Tiếng sóng nước vỗ vào mạn thuyền, với mái chèo khua sóng, tiếng hò khoan xuôi nhịp trên dòng Hương Giang. Muôn vàn xác hoa phượng rải trên lối cũ, dẫn đến các lăng tẩm hữu tình, thoảng nghe những lời ân tình, trìu mến.
            Nam thắm thiết dặn dò:
            - Anh về Sài Gòn, anh sẽ bỏ Đại-học Y Khoa. Anh xin ba má cho anh lên Đà Lạt học Văn-khoa vào niên khóa tới, để cho được gần em. Lúc anh ra đi, ba má đã nói rằng: Nếu em chưa lập gia đình, thì ba má rất sẵn lòng cưới vợ cho anh. Nhưng em biết rồi, sự nghiệp tương lai và hạnh phúc vợ chồng, do chính anh tạo nên. Mình phải có sự nghiệp trước, lập gia đình sau, là tốt. Còn em, em hãy xin ba má về Đà Lạt nhe. Chúng mình ở Đà Lạt, sẽ không sợ ai chia cách, phân ly nữa. Bây giờ, em yên tâm nghỉ ngơi ở nhà, em không đi làm nữa nha.

            Mười gật đầu thật ngoan. Tuy nhiên, tự trong thân tâm nàng cảm thấy âu lo, vì chẳng lẽ Mười cứ ngồi ở nhà anh chị, không làm gì ra tiền phụ giúp họ trang trải tiền nhà, tiền chi phí sao? Nếu Mười cứ nhàn cư vi chờ đợi Nam một thời gian quá xa vời? Nhất là hiện nay nhà anh chị không khá giả, Mười không thể ăn không ngồi rồi. Coi sao được. Thậm chí ngay chính Mười cũng cần có tiền, để chi cho cá nhân những món cần thiết. Dứt khoát chàng là con nhà giàu, ăn Nam không phải lo, mặc Nam không sợ thiếu, nên chàng không nghĩ ra điều thực tế mà cần thiết đó.

            Hình bóng Đan chợt hiện về trong tâm tư nàng, chàng lính chiến phong trần ấy đã yêu nàng tha thiết, dù chưa một lần tay nắm bàn tay, chưa một lần ở từ xa anh đưa bàn tay lên hôn gió. Hay anh hôn lên tóc Mười, dù chỉ nụ hôn phớt nhẹ trên mái tóc. Ấy thế mà Đan đã ngỏ lời cầu hôn với Mười. Anh tính chuyện hò hẹn đính ước hôn nhân, khi anh về phép thăm gia đình vừa qua. Ngày ấy nàng đã nói với Đan:
            - Cho em suy nghĩ, và xin thỉnh ý của ba mẹ, Mười sẽ trả lời anh sau.

            Mười vẫn suy nghĩ việc Mười từ chối lời ân cần cầu hôn của Đan với mình: thật sự xấu hay tốt, đúng hoặc sai đấy nhỉ!? Mười có cảm tưởng nửa tháng trọn vẹn hạnh phúc tinh tuyền bên Nam- một hạnh phúc trong vắt, sáng ngần- như phiên gương vừa rửa sạch- đã trôi tuột quá nhanh qua vùng trời Đế Đô êm đềm- là những ngày tươi thắm, đắm say, nồng nàn, tuyệt diệu nhất. Có lẽ, suốt đời người -mai sau- sẽ không bao giờ tìm thấy được, hình bóng thuở đầu đời! Vì, đó là hạnh phúc xanh xao, non nớt rất trinh nguyên, lồng trong áng mây hồng thắm sắc quyện tơ vàng giữa buổi hoàng hôn, làm rạng ngời mối tình niên thiếu tuyệt vời. Mười biết rằng: Hạnh phúc có thật rất tuyệt! khá trân quý nầy đang đứng gần bên, hay thoáng lướt qua - ở đâu đây. Mà, Mười không biết, để nắm giữ lại.

            Phải chia tay nhau là chuyện thường tình, và nhất thời. Nhưng lần nầy Nam và Mười cảm thấy khác hẳn lần chia tay năm nào. Khi xưa chàng ở Đà Lạt - đau buốt, buồn xo đi về Sài Gòn. Mười bị chị Khánh cho mấy cái tát tai, chảy máu mũi, rồi nàng bị tống lên xe đi về Huế. Lần nầy, Nam đành lên xe trở về Sài Gòn, khi sương khuya rơi ướt đẫm mái nhà em. Nhưng lòng Nam hân hoan, vui vẻ, đầy tin tưởng và hy vọng vào mối tình chân chính. Mười ở lại Đà Nẵng huyên náo, vui nhộn. Cuộc sống trong thành phố như ngái ngủ và đơn điệu (đối với riêng nàng) xuôi dòng, cứ lặng lẽ trôi đi... cùng mối tình cháy lòng. Với bao kỷ niệm êm đềm, đắm say, còn tươi nguyên dấu vết. Mối tình bất diệt sẽ không ai có thể phân ly, chia cách được.

            Dù không thể ở mãi bên nhau, chưa thể đi chung trên một con đường. Đôi ta chưa đủ điều kiện để có thể thực hiện lý tưởng, nguyện ước sum họp dưới mái nhà hạnh phúc bền lâu. Nhất là Nam và Mười biết rằng: Chúng mình yêu nhau tha thiết. Cần có nhau. Vì nhau. Sống cho nhau. Suốt đời. Điều chúng mình thiết tha mong ước và sự thành tựu - là hai điểm khác nhau. Không hiểu rồi đây - trong tương lai- Chúng mình sẽ thực hiện, đến mức độ tối đa nào?! Hở anh yêu !?

            _ * _

            (*) Sưu tầm lượm lặt.

            Tình Hoài Hương
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-06-2017, 07:03 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • #51
              Lối Cũ Dấu Chân In



              Lối Cũ Dấu Chân In

              Khi ánh nắng chiều cuối cùng trong ngày trở nên nhợt nhạt đang theo nhau rút qua song cửa, kéo bóng tối từ các xó xỉnh lan dần, lan dần ra…, đêm đen tràn ngập trên thành phố Đà Lạt, qua những con đường vòng luôn uốn lên uốn xuống như rắn lượn, nhà nhà nhấp nhô cao thấp bên những sườn đồi đã lên đèn, thì nỗi nhớ nhung xa vắng cũng choáng ngập cõi lòng Mười. Mười thu mình trong góc phòng lạnh lẽo rộng mênh mông không ánh nến, chẳng đèn soi. Nàng sống âm thầm lặng lẽ như con ốc sên suốt đời thu mình trong vỏ. Lòng Mười dâng lên nỗi dày vò xiết dỗi, hụt hẫng, đớn đau muộn phiền thấy rõ.

              Cứ như thế như cơn mê trôi qua… cho đến một hôm người làm vào trong phòng của nàng báo là: “có cậu Thạnh ở Sài Gòn mới lên, và có cậu Nam đến thăm nhà, nữa cô”. Bỗng nhiên căn phòng nhỏ của Mười đang lạnh lẽo càng lạnh giá im lặng như tờ. Vừa muốn thoát ra khỏi phòng, quay lưng đi chạy trốn, vì Mười rất sợ phải chạm trán với Nam, nàng không muốn gặp mặt Nam nữa. Đúng lúc ấy Thạnh và Nam xuất hiện ở mấy bậc thềm. Mặt Mười đỏ rần nhưng toàn thân lạnh toát, nàng run rẩy, lúng túng nép sang một bên tường để nhường lối. Mười ấp úng câu chào hỏi nho nhỏ. Ngượng ngùng, Mười mỉm cười nhìn Thạnh, rồi quay ngoắt đi chỗ khác, không hề nhìn Nam và chào, làm như Thạnh đến thăm nhà chỉ có một mình. Mặc dù Nam đang đối diện và đăm đăm nhìn Mười. Đôi mắt tối sầm lại, trái tim nàng dường như có bàn tay vô hình bóp nát, khi Mười nghe Nam nói:

              - “Toi” ngồi đây chơi, “moi” đi dạy kèm, lát nữa, mười giờ rưỡi “moi” quay lại đón nhe.

              Sự thật là Nam vẫn đi dạy kèm Toán, và Pháp-văn cho cô bé Kiều Sa ở đường Phạm Phú Thứ từ mấy năm nay. Nam đi rồi, thì Mười vui vẻ mời Thạnh ra phòng khách ngồi, nàng nhanh nhẹn đi rót trà nóng mời Thạnh uống. Hai bạn nói quanh đi quẩn lại chuyện nắng mưa Sài Gòn – Đà Lạt. Rồi, cuối cùng Thạnh đằm thắm nhìn Mười mở đầu:

              - Điều rất cần thiết hiện nay Mười nên biết là: Nam có ưu điểm đặc thù, đặc tính duy nhất ấy rất dễ thương đó nhe. Tuy nhiên, làm người mà, ai ai cũng có chút lầm lỡ. Ăn thua là mình có biết sữa sai, và từ bỏ hay không. Phải không Mười. Vã lại, khi thấy một người sắp chết đuối, Mười có chìa tay ra, để cứu vớt họ lên khỏi mặt nước hay không? Nam cũng vậy, anh ta giàu tình cảm, nhưng ẩn dấu bên trong nhiều đợt sóng ngầm và ủy mị yếu đuối. Nam rất cần vòng tay yêu thương và chân tình, mật thiết của Mười chia sẻ; như là một người bạn tri kỷ, một người yêu dịu dàng thấu hiểu, một người vợ yêu thương chịu đựng, thông cảm, tha thứ, hay có thể là như một người chị bao dung.

              Ngừng giây lát, Thạnh nhìn sâu vào mắt Mười mỉm cười tiếp:

              - Thương Mười chỉ cần biết Nam rất yêu Mười, yêu kinh khủng! Có những năm Nam đã vì yêu Mười tha thiết, mà Nam từ bỏ tất cả. Hẳn là Mườii không hay biết, nhưng Thạnh là bạn thân nên biết về Nam khá rõ. Rồi do đau khổ vì Mười, nay Nam sống buông thả, bất cần đời. Âu đó… do Mười có chút phần trách nhiệm. Thạnh nói “có chút” thôi. Không phải là Thạnh muốn “trăm dâu đem đổ đầu tằm” đâu nhe.

              Mười trợn mắt nhìn bạn định phản đối, Thạnh mỉm cười tế nhị và đằm thắm:

              - Mười biết không, bạn gái (ở đây Thạnh nói rất đơn thuần, không có hàm ý gì, đúng nghĩa là bạn gái của Nam à nghen), không phải là ai ai Nam cũng yêu họ, giống như Nam đã từng yêu Mười say đắm đâu nà.
              - Mười nghĩ không đơn giản như vậy. Vì chính thân Mười chung thủy với Nam. Nên Nam khiến Mười thất vọng và đau khổ quá chừng. Niềm tin yêu đã bay mất rồi, thì khó lòng lấy lại được. Thạnh à.
              - Nam và Mười phải có những điểm dị đồng, mới có thể chung sống với nhau trong mái gia đình.

              Thạnh nêu ví dụ đơn sơ nè: Nam là cái ly đựng đầy nước trà nóng ha, thì Mười phải là cái dĩa, để cái ly có chỗ đặt lên điểm tựa, không bị rơi. Mười nên biết Nam là cái ly tràn đầy nước, mà Mười cũng muốn mình là cái ly đầy nước? Thì làm sao lồng trong nhau, úp lên nhau, mà không bị đổ, vỡ, hay tung toé nước đi? Mười phải là cái diã, cái diã để “chịu đựng và bao dung” Nam là cái ly sang ngời: Thì cả hai đều hoà hợp, tương xứng, ấp ủ nhau đêm ngày. Tình cảm tương tựa như thế! Cần có sự khoan dung, nhường nhịn, tha thứ, và đặt đúng chỗ, đúng nơi. Mười à!? Mười đã yêu Nam đến thế, thì hãy đến với Nam bây giờ, không chần chờ… đến khi quá muộn.

              Mười nhìn Thạnh đăm đăm, nàng chưa biết trả lời ra sao cho đúng với tâm trạng mình rối beng. Thạnh cúi xuống thềm gạch bế con chó cún non nớt lên, và nương nhẹ ôm vào lòng, Thạnh vuốt ve vỗ về. Con vật rên ư ử trong cổ họng, và ngủ vùi. Mười nghĩ: “Đối với con vật mà Thạnh có cử chỉ trìu mến đến thế; thì nếu ai có diễm phúc là vị hôn thê của Thạnh, hẳn là “nàng ấy” sẽ rất hạnh phúc”. Thạnh lại cười vui, giọng nói chân thật, ấm áp, nhã nhặn, mang nhiều chí tình hàn gắn cho Nam và Mười. Đó là một người bạn thấu hiểu, thông cảm. Thạnh hạ giọng:

              - Tình yêu của Nam cũng vậy thôi. Nam giàu tình cảm, nếu không muốn nói là anh ta rất đa tình, nên có lúc Nam cũng sơ ý. Làm sao anh ta chứa đựng trong tim cho hết, phải vương vãi ra ngoài ti tí. Mười à! Gọi là nhỏ giọt chút xíu. Còn lại tất cả tình yêu trong đời Nam, hay nói thực tế vui vẻ hơn, thì tình yêu trong ly men hạnh phúc của Nam - vẫn đặc biệt riêng dành cho một mình Mười mà thôi. Thạnh biết chỉ có Mười mới xứng đáng được Nam yêu đến thế. Nam đã vì yêu Mười mà bỏ ngang ở đại học Y khoa. Mặc dù Nam học giỏi. Rồi…, một ngày nào đó, Mười sẽ thấy Mười quyết định xa Nam, là lỗi lầm dại dột. Thạnh biết Mười vẫn yêu Nam, cho dù sau nầy nếu Nam có lấy người khác, nghĩa là Nam sẽ lấy vợ, nhưng Thạnh tin chắc là Nam không bao giờ quên Mười, có thể là Nam không quên Mười cho đến chết đó Mười. Cũng như Nam rất đau khổ khi xa Mười. Nam yêu Mười nhiều lắm. Mười có hiểu không hi`?

              - Không đời nào. Mười vẫn hận Nam.
              - Đó đó… đó. Bằng chứng tình yêu là mối hận lớn lao, khi chưa đạt đến tuyệt đỉnh cảm thông. Qua thời gian, sau những dằn vặt, đau khổ, dày vò, cay đắng, do mình cứ tưởng khi chẳng còn gì, là mình chỉ còn thù hận nhau, thì cuối cùng tình yêu giữa hai người vẫn đong đầy. Lúc đó, Mười sẽ rõ và càng yêu Nam hơn hết.

              Thạnh nói chuyện ân cần, sâu sắc, khôn ngoan, dí dỏm, lịch lãm và tế nhị thế đó. Nhưng Mười chỉ một mực lắc đầu phản đối. Mười không thể tin Nam, và chẳng muốn níu kéo anh ta nữa.

              - Mười không tin.
              - Nhưng đó là sự thật.
              - Thời gian sẽ trả lời.
              - Đúng thế! Mười à.

              Nam đã đi dạy kèm xong, và trở về nơi phòng khách, chàng đang đứng bên ngôi nhà xưa, Nam dừng lại bất động trên bậc thềm. Đã hằng trăm lần Nam đặt những bước chân hân hoan, vui vẻ lên những bậc thềm nhà nầy rồi ấy nhỉ? Ôi! Dường như Mười thấy được những dấu chân hân hoan tung tăng ấy, có nốt nhạc tình du dương ở mỗi bậc thềm nhà dã cuống quýt gọi mời nhau. Hai anh em thân ái ưa tung tăng ra vườn hoa, cùng đến nằm trên thảm cỏ thông nâu vàng bồng bềnh trong ngôi biệt thự. Mười và Nam tay nắm tay cùng chạy lên trên những bậc thềm. Và, ngày ngày đêm đêm Mười có thể mỉm cười cúi xuống, trìu mến vuốt ve từng vết giày của Nam ấm áp, trữ tình, thân thiện xiết đỗi vừa vô tình hồn nhiên dẫm lên đó. Nhưng, khi Mười ngước nhìn lên khuôn mặt Nam xa vắng đượm u buồn khó tả kia, bỗng vết thương trong lòng Mười đang cố đè nén lại bấy lâu, nay được dịp bùng lên mạnh mẽ, sôi sục điên cuồng. Mười cảm thấy tối tăm mặt mũi, vì những “cú đá tháu cáy” quặn thắt lòng xưa; như thể ai vừa thọc thanh lửa đỏ qua trái tim nàng cho ứa máu.

              Mười thất vọng buồn phiền cúi mặt xuống, dõi mắt tìm những vết chân nơi bậc thềm hoang dạI rong rêu. Tay Mười run run, thân cơ hồ không đứng vững, giống như đôi chân của em bé chập chững dò dẫm từng bước đi. Mười lại cúi tìm kiếm những vết giày xưa đã trìu mến thân thương ngày tháng cũ. Mười muốn tìm lại những bước chân Nam từng gây xôn xao nỗi nhớ làm dại lòng Mười. Nàng tìm những bước chân Nam trìu mến vô vàn yêu thương ngày tháng cũ, bước chân Nam tuy vô hình vẫn quấn quit không chịu phai mờ trong tiềm thức, trong tư tưởng Mười. Nàng thở dài rất nhẹ.

              Trước khi hai ngườị chia tay Mười để ra về, Thạnh khôn ngoan hóm hỉnh chậm bước đi giữa Nam và Mười. Thạnh vòng tay ôm cổ hai bạn, Thạnh nói cho Nam và Mười nghe:

              - Thạnh biết: Đau khổ. Muộn phiền. Thất vọng. Chán nãn. Không trách vụ làm Mười và Nam đắng cay, thù nghịch, tuyệt vọng thêm. Thạnh hy vọng những lời chân tình nầy, sẽ khiến anh chị suy nghĩ chính chắn, và sẽ yêu nhau tha thiết hơn ngày đầu. Thạnh xin cầu chúc anh chị vượt thắng mọi chông gai, thử thách, để đạt đến đỉnh hạnh phúc vô ngôn nầy. Lúc đó, Nam nhớ viết thư qua bên Bỉ, báo tin mừng cho Thạnh biết nhé. Lên thăm Mười lần nầy, Thạnh sẽ đi du học mất rồi. Không biết bao giờ chúng mình mới có thể gặp lại nhau đây? Sẽ gặp lại nhau, hoặc chẳng còn cơ hội nào!? Một lần nữa, Thạnh chúc anh chị ở lại hạnh phúc, vui vẻ, yêu nhau suốt đời nhe.

              Nam lẵng lặng âu yếm mỉm cười, hơi bối rối nhìn sâu vào giếng mắt Mười láy đen. Nam chậm rãi đạp nổ máy xe vespa. Mười liếc nhìn Nam và vội vàng cụp mắt xuống tìm dấu chân xưa trên con đường lạo xạo sỏi đá. Mười vụng dại kéo hai cánh cửa cổng lớn nặng trịch, hai tay run run cố gài khóa lại. Mười cay đắng đi thẳng một mạch vào nhà, không hề ngoảnh lại. Mặc dù trong lòng Mười rất muốn quay nhìn. Mười tiếc nuối vô vàn, buồn đau da diết. Vì có thể, đó là lần cuối cùng Nam đặt chân lên thềm nhà mình. Hết thật rồi. Ở chỗ mà ít phút trước đây Nam còn đứng đó: phiền phiền, thinh lặng, im im, dấu giày Nam ấm áp in trên mỗi bậc thềm. Giờ đây dấu giày Nam nhòe nhoẹt tan ra trên những bậc thềm loang lổ sương khuya; dấu giày dị dạng to dần, to dần… to to… và mờ nhoà trong màn đêm quạnh hiu, đầy giá rét.

              * * *

              Sau những ngày tháng nầy khá lâu, Nhi, Yến, Hồng, thường đến nhà an ủi Mười (?!) – một tình bạn hàn huyên, có trước có sau. Mười lắng nghe họ kể về Nam thất tình ra sao với nỗi đau xé lòng. Nam đã bán xe vespa, anh ta lêu lỗng, chẳng học hành, tối ngày anh ta chỉ đi lêu bêu với gái, rượu chè, cờ bạc. Kinh khủng hơn là Nam đã sa vào con đường hút xách thuốc phiện, cờ bạc, nợ nần túng thiếu (!?). Đời chàng xuống dốc thảm hại chưa từng thấy.

              Nhưng với bản tính kiên cường, chịu đựng và che dấu, tự trọng của cô gái nhiều tự ái, Mười khoái trá hất mặt lên cười ngất, mỉa mai nhìn kẻ đối thoại, tỏ ra đắc ý, khi nàng biết Nam đã vì ta mà sống sa đoạ, buông thả. Mười không còn gặp người bạn nào chân thật, hết lòng chia sẻ niềm vui nỗi buồn như Thái Thạnh, mà Mười chỉ toàn nghe những tin xấu càng ngày càng chán, khiến Mười xa Nam hơn. Giữa Mười và bạn hữu như cánh buồm trắng ngoài xa, xa thật xa - Họ dừng lại năm ba phút, rồi nhổ neo đi. Họ ích kỷ, ganh tị, vui cười trong sự đau khổ đó. Thản nhiên trong sự phản bội đó không chút xót xa, bùi ngùi. Tuổi trẻ vào đời sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu. Mười không giận họ, vì cho rằng đó là những sự kiện không mấy quan trọng. Mười đi làm việc ngoài phố, luôn luôn nhìn trước ngó sau dáo dác, nàng rất sợ nếu gặp Nam bất ngờ. Đôi khi Mười cảm thấy mắc cỡ vì đã có một thời mình từng là người yêu, là vị hôn thê của anh ta. Dạo nầy, thỉnh thoảng Mười vẫn thấy Nam luôn cười cợt (anh ta cười thái quá, ấy là điều Nam ít có trong cung cách thực của Nam). Nó sẽ quặn thắt lòng Mười qua những cơn đau kéo dài mãi mãi. Mười kinh ngạc thấy mình lẽ loi ghê gớm. Giữa Mười và cuộc đời là dòng sông chảy nhanh, là bờ đất lỡ mòn. Giữa Nam và Mười là vách đá cheo leo bên bờ vực thẳm hun hút không thấy đáy.

              Ôi càng buồn đau da diết! Buồn làm sao nói được! “Chúng mình” đã không còn may mắn sống với nhau đầy hò hẹn yêu thương, mê đắm trên dòng đời êm ả. Hai người không cùng ngồi bên nhau lặng lẽ ngắm nhìn vết giày hân hoan trên thềm nhà xưa nữa rồi. Đêm về ru đêm dày vò và thảng thốt phai tàn…Tthay vì Mười nằm vật ra giường khóc mềm môi, ướt gối, như Mười đã từng khóc. Hoặc nàng hoảng hốt chạy ra đồi thông sau nhà, ôm mặt nấc lên từng cơn như ngày xưa nàng giận hờn chàng.

              Bây giờ Mười chỉ yên lặng ngồi nhìn tấm ảnh chụp chung thuở hai người làm đám hỏi, (tấm hình bị Nam giận dữ lúc Mười nói lời chia tay, Nam đấm tay xuống bàn, đã vỡ nát mặt kính hôm nào). Mười lấy tấm ảnh ra, từ từ xé vụn từng miếng nhỏ, như xé nát lòng theo ngọn lửa hồng đốt đi hình bóng cũ rất yêu dấu. Nhiều đêm, Mười bất động nhìn ngọn nến nhỏ từng giọt lệ trên chiếc dĩa cạn đèn. Bóng tối bao trùm lên căn phòng vốn dĩ đã lạnh, càng lạnh lẽo hơn. Nỗi đau khổ không thể đến cực điểm để hủy diệt thân, dù Mười đã đang và sẽ đau đớn nhiều. Mười buồn bã nhận thấy mình lặng im đứng lại bên lề đường, giương đôi mắt hững hờ, lạnh lùng, chua xót, có khi tàn nhẫn để tiễn đưa Nam đi vào con đường riêng.

              Chiếc thuyền hoa một lần nữa không tìm được bến đậu vĩnh cửu đích thực một đời. Đây là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong cuộc đời của hai người. Một bước ngoặt lớn kinh khủng đã chia xa số phận hai người rẽ về hai nẽo tách bạch, với toàn bộ đau thương, thống khổ vì yêu đang phơi bày sự lạnh lùng, giả dối. Bức màn mây xám đã hạ xuống hầu kết thúc một chuyện tình mê đắm đầy bi ai, và triền miên. Con đường từ ước mơ đến hạnh phúc thật tuyệt vời xưa kia, nay không thể thực hiện được, nên trở thành từng cơn mơ đau điếng, đã dẫn đến con đường hoang phế, làm buồn lòng nhau kinh khủng! Hai câu thơ sau của thi sĩ nào ghi quá tuyệt, Mười đã quên tên tác giả:

              ”Hứa cùng ta trăm năm ân ái,
              Nỡ đi đâu để bạn đắng cay lòng”!?


              Mùa hè năm sau... Phú cùng các bạn từ Sài Gòn lên Đà Lạt & trọ trong một ngôi nhà nép bên sườn đồi đầy hoa dã qùy mọc tự do nở vàng rực suốt dọc con đường Hai Bà Trưng. Ngôi nhà nầy có hòn non bộ xây ở góc trái hiên ngoài, mặt nước ao tù phủ từng mảng bèo li ti khẽ lay động. Cá bảy màu bơi lui bơi tới uốn lượn trong hồ dần tối lại. Từng đàn kiến đen nho nhỏ, tấp nập tha trứng trắng phóng chạy như điên, kiến leo lên góc cột cao, chui qua trần nhà đen nghịt. Mười nghĩ thầm: “Móng dài trời lụt, móng cụt trời mưa”. Kiến dời tổ lên chỗ cao thì lát nữa đây đám mây sẽ vỡ tan, sẽ có cơn mưa lớn nhỏ, nhiều ít chi đây. Sân có bốn cây mimosa hoa nở đầy cành, từng chùm bông óng ánh vàng tươi, thoảng mùi hăng hắc đặc biệt. Mười yêu hoa mimosa nên không thấy khó chịu. Từng chùm bông vàng tròn tròn đều đặn, mịn màng, êm như nhung, hoa mimosa đong đưa dưới cánh lá nhung lam, xám mốc phớt bạc, hình lá bầu dục trông đẹp mắt. Mười thích hái chùm hoa mimosa, pensée, violette, forget me not, cocorico, ép vào trang sách học trò, để gửi về bạn ở phương xa. Mấy loài hoa kia dễ ép, cánh lá mềm mại, mong manh. Duy chỉ có hoa mimosa và hoa mắc cỡ là khó ép, hoa có chùm nụ chưa nở, nên cứng như cành lá nó cưu mang, làm cộm lên dưới quyển tự điển dày. Do hoa khó tính khó nết vậy, nên nàng thích nâng hoa trên tay như nâng trứng, hứng như hứng hoa.

              Chiều nay Nguyệt, Mười, Nhi, Thương, Vân, Hồng, Lâm Viên, Đào, rủ nhau đến dự sinh nhật Phú. Phòng khách vừa đủ rộng, cửa ra vào, cửa sổ kính, màn voan hồng mỏng che ráng chiều. Ngọn đèn vàng mờ đục, chao lụa móc trên tường toát lên vẻ ấm áp, nên thơ, thanh bình trong căn biệt thự nho nhỏ xinh xinh. Các bạn ăn bánh ngọt, uống trà Tàu, cắn hạt dưa, họ ngồi nhìn Thu Nhi mở màn khiêu vũ với Phú, qua bản “Đêm tàn bến Ngự” của Dương Thiệu. Thu Nhi có nét đẹp kiêu sa, áo dài màu hoàng anh, tóc dài buông thả trên thân hình cân đối, đường nét hài hòa, khuôn mặt xinh xinh, khiến ai cũng muốn nhìn. Lâm Viên đẹp dịu dàng hiền thục như hoa đồng cỏ nội Đế Đô, Lâm Viên hay cười tít mắt, duyên dáng liếm ướt làn môi, giọng nói nhỏ nhẹ, dịu dàng. Mặc dù có ưu điểm thế, thân nhau như thế, nhưng hai cô ấy vẫn khác tính nhau: một cô mê nhảy đầm, một cô nhút nhát ngượng ngập kiểu bồ câu. Nếu chưa biết chuyện riêng tư về họ, suy nghĩ của họ, thì Mười không thể nào tin được đó là hai cô ý hợp tâm đầu. Phải chăng sự tương đắt đó bao gồm cả sự tương thân tương ái, người này cần người kia cái mà mình không có, để bổ sung cho bạn cái mà mình vượt trội. Hai cô gái Huế ấy đã "nhặt được bạn qúy", nên thấu hiểu và thông cảm nhau lạ.

              Mấy bạn trai đến mời Mười nhảy, nàng đều từ chối. Bởi lẽ Mười thấy kỳ cục quá sá. Nói ra thì có thể các bạn cho mình nhà quê, không sành điệu. Thời buổi nầy nhảy đầm là chuyện bình thường, thuộc lẽ tự nhiên khi giao tế lịch lãm ở đời. Nhưng Mười thuộc loại "nhà quê" thật sự, không văn minh tiến bộ nỗi. Lạ hoắc lạ huơ đâu không biết, đến mời nhau, ôm nhau, giậc lui giậc tới, va chạm thân thể tới tấp điệu nhảy cuồng quay nóng bỏng, vòng tay siết chặt thân thể. Ngượng chết người! Gì chứ “mấy pha mê ly hấp dẫn” đó, mãi mãi không nằm trong "chương mục văn nghệ tính" của Mười. Ai chê cười "quê một cục", em xin chịu, xin giơ hai tay lên đầu hàng vô điều kiện.

              Mười ra ngoài hàng hiên, ngồi trên bờ tường thấp xây chung quanh ngôi biệt thự, để các bạn tự do thoải mái và tự nhiên đôi chút. Khoảng giờ sau, ngọn thuốc mãi miết cháy trên môi Phú ra lan can đứng gần bên Mười tần ngần nhìn lên cành hoa mimosa mập mờ trong bóng tối. Mỗi người chìm vào suy tư riêng. Tiếng cười reo của các bạn ở trong nhà nghe vô tư lự, tiếng đàn ca lùi hẳn về phía sau, nhường chỗ cho nỗi buồn nhẹ nhàng, tinh tế len lõi vào hồn Mười, thành nỗi nhớ nhung choáng ngợp lòng nàng. Mãi lâu, Phú buông tiếng thở dài. Mười quay nhìn nét mặt đăm chiêu như dò hỏi. Phú rít dài hơi thuốc cuối cùng, dụi tắt, vứt đi:

              - Sao Mười nỡ đùa dai vậy? Vừa phải thôi.
              - Đùa gì cơ!
              - Anh rất khổ tâm.

              Lần đầu tiên Phú xưng "anh", thay vì vẫn gọi tên nhau. Ngạc nhiên, Mười ngẩn người giây lát, rồi dè dặt hỏi:

              - Về việc gì chứ?
              - Còn giả vờ nữa.
              - Không đâu.
              - Sao Mười gán ghép người mà anh không thích vậy?

              Mười sửng sốt nhưng lặng thinh cúi đầu. À phải! Các bạn đang trêu đùa trong nhà, họ trêu chọc Yến và anh ta đó.

              - Mười nghĩ gì về... Phú vậy?

              Câu hỏi quá bất ngờ, khiến nàng lúng túng xí:

              - Nghĩ gì? Ơ... Phú như bạn thân thương khác. Có lẽ hiểu Mười… Chịu nghe Mười nói. Cùng... muốn học hỏi, trau dồi kiến thức... cho nhau.
              - Vậy ha! Còn gì nữa không! Hở Mười?

              Ngập ngừng giây lát, quay hẳn về phiá Phú, Mười nói:

              - Phú đẹp trai, Yến là kiều nữ, không phải ai Yến cũng có cảm tình đâu. Cho phép Mười nói về Yến như vậy... Nếu ở vào địa vị của Phú, thì Mười sẽ chịu Yến gấp. Yến mến Phú nhiều, Mười muốn nói là Yến có cảm tình đặc biệt đó. Trong cái nền chung của các bạn trai thân quen, Phú nổi bật như ánh chớp nguồn trên nền trời xám đục. Phú có đáp tình là tất nhiên. Điều đó tốt chứ. Yến dễ thương mà!
              - Không đùa chứ?

              Hai cô Đào, Vân ra cửa, họ nghe lõm bõm, nên hỏi:

              - Ê Mười, không nói đùa, thì nói chuyện thật gì vậy?
              - À mình khen Yến... đó mà.

              Được thể, mấy cô gái kêu to lên, chọc phá Yến:

              - Yến ơi! Phú khen mày nè. Gớm! Nó vờ không nghe, lờ đi, mới dễ ghét chứ.
              - Phú nhìn Mười, đôi mắt ánh lên tia trách móc, hờn giận, không có gì tả nỗi. Mười sợ mấy con nhỏ làm Phú buồn, vì anh ấy không biết chúng nó là "bát cô nớ" quậy tưng trời thần sầu đất lở, trẻ không tha, già không thương, Phú chấp nhất họ làm gì chứ. Mười vội giả lả sang chuyện khác. Phú vào nhà, chàng đến bên tủ lấy chai rượu ra, giơ lên trước mặt, cười:
              - Uống tí rượu bỏ quên đời, dông tuốt lên chùa, quét lá đa cho xong.

              Mấy anh chịu chơi hết cỡ thợ rèn rồi! Mỗi anh làm một cái ly nhỏ xíu bằng ngón chân cái, cho ra vẻ ta đây "trai tráng mới nhớn", là dân chơi cầu ba cẳng, lỡ qua sông phải lụy đò, dù có say mút mùa lệ thủy, vẫn OK. Các cô thì "em chã, em chê, em chịu thôi".

              Ngày rồi có lúc tối đêm lại. Cuộc vui dù nhộn nhịp, hân hoan thích thú đến đâu, cũng tàn và chia tay. Giờ chỉ còn những cuộn mây xám giăng giăng, những hạt mưa tròn giọt thánh thót rơi rơi, từ đài hoa mimosa rớt xuống nền gạch lạnh, như muôn giọt thuỷ tinh tròn tròn, lăn lăn ly ti. Trên con đường thấp thoáng mưa phùn rơi, các bạn tiễn đưa nhau, hai ba người đi chung từng nhóm nhỏ. Lễ xỏ tay trong túi quần, đi bên Hồng (có người yêu là cháu chú Cửu Hiền, chú là em họ ba Mười; Vì thế mình bà con tùm lum tà la, bắn mấy phát cà nông, có lẽ mới tới đầu dây mối rễ) và Mười. Đắn đo giây lát, Lễ mở lời:

              - Hôm nay sinh nhật của Phú, mà... nó buồn lắm.
              - Vui chứ! Sao lại buồn?
              - Dễ thương xinh đẹp như Mười, sao Lễ thấy Mười "ác dễ sợ".

              Hồng nghe Lễ nói thế, vội đỡ lời bạn:

              - Làm như Mười ăn thịt, ăn cá, ai không bằng.
              - Nếu nó là cá thịt, cho người ta ăn, có lẽ đỡ đau khổ.
              - Chi lạ rứa?
              - Không lạ. Mười! Phú yêu Mười lắm đó.
              - Điều nầy khiến Mười không vui. Giữa Phú, Mười, có thường viết thư. Lễ biết phải không? Giá như ngày ấy, Phú ngỏ lời ...có lẽ Mười không yêu ai khác. Sở dĩ nói vậy, vì Mười không dấu bạn điều gì. Nay Mười đã gặp và yêu anh ấy...

              Ba người lầm lũi đi qua lối Cẩm Đô. Hồng chia tay bạn rẽ về phiá Ngọc Hiệp. Còn lại hai người, Lễ xỏ hai tay vào túi áo blousson, anh ta đá hòn cuội trắng cho nó lăn từng đoạn trên đường. Khá lâu, Lễ nói:

              - Chưa nghe Mười nói về "anh ấy" bao giờ.
              - Không có dịp gặp nhau, Mười chưa giới thiệu thôi.
              - Dù sao Lễ... không muốn cho Phú biết điều nầy, Phú sẽ thất vọng lắm, và ảnh hưởng không tốt về việc nó thi cử sắp đến nữa.
              - Cảm ơn Lễ. Mười... mến Phú như Lễ vậy. Chúng ta có với nhau nhiều kỷ niệm trong sáng, hồn nhiên, ngọt ngào vô cùng, một tình bạn dễ chịu, dịu êm.

              Tình bạn muôn thuở còn đẹp mãi như xưa, khi họ biết về mình không nhỉ? Thương Mười tha thiết mong tình bằng hữu bất diệt, sống mãi trong mỗi chúng ta. Mười không muốn mất các bạn, cũng như không bao giờ Mười mất Nam. Ôi! Thế mà dường như chúng mình đã thật sự mất nhau rồi. Phương Nam ơi!

              Ngàn hoa trỗi dậy ngậm ngùi
              Đôi ta chẳng thể ngọt bùi bên nhau
              Sương rơi ướt lệ ngàn dâu
              Vòng tay buông thõng dạ sầu bâng khuâng
              Hương xưa mắt biếc
              Có ngờ đâu ngày ấy quá ngại ngần
              Chân xiêu xiêu gió thoảng nhẹ lâng lâng
              Tình cao vợi bủa dâng đầy trăn trở
              Người thương ơi lệ mờ tim vỡ
              Phút dạ hành dệt mộng xót xa
              Lá đung đưa bện gió với sương sa
              Mưa lác đác khẽ là đà rơi tí tách
              Hình bóng cũ bến đò chiều lữ khách
              Gót phiêu bồng ngỏ ngách dấu chân in
              Anh (ngày xưa của…) lặng nhìn!
              Bên tường vy em đứng im… vẫy chào
              Tình yêu dấu ẩn chốn nao?!


              Tình Hoài Hương
              Last edited by khongquan2; 08-03-2013, 08:56 PM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • #52
                Quá Khứ Phản Bội




                Quá Khứ Phản Bội
                (Trại Tù “Cải Tạo” Z 30 Gia Rai - Xuân Lộc)

                Do một số đông thân hữu khẩn thiết nhờ THH tìm anh tù “cải tạo” có tên Long, năm 1982 đã bị tù ở trại Z 30 Gia Rai – Xuân Lộc. Vâng lời bạn, THH xin post bài viết đúng sự thật 100% nầy. Tác giả chỉ biết tên anh Long, tôi đã không thể biết “Họ” và tên đệm của anh Long. Anh Trung-úy Long, tù "cải tạo" ở trại Z 30 B, làm tại tổ than của trại tù. Anh Long được tin mẹ ở Khánh Hội đã chết. Nhưng... sau đó Mẹ anh Long đã đến "thăm con" trong chiếc quan tài. Vậy, nếu tình cờ anh Long (hoặc thân nhân của anh Long) có đọc được bài viết nầy, xin vui lòng nhắn gửi tin trên HQPD nhé anh. Có nhiều anh bạn tù “cải tạo” trong Z 30A + B vẫn ân cần nhiệt thành hỏi thăm tin tức và bệnh tình của anh Long đấy ạ.
                Kính anh Long,
                THH

                trth.hanhphuc@gmail.com

                *

                Từng giòng lịch sử và giòng thời gian dài lê thê vùn vụt trôi qua theo tiếng còi tàu tốc hành hú từng hồi lát gừng, giống như nấc cụt, và con tàu từ từ xục xịch chuyển bánh, khói toả thành một lằn dài ngoẵng, bay mù mịt cả một góc trời, than khói đen đen xám xám kéo theo đoàn va-gông cũ kỹ, xập xệ, lắc lư. Con tàu dường như nhão mục rền rĩ khô khan rung chuyển, hì hục, lết lết, lắc lư rung rinh thụt lui thụt tới, cạ quẹt, rên siết, rọt rẹt nghiến trên hai thanh tà vẹt hoen màu rỉ sét.


                Tất cả những toa xe đều huyên náo, ồn ào kinh khủng, tôi nghe thật nhức óc và điếc con ráy quá chừng! Vẫn những toa tàu chật như nêm chở đầy nhóc hàng hoá cồng kềnh ngổn ngang. Hành khách hỗn độn từ ga Sài Gòn đi về miền Nha Trang lố nhố bu đầy trên bậc cấp, trên mui trần, bên những ô cửa. Họ la hét, xô đẩy, giành giựt chỗ ngồi náo loạn. Nhân đó nạn sờ mó, móc túi, cướp bóc tràn lan trong toa tàu. Dù có tên Tiểu-đoàn đường sắt chống trộm cướp thủ củ súng và cây dùi cui lăm le trong tay, ông ta đập cây dùi cui chan chát trên ô cửa, lớn tiếng oang oang la hét không ngớt, ông chỉ chỏ ra lệnh đóng hết cửa tàu. Cuối cùng ổng đứng áng ngữ ở bậc thang cửa lên xuống tàu, ổng cũng không thể ra oai, mà đành giương mắt trơ ra nhìn.

                Bởi do phần lớn trại tù học tập “cải tạo” mọc lên như nấm mà ra. TÙ! hơn cả chuyện nhà nước quyên góp cứu trợ nạn nhân thiên tai, hoả hoạn, lụt lội. Nhà nước không xây dựng kiến thiết quốc gia, xây trường học, làm đường sá, hay làm những công trình kiến tạo khác. Mà, trên toàn lãnh thổ Việt Nam đâu đâu cũng có “trại Tù cải tạo” khổng lồ! Trại tù đã giết chết bao người trai trẻ, hủy hoại rất nhiều tiềm năng trí thức, xeo nạy nạo vét hết sĩ khí và dũng chí con người. Họ đã bị nhà nước xã hội chủ nghiã láo khoét tuyên bố:
                - Đi học tập "chỉ có" 14 ngày cho thông, rồi về.

                Nên đa số anh em quân nhân công cán chính Việt Nam Cộng Hoà chân thật cả tin; đã bị mắc lừa, bị lọt lưới. Họ đã xô nhau tới đường cùng, đã trở thành những người tù tội bị nhánh tình đoạ đày lưu vong trên chính quê hương. Mặc dù quê hương không bao giờ phản bội con người, chỉ có con người ngoảnh mặt quay lưng nơi chôn nhau cắt rún và phản bội lời hứa. Hàng hàng lớp lớp thanh niên trai tráng bị nhà nước đánh cắp không chỉ là gia sản, tài năng, trí dũng, sức khoẻ, thân phận… tình bạn, tình thân giữa đồng loại, ý niệm về không gian và thời gian từ sự bình thường tiềm ẩn trong những phi thường đã qua. Trơ tráo trắng trợn hơn là tù “cải tạo” bị ăn cắp tuổi xuân-thì và bị lột trần cả về tình yêu – (tình yêu nhìn qua nhiều lĩnh vực và lăng kính: tự tin, dung hòa, tha thứ v.v... trên mọi phương diện). Thế nhưng… quá khứ ngục tù canh cánh bên lòng trỗi dậy; hy vọng mong manh, tự do bị vùi dập, lãng quên, một sự thiếu tình thương và thông cảm từ “phía nội thù” nằm ngay trước mặt. Yêu thương và đồng cảm thì ở chân trời xa tít tắp. Để rồi hắt lại trong đời tù sự đố kỵ, lạnh lùng, câm nín vì chọn lầm chỗ, khi người tù sa cơ thất thế nằm gọn trên đe dưới búa – Hóa ra như chinh nhân chọn lầm một đất nước... mà cấp lãnh đạo ấy chỉ biết dẫm đạp lên mình đồng loại mà ác ôn côn đồ trả thù! Thì đấy:
                Có phải Đảng đã trả thù ác độc
                Dân miền Nam sau khi cướp miền Nam
                Nhãn "cải tạo", mác "khoan hồng, học tập"
                Thực chất giết người quỷ quyệt, dã man?
                (Ngô Minh Hằng)

                Gợi lại trong lòng mọi người bao hoài niệm bi hận về một giai đoạn lịch sử quá đau thương, nghiệt ngã của miền Nam Việt Nam khốn cùng, điêu linh khổ ải và bất hạnh: Họ bị lọt vào cái bẫy sập tinh vi, độc ác, kinh dị nhất thế giới. Hàng hàng lớp lớp thanh niên trai tráng trở thành tù “cải tạo”, vùi dập đời trai đầy dũng khí và tráng kiện như món hàng béo bở, đã ngã giá trong thương vụ quốc tế; qua những túm quà thăm nuôi eo xèo bé xíu đựng mắm muối, đường thẻ, tôm khô, cá khô, bánh thuốc lào, nửa ký đường cát trắng, trăm gram cà phê, v.v…

                Đôi khi sơ ý ngủ gục, vợ con tù cũng bị cướp sạch trơn. Ai vô phước đeo bông vàng, đều bị cướp giật đứt lìa tai, máu chảy ròng ròng. Thậm chí áo quần mặc trong người, nếu cướp coi “bộ đồ gió, bộ đồ vía” polyester mới xỏ vào lần thứ nhất, cũng bị trấn lột trắng trợn. Bạn tôi nói thế mà linh:
                - Tao đi thăm nuôi tù “cải tạo” chính trị, chứ có phải đi vào trại tù “cải tạo” coi ca nhạc, hay đi ăn tiệc tùng gì, mà tao xum xoe diện áo quần lành lặn, bảnh bao tươm tất. Hử? Khi trời tối canh ba, cướp ùa ra trấn lột hết, chỉ còn bộ đồ lót. Có may, thì cướp nó quăng cho bộ đồ rách cụt ngủn, vợ tù đi chân đất vào thăm chồng. Khi đó thì mi nghe nè:
                Ngày xưa ăn nói dễ nghe,
                Bây giờ cẳn nhẳn chua lè khó ưa.
                Ngày xưa thích được mây mưa,
                Bây giờ hạn hán hết ưa tù tì
                Ngày xưa thường sánh vai đi,
                Bây giờ chỉ thích năm ì ...xem phim...
                Ngày xưa nhớ nhau đi tìm,
                Bây giờ mặc kệ ...con chim mất dzồi.
                (*)
                ***

                Bà mẹ chồng và các con trai, tôi, đi tàu lửa chật như nêm, họ nhét bà nội, mẹ con, cháu; ngồi chung với bầy súc vật kêu la đinh tai nhức óc, hôi thối, áo quần bu trét đầy phân heo, phân chó. Gà, vịt kêu quang quác ngổn ngang nhảy lên đầu lên cổ chúng tôi. Khổ nhất là khi chúng tôi đáp tàu chuyến, tàu chợ, xe đò… để vô Xà Bang cách Bà Rịa 28Km về hướng Bắc Đông Bắc, xa Xã Cẩm Mỹ 6Km về hướng Nam. Xà Bang nằm cạnh Liên Tỉnh Lộ số 2, (từ Ngã ba Tân Phong, Quận Xuân Lộc, thuộc Tỉnh Long Khánh) thăm Luật.

                Về sau nầy Luật bị chuyển trại ở Long Giao, vô Z 30. Không có tiền, nên nhiều lần mẹ con bà cháu trụt xuống tàu lửa, hay xuống xe tại ngả ba Ông Đồn, Xuân Lộc, rồi đi bộ ngang qua trại “tù cải tạo” Z 30 C Gia Rai (chúng tôi phải đi ngang qua trại tù Z 30 C ở đồi Phượng Vỹ. Hồi xưa do Trung-đoàn 48, thuộc Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ.) Muốn đi vào trại tù Z 30 A – hay Z 30 B - xa rất xa. Rất xa.

                Mưa ào ạt đổ xuống khu rừng rậm, thế nên thiên nhiên được kỳ cọ rửa sạch cây cối, và những láng trại tù, nóc nhà tôn, nhà lá... Rừng cây trở nên dịu dàng vì vừa qua trận mưa to tắm mát núi rừng. Mẹ con tôi vội vàng lẽo đẽo theo sau những chị vợ tù, mẹ con tù. Họ từng đi thăm nuôi chồng, cha, con, trên đường rừng đồi nương nầy có ngỏ tắt, thì sẽ đốt giai đoạn, sớm vào láng trại tù nhanh hơn, trước khi trời chuyển mưa, hay chóng sập tối. Chúng tôi và bốn con trai cố rảo bước, chỉ sợ chậm lại, thì sẽ bị lạc mất đường đi. Cỏ tranh cao lút đầu bọn trẻ đã cào xướt vô da những lằn dài đỏ tươm máu và rát bỏng. Cỏ may rậm cũng cao gần đến bụng con, bông cỏ xâu vô hai ống quần, chích vào chân chúng tôi ngứa ngáy, khó chịu dường bao. Ve chó, ve đất, châu chấu, cào cào, ruồi trâu và muỗi cứ bay ào lên từng đoạn, mỗi khi chúng tôi bước qua khu đường tắt trong rừng sâu.

                Trại tù Z 30 (là một trong muôn vàn trại tù mọc lên đông đen nhiều vô số, ấy là thành trì cốt cán chặt chẽ, độc ác, tróc khảo lột da con người kinh khủng), do đảng và nhà nước dựng lên, để cai trị tù “cải tạo”. Tù nhân bị dời đổi đi luôn luôn, xáo trộn lung tung tùng phèo lên như thế. Vì đảng, nhà nước, cán bộ rất sợ! Họ không muốn người tù ở lâu một nơi, cùng nhau ở một chỗ. Tù nhân sẽ dễ dàng kết thân với nhau, sẽ bí mật “tạo phản, phục hồi danh dự, và phục quốc, phục quê”. Chả phải trai tráng đi “học tập cải tạo” (Reeducation Camp) gì sớt! mà trăm ngàn tốp tù chuyên môn đi “lao động khổ sai là vinh quang”. Tốp nầy chặt cây, tốp kia lo đào ao, tốp khác phải đi gánh phân, múc nước đái tưới rau tươi đã gieo trồng. Trong lều bên góc trại có dựng lên một lò rèn thô sơ bằng tay, để tù nhân vào đó rèn rựa, rèn dao. Tù phải tự làm thợ rèn dao, rựa, cuốc, xẻng, cào; để đi cuốc đất, trồng ngô khoai đem cho đảng và cán bộ ăn. Tù vác xẻng đi đào mương khai cống rãnh. Tốp tù vào rừng lấy củi, chặt tre đốn cây làm nhà tù, làm thành nhà xong thì tự nhốt mình trong những láng trại xa xôi hẽo lánh: mùa nóng thì nóng lột da, mùa lạnh thì lạnh thấu xương.

                Nơi tiếp tân: trên bàn quản giáo có chiếc hộp để “Góp ý”. Thật ra đấy là nơi dùng để làm “cần câu” theo dõi, đấu tố nhau, điềm chỉ “cho chắc cú thấu triệt” hơn. Nhiều thủ tục đơn từ khai báo lỉnh kỉnh, lẩm cẩm, rườm rà. Cán bộ lấy cây que tăm xe đạp thọc vào, khám xét, moi móc tỷ mỷ những thỏi kem đánh răng, rất lâu. Nhưng, thành thật mà nói thì mẹ con tôi sợ tên quản giáo (mà chúng tôi rỉ tai nhau là bộ mặt “Lucifer”) coi ở phòng khách, sợ gấp trăm lần sợ anh chị nào mang bệnh cùi lở loét. Chỉ sơ suất một cái gì, thì kể như chúng tôi không được cho phép thăm viếng, chuyện trò với chồng, con, cha, gì sớt. Nhưng nói cho cùng, không phải cán bộ trông coi trại giam, là ai ai cũng "ác ôn côn đồ độc ác" cả đâu. Bằng chứng là chỉ có một cán bộ Nhượng đối đãi với tù có khá tôn trọng, từ-tâm hơn nhiều người cán bộ công an Cộng-sản khác.

                Chúng tôi bồn chồn nôn nóng lo âu chờ đợi vài giờ, nhón gót dáo dác nhìn quanh, mẹ con cứ đi ra lại đi vô. Trong hàng rào phân định làm thành mô hình chữ U, là bảy dãy nhà tù lợp tôn, lợp lá đối diện nhau. Phân đôi giữa những dãy tù là khoảng sân vừa đủ rộng. Đi xuống dãy nhà bếp và bốn dãy nhà tù biệt giam. Nơi đây tù nhân bị mang gông cùm lởm chởm, cornex thì ở tít sau mé cùng, các anh bị đọa đày khổ cực, khốn cùng đắng cay, đau khổ vô vọng hết biết. Bị tù không bao giờ biết ngày tuyên án. Chẳng biết lúc nào ra khỏi nơi qủy khóc thần sầu!

                Đoàn tù lần lượt nối gót nhau từng tốp mươi người ra nhà khách. Thân thể họ toát ra những giọt mồ hôi hột, chảy dài từ đầu đến ngực, ướt đẫm lưng áo bạc phơ sột soạt từng đám phong trần. Trong cơn bấn loạn, sợ hãi, và băn khoăn tột độ, chúng tôi dáo dác nhìn quanh, cố tìm khuôn mặt người thân. Tôi lặng người nhìn những khuôn mặt vàng bũng, nhận ra nét cằn cỗi, già nua, hốc hác, bơ phờ và ốm đói mỏi mệt cuả tù, từ những lằn nhăn bên khóe miệng người tù, trên đuôi mắt hằn lún những đường rãnh trên vầng rán cao cao sạm nắng gió khuya chiều, mà bỗng dưng mình bủn rủn. Nhà khách im phăng phắc nghe cán bộ đọc tên tù xong. Thế rồi, mọi nơi, mọi chỗ, mọi người đồng loạt rộ lên tiếng nói rộn ràng lao xao, ríu rít như bầy ong vỡ tổ. Người người bùi ngùi thân thiết mừng rỡ trong nghẹn ngào, nức nở xúc động bồi hồi chào mừng nhau, rưng rưng hỏi thăm, ủi an nhau, vỗ về nhau, tay quệt nước mắt trào lệ, miệng cố mỉm cười méo mó để che dấu nỗi chua cay xót xa, đầy đắng chát tủi nhục vô trong lòng.

                Tôi và Luật ở giữa hai vòng ngục tù quê hương. Chồng tôi ở vòng tù trong địa ngục, và đôi khi anh bị cùm trong vòng tù thứ ba là nơi chuyên giam nhốt ai có “trọng tội”, là bị xiềng xích hai tay hai chân, nơi cùm gông dành cho thứ dữ. Gia đình tôi (nói riêng và đa số gia đình bạn tù nói chung, cùng đồng bào ở vòng ngục tù bao la ngoài chấn song vô hình, khổng lồ đồ sộ... dù rộng bao la mà vô cùng kiên cố). Từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, lan ra tận Phú Quốc, Côn Sơn, đều giống nhau. Trước kia Luật đã ở các trại tù: Suối Máu - Ra Phú Quốc - Về trại Long Giao…vân vân… Sau đó chuyển tới trại Z 30 A. Rồi chuyển qua Z 30 B. Gia Rai – Xuân Lộc. Quả thực, hồi nhỏ ông chồng tôi, có tên cúng cơm rất là dễ sợ, do bố mẹ ảnh đã đặt cho ảnh cái tên: “Phạm Trọng Luật” thật. Nhưng khi lớn lên, Luật đi học đến lớp Nhất, thì bị thầy giáo vui tính gọi bố mẹ lên, thầy ôn tồn nói:
                - Tên gì cụ không đặt, lại đặt cho con cụ có cái tên kinh khủng đến thế. Nếu cậu ấy không có "tội", thì cũng vì "phạm trọng…" mà vô tù, nghiã là đi tù ây.

                Ông thầy giáo “làm phụ thầy bói" như thế mà linh! Nay ảnh đã bị “phạm trọng luật” (!!!, ???), đi tù gần 10 năm bị học tập "cải tạo" sao ta!? Có lần chồng tôi cười cười trêu đùa:

                - Thùy Mến ơi! Anh có muốn đổi tên thật phí, vẫn bị lừa như thường.
                - Mắc gì đổi tên mà bị… ai lừa nào!
                - Thì anh không đổi tên họ, mà vẫn phạm trọng luật, (!?) đi tù, thì xong béng đời trai là cùng chứ gì!

                Chúng tôi hết sức lo lắng về tình trạng bệnh sốt rét của Luật, nhất là đôi bàn tay anh đã lở loét, bàn chân anh làm độc dạo trước, (do bị cán bộ y tế trại kêu anh vào làm thí nghiệm, ông ta lấy con dao bầu cắt rau trong nhà bếp, cứa cứa vào chỗ đau, xịt máu mủ ra. Chẳng có sát trùng, sát triết gì. Không có thuốc tê, thuốc bại gì ráo. Luật đau đến ngất thì thôi). Mặc dù Luật đã ở tù mươi năm rồi, sau nầy mỗi tháng anh đều được giấy cho đi thăm nuôi, nhưng gia đình tôi quá nghèo. Một năm chúng tôi chỉ chia nhau đi thăm nuôi Luật vài lần. Có năm chúng tôi không đi nỗi.

                Cho đi thăm nuôi tù, thật ra nhà nước chẳng ưu ái khoan hồng, tử tế hay tốt lành gì. Cho phép người ở vòng tù ngoài đi thăm nuôi vòng tù trong, chẳng qua là đảng muốn tù ngoài gánh vác đỡ bớt gánh nặng nuôi miệng ăn tù trong. Mặc dù tù “cải tạo” ăn ngày non bữa, bỏm bẻm chỉ có một muỗng cơm lạt độn bo bo hoặc sắn khoai. Do số lượng tù quá sức đông, nếu chiết tính sơ sơ, đảng cũng nát óc điên đầu, nhà nước khó khăn, nan giải trong vấn đề gạo thóc mắm muối của đảng, thì cũng là chuyện không thể. Luật thấy rõ hai túm quà bé tí nị, mà gia đình mang vào cho anh, nhưng quý giá gấp mười lần cá, thịt: Đó là tất cả sức cần lao, đói khát, gian khổ, từ mẹ già răng long tóc bạc. Từ những bàn tay con gầy bé tí xíu. Từ người vợ mảnh mai. Họ đã nhịn đói, nhịn khát, ngỏ hầu góp nhặt từng xu, từng đồng, cố gắng dành dụm cúp nũm, để mang vào tù cho anh ăn tạm qua cơn đói rã ruột.

                Dĩ vãng vinh sang, anh: xe pháo rủng rỉnh, nhà cửa đình huỳnh sung túc an vui thình lình ồ ạt chảy về trong hiện tại đầy ứ, quá khứ phản bội khiến anh xốn xang chóng mặt đến hụt hơi. Vì, chuỗi lao tù cay cực kéo dài trước hàng chữ: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”. Mỗi lần gặp mẹ ruột, vợ, con: mệt mỏi đến thăm, Luật chỉ ôm chúng tôi khóc ròng. Anh khóc, không vì cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Mà bởi anh rõ hơn ai hết, khi nhìn mẹ gầy trơ xương, nhìn vợ ốm yếu, nhìn đàn con nheo nhóc khẳng khiu, yếu xìu, xanh lướt kia đang rưng rưng giọt lệ mừng vui cuống quýt. Luật lặng người nhận ra nét già khú đế trên khuôn mặt mẹ xếp lớp lăn tăn. Anh đau đớn nhìn những hố mắt con thơ trũng sâu. Và, nơi khuôn mặt cô vợ hoa hậu diễm kiều mặt hoa da phấn năm nao, bàn tay búp măng nõn nà thuở xưa, nay “em tôi” có từng đường gân xanh nổi cồn bên thái dương, nơi bàn chân nứt nẻ, tróc lở, ở bàn tay sần sùi của “nàng”! Luật mủi lòng chẳng sợ ai cười chê, anh đã úp mặt vô hai bàn tay nứt nẻ mà khóc tướng lên, như trẻ thơ.
                ***

                Lui cui dọn dẹp mấy bọc ni lông đựng túm xôi đậu xanh, tôi nhồi thêm ít đậu phụng rang vào xôi, để lát nữa sau khi hết giờ thăm nuôi, Luật sẽ xách vô trại, (thay vì Luật và mẹ con tôi ngồi ở đây, vừa ăn vừa nói chuyện, sẽ mất thì giờ, mà không nói được chuyện gì), thì tôi sửng sốt chợt thấy một đoàn hai chiếc xe hơi, từ ngoài con đường đất đỏ từ từ lăn bánh vào, và dừng lại ngay bên ngoài cổng trại Z 30. Trên xe lố nhố kẻ đứng người ngồi, đa số là người mặc áo tang, tôi nghe họ khóc than thảm thiết lắm. Tên cán bộ trại liền ra lệnh cho những người đang thăm nuôi dồn lại ở một cái bàn dài trong góc cùng. Tôi còn ngơ ngác và lo lắng nhìn quanh, Luật thì thầm:
                - Anh Trung-úy Long, tù ở trại Z 30 B, hiện anh làm tại tổ than của trại tù. Anh Long được tin mẹ ở Khánh Hội đã chết. Dù có giấy báo tử, anh Long đã tức tốc xin phép trại trưởng, cho anh về nhà một ngày, để phục tang. Nhưng họ kiên quyết không cho. Nên hôm nay, thân nhân của anh Long đưa mẹ về quê an táng tại Phan Thiết. Trên đường đi về quê, xe tang ghé qua trước cổng trại, họ xin phép trại trưởng cho anh Long ra đứng bên trong cổng, ngay dưới hàng chữ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, để lạy chào mẹ lần cuối cùng.

                Bần thần chua xót và vô cùng cay đắng, khi tôi tận mắt chứng kiến cảnh anh Long xanh lướt, thân thể anh héo hon thất thểu ra cửa trại tù. Anh chập choạng ủ rủ như người mất trí, như người say, anh như thân cây sắp ngã. Anh Long lê từng bước thấp bước cao ra tới bàn quản giáo. Anh run run ký tên vào sổ thăm nuôi. Đôi mắt anh Long sưng chù vù, mọng đỏ. Lúc ấy người nhà mang vào cho anh Long bộ đồ tang trắng, họ quấng lên đầu anh mảnh khăn tang, anh buông thỏng hai tay, đứng bất động như trời trồng. Anh Long để mặc họ xỏ áo thả gấu xỏ quần trắng cho mình như cậu bé con. Hai người thân kè xốc anh Long ở hai bên cánh tay, dìu đưa anh bước thấp bước cao ra cỗ áo quan mẹ lạnh giá. Như cái xác không hồn. Anh Long run rẩy cầm ba cây nhang quỳ xuống mặt đường đất đỏ gồ ghề. Bỗng anh Long khóc rống tướng lên. Nghe thảm thiết lắm. Anh Long sì sụp lạy mẹ và bất thần rệu xuống. Chuyện nầy ai ai trong trại tù Z 30 cũng biết, có thật 100%.

                Bỗng dưng, từ thinh không rót vào tim tôi cảm giác rờn rợn, đau đau, phiền phiền uất ức, nghẹn ngào rất vớ vẩn. Tôi để tiếng lòng ngân trong chiều Thu vẫn hầm hập nóng rần. Dù gió heo may hái lá so đũa rụng đầy sân tù. Ôi! Vô vàn đau xót, chua cay và đắng chát nghẹn ngào, thương tâm dường bao! Những người đi thăm tù đang chứng kiến cảnh não nùng vĩnh biệt ly tan nầy, đều bưng mặt khóc. Nhìn mây trắng bồng bềnh trôi, như từng lọn bông gòn xôm xốp thao thức giữa hoàng hôn đượm buồn, tôi òa vỡ hàng nước mắt chảy ròng ròng xuống má. Cổng đập đã mở toang hoang, mọi nỗi niềm đau đớn được dịp tuôn trào. Tôi khóc cho quê hương lầm than. Khóc vì chồng đoạ đày khốn khổ trong ngục tù. Khóc vì anh Long xa lạ mà quá gần gũi vô vàn thân thiết. Khóc vì mọi nhánh tình lưu vong bi lụy, người tù đoạ đày trên chính quê hương Việt Nam dấu yêu. Khóc mẹ chồng già nua khổ sở. Khóc các con thơ ốm yếu cơ cực đói khát. Và khóc chính thân tôi tàn úa trước thời gian ủ rủ rục rả . Khóc ròng! Chuyện Mẹ Đến Thăm Con trong Tù “cải tạo” cuả Long đã có qua lời thơ của anh tù “cải tạo” Lê Xuân:
                Xưa mẹ đến thăm con giữa chốn lưu đày,
                Thời gian leo lét cháy trên tóc bạc như mây.
                Tình mẹ thiên thu. Nhưng đời mẹ chỉ còn tháng ngày.
                Mẹ thường đến thăn con như mưa xuống cỏ cây.
                Trưa hôm nay nắng nhiều hơn cả gió!
                Có chiếc xe tang phủ đầy bụi đỏ
                Trong chiếc quan tài, mẹ lại đến đây,
                Mẹ lại đến đây giữa chốn lưu đày
                Dù môi mẹ không còn hơi thở!
                Gió trong con nhiều hơn giông tố.
                Dù tim mẹ không còn nhịp thở.
                Đất lung lay, trời cũng xoay xoay.
                Mắt con lệ mờ, hay sương khói xa bay?
                *


                Chúng tôi phải sống thầm lặng, đói nghèo, cơ cực suốt mười tám năm tẻ nhạt, hèn mọn, dưới tận đáy xã hội, giữa sự lạnh lùng, độc ác, phân biệt đối xử đầy bất công. Một sự thiếu thông cảm, không đức độ, trả thù dân tộc trắng trợn chẳng xót thương. Chả vị tha và hoàn toàn không có sự đồng cảm, tương thân tương trợ trong lúc khốn cùng. Thạch sùng tróc lưỡi lỏ mắt nhìn gia đình tù dở sống dở chết, khi đất nước đổi đời. Số phận dân đen vùi dập trong bùn, sau ngày 30 tháng 4 mất nước. Đồng bào ngoài tù đói khổ lầm than. Luật ở tù trong một chế độ phi nhân, tàn bạo, dã man đáng nguyền rủa suốt kiếp. Suốt kiếp! Gây cuồng nộ triệu triệu con tim, làm kinh hoàng thế giới!

                Chao! Trời cao đất dày ơi! Xin Trời ở trên cao ngó xuống. Đất ở dưới ngóng lên. Hai bên giá vai có hai thánh linh biên chép, soi xét: Chứ, chúng tôi nào làm gì nên tội, sao phải gánh chịu cảnh đoạ đày, tù tội oan nghiệt, ô nhục đến thế nầy? Quá khứ chồng chất lên dĩ vãng quá đầy, quá nặng, quá đau. Tôi không thể tom góp ít chuyện đau buồn vào từng ấy nét phác họa sơ sơ, ghi vỏn vẹn trên năm bảy trang giấy, kể hầu quý vị nghe hết nỗi cùng cực, cay đắng, khiếp đảm xiết đỗi trên chính quê hương tôi. Dạ thưa! Không thể! Vã chăng, giờ nầy tôi ghi lại dòng “lịch sử đổi đời”, không mục đích để bôi nhọ làm xấu xí thêm trang giấy. Câu chuyện TÙ “cải tạo” rành rành ra đấy, cũng chả cần phải trách móc chế diễu ai. Tuyệt nhiên tôi không muốn lên án một cá nhân, hay chế độ nào. Tôi xấu hổ khóc thầm cho số phận hẩm hiu, thân khổ-qua con cò lò mò, con rùa cơ cực bẽ bàng quá đỗi đau xót. Thế thôi!
                ***

                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-06-2017, 07:54 PM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • #53
                  Côn Sơn (Côn Đảo POULO CONDOR)



                  Côn Sơn (Côn Đảo POULO CONDOR)
                  còn gọi: Long Range, hay Côn Lôn LORAN)



                  Côn Sơn Loran (Côn Đảo còn có tên gọi là Côn Sơn Long Range, hay xưa kia có tên gọi nữa là: Poulo Condor) với đường chân trời vẫn giao hòa nhịp nhàng thắm thiết cùng biển cả mênh mông bao la. Bầu trời xanh xanh, xam xám, nhàn nhạt, mây trắng cuộn từng lọn bồng bềnh, lênh đênh bơi bơi trong không gian ngút ngàn vô tận. Nước xanh lam đậm và tươi ánh, long lanh lung linh như quyện lẫn hoà tan vào nhau, tạo thành đường viền chỉ bạc óng ánh tít đặm ngàn hải lý nơi chân trời xa mờ xa. Vào mỗi buổi bình minh hay hoàng hôn, mặt trời to to tròn tròn đỏ rực, nhúng lên nhúng xuống nhấp nhô đùa nghịch trong nước quanh Côn Sơn Loran. Mặt trời rạng rỡ vươn cao ánh bình minh, hay ánh tà dương chìm lặn vào chân trời đâu đó, đều quyến rũ tuyệt đẹp và da diết đượm buồm.

                  Côn Sơn an tọa tại vùng Đông Nam Việt Nam, được Pháp thành lập vào giữa thế kỷ 19, do kinh tuyến gốc từ đài thiên văn Greenwich ở nước Anh. Điều 224 trong bộ luật thời vua Gia Long xưa đã ghi: “Côn Lôn ngộ xá bất nguyên” (bị dày ra côn đảo, có đại xá cũng không thể về). Xa xăm! Mịt mùng! Đơn điệu! Lẽ loi!

                  Diện tích đảo Côn Sơn trên tọa độ 8o 40” 57” Bắc & 106o 36”26” Đông. Côn Sơn nằm giữa hai kinh tuyến- đi qua hai trục của trái đất, các điểm trên đó cùng một kinh độ: 106/o và 107/o36’ Đông với Sài Gòn; cùng một vĩ độ 8/o36’ Bắc với Cà Mau. Côn Sơn nằm ở cuối vĩ tuyến 9, trên mặt phẳng song song với xích đạo, nhìn ngang từ chóp Mũi Cà Mau ra hướng Biển Đông. Côn Sơn trực thuộc giám định từ khu Bà Rịa Vũng Tàu, trên đường bay 215km hay 116 hải lý. Tổng diện tích toàn diện khoảng 51, 52km2.

                  Côn đảo là một cù lao khổng lồ hoang vu dầm mình trong đại dương xanh thẳm, lềnh bềnh nhấp nhô bao bọc bởi đại dương bao la, bát ngát sóng vỗ. Bờ biển sạch nước trong veo tuyệt đẹp. Hải âu soãi cánh ríu rít nô đùa, chao lượn trên những ngọn sóng bạc đầu. Gió lồng lộng luôn lao xao rì rào dưới hàng phi lao. Sóng cả xô bờ đập vào những mô đá gập ghềnh, hùng dũng chạy lui chạy tới, tạo thành nhạc biển hùng ca bất tận, triền miên. Xa thật xa, thỉnh thoảng có những cánh buồm trắng nhỏ li ti, nhấp nhô trên sóng nước biếc xanh. Những cánh buồm ít khi vào bến đậu nơi đây.

                  Năm. Tháng. Ngày, giờ ngày cũng như đêm, sóng cuồn cuộn dập dồn, rì rào gió biển dìu dặt, lao xao, lồng lộng. Từ trên phi cơ nhìn xuống vĩ mô, thì dưới những vùng mây lướt mây, trông Côn Sơn giống như một con gấu khổng lồ, dường như nó hờn dỗi phụng phịu quay lưng “làm ngơ” nũng nịu nhìn về đất liền. Một phần “con gấu” đồ sộ ấy choài ra mé biển xanh ngắt, bề mặt “con gấu” ngâm mình trong nước loáng bạc, "nó" hướng ra biển Thái Bình Dương. Mũi trước của Côn Sơn mang tên Con Chim Chim. Mũi sau tên là Cá Mập.

                  Côn Sơn có một phi đạo nho nhỏ duy nhất ở Đầm Trầu chạy dài 10km từ sân bay tới huyện đảo. Sân bay bình thường và đơn sơ không có đài kiểm soát không lưu. Chỉ có vài cột trụ dựng lên mấy cái “ống gió”, cho phi công dễ nhìn xí trước khi đáp, để hoa tiêu định được vị trí hướng gió mà thôi. Ô là là! Muốn di chuyển từ Côn Sơn đi về đất liền, thường thường người ta chỉ dùng phi cơ, ấy là phương tiện giao thông duy nhất nhanh chóng và an toàn tuyệt hảo lúc bấy giờ (1973).

                  Một bên là hàng cây bàng già nua, một bên kia là biển cả mênh mông sóng gợn dập dồn. Làng Cỏ Ống là khu vực gần phi trường. “Con gấu Côn Sơn” cúi nhìn mấy cụm đảo nho nhỏ lân cận của nó là: Hòn Câu. Hòn Bảy Cạnh. Hòn Bông Lan. Hòn Tài Lớn Hòn Tài Nhỏ. Hòn Vung. Hòn Trứng. Hòn Trác. Hòn Tre Lớn. Hòn Tre Nhỏ. Hòn Bà. Hòn Anh, hòn Em. Cộng chung là có hơn 16 hòn đảo nhỏ tí xíu. "Hòn" thì như thế, mà "Bãi" cũng có chút độc đáo qua tên gọi: Bãi An Hải (hòn An Hải). Bãi Lò Vôi. Bãi Đất Dốc. Bãi Ông Đụng. Bãi Đầm Tre giống một cánh tay con gấu vươn chìa ra biển.

                  Trạm khí tượng cạnh hồ Quang Trung. Phi Yến. Hàng Dương... Bên phía Tây của hòn đảo Côn Sơn là: Thị-trấn nhỏ bé trồng rất nhiều cây bàng xanh um rợp bóng mát, đơn điệu, hoang sơ, khiêm nhường với những hàng quán lẻ tẻ, có số ít cư dân sống đời đạm bạc, khép kín. Đi xa nữa sẽ lên những trại giam tù chính trị (là chuồng cọp). Trại biệt giam B2. Dãy nhà cuối cùng khá xa xa dành cho đám tù quân phạm… Những “ông” hạ-sĩ-quan, sĩ-quan, hay quân nhân bị phạt tù, từ 5 năm trở lên, thì ở đây… vân vân... Ai trong những nhóm tù phạm đó, có giỏi Anh-văn, sẽ được tuyển vào đài làm việc, họ sẽ được tự do đi lại trong khu doanh trại, ăn uống đầy đủ. Mỗi tháng họ cũng có ít tiền xài, và được mua sắm thoải mái trong canteen của Mỹ. Thật ra, tuy ở tù mà họ cũng còn “sung sướng” vô canteen ăn nhậu như ở “đường Sơn Quán” thoả thuê ha!

                  Kế đến là hầm Xay Lúa. Cầu tàu 914. Cầu Ma Thiên Lãnh (nghe tên đã thấy rùng rợn bủn rủn cả người). Đến "thành phố buồn” mang danh nghĩa trang Hàng Dương. Đi mãi tận cuối cùng “lãnh địa sầu muộn” ta sẽ đến Sở Củi. Nơi nầy, các tù nhân khổ sai đi vào khu rừng bạt ngàn để đốn củi, chặt cây, đem về cho trại giam. Côn Sơn có một doanh trại kha khá gồm vài ba dãy nhà. Gần văn phòng có mấy căn nhà nhỏ, để cho Trưởng-đài, Phó-đài, chuyên viên Y-tế xử dụng. Một dãy nhà khác dành cho nhân viên Việt Nam.

                  Từ ngoài cổng đi vào, có mấy con đường tráng nhựa. Dãy nhà đầu tiên, là nơi làm việc của đài Phát Sóng, gọi là Loran (Loran gọi tắt của chữ Long Range). Đây là một trong ba điểm tam giác - để quân đội Mỹ định vị toàn bộ vùng biển Đông: Ở ngoài Trung có Tân Mỹ Lo Ran (ở ngoài hòn đảo Tân Mỹ). Phía Nam là hòn đảo Côn Sơn Lo Ran. Và, bên phía Tây có Sattahip (ở trên đảo tại Thái Lan). Nơi đây có những cột antenna cao ngất trời cả trăm mét.

                  Hôm trước cái bóng đèn ở Côn Sơn bị yếu xìu và “đứt bóng”, sau đó liền có một chiếc phi cơ chỉ chở duy nhất một cái bóng đèn, và tốp quân nhân đi kèm trên phi cơ để “hộ tống bóng đèn” từ trong đất liền vùn vụt bay ra Côn Đảo mà thôi. Bóng đèn rất mắc tiền ta không nói, nhưng mà… nhất là nó là "một vật chính" thật quan trọng cuả đài phát sóng. Nó bé xíu có tí ti, nhu mì duyên dáng mà cũng “le lói” kinh khủng chưa nào? Về vụ cái antenna nầy, có một lần bóng đèn trực trên đó bị cháy. Ông Trưởng đài vội vàng lên phòng báo tin với cả đoàn nhân viên:
                  - Suốt ngày nay tôi sẽ bận leo lên cột antenna, để thay bóng cái đèn bị cháy, tôi lắp vào đấy cái bóng đèn mới. Hôm nay tôi bàn giao toàn bộ đài lại cho anh trông coi. Nếu có người liên lạc vô tuyến từ đất liền ra, anh cứ trả lời nhe.

                  Nói xong ông Trưởng-đài mời Năm và Tom (thư ký tiếp liệu) và một anh phi công nữa, cùng đứng đó chăm chú nhìn (chứng kiến để ký nhận). Chính tay Mike mở cái hộp carton ra, có nhiều lớp giấy tốt bọc lại. Mike dè dặt và thận trọng từ từ mở đến mười phút mới xong những lớp giấy. Sau đó, Mike nhờ thư ký tiếp liệu làm biên bản, để mọi người hiện diện chứng kiến đồng ký tên vào, và ông trưởng đài đóng dấu lên tờ giấy, bỏ trong tủ lớn khoá lại.

                  Rồi thì Mike thay bộ đồ phi công màu vàng. Mike mang găng tay, chân đi ủng cao, đầu đội mũ bảo hiểm, vai đeo theo cái túi haversack to nặng. Đó là những sợi dây an toàn. Cuộn dây nhợ lớn móc bên hông quần Mike. Mike tự bước và móc vào cột antenna, anh ta từ từ leo lên. Sau lưng Mike là một ba lô nhỏ, mang cả café, coke, và sandwich anh đã làm sẵn được bỏ trong ziploc. Anh làm việc trên top cột antenna rất lâu, mãi đến 17:30’ Mike vui vẻ huýt gió mới từ từ tụt xuống đất.
                  * * *

                  Gia đình Năm “lủng củng lình xình” chả mấy vui vẻ hạnh phúc tốt đẹp, càng rất đau buồn! Thời gian trước đây, Năm đã được giải ngũ. Ở nhà Năm quá chán bà vợ, bà là dân thiếu học và phổi bò, bà ưa gây đủ thứ chuyện ồn ào trên trời dưới quận. Phần chính do Năm chán nãn chuyện gia đình đến tột cùng. Phần cũng muốn đi xa nhà, Năm nghĩ: “Thà xa nhau, để mà gần nhau hơn. Chứ ở cận kề, ngày nào "ông xã với bà xệ" cũng có... tưng bừng sóng gió, đay nghiến, dằn vặt nhau, thì khổ tâm lắm. Nhất là khi các con còn bé tí, mà tụi nó vẫn biết lo sợ, biết buồn, biết khóc, biết bịt hai tai, mỗi lần cha mẹ chúng hung hăng "hùng hồn" cùng nhau ẩu đả to tiếng.

                  Ngày ngày Năm thất thểu đi tìm một việc làm, tìm mãi… cuối cùng may mắn có được một việc ở công ty điện thoại hãng FEC của Mỹ. May mắn là Năm đã có người bạn làm trong FEC của Mỹ ân cần giúp cho Năm có dịp đọc qua tập tài liệu. Hôm thi trắc nghiệm Anh-văn, ban giám khảo đã hỏi Năm những chuyện hóc búa, ví dụ như Năm phải trả lời. Ví dụ như:
                  - * Trận động đất kỷ lục gây thiệt mạng nhiều nhất từ trước tới nay xảy ra vào năm 1557 ở Trung Quốc. Nơi khu vực nơi người dân sống trong những hang động bằng đá. Núi đá ấy sụp đổ, giết chết khoảng 830.000 người. Một trận địa chấn kinh hoàng khác ở Đường Sơn, (Trung Quốc) năm 1976 khiến khoảng 250.000 người chết. Nơi có nhiều động đất và phun trào núi lửa nhất trên trái đất là quanh Thái Bình Dương, thường được gọi là Vành đai lửa Thái Bình Dương, gây ra các vụ chấn động và nung nóng trải dài từ Nhật Bản tới Alaska và Nam Mỹ.
                  - * Đại dương lớn nhất trên trái đất là Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích rộng 165 triệu km2, lớn hơn gấp hai lần Đại Tây Dương, có độ sâu trung bình là 3,9 km.
                  - * Nơi duy nhất có sông băng chảy qua đường xích đạo là núi Cotopaxi ở Ecuador, có sông băng duy nhất vắt qua đường xích đạo. Dãy núi Mid-Atlantic nằm dưới biển gần như chia đôi toàn bộ Đại Tây Dương từ Bắc tới Nam. Iceland là nơi dãy núi ngầm này nhô lên khỏi mặt biển.
                  - * Điểm tận cùng của nước Mỹ về phía Đông là đảo Amatignak, Alaska. Điểm xa nhất về phía Tây là Pochnoi Point ở Semisopochnoi, Alaska. Điểm xa nhất về phía Nam là mũi phía Nam của đảo Hawaii. Điểm xa nhất về phía Bắc là Point Barrow, Alaska.

                  Năm đã nhớ, nên đã vượt qua giai đoạn thi khó khăn nhất, Năm được tuyển chọn, thì ra họ đã cố ý trắc nghiệm tâm lý, kiến thức và trí nhớ dẽo dai. Được làm việc, nhưng với điều kiện là Năm phải làm việc ở ngoài đảo Côn Sơn. Vui vẻ lên phi cơ bay ra Côn Sơn làm việc, Năm cảm thấy thật hào hứng thoải mái, tự do tung tăng về đủ mọi phương diện. Tuy nơi đây có hoang vu vắng lặng và da diết buồn thật.

                  Ở Côn Sơn không bao lâu, nhưng Năm được nghe, và chứng kiến nhiều chuyện không thể tưởng tượng, thật thú vị. Nói ra chả ai tin nỗi. Vì họ không tận mắt nhìn. Năm và Tiến ở chung một căn phòng xây rộng lắm. Còn những chuyên viên nước khác như: Phi, Đại Hàn, Đài Loan, vân vân... thì ở chung một nhà khác. Mỗi nhà đều có phòng tắm nước nóng, nước lạnh. Phòng có máy lạnh, máy giặt, máy sấy, vân vân... Tức là tuy ở ngoài đảo nhưng đầy đủ tiện nghi như ở đất liền. Có điều là “tụi mình” không thèm giặt, cứ cho đám quân phạm gần đến lúc mãn hạn tù sẽ được phóng thích ít tiền, là xong hết.

                  Còn một đám tù khác phục vụ trong nhà ăn. Có đám phục vụ làm vệ sinh trong phòng ngủ, trong toilet. Họ làm công việc lặt vặt trong doanh trạI để chờ ngày trở về nhà. Ôi! Tóm lại, họ gồm đủ mọi thành phần: Từ những “anh” sĩ-quan ngổ ngáo, từng bắn giết mấy người, đến những “em” binh nhì hung hăng ném lựu đạn cho chết cả sòng bài, để lấy tiền vung vít xài hoang. Cả thành phần đào ngũ, giết người vì giành gái, nóng giận đánh lộn với cấp trên, say rượu, vân vân...

                  Tuy nhiên trong thành phần kể trên, có Trung-úy Kiệm Biệt-kích Dù đóng trên Pleiku, anh ta đã bị tù về tội: Lấy AR-15 thẳng thừng ria một loạt, chết hết ba ông Biệt-động-quân say rượu. Vì, mấy “ông tướng kia” trong cơn say túy lúy chỉ dám vui vẻ lố lăng “xàm-xỡ” với vợ của “ông thầy” (Đại úy chỉ huy trưởng của Kiệm mà thôi)!!! dù họ chưa chắm mút xí nào với và “ngài phu-nhân” ưa phô bộ ngực hở hang quá lố, chưng diện lòe loẹt và đỏm đáng cuả ông thầy. Chớ chẳng phải họ xàm xỡ với vợ của mình. Dù vậy Kiệm bỗng muốn dợt le nổi máu “yên hùng” tào lao chi địa lên cao độ như rứa mới ác! Kiệm bị ra tòa án binh lãnh 20 năm tù giam khổ sai. Cậu ta ân hận thì đã… ra Côn Đảo mà mến Năm.

                  Hằng ngày, Năm làm việc sát cánh Mike, nên cũng rành về các thủ tục quản trị trong văn phòng. Công việc của Năm mỗi ngày ở Côn Sơn là: Kiểm soát và làm Time sheet cho sáu anh nhân viên bảo vệ. Họ đều là người Việt gốc Pakistan, Năm giúp Mike khi có việc cần. Hết giờ là Năm đi ăn uống, nghỉ ngơi, ngồi chơi rung đùi xơi cá tôm, cua, sò ốc biển mệt nghỉ. Cá, tôm, cua, sò ốc, mực nhiều vô số kể núp dưới những tảng san hô, những gầm hang núi ngầm chìa ra biển.

                  Lần sau cùng, khi trở ra Côn Sơn, Năm bị chứng ói ra máu, nên Năm báo với Mike (trưởng cơ quan nầy). Ông Mike vội vàng gọi nguyên một chiếc phi cơ vận tải, loại C-47 dakota từ Sài Gòn bay ra Côn Sơn, để khẩn cấp chở Năm đi về đất liền. Người Mỹ thật qúy trọng nhân mạng, dù Năm chỉ là một nhân viên. Năm nằm trong bệnh viện Hoa Kỳ Trird Field Hospital, chụp X-Ray, và làm đầy đủ thủ tục y khoa cần thiết, chờ điều trị. Năm bị loét bao tử, có một vết to bằng đầu ngón tay, nên nằm đó điều trị hai tháng.

                  Thời gian nằm bệnh viện, ngày ngày bà xã vào thăm đã đành. Còn có con bồ cũ tên Thu ghé thăm Năm. Có lần con nhỏ bồ đang tỷ tê nói chuyện hủ hỉ ôm hót, hôn hít, khóc lóc về cảnh gia đình nó cho Năm nghe… thì bà xã Năm lù lù xuất hiện, la lối mắng nhiếc um sùm, khiến con nhỏ xanh mặt lủi mất. Năm thì mắc cỡ đứng thộn ra chịu trận lôi đình.

                  Khi Năm khoẻ lại rồi. Lẽ ra, thông thường thì Hãng FEC cho mình nghỉ việc. Nhưng nhờ Năm đã siêng năng làm việc; đồng thời được sự “gởi gắm” của Mike, ông ta chứng nhận Năm làm việc giỏi, ăm lại quen thân với một trưởng phòng người Việt Nam. Nên chàng được nghỉ phép và ăn lương hai tháng. Trở lại Hãng FEC, họ cho Năm vào làm tạm “gác cổng” ở văn phòng chính tại đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Tuần sau, họ đổi vào Năm làm “trợ lý” cho một người nữa, Năm lo đi lên đi xuống, ra vào phi trường Tân Sơn Nhứt.

                  Gần cuối tháng 4-1975, Năm lấy xe Van của bà bồ già tên Tư Râu Rậm để đi làm một cái bản đồ, trong đó Năm ghi rõ tất cả địa chỉ, nơi mà nhân viên Mỹ đã và đang ở tại Sài Gòn và các Tỉnh phụ cận ở miền Nam Việt Nam. Thường thường người Mỹ ở tập trung, họ thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay ai có vợ con đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng và ở cách xa nhau. Khi hoàn thành xong công việc, và giao cho “xếp”, cũng là lúc Năm đã biết về chiến dịch “White Christmas” – Nghĩa đen là “Chiến dịch di-tản người Mỹ”.
                  Năm vẫn ung dung và dửng dưng vì Năm chỉ thích sống tại Việt Nam!
                  Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông “xếp” gọi Năm:
                  - Tôi sẽ ra đi về Mỹ gấp đây. Bây giờ, cái công ty nầy là thuộc về anh.
                  Năm chỉ cây dù cuả ông xếp lớn dựng ở cuối văn phòng, cười cười:
                  - Tôi không có ý định đó. Nếu ông cho… tôi chỉ xin ông “cây dù đen” kia, để làm kỷ niệm…
                  Năm giống như:
                  “Thằng Bờm có cái quạt mo.
                  Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
                  Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu…
                  Phú ông xin đổi một xâu cá mè
                  Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
                  Phú ông xin đồi một bè gỗ lim
                  Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
                  Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
                  Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
                  Phú ông xin đổi… nắm xôi. Bờm cười” Ha ha ha
                  !

                  _ * _

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-06-2017, 11:01 PM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • #54
                    Tình Lính BỘ BINH…




                    Tình Lính BỘ BINH…
                    Thân mến gửi tặng quý quân nhân QLVNCH


                    Nơi phố nhỏ gần khu chợ xép ở Nghiã Hành, Hoài chán ngán ngồi trong cabin xe GMC, bâng quơ dõi mắt nhìn theo đàn bươm bướm vàng do dự trước giàn hoa thiên lý xanh xanh. Lòng Hoài buồn vời vợi. Hoài nghĩ về đôi bạn: Thu Hoa & Quang-Văn. Anh Văn là thần tượng của Thu Hoa. Hoa thường nói với đám bạn gái:

                    - Đừng nghĩ tưởng Văn là một hạ sĩ quan, chắc là anh học hành chưa tới đâu, mà coi thường anh ấy nha. Là lầm đấy. Lắm người do hoàn cảnh riêng nên chẳng muốn phô chức tước điạ vị như ai. Ấy mà họ có đức tính tốt, khép mình trầm lặng, kiến thức chính xác, hiểu biết, lịch lãm, tế nhị. Anh ấy chưa chắc đã thua ai, hổng thua triết gia nào. Cho nên, bạn đừng ỉ ta có chút kiến thức, mà kiêu căng, coi trời bằng vung. Tâm tư bạn lại nhỏ nhen, hẹp hòi, cư xử hèn hạ, ích kỷ, chẳng giống ai. Đừng vì mảnh bằng, sự sang hèn bên ngoài, lại vơ đũa cả nắm, để khinh miệt người khác. Hỉ!

                    À, Hoa nói có xí có lý! Hoài nhìn Văn mang cặp kính sáng trong, (kỳ thật anh bị cận, chứ không phải anh mang kính để “dợt le” hù loè ai hết) nàng coi anh tăng thêm phần trí thức đạo mạo. Văn có khuôn mặt chữ điền, cằm đôi, ngực nở vai vuông, tráng kiện, mũi cao, miệng rộng. Anh đi chữ bát, cầm đũa tay trái, đánh đàn tay trái, Văn hiểu cũng khiến nhiều người ngồi bên cạnh có chút cấn cái, vướng vít khó chịu đôi chút.

                    Văn và Hoa tâm đầu ý hợp nhiều mặt, họ hứa hẹn yêu thương bền lâu. Hoa thông cảm lính nằm gai nếm mật khổ sở trăm bề; có đâu ra thì giờ nhàn rỗi mà quần là áo ủi thẳng nếp, ngỏ hầu diễu lông nhông qua thành phố. Lính xấc bấc xang bang ngoài chiến trường đỏ lửa. Lính bứt rứt, ngỡ ngàng, ngơ ngác nhìn thành phố tráng lệ, ngó bọn trẻ choai choai, dé dé, xíu xíu lao mình thâu đêm ăn chơi xã láng.

                    Hai bạn trẻ trong thời chinh chiến nầy thì khác hẳn, họ thông cảm thấu hiểu nhau, muốn xây dựng tình yêu trên nền tảng hôn nhân, gia đình ràng buộc. Họ quen nhau từ lá thư “Em hậu phương”, thân gửi ra ngoài biên ải cho anh lính sơn khê nơi tiền đồn biên phòng ngàn dặm heo hút. Giấy mực học trò thuở đó lao xao hình ảnh cô em lớp Đệ Nhị hiền hiền, cúi đầu mơ mơ, tô tô vẽ vẽ chân dung anh lính miền Nam Cộng Hoà Việt Nam vui tính, hiền hoà, thanh lịch và tài hoa trên từng nét chữ con con. Sao mà dễ thương lạ!

                    Văn gật gù ca: Từ khi anh thôi học, là từ khi anh thích aó treillis. Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây. Ngại chăng đêm di hành, và thường khi dừng bước giữa hoang vu. Một thằng ước ao để một thằng khát khao. Còn mình thì nằm đếm sao. Đồn anh bên sông cạn, và hoàng hôn ưa tắm đáy sông thơ. Nhiều tên trong đơn vị gọi đùa anh chiến sĩ của mộng mơ . . . Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em. Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình. Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngaỵ. Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy.

                    Văn ưu tư nhìn vào đáy ca nhôm trống không, lòng cảm thấy ngổn ngang trăm mối cô đơn lạ lùng. Văn ngồi đăm chiêu suốt buổi trên đồi vắng, anh lấy chiếc ba lô sờn cũ kê làm bàn viết, tần ngần giây lát, Văn hồi âm thư cho Hoa: - Em bé ơi! Xin tạ lỗi cùng em qua những hình ảnh em tô son thiếp vàng trên đỉnh yêu thương riêng cho lính kiểng, lính kèn, lính “văn nghệ tù-và”.

                    Thực chất thì anh và các anh lính biên phòng ở góc trường sơn ngàn dặm ngút ngàn xa xôi... cách trở vô vàn ở đây: thật cay đắng, nhọc nhằn, tan nát trăm bề: từ thể xác đến tâm hồn, đó em! Tình cảm vời vợi. Đời sống cộng khổ, bẽ bàng rơi rớt từng khúc, từng khúc một… trên suốt con đò dọc hai bờ quê hương binh biến rồi. Còn gì nữa đâu em! Còn gì nữa em ui mà ngập ngừng, vụng dại run run, thắm thiết trao lời tự tình, hoặc ung dung ngồi trong phòng lạnh, để nắn nót lá thư hò hẹn trăng sao với đời. Buồn tủi, hờn đau biết bao nhiêu. Em bé ha. Em hãy nghe anh tâm sự với em nè.


                    Thế là thư bay đi thân ái, thư bay về hân hoan mỗi lần “hai anh em” trao gửi. Văn vui vẻ mở lòng tan hoang ra đón cô em nhỏ đầy tin yêu, chân thực và trìu mến lạ thường. Thu Hoa dám thực hiện ước mộng: Từ thành phố Đà Nẵng, một mình nàng lên xe đò lắc lư đi ra vùng Quảng Ngãi; rồi từ thành phố xa lạ đó, lần đầu tiên Hoa dám cả gan, bạo phổi, gò lưng đạp xe đạp lọc cọc, cà rịch cà tang lần mò lặn lội từng chặng đường xa rất xa, Hoa tìm kiếm mọi cách để thăm hỏi cư dân về mấy quảng đường lộ mà đi đến Nghĩa Hành, để thăm Văn. Hoa điệu nghệ đèo sau porte bagage quà thổ sản đặc trưng lủng lẳng: Nào là gà luộc. Cá trê nướng lá gừng ngon bá cháy. Đường phổi, đường mía, đường phèn. Ít cà phê. Vài kí cá khô, một kí tôm khô, hai kí mực khô. Hai lố thuốc Basto xanh. Một áo len màu rêu. Vài chiếc khăn mouchoir tự thêu thoang thoảng mùi nước hoa dìu dịu.

                    Lần đầu tiên vừa gặp anh, Thu Hoa lúng túng đỏ au hai gò má, nàng ngượng ngùng cúi mặt lí nhí trong họng e ấp chào hỏi Văn. Thu Hoa e dè, bẽn lẽn, khép nép đi thụt lui sau lưng anh, khiến Văn phảI dừng lạI tủm tỉm cười. Cô buồn buồn báo tin: “Em vừa thi hỏng Tú Tài I”. Thu Hoa càng không quên báo thêm một tin giựt gân:
                    - Em đã đăng vào lính, để có dịp gần anh.

                    Văn đứng im sững sờ, cảm động đến nghèn nghẹn, ngây người, nghẽn ứ hơi thở, anh nhìn Thu Hoa như trời trồng. Anh cảm thấy đầu choáng váng như nghẽn đường máu, nghẹt thở, run run, hai bờ môi Văn khô đét bỗng dị hợm dính lại với nhau, không có giọt nước miếng. Anh lính dày dạn phong trần gan lì nơi chiến điạ mà lại... “nhát gái” quá cỡ. Văn chỉ sợ “em tôi” nhìn thấy hai bờ môi mình khô rốc khô rang, thì… nàng sẽ nghĩ mình chẳng còn “tinh-hoa đàn ông” gì, là mình buồn cả trăm phút! Văn cứ ấp a ấp úng, lúng ta lúng túng và vui mừng, cuống quít bốc trào niềm vui lên tim, muốn bể óc, bể phổi. Không ngờ “em tôi” chí tình, nhân hậu, và sao mà “nốp bần”, xinh xắn dễ thương quá đi mất như thế không biết! Văn ngẩn ngơ chưa hết hoàn hồn, mà trìu mến dán chặt bốn con mắt (hai mắt thật và hai mắt kính), để “xung-xướng” lom lom nhìn Hoa cho rõ...
                    Cuối cùng Văn tằng hắng:
                    - Sdney Smith viết: Áo quần che phủ cái xác phàm và tô điểm cho nó, nhưng lời văn là phương tiện của tinh thần, thì cũng như… có hề gì chuyện em thi hỏng, hoặc trở thành cô tú tài, hở em! Em mạnh giỏi, là anh vui mừng lắm. Nhất là vô cùng hân hạnh khi anh được gặp em nơi chốn núi rừng hoang dã nầy.

                    Văn ngây ngất, hiu hiu, ngây ngây, dại dại, ngố ngố ngáo ngáo với hạnh phúc bất ngờ ập xuống chiếc đầu lơ thơ tóc không nón sắt. Hình như ông Trời ưu ái đã rót từ thinh không xuống cho Văn: đời lính trơn cơ cực có một giấc chiêm bao diễm ảo thiên đường lồng lộng, thênh thang. Thật vu vơ mà thoải mái quá chừng chừng, khiến Văn chẳng kịp hoàn hồn thiệt!!! Văn cúi đầu cong cong lưng áo lính bạc phếch phong sương, để đẫy chiếc xe đạp cuả Hoa lên dốc đồi thưa. Văn lúng túng dựng xe bên vách nhà tiền chế. Anh loay hoay xách mấy món quà lỉnh kỉnh vào doanh trại, lòng vui vui, mừng mừng, dậy hân hoan trên đôi má Văn rám nắng. Hai tay bận rộn với những món quà, nhưng kỳ thật lòng anh muốn nắm tay hoặc ôm siết eo ếch cuả nàng. Chỉ có cơ hội thuận tiện nầy mới có thể có cơ may chúng mình tự nhiên “ra mắt” và nhanh chóng “thành thân”.

                    Tuy suy nghĩ thế, nhưng còn tay đâu mà “quờ-quạng”. Miệng anh cười toe toét khi thấy lính bạn cùng đơn vị chồm lên khỏi nóc chòi canh, và các bạn anh đứng xớ rớ đó đây trong sân, họ nhìn anh đá lông nheo kịch kịch, búng tay, tróc lưỡi, kêu nhỏ è è è... í í í... iu iu iu… Họ cho hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa vào miệng thổi to: xíp xì… xíp xì... Họ huýt gió, xuýt xoa tán thưởng, trầm trò khen “hai đứa mình” xứng đôi. Họ tha hồ chọc ghẹo chúng ta tơi bời hoa lá. Khi ảnh đã "cu, gù, câu, móc" được cô gái xinh đẹp ở thành phố hoa màu, nàng lặn lội mò mẫm lên tận đỉnh đồi thần sầu tróc lỡ vết đạn bom, dưới vừng mây trắng trời xanh, cỏ vàng héo uá do chiến tranh cào quét ở chốn nầy. Gai mít khô đang đâm vào hông, đâm vào lòng bàn tay rám nắng cuả Văn đã kẹp cứng trái mít dừa. Ấy vậy mà Văn không biết đau, hàng quà không nặng, lòng không phiền. Trái lại Văn cảm thấy thêm sảng khoái, vui cười với hạnh phúc vỡ oà, chất ngất cơn vui. Lòng anh chao đảo lâng lâng bồng bềnh và hẫng bay vút lên chín tầng mây, mà mơ mơ, vui vui, say say... nồng độ dấu ái hoan ca ngút ngàn. Dường như họ đã trao nhau lời yêu thương dìu dặt:
                    Nhắn anh trên tần số cũ
                    Ôi! Cảm động thay vần vũ mây bay.
                    Tình nho nhỏ bến sông này.
                    Cội đào vẫn đợi sum vầy dáng thu.

                    Quyết thề từ nẻo hoang vu.
                    Bao ngày mưa nắng mặc dù ngấn sương.
                    Sóng đùa trên bãi thùy dương.
                    Vầng trăng chứng giám đôi phương một lòng…

                    Anh đi nặng nợ tang bồng.
                    Em về mái lá phòng không đợi chờ.
                    Mai kia dẫu có bơ vơ...
                    Em nhờ gió thổi lời thơ mấy giòng.

                    Anh đi, tựa cửa em trông.
                    Ngày về ngấn lệ lưng tròng yêu thương.
                    Tình xưa nắng ngả bên tường.
                    Đuốc hoa tỏa rạng yêu đương ngát thề.
                    (Tình Hoài Hương)
                    *

                    Nhân tiện có quà hậu-phương do Thu Hoa mang lên hậu hỉ, Văn mời các bạn đi biển Sa Huỳnh du-hí với mình. Cũng là dịp để Văn tiễn đưa Hoa trở về Đà Nẵng. Thế là… vui đùa với sóng nước chán, các bạn lên bờ. Họ đến xe Jeep ôm mấy bọc đựng thức ăn, nước uống, rồi lững thững về chỗ Hoa Văn đang ngồi. Góc trời đang yên tĩnh, bỗng huyên náo tiếng nói cười, ầm ĩ xôn xao hẳn lên.
                    Đan đưa Hoài ổ bánh mì thịt nguội, chàng cười thân ái:
                    - Hôm nay, em phải ăn gấp đôi mọi ngày. Nhe.
                    Đôi mắt sắt hơn dao cau, Nữ liếc nhìn Đan cười gằn. Rồi lỏ mắt nhìn Hoài, Nữ nói:
                    - Bỗng dưng, anh Đan đặc biệt ưu đãi Hoài vậy? Còn em thì sao? Anh Đan làm em đau tim muốn chết. Anh thiên vị à nha.
                    - Hoa láu táu, cười:
                    - Ảnh ga lăng ghê à ta.
                    - Không công bằng.
                    - Ô! Các cô hay nhỉ! Có gì mà thắc mắc nào! Hoài nhớ anh Đan quá, hôm nọ phải ngất xỉu, xe cấp cứu chở Hoài vô bệnh viện đó. Bây giờ, "ảnh cho ẻm" ăn hồi sức mờ. Đừng chúi mũi dùi vào, họ mắc cỡ tội nghiệp nghe.
                    Tâm huýt gió huytt... huyttt..., xíp xì..., xíp xì:
                    - Hãy nhìn Văn và Hoa kìa! Coi họ ăn uống, có khiếp không?
                    - Việc gì đến anh! Tôi sẽ thèo lẽo méc bà xã Tâm cho anh coi.

                    Tâm và Văn là cặp bài trùng, mặc dù so về dáng vóc, tính tình hai người rất đổi khác nhau. Anh đi lính Nhảy Dù chê anh Bộ Binh lè phè lùn xủn, yếu xiều. Ngược lại anh Bộ Binh chê anh Nhảy Dù thân hình cao lênh khênh, ốm tong ốm teo, lại có vẻ lù đù. Đã đeo đá vào người cho nặng ký, thế nhưng dù thả trên trời bay lơ lửng, gió thổi mấy giờ, dù mới rơi xuống đất. Ha Ha Ha!!! Ấy thế mà… tình bạn đầm ấm, thắm thiết, vui vẻ đùa giỡn qúy mến nhau, thực sự cần đến nhau, thấu hiểu mọi giá trị cao qúy, luôn sẵn lòng vị tha, bác ái, không chút tị hiềm. Họ quan niệm về tình bạn thật cao vời qúy giá. Vì, nếu bà con thân nhân ruột thịt có mất lòng, giận hờn, thì vẫn cứ còn là bà con. Tình bạn khi đã mất đi, thật dễ mất lòng, dễ giận nhau, dễ xa nhau, vĩnh viễn chia lìa không bao giờ tìm lại được! Có khi trở thành thù địch không chừng.

                    Tâm nằm trên đồi cát khô, anh vắt tay lên trán trầm ngâm, bỗng nhỏm dậy, anh nói:
                    - Nè Đan, đi biển thế nầy, tôi nhớ ngày xưa ta đi biển với bồ. Anh còn nhớ cô bé có tên cúng cơm là Lé, mà cô ta tự đặt là Lệ Lan, ở trong Thành Nội không hỉ?
                    Nữ chạnh lòng, chợt nghĩ đến tên mình, cô lại hờn giận cha mẹ sao đâu. Mình đã dấu "cái tên qủy xứ" như mèo dấu cứt. Nhưng không biết mấy cha nội nầy có moi ra được không đây? Biết đâu! Tâm là “điệp viên không không Tám” mà! Nữ trợt mắt, hờn dỗi ngắt lời Tâm:
                    - Anh Đan ngồi bên em, mà anh Tâm nhắc tới người xưa. Nghe kỳ quá! Em không chịu đâu.
                    - Anh xin nói em không có người yêu ở đây. Và các anh có quyền nhớ chứ?
                    - Anh thật lầm. Em có người yêu ở đây rồi, anh à.
                    Tâm quay hẳn người lại, nhìn Nữ, cười ha hả:
                    - Lạy trời, không phải là tôi.
                    - Ai yêu anh, cứ tưởng bở. Em yêu anh Đan thôi!
                    Tâm nhún nhẹ đôi vai, nhìn Đan tủm tỉm cười. Đan nói:
                    - Cảm ơn em. Đừng đùa dai hại tim! Anh không dám nhận đâu.
                    Quay qua Tâm, Đan vui vẻ trả lời:
                    - Nhớ... Sao bạn?
                    - Á...à à! Tôi nhớ khoảng ấy mình mới trạc tuổi mười lăm, đã học sơ sơ về cách làm văn, thơ. Dạo ấy tôi có phần ba trợn, vì còn con nít mà ranh qúa đi, nên bị ba bắt qùy bên góc phòng. Tôi sụt sịt khóc, thỉnh thoảng quệt nước mắt nước mũi vào tay áo. Hai tay xoa xoa mông đít, nơi có mấy lằn roi nổi lên ran rát, thì ba viên bi kêu lạo xạo trong túi quần. Tôi ấm ức khóc khản cổ, nên mỗi lần cất giọng, tiếng nói của tôi khàn khan, y như con vịt xiêm la đực. Mấy thằng bạn cùng lớp láu cá cứ lêu lêu chọc quê tôi “đã lên cơn sung-sức” nhỏ ranh mà biết yêu sớm hoài. Thật bực mình quê xệ hết chỗ nói.

                    Con chó Liu Liu chạy lại sủa gâu gâu xoắn xuýt bên tôi, nó liếm vào mặt mỗi khi tôi bị qùy. Nó chồm lên người, khiến tôi té ngữa ra nền gạch. Giận cá chém thớt, tôi đứng dậy đá cho nó mấy cái vào ba sườn. Chó kêu ẵng ẵng, cụp đuôi chui xuống bộ ván gụ. Nó nằm thò đầu nhìn ra, lâu lâu chó liếc tôi hừ hừ, rên ư ử trong họng. Đôi má tôi đỏ bừng vì giận, nhưng giận vì lẽ gì? Giận vì bị quỳ gối hay bị chó chồm, đập đầu tôi xuống nền nhà đau điếng. Nó lại nằm đó mà hừ hừ dưới gầm ván, nhìn ra trêu tức mình? Tôi qùy chỗ cũ, hai bàn tay gầy xòe ra cào cào vuốt vuốt, xới xới mái tóc hoe nắng, cho có vẻ mình là nghệ sỹ, thanh niên dày dạn phong trần, phiêu lãng phóng khoáng lên một tí. Nhìn mái tóc in bóng trên tường, tôi khoái tỉ hài lòng hãnh diện cười cười... Quên là ba phạt quỳ về tội trốn học, đi theo sau lưng nàng, tấp tễnh làm thơ con cóc. Tôi đã… “nổi hứng” liền chạy đến bàn viết lấy giấy mực ra, ghi lại bài thơ đầu đời:
                    Ra ngỏ anh vừa trông thấy bóng nàng,
                    Nụ cười kiều diễm nhất làng Mai Trang.
                    Anh vẫn mê vóc dáng em làm ruộng
                    Đời anh tay trắng mộng ước lẫn lộn.

                    Nhưng nhớ nhung từ đôi mắt thu bồn
                    Anh đi về tư lự bén gót son.
                    Tâm tưởng rạng rỡ hồng nhung xinh đoá.
                    Đợi lớn rồi anh ra: dạ thưa mạ...


                    Các bạn gật gật đầu, xuýt xoa tán thưởng khen “thằng nhỏ xí” mà biết làm thơ tình, cũng hay hay. Tâm khoái chí kể tiếp:
                    - Ôi! Sao lúc ấy hồn thơ lai láng, súc tích, đậm đà, ý nhị đến thế không biết! Bạn không biết là tôi xuất sắc nhất trường sao! Có bị mấy lằn roi mây đau điếng thì... cũng đành. Té ra mình xuất khẩu là trở thành thi sĩ ha! Tôi kiêu ngạo kiêu kỳ và vui như điên, nằm bò ra trên nền gạch mà cười nắc nẻ. Chống cằm mơ mộng, tôi suy nghĩ đoạn kế tiếp. Đến đây… văn thơ tắt nghẽn như pháo tịt ngòi. Dù tôi bóp trán cố nặn óc thế nào, nàng thi sĩ vẫn ù lì, không chịu ra lời, cho mình xuất khẩu thành thơ tiếp. "Nàng Thơ" cứ nín khe trong hồn thơ đầy hứng khởi.
                    Nghỉ chốc lát, anh tiếp:
                    - Bỗng ba tôi đi ngang qua. Thấy ba, tôi giật mình, thế là cụt hứng ngay, tôi vội qùy lên quơ tờ giấy đút vào túi quần. Ba nhìn tôi mỉm cười, gật gù. Có lẽ ba tôi nghĩ: "Phạt qùy gối mà nó không đến nỗi tệ. Biết hối hận, đem sách vở ra học bài, làm bài". Nên ba tha cho tôi. Trở về chuyện cũ, tôi yêu nàng chân thật, có lần nhờ câu thơ của thi sĩ nào đã quên tên, tôi tán tỉnh nàng:
                    "Tiếng chuông Thiên Mụ dặn dò.
                    Em đi cảnh vắng hẹn, hò cùng ai".

                    - Rồi sao nữa? Kể tiếp cho Hoa và anh em nghe đi.
                    - Có lần, tôi đứng một bên đường, nhón gót chân nhìn vào nhà nàng, cuồng quay bất khả địch, mặc gió táp mưa sa. Có những đêm tôi đạp xe chạy khắp các ngả đường, rình xem em có đi với chàng nào không? Tôi đứng ngóng cổ nhìn ngược ngó xuôi, tôi bối rối bẽ mười ngón tay riết, chẳng còn ngón nào kêu răn rắc. Tôi lại vặn cườm tay, lắt cổ tay như bứt... lá lìa cành. Thời gian sau, tôi hết là thi sĩ nửa mùa, khi nghe nàng sẽ đi xa, tôi đành chép câu thơ của Tú Xương, kèm trong quyển tập vờ mượn của nàng để học thi.
                    Ta nhớ người xa cách núi sông.
                    Người xa, xa có nhớ ta không?
                    Sao đương vui vẻ, ra buồn bã.
                    Vừa mới quen nhau, đã lạnh lùng!
                    Khi nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng,
                    Khi riêng, riêng cả tấm tình chung.
                    Tương tư lọ phải là trai gái.
                    Một ngọn đèn xanh, trống điểm thùng.


                    Nhìn xuống nhíu mày, đôi mắt Tâm chơm chớp u buồn trong thoáng chốc. Hoài thấy dường như anh có điều gì xáo trộn, xa vắng, âu sầu trong lòng thì phải. Tâm tủm tỉm cười:
                    - Bây giờ thì giữa em và tôi có sông núi, biển hồ dặm trường cách biệt, chia xa nhau như con nòng nọc rụng rơi bỏ mất đuôi lúc nào, chả rõ. Tình cũng tàn, mà chân cũng xiêu. Ừ. Tình chân thật chứ không phải là chân giả như chân ông bộ hành, (mà Trọng đã cán lên dạo nào) à nha.
                    - Bi giờ ẻm đi lấy chồng, thì chân giả rồi. Chân giả mà vẫn bị xe anh Trọng cán cho nát béc ra. Chỉ còn em... yêu anh Đan thật trung thành thôi.
                    Bảy thản nhiên nhìn Nữ nói:
                    - Em tôi ơi! Anh Đan đã có ý trung nhân rồi em!

                    Các bạn lầm tưởng Nữ bông đùa, nên cười vang. Họ vô tư lự như đàn chim biển đậu trên ghềnh đá riả lông rỉa cánh, dưới chớp nguồn rực lên từ góc trời xa. Không ai để ý đến Nữ mặt mày tái nhợt, tay chân run rẩy, trái tim Nữ đập thình thịch trong lồng ngực quắt quay.

                    Hoa nhìn ánh hoàng hôn ửng hồng sắc mây vàng tía, vần vũ ở phương đông. Các đài mây trắng, vàng, hồng, bay rất nhanh, từ đâu ùn ùn kéo nhau về trên biển cả dần dần đổi màu. Chiều tàn trong ráng hoàng hôn mờ đục, như giấc mộng vàng bên dãy thùy dương đã trở thành màu tro, màu nâu tiá ngà và màu ven đêm ấm áp. Trăng bắt đầu mọc lú lên, ngăn đôi đường biển và đường chân trời bằng một vầng sáng quang rạng, lung linh huyền ảo, tuyệt vời. Trời đậm tối theo từng đợt sóng nhấp nhô. Đã mất hết mầu hoàng hôn lãng mạn dịu vợi ven biển, màu xanh thẫm giao hoà giữa biển và trời cao vút. Màu xanh đại dương mênh mông, chen lẫn màu xanh cỏ của rừng núi bạt ngàn ngun ngút lồng lộng ở phiá Tây.
                    _ * _


                    Tình Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-06-2017, 11:22 PM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • #55
                      Từ SÀI GÒN tới RẠCH GIÁ




                      Từ SÀI GÒN tới RẠCH GIÁ


                      Sài Gòn chóa mắt vì đèn điện thắp sáng rực thâu đêm. Tiết trời quang rạng, gió hiu hiu nhè nhẹ phe phẩy mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, không gian se lạnh khi màn sương nhợt nhòa buông lơi. Rồi bình minh ló dạng sau những toà cao ốc tráng lệ, oai sang đứng sừng sững trên các thổ cư: vẫn rạng danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.

                      Bốn giờ khuya chị Ngọc và tôi dậy sớm, tôi nấu nước sôi chờ nguội, để đổ vô bốn chai ni lông to. Tôi nấu ba lít gạo, rang đậu phụng làm muối mè. Chị Ngọc nấu canh mì gói trộn chung với rau muống, và chiên khô cá. Cơm chín, hai chị em lấy khăn ướt mỏng để nhồi cơm nóng thành từng nắm cơm vắt, xắt lát vừa vừa, tôi bỏ cơm vô hộp ni lông mang theo cho mọi người ăn ở dọc đường. Tôi gọi bọn trẻ dậy sớm, cho con cháu ăn chút canh mì gói. Các con cháu còn ngái ngủ, nên ăn rất uể oải. Có lẽ do hôm qua đi bộ nguyên ngày giữa trời mưa, rồi trời nắng chang chang nóng như thiêu đốt, nên bọn trẻ thấm mệt, rã rời, lừ đừ thân xác chăng?

                      Sau đó phụ nữ quét dọn, rửa chén bát nồi niêu sạch sẽ, bỏ vào mấy cái bao cói (hôm trước ông bà trùm đã cho quà). Cô Quy và tôi bưng xách mấy giỏ mùng, quần áo linh tinh. Một lần nữa, tôi soạn mấy túi vải các con (tôi đã may ngày hôm trước). Tôi chọn lọc ra mấy bộ áo quần gọn nhẹ, bỏ vào những túi vải cho các con mang theo thay đổi dọc đường. Những thứ khác tôi đem gửi nhờ ở nhà bà từ, xin cất dùm. Bà từ nói:
                      - Chị cứ để ở bên vĩa hè, không có ai lấy lầm đâu”.

                      Chúng tôi ra đi. Luật một tay dắt bé Bi, tay kia anh xách giỏ cơm vắt, muối mè, khô cá. Bà mẹ Luật mang túi vải bỏ thêm hai chai nước. Tôi bế bé Tồ, một khuỷu tay kia móc thêm hai túi xách quần áo (của tôi và bé Tồ). Bốn gia đình bạn thân là: Ngọc. Quy. Cúc. Bàn; cùng nhập với hai gia đình mới quen là Phương, Tâm; tất cả hăng hái nôn nao vui vui lên đường. Chúng tôi lặc lè đến trạm xe Sài Gòn, kịp lúc có chừng năm chiếc xe bus từ các hướng đi khác nhau, vừa trờ tới. Các anh nhanh nhẹn lùa đám trẻ, đàn bà, lên xe bus đi ra Xa Cảng.

                      Trên xe lác đác có ba người khách. Nhóm chúng tôi ngồi sát gần nhau, người lớn cho trẻ con ngồi trên đùi mình yên ổn xong. Nhìn lui nhìn tới chỉ thoáng chốc thì người và người ở đâu túa ra đông nghẹt, chỉ có người lên xe, không có người bước xuống. Hai hàng ghế kín mít không còn chỗ ngồi, hành khách đứng chật cứng trên lối đi lại.

                      Thật là may, nếu chỉ chậm trể mươi phút nữa, kể như nhóm chúng tôi không bao giờ chen chân lên xe bus nỗi. Quang cảnh tại bến Xa Cảng miền Tây lúc tửng bưng sáng vô cùng náo nhiệt, hổn độn kinh khủng. Những trạm bán vé đông nghẹt người chen lấn ồn ào hơn vỡ chợ. Thế là nạn ăn trộm, cướp bóc, giật giỏ xách, móc túi, bấm dây chuyền, giựt bông tai, bốc hốt, mò mẫm bóp vú... loạn xạ. Dưới đất thì bọn du thủ du thực rượt đuổi nhau huyên náo, đánh lộn, chửi bới inh ỏi cả một vùng.

                      Tới Xa Cảng miền Tây, đàn bà trẻ con nhóm tôi ngồi xép nép, chò hỏ ở một góc kín sát ngoài cửa bến, gần bức tường gạch, (tạo thành một vòng đai tròn sát bên nhau cho bọn trẻ con ngồi ở giữa), các con cháu đứa ngồi đứa nằm gối đầu lên những túi đồ đạc hèn mọn lỉnh kỉnh mang theo. Những người khách đi tới đi lui tò mò đứng lại lỏ mắt nhìn ngó lom lom bầy trẻ bị cái nóng Sài Gòn thiêu đốt, khiến mồ hôi mồ kê chảy ra như tắm.

                      Mặt mày con trẻ xứ Đà Lạt đa số xinh xắn, hai má đỏ au như dồi phấn, mắt to sáng môi tươi (tuy suốt hai tháng nay bọn chúng sống lăn lóc, cực khổ, cù bơ cù bất, thiếu ăn thiếu ngủ, mà còn xinh như vậy!). Nhìn những đôi mắt phượng long lanh phảng phất mặt hồ thu Đà Lạt mơ màng, hai gò má phinh phính nõn nà hồng phấn của các cháu bé, khiến ai cũng thèm cắn một cái ghê! Họ trầm trồ khen bầy nhỏ xinh đẹp là phải! Chúng tôi giữ bọn trẻ chằng chằng, chỉ sợ mình sơ ý, bọn trẻ sẽ bị bắt cóc, thì chết!

                      Mới tửng bưng sáng mà quầy bán vé treo bảng hôm nay “hết vé” rồi!!! Chúng tôi chẳng thấy các phòng vé mở cửa bán vé. Nghe nói ngày mai có thể không có xe đi Rạch Giá. Mấy ông trong nhóm tôi đi đến phòng bán vé ở trạm xe Xa Cảng cứ kiên nhẫn đứng xếp hàng chờ đợi mua vé. Họ đứng mỏi rã rời chân từ chín giờ sáng, mà mãi tới bốn giờ chiều mới mua được vé xe đi Rạch Giá cho ngày mai. Mém chút nữa thì chả còn vé để mua. Vé xe khan hiếm đến độ chỉ bán có bốn năm người đứng xếp ở hàng đầu, đã đóng cửa với ghi chú: “hết vé” Thế là bao nhiêu vé đều tộn ra ngoài bán giá chợ đen, họ chả sợ bể mánh bể mung giữa chợ đời bát nháo! Bà sương phụ háy một cái thiệt dài, cầm loa oang oang nói:
                      - Để tránh tình trạng ứ đọng hành khách, cũng như nạn lưu thông trì trệ, hay kẹt xe. Khi nào những đoàn xe hiện đang chờ trực tuyến đã xuất phát. Thì phòng vé sẽ tiếp tục mở cổng chính, cổng phụ, cho đoàn xe đậu từ ngoài đường cái vào bến, chờ đợi lấy tài.

                      Úi Trời! Cả nhóm bàn nhau là nên ở lại bến xe, ngủ đêm tại nơi nầy. Nếu chúng tôi quay trở về lại nhà thờ Huyện Sỹ, cả “bầu đoàn thê tử” đùm đề lôi thôi lốc thốc toàn trẻ con nheo nhóc, người già yếu đuối và đau ốm, đàn bà lụ khụ, thì quá bất tiện. E rằng ngày mai chúng tôi không thể đến đây. Biết có ra xe bus đúng giờ không? Có chen chân với hành khách để lọt vào cổng Xa Cảng, mà leo lên xe đi về miền Tây không!? Quyết định như thế thật đúng. Vì, sáng hôm sau, thỉnh thoảng tôi nghe thông báo ở trên loa phóng thanh rằng: “Hét vé”.


                      Nhóm phụ nữ yên ổn ngồi trong lòng xe đò cũ kỹ chật như nêm xong, thì đa số đàn ông phải leo lên ngồi trên mui xe, chẳng thể phản đối, hay càu nhàu cằn nhằn la mắng gì! Ai có vé mà không chịu đi chuyến nầy, thì chủ xe lập tức hoàn trả tiền vé lại cho cố chủ. Sẽ có người khác (không ngủ qua đêm ở trạm bán vé) vui vẻ mua vé chợ đen, cao gấp năm lần tiền vé chính thức. Sao không ham. Chờ đợi giá biểu mới phiền toái và lâu lắc. Tự mình muốn cần đi đó đi đây, chớ ai bắt. Thế nên lớp trai tráng ép bụng chịu thiệt thòi ngồi bó gối chút, hoặc ngồi lắt lẻo phơi đầu ngoài trời mưa tầm tã, hoặc nắng chang chang một xí. Cũng đành!

                      Ông tài xế bảo tất cả mọi người xuống xe, chỉ trừ những ông bà già yếu ốm và trẻ con thì được ngồi trên xe. Còn mọi người khỏe mạnh phải đi bộ xuống phà Bắc Mỹ Thuận. Cô Cúc mua cho nhóm mỗi người một trứng hột vịt lộn ủ ở rổ trấu nóng hổi. Các con tôi thấy con vịt chết nằm trong quả trứng, thì quá sợ lắc đầu lia lịa không dám ăn. Tôi mua cho cả nhóm bánh mì thịt, trái cây đủ loại, nào là mận, đào, chôm chôm. Bánh trái, kẹo mứt bán nhiều vô số mà thật rẻ. Thú vị nhất là các em bé bán chim cút lanh lẹ vui vẻ rao hàng:
                      . . . Ăn chim em đi anh.
                      Nè chim em mập lắm.
                      Nè chim em ít lông.
                      Chim em vừa mới lớn.
                      Anh ăn chim em không.
                      Chim em toàn những nạc.
                      Chim em chẳng có xương.
                      Anh sờ đi: toàn thịt.
                      Lại to hơn chim thường.
                      Lại to hơn chim thường.
                      "Ừ, chim em bự lắm.
                      Nhưng anh cũng... có rồi.
                      Anh dừng lại xem thôi.
                      Để anh đi, em nhé".
                      Xe chuyển bánh nhè nhẹ.
                      Cô em còn ghé theo.
                      Chim em, chim rất nhiều.
                      Lần sau anh mua nhé.
                      Nay qua sông Mỹ Thuận.
                      Gặp cây cầu ước mơ.
                      Thương cô em mười tám.
                      Biết tìm đâu bây giờ?...
                      (1)


                      Đoàn xe lại bon bon lên đường xuôi về hướng Rạch Giá. Trùng dương sóng vỗ mênh mông, bạt ngàn nước cuồn cuộn nhấp nhô bên mạn phà to tướng, êm êm. Lần đầu tiên xuôi về miền Nam phồn vinh trù phú, tôi cứ tưởng chỉ có phà Bắc Mỹ Thuận là to lớn sầm uất thôi. Nào dè, một lần nữa tài xế gọi mọi người xuống xe, để qua phà, thì tôi càng sửng sốt mở rộng tầm mắt nhìn phà Bắc Cần Thơ bao la, bát ngát, mênh mông sông nước rộng kinh khủng! Bờ nầy và bờ kia xa tít mờ xa ngàn trùng. Đúng là:
                      “đi cho biết đó biết đây.
                      Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”.


                      Đặc sản nổi tiếng nhất vùng là Bưởi Năm Roi múi to nhiều nước và ngọt lịm. Vú Sữa Lò Rèn vỏ mỏng hột nhỏ, khi trái vú sữa chín thì vỏ giống màu cẩm thạch, ruột trắng sữa. Có Dừa Sáp Cầu Kè nhiều nước và cũng ngọt lịm. Mít ruột đỏ múi dày giòn thơm ngon, và cả Dưa Bồn Bồn. Vân vân… như câu ca dao:
                      Bánh tráng Mỹ Lồng. Bánh phồng Sơn Đốc.
                      Măng cụt Hàm Luông.
                      Vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn.
                      Anh đây nói thiệt sao em còn so đo!
                      (2)

                      Ôi! Bao nhiêu là quà bánh đặc sản tươi rói ngon lành ở miền quê đều tập trung ở hai bến phà đông đúc, vui vẻ nhộn nhịp, tưng bừng nầy. Chị em chúng tôi chọn mỗi người mua một loại trái cây khác nhau, để mọi người trong đoàn ăn nếm, cho biết vị ngon của lạ trên quê hương.
                      Bến Tre giàu mía Mỏ Cày.
                      Giàu nghiêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
                      Bến Tre biển cá sông tôm.
                      Ba Trì muối mặn Giồng Trôm lúa vàng.
                      Biên Hòa có bưởi Thanh Trà.
                      Thủ Đức nem nướng Điện Bà Tây Ninh.
                      (2)

                      Xe vun vút chạy qua bao nhiêu cầu, bao nhiêu phố xá, ruộng lúa vừa gặt xong còn trơ cuống rạ, vô số cò diệt, le le, bay thẳng cánh ngút ngàn. Vườn tượt kinh rạch làng mạc sông nước hai bên chập chùng. Quê hương mình muôn màu muôn sắc, mỗi nơi có một vẻ đẹp tuyệt vời riêng với mạng lưới kênh rạch chằng chịt. Trên ghe thuyền thương hồ mái chèo tung tăng quẫy nước, vẵng tiếng hò câu ca vọng cổ đó đây, chen lẫn với những cây đàn cò, đàn guitar cùng tiếng trống bập bùng, rộn rịp, bồng bềnh, nhấp nhô trôi theo ghe thuyền sông nước mây trời.

                      Có sông chợ nổi lớn và các mặt hàng hóa treo lên một cây sào cao, hoặc bỏ trong nhiều giỏ cần xế to. Nào là Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ, chợ nổi Phụng Hiệp bán rùa, chim, sóc, kỳ đà… rắn đủ loại quanh năm, chợ nầy rất lớn là nơi tuyệt vời đầy đủ các thứ nhất, và chợ nổi Cái Bè. Những chợ nổi ở miền Nam ...ôi bán mua bạt ngàn đủ loại trái cây, dừa, dưa hấu, gạo củi, rau, tôm cá, áo quần, mùng mền gối chiếu, kể cả các mặt hàng ăn uống nhậu nhẹt như: Bánh cuốn, phở gà, cháo vịt, cơm, bún, vân vân... và vân vân... đều được bán trên sông ròng nước lớn.

                      Lòng tôi cảm thấy nao nao cảm xúc ngọt ngào, dịu nhẹ, lâng lâng, dạt dào, ngẩn ngơ. Hạnh phúc lang thang trong lòng tôi rót tơ vàng trôi theo dáng hoàng hôn hây hây, lung linh, huyền ảo với sóng trường giang rộn ràng đập bên mạn thuyền luyến thương nhiều thao thức. Cảnh vật huyên náo vui nhộn không kém phần đặc biệt thi vị thơ mộng: đã thể hiện vào câu hò, điệu lý, được lưu truyền từ xưa đến nay:
                      Dòng sông thì rộng mênh mông.
                      Áo em lại thắt lưng ong làm gì?
                      Anh từ Xà No đến.
                      Em từ Ba Láng sang.
                      Sợi tình yêu ai dệt.
                      Trên mặt nước mênh mang.
                      Bảy sông dồn nước cuồn cuộn nước.
                      Phù sa lớp lớp quyện phù sa...
                      (2)
                      ***

                      Chiếc xe đò cà tàng, thổ tả, lọc cọc, rệu rạo lăn bánh trên những cục đá dăm khi hoàng hôn nhè nhẹ quệt đường nắng yếu ớt, sóng sánh trên dòng sông mờ mờ, thì chúng tôi thực sự đặt chân về miền Tây bỗng trời mưa thật lớn. Nhóm tôi đã trải qua một đoạn lãng du dài dằng dặc giữa trời đất tĩnh lặng bao la, hoang sơ, lãng mạn trên nẽo đường gió bụi trôi về xứ lạ, nơi vừa cũ vừa mới, vừa họa, vừa phúc, vừa lương thiện, từ bi lẫn tội ác quyện bện vào nhau, mà tôi không ngờ! Nhưng lòng trí ai nấy đều nôn nao, bồn chồn, lo âu thấp thỏm: vì xứ lạ phương xa mà đa số bạn của tôi và tôi chỉ biết ngao du qua sách vở, chứ tôi chưa hề thú vị chứng kiến sông nước ruộng đồng bao la, vườn tượt xanh um bóng mát, như thi sĩ Bùi Giáng đã nói:
                      Chào Lục Tỉnh thu về xuân nức nở.
                      Ở trong cây trong lá ở bên sông.
                      Dòng nước chậm chần chờ con sóng chở.
                      Còn không em? kỷ niệm ở bên lòng!

                      Và:
                      Chưa đi chưa biết Bến Tre.
                      Đi rồi mới biết toàn tre với dừa.
                      Dừa to dừa nhỏ dừa vừa.
                      Trèo lên tụt xuống nước dừa đầy tay.
                      (2)

                      Xuống đến Rạch Giá cảnh vật thôn quê êm đềm tĩnh mịch không kém phần thơ mộng, nhưng đa phần nhà cửa cư dân vắng vẻ, xóm làng quạnh hiu vô cùng, thì nhóm tôi hoàn toàn bị lạc lõng, xa lạ, đơn độc buồn thiu đến độ nào. Chúng tôi líu ríu dắt díu nhau đi tới chỗ lạ cái lạ nước, lạ hoắc, thật lúng túng bất tiện trăm bề. Nhóm người già trẻ lớn bé nầy chẳng hiểu sao lòng cảm thấy bất an, lo sợ, e dè, lấp ló thập thò, kín đáo dè dặt ngó quanh, nhìn trước ngó sau lén lút như kẻ gian, kẻ trộm. Hết cả đám có miệng mà như câm, không ai dám hỏi thăm khi dân địa phương nhìn chúng tôi chằm chằm, xoi mói. Không có bản đồ địa phương, không rành phong thổ cũng như tập quán nơi đây, không thấy xe xích lô, không tìm ra khách sạn hay phòng trọ nào. Thế nên đã nhiều giờ nhóm tôi đi lạc lung tung. Sau đó:
                      Hỏi em, em đã đi rồi.
                      Hỏi chim, chim chỉ mỉm cười bay đi,
                      Hỏi cha, cha chẳng biết gì.
                      Hỏi sư, sư bận vội về tụng kinh.
                      Hỏi cô hàng xóm làm thinh.
                      Hỏi nàng bán bánh cười tình không hay.
                      Nhìn trời một đám chim bay...
                      (2)

                      Duy có điều quan trọng là dù chúng tôi ngu ngơ ngố ngáo nơi quê hương thân yêu, cũng phải cương quyết rứt áo ra đi, phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Đang ngơ ngác, bồn chồn, lo lắng khi trời đã về chiều, mà chân chồn gối mỏi, đúng lúc đó chúng tôi văng vẵng nghe:
                      Đạt là chàng trai yêu xứ Đà Lạt.
                      Anh “pLê mê” đi lính ở Plei-me.
                      Cầu ma bà xã tui đi Cà Mâu.
                      Cây còn xa quê mình nhớ con cầy
                      Lợn sang đồng lo chạy rông Lạng Sơn.
                      Hiền ta ra hiên tà thấy Hà Tiên.
                      Chúng ta hoan hỉ tá chung chiếc thuyền.
                      Ngày mai anh Viễn định xuống Vĩnh Điện.
                      Cao Bằng đau bụng đụng bao căng bào.
                      Trai Hà Giang chỉ cơm hỏi hàng gia?
                      Đi Lai Châu gót chân mình lâu chai.
                      Gái Hà Đông đa hồng hỏi Đông Hà.
                      Cán ngố trên rừng cố ngán không khóc.
                      Con cóc vàng trên đàng bị cán vọc
                      Tớ chổng khu hỏi chủ không chổng khu?
                      Cù Lao Chàm càm ràm chú cào lu.
                      Tên “Plu-kê” chạy rông đi Plei-ku.

                      Chúng tôi tần ngần do dự đứng khựng lại trầm lặng hồi lâu, lắng nghe bọn trẻ choai choai, dé dé, xíu xíu khoảng độ tuổi mười lăm mười sáu, có lẽ là nam nữ sinh học trường Trung–học gần đấy đang ngồi trên sân đình, các em vui vẻ trao những câu “thơ thẩn tiếu lâm dám xướng ngôn vô loại” lên, cười ha hả mà không sợ bị bọn du kích 30 tống giam.

                      Thì trong dạ tôi vui mừng như mở cờ, ruột hớn hở đánh lô tô tưng bừng và nghĩ rằng: “ở đây có lẽ còn khá tự do, dễ chịu, chắc là còn thoải mái yên bình ca hát, ngâm thơ, hát câu vọng cổ... bên sông nước mơ màng” cũng có thể làm cho người lạ xích lại gần kề, thân ái gợi chuyện làm quen, làm thân một cách dễ dàng, cởi mở. Anh Bàn liều đi tới hỏi thăm đám trẻ, các em trai lanh lẹ vui vẻ chỉ lối đưa đường cho nhóm tôi biết: nên đi về hướng chợ nhỏ ở xa xa.

                      Mấy anh dấm dớ dò dẫm qua một chiếc cầu gỗ cũ, tới trạm mua vé tàu thủy, dự định ngày mai cả nhóm sẽ đi Phú Quốc. Chiều tà ở tại Rạch Giá từ bước chân khách lạ cô đơn trên đường chiều, khiến lòng tôi buồn vô hạn, đứng trên cầu gỗ nhìn về phía góc vườn dừa rợp bóng nhà ai sông nước chập chùng. Có chút tâm hồn đa cảm và nhạy cảm... khiến tôi cảm thấy nơi đây thật sự kỳ diệu thanh bình lãng mạn lắm. Lòng tôi càng xúc cảm vấn vương nỗi buồn thê thiết, khi thấy mấy giang thuyền lạnh lẽo lắc lư nằm im ỉm, trơ trọi bên những cầu tàu quạnh vắng, làm thức dậy trong tâm trí tôi hình ảnh dĩ vãng lãng đãng mộng mơ thiết tha thật gần...

                      Nhưng bây giờ đã rời xa... xa mờ xa nơi chân trời mê-hoặc, xao xuyến mông lung bao tiếc nhớ, bâng khuâng lặng lờ nỗi đau sâu thẳm: Đâu rồi những anh thủy thủ phong trần trẻ trung vui tính ưa huýt gió, vui vẻ, xinh lịch oai hùng hào hoa trong bộ quân phục Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trắng tinh? Họ mặc bộ quân phục với niềm kiêu hãnh vinh quang hào hùng trong dĩ vãng? Mặt nước có còn in bóng chàng trai phong sương đa cảm, đa tình đứng trên bon tàu vu vơ nhìn mây trời quyện bện vào nhau xanh bát ngát? Dưới đáy thuyền sóng cả cuồng phong thịnh nộ ngày ấy vỗ nước bồm bộp vào mạn thuyền, đẫy đưa anh lính Hải-quân có cuộc sống hào hoa phong nhã lang bạt vui tươi đi xây mộng giang hồ tứ xứ!? Ý chí của bạn và tôi bây giờ chỉ còn là ảo ảnh: trăng tròn giữa lòng sông lắc léo giòng chảy trên luống đời điệp trùng bóng tối. Tiềm ẩn trong tâm hình ảnh đường chiều nâng ước vọng dâng cao ngút ngàn.

                      Đến gần chân cầu sắt dày cui lót gỗ bên kia trạm vé, thì có một khu nhà tôn chen lẫn nhà lá tồi tàn, nhưng đã đem lại lòng tôi sự ấm áp rộn ràng rạo rực niềm vui, chen lẫn sự xót xa chân thật: khi tôi nhìn cư dân địa phương vất vả, thiếu thốn, nghèo nàn. Các anh vào thuê mấy chỗ trọ. Không phải là phòng trọ như ở nơi khác có phòng riêng sạch sẽ tươm tất, mà lán trọ ở đây giống như khu nhà trống, hoàn toàn không có cửa nẽo, chỉ là những hàng ghế bố cũ mèm nối dài, mái lợp lá dừa trống trơn, hơi giống patio bốn bề lộng gió. Nước mưa lộp độp trên mái lá, bùn đen sền sệt dưới chân ghế bố luôn luôn ướt nhẹp, mốc xì, đen thui, ghế bố có nhiều gián, rận, rệp hôi rình, thậm chí có cả chí mén, chí cồ bò lổm ngổm trên gối. Thế nhưng người ra kẻ vào lội nước lủm bủm vẫn tấp nập ồn ào ngược xuôi đông đúc lắm.

                      Chị Ngọc, Cúc, tôi vội vàng xẹt ra khu chợ xép nhỏ gần xịch một bên, chị em tôi chẳng buồn hỏi khu chợ nầy có tên gọi là chợ gì. Mỗi quầy hàng là một cái chòi bằng tre lợp lá dừa, giống túp lều nho nhỏ luôn kêu kẽo kẹt, nước bùn đen đen đọng dưới chân cột và trên đường nhựa. Quán xá lộn xộn, họ bán đủ thứ: cá, tôm, sò ốc, rùa, ếch... Úi trời! có nhiều con rắn còn sống đang uốn éo thân, cái lưỡi chẽ đôi thò ta thụt vô, cả những chú chuột đồng lông lá lưa thưa có móng nhọn dài to bự sư. Coi thật gớm à!

                      Chị em tôi mua nhiều tôm tươi, cá trê vàng, cá sặc bướm, cá sặc rằn. Rồi day qua hàng khô mua gạo, mua một trái thơm, rau sống, cà chua, mua củi. Họ thật thà hào phóng bán trái cây tươi rói, tính một chục là 16 trái xoài bóng láng, mập ú, thơm ngon. Họ không nói thách, không làm hàng màu mè: không chất thứ to bỏ làm hàng mặt ở trên, trái nhỏ chêm ở dưới thúng. Mà có sao họ bán vậy. Dân quê và dân chợ đa số khá hiền lành chất phác, vui vẻ, chăm chỉ, thật thà. Họ nói ở đây cái gì cũng tươi và rẻ nhất là: cá, tôm... Nhưng họ khó kiếm ra tiền, vì nhà nhà ai ai cũng có cá, có tôm. Thịt ếch và các loại cá ở miệt nầy càng rẻ rề, thì đem bán cho ai đây, để có tiền xây xài?

                      Chúng tôi xin bà chủ nhà trọ cho mượn mấy cái son nồi, để nấu nhờ bữa cơm tối. Bà chủ nhà vui vẻ dễ dãi nhận lời. Chị em tôi xúm lại người nấu cơm, người làm cá. Lớp kho, lớp nấu, chiên xào... Đây là bữa cơm đặc biệt đầu tiên, có thể cũng là bữa cơm cuối cùng tại Rạch Giá. Nhóm chúng tôi ăn uống no nê, dư dả và rất ngon miệng. Sau đó chị em bưng nồi niêu son chảo ra bờ kè rửa ráy, rồi trả lại cho bà chủ nhà tốt bụng. Chị em cho các con ra sông tắm gội sạch sẽ.

                      Khi màn đêm buông xuống, tôi nhìn bên kia kinh lạch tối om vì không có điện, bên nầy ngọn đèn đường tù mù hắt ánh sáng yếu ớt vàng vọt, giống như đèn đêm lốm đốm lập lòe ở khu nghĩa trang. Thiệt cảm thấy quá nãn. Đêm buồn nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên lá, gió lồng lộng rít rít từng cơn, thổi bay tấm mùng vải cũ ố vàng đen đen, khiến cái lạnh càng về khuya càng ngấm xuyên qua da thịt tôi thêm dúm dó và rùng rợn. Bầy trẻ suốt ngày đi đường quá vất vả, nên tắm gội xong, vừa đặt lưng xuống ghế bố, là chúng đã “phè cánh nhạn” ngủ say. Riêng bọn già nầy thì bồn chồn, băn khoăn, lo lắng, không sao chợp mắt, dù chỉ vài phút.

                      Thỉnh thoảng có đám tuần tra đi ngoài đường nói cười rổn rảng sát ngay bên ghế bố nơi Luật nằm. Tôi không biết họ đang oang oang chưởi gì, chưởi ai!? Chưởi số phận nghiệt ngã đã trao cho họ: phải xách súng đi ngày đêm kiểm soát dân; từ buổi giao thời vừa mới có “tự do hạnh phúc”?! Hoặc hắn tự chửi mình ngoảnh mặt làm lơ nhìn người khác hả hê trả thù dân tộc!? trợn mắt sung sướng nhìn đồng bạn tuông trào những lời cay độc, hét to từng tiếng lát gừng thị oai:
                      - Tên gì?
                      - Ai đó?
                      - Đi đâu?
                      - Kiểm tra giấy tờ.

                      Anh em thằng Tùng (con của Ngọc) giật mình thức giấc vì tiếng quát, Thắng xù xì hỏi anh nó:
                      - Mấy ông kia có phải là lính mình không anh Hai? Lính Thủy Quân Lục Chiến mặc đồ đen, quàng khăn cổ bằng lá cờ xanh đỏ, cánh tay ổng đeo băng đỏ, đó anh.
                      - Tầm bậy tầm bạ! Mầy đoán già đoán non, mà ngu như bò! Thủy-quân Lục-chiến oai lắm, họ mặc đồ xanh rằn ri, đội mũ màu xanh cứt ngựa, mang giày đinh.
                      - Vậy à… hay mấy ông kia là người trong đảng ca ca ca chi đó, phải hông?
                      - “Ca ca”… tiếng Tây nôm na là cứt nghen. Còn đảng K K K... là là… thời da trắng ám sát da đen, khi Nam Bắc phân tranh bên xứ Mỹ. Không có ở đây! Biết không?
                      - Thì… thì em thấy mấy ông du kích nầy có khác chi…
                      - Xuỵt! Mầy có câm ngay cái miệng ưa bép xép không!?
                      - Em không biết, mới hỏi chút xíu, anh làm gì dữ vậy!
                      - Coi chừng cái... bản mặt đó. Thấy thì biết.

                      Nghe hai cháu nhỏ “nóng ruột” từ lời nói, còn tôi “lộn ruột ứa gan” từ trong tim! Thành phố khiêm nhường bé nhỏ nầy đã trở nên trơ tráo hơn khi có “quân giải phóng miền Nam” tới với những thứ lạ, thứ mới, có ít thứ tốt và nhiều thứ xấu, lắm thứ dữ: Một ông già chệnh choạng thất thểu bước thấp bước cao, và mấy thanh niên đứng xớ rớ dưới cột đèn mờ mờ. Ông già ấy đã bị móc túi, không còn giấy tờ tùy thân, không có tiền xì ra.

                      Cha con ông cháu nói dai, ú ớ van xin lằng nhằng lải nhải gì đó, liền bị một du kích địa phương dùng báng súng đập ông già bể một mé đầu, vọt máu tươi. Tên du kích ấy bắt ông già bó gối, hai tay đan vào nhau chấp lên đầu chung với đám thanh niên: Khổ thiệt, ở thời buổi giao thời nầy, sao ông dám mở miệng phân bua, với ai hì! Bị thương ngoài da rồi sẽ có ngày lành, nhưng tổn thương trong lòng dù không ai trông thấy (dù chuyện không đáng), nhưng đau dài lâu. Luật tức giận cành hông, anh dợm đứng lên nhảy ra can thiệp, nhưng Ngọc nhanh tay lôi giật Luật, ra dấu im re nằm xuống câm mồm, coi chừng đầu không phải phải tai. Ông lẩm cẩm không nhớ cho:
                      Phong lan, phong chức, phong bì.
                      Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
                      Phong lan ngắm mãi cũng buồn.
                      Phong chức thì phải cúi luồn vào ra.
                      Chỉ còn cái phong thứ ba.
                      Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui.
                      (2)

                      Cổ họng ai nấy đều đắng nghét như ngậm vốc trà khô. Trà đắng có thể không thích nghi với thổ địa bởi tại phong sương, hoặc trà chát, chua, bởi tại tình người? Vã chăng, khi chiều chúng tôi nhìn “mấy tên 30”, hoặc ngó ai ai thì cũng thấy họ tò mò nhìn sững mình không chớp mắt, chả biết đâu là thù, mô là bạn! Nhiều người ra vào ở phòng trọ nầy mặt lạnh như tiền. (Chớ tôi có tật gì mà giật mình)!? Đúng. Một số ít dân cách mạng lâm thời đội mũ tai bèo, mang súng AK trong buổi giao thời, bên cánh tay cột khăn vải đỏ, cổ mang màu cờ nửa xanh nửa đỏ, họ hầm hầm ngó chúng tôi trừng trừng, nhìn muốn nổ con mắt, muốn trợn trừng tráo trưng con ngươi mà ăn tươi nuốt sống.


                      Nếu ví như có những điều tự trong thâm tâm qúy vị đang vui tươi, trong sáng, bỗng một sớm một chiều trở nên sụp đỗ, âu sầu, băn khoăn, suy tư, lo lắng, bâng khuâng ray rứt về cái ngày 30-4; ngày lịch sử bất hạnh là: một giòng chảy không bao giờ chảy ngược lại! Hoặc giả qúy vị hay tôi muốn cầm bút viết lại, nói ra, lượt thuật, lượm lặt sưu tầm đó đây, nhã ý là: do ta chỉ ước mong bộc lộ những uẩn khúc quá đau lòng tự thâm tâm {trong đời sống thực. Có lần tôi đã nói: “tôi không hề lên án ai, xúc phạm ai, bới móc ai điều gì! Cho dù con người ấy, xã hội ấy sau 30-4-1975; đã đả thương tôi đớn đau trầm trọng cách mấy chăng nữa!

                      Tôi rộng lượng bỏ qua & tha thứ. Vâng)}! Thì xin qúy vị tha cho tôi, đừng vội thẩm định tôi khuynh tả hay thiên hữu: Do thân tình ghi lại loạt chuyện (mà bạn TtTm hoặc tôi kể) để con cháu ngày ấy chưa thành nhân, thành danh; ngày nay sẽ hiểu rằng: Tình Đời và Tình Người cần thiết, dù có tiền rừng cũng không thể mua được thanh danh. Hũy hoại thanh danh dù một lần, một ngày làm mất danh dự, nhưng đã lưu lại suốt đời.

                      Nếu tôi hoặc bạn tôi cố chấp, thì chẳng khác nào như con chuột, con dơi vắt mình trên cành: Con dơi chỉ thấy một phần nhỏ xíu dưới cành, mà chẳng thể nhìn thấy cả toàn cây. Con chuột chỉ là con vật loắt choắt tẻo teo, chuyên đi phá phách, hại ruộng hại đồng cây cối nhà cửa, dù nó có uống nước trong, hoặc mò mẫm lặn lội húp nước đục, thì chỉ no được cái bụng bé tí teo. Chuột vẫn là giống chuột lủi tanh hôi, có khi truyền đến ta bệnh dịch hạch nguy hiểm đáng sợ. Chuột nhớp nhúa không thể làm điều gì cao sang, ích lợi cho đời.

                      Bây giờ thì nó có hóa thân làm con chuột hét ra tiếng người cốc lốc, lấc xấc mà thị oai, có hét tướng lên trong màn đêm u tịch, càng khiến người rất sợ hãi, không dám hó hé dáo dác len lén nhìn quanh, mà phải nằm im ru câm họng trong mùng lim dim hi hí ngó trộm. Con cháu tôi nghe, thấy rõ, đã biết sự hung ác kia... thì bây giờ con nên tôn trọng nhân cách sống, cư xử với nhau hòa ái, bao dung, vị tha; vẫn trân qúy đáng ngưỡng phục, hơn sự thô lỗ bạo tàn rợn người.
                      Có miệng không nói lại câm.
                      Hai hàng nước mắt chan dầm như mưa.
                      Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa.
                      Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền.
                      Xuất trình giấy phép liên miên.
                      Chứng từ thị thực ở miền nào qua.
                      (2)
                      Khoảng mười hai giờ khuya, có một toán choai choai dé dé xíu xíu bặm trợn khác lại xồng xộc vô nhà trọ, vếu váo tốc ngược mùng của mọi người lên, chúng giựt giọng gọi những khách trọ đêm dậy để kiểm soát giấy tờ tùy thân. Qua nhiều thủ tục khám xét gắt gao, những túi hành trang vải, (mà tôi đã may hôm 28-4-1975). Họ lừ mắt trợn ngược, hất hàm chĩa súng vô bụng, gặn hỏi khách trọ cộc lốc đủ thứ chuyện không có chủ từ danh từ:
                      - Tránh qua bên kia, đứng xếp hàng.
                      - Trước ở đâu?
                      - Làm gì?
                      - Nay đi đâu?
                      - Đưa coi giấy tờ.
                      - Còn có gì dấu đút ở đâu không?
                      - Có lệnh không được đi đâu hết.

                      Nhóm tôi nói láo: hồi trước gia đình đã sinh sống ở Phú Quốc. Nay có tự do, hoà bình, thì chúng tôi muốn về lại chỗ cũ sinh sống:
                      Trăm năm trong cõi người ta.
                      Ở đâu cũng được đi ra đi vào.
                      Xa xôi như xứ Bồ Đào.
                      Người ta cũng được đi vào đi ra.
                      Đen đủi như Ăng Gô La.
                      Người ta cũng được đi ra đi vào.
                      Chậm tiến như ở nước Lào.
                      Người ta cũng được đi vào đi ra.
                      Chỉ riêng có ở nước ta.
                      Người ta không được đi ra đi vào.
                      (2)

                      Người ta nói: Ông Trời có mắt nhưng do ổng ở xa lắm, nên có mắt cũng như mù! Úi Trời đất thánh thần thiên địa ơi! giờ nầy qúy ngài hiền đức thánh nhân ở trên thiên đình: lo đi rong chơi, ngao du nơi biển sâu sông dài núi cao nào rồi!? Sao qúy ngài không cúi xuống nhìn đám dân giả dưới trần gian của qúy ngài đang rét run, sợ té khói ra đít nè! Đã thế mà trời còn mưa giông gió bão! Khi Trời gieo sấm sét đánh chết người, thì thiên hạ nói:
                      - Do người ấy ăn ở ác, không có đức, nên bị Trời đánh.
                      - Hứ! Vậy chớ ông Trời làm sét đánh chết người, thì không ai nói là ông Trời ác hì!

                      Bốn giờ khuya, toán du kích già dặn kinh nghiệm thứ ba mặt mày đằng đằng sát khí, súng ống lăm le chĩa ra đằng trước ngực khách, đạn lên nòng róc róc róc… rắc rắc rắc... réc réc réc..., ngón trỏ hắn đặt trên cò; họ lại dựng đứng khách trọ ra khỏi mùng, để “hỏi cung”. Chúng tôi sợ mấy cha nội không rành về súng ống đạn dượt, ưa tháy máy tay chân, thích “bụp” liền, thích “đục” , thích “nẻ” bậy vào dân ngu khu đen, thì chết toi cả đám oan đời. Tôi ngồi co rúm, không dám hó hé, xép re im thin thít trong một góc nhà trọ, lẩm bẩm đọc kinh cầu nguyện mà run như cầy sấy. Vậy thì tôi chẳng biết “ai” ác hơn ai hở Trời!
                      Hãy đến bất cứ nhà nào.
                      Chị em không việc cũng vào cũng ra.
                      Thật là ngứa mắt chúng ta.
                      Nhưng thôi cứ để họ ra họ vào.
                      Không thì “cửa sắt” họ rào.
                      Anh em đố có dám “vào” dám “ra”
                      . (2)

                      Một đêm có tới ba lần bị kiểm soát! Tửng bưng gần năm giờ sáng thì tốp dân ở Phú Quốc cặp tàu vô đất liền. Sau đó, cả lán trọ được biết là tù-phạm sau ngày 30-4 ở ngoài Phú Quốc đã phá ngục, có lớp người vượt ngục ra tù về đất liền, họ cầm súng giương oai đi quậy tưng trời, phá phách cướp bóc nhiều nơi. Cả đám di tản chúng tôi đang đứng xớ rớ bên góc cầu, may mắn Ngọc gặp ông ba của anh trên chiếc cầu gỗ lắt lẽo: Ông ba mừng rỡ ôm con trai vừa khóc vừa nói:
                      - Phú Quốc đã có nhiều trại tù nổi loạn. Cướp bóc tràn lan. Có những cuộc chém, giết, chạm súng gắt gao. Bọn mình phải quay trở về Đà Lạt ngay thôi.

                      Chúng tôi tứ cố vô thân ở xứ lạ quê người, nghe thế lại càng tăng lòng sợ hãi lên cao độ, phân vân băn khoăn hết sức. Nếu chúng tôi đi ra Phú Quốc, biết đâu: Ngoài đảo đang lộn xộn kinh khủng, thì tai ách giữa đàng lại mang vào cổ. Thế là chuyện đi Phú Quốc và từ nơi đó sẽ “đào tẩu” ra nước ngoài, nhưng... “em ơi nếu mộng đã không thành thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà... tìm!”.

                      Tất cả anh em chúng tôi như con ngố, rù rì to nhỏ xầm xì với nhau nửa tiếng Anh, nửa tiếng Pháp, pha tiếng lóng chêm tiếng Ba Chệt, tiếp theo ngôn ngữ Việt mà bàn tính: nên trở về Sài Gòn thôi. Dù sao ở thủ đô vẫn còn có bộ mặt thị thành văn minh, còn có tai mắt quốc tế dòm ngỏ hầu vô cứu nhân độ thế!

                      Chuyến đi Rạch Giá mong ước lẽn ra Phú Quốc nơi ấy còn vùng vẫy trong tự do độc lập. Nhưng thật vô duyên hết chỗ nói. Háo hức hân hoan hy vọng ra đi. Đến nơi Rạch Giá chứng kiến cảnh mắt thấy tai nghe bọn oắt con nhỏ bằng con cháu mình hung hăng, thô thiển, xất xượt “lên mặt” đánh đấm răn dạy cha chú. Tôi chong mắt trông trời mau sáng, để quày quả trở về nơi vừa mới bỏ đi. Có phải chúng tôi sẵn tiền, hay đã trở thành kẻ du mục dị ứng thời cuộc đã bị tẩu hỏa nhập ma điên khùng, “lắc lư con tàu đi”... tìm tự do hạnh phúc!?

                      Giá mà hôm qua chúng tôi không gặp mấy tên du kích có đôi mắt trắng dã, có cái nhìn dữ dằn, hành động hung ác, ăn nói cộc cằn, thô lỗ. Thì chắc chắn sáng tửng bưng nầy cả nhóm tôi đã lên tàu thủy dong ra Phú Quốc lánh nạn rồi. Cũng có lẽ định mệnh an bài cho chúng tôi nên ở lại Sài Gòn đông vui, thì đời không cô độc, sẽ là nơi an tựa vững vàng cho tương lai cuộc sống của chúng tôi chăng?!
                      Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ.
                      Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
                      Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
                      Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
                      - Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
                      Hãy về thăm xóm đạo.
                      Có trái ngọt cây lành.
                      Tha La dâng ngàn hoa gạo.
                      Và suối mát rừng xanh.
                      Xem đám chiên hiền thương áo trắng.
                      Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...
                      (3)
                      *
                      (1) Thơ sưu tầm lượm lặt.
                      (2) ca dao
                      (3) Thơ Tha La Xóm Đạo – Vũ Anh Khanh.
                      ***

                      Tình Hoài Hương
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-23-2017, 01:32 AM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • #56
                        Chị Hoài Hương kính mến

                        Hôm nay em được lãng du cùng chị từ Sài Gòn tới Rạch Giá qua bài viết này. Thật là một chuyến đi cơ cực có bi,có hài, có bận rộn với sự chăn dắt một đàn con nhỏ... Chị à, đọc tới đoạn:
                        "...Cô Cúc mua cho nhóm mỗi người một trứng hột vịt lộn ủ ở rổ trấu nóng hổi. Các con tôi thấy con vịt chết nằm trong quả trứng, thì quá sợ lắc đầu lia lịa không dám ăn..." làm em nhớ lại hồi còn nhỏ và ngay cả tới bây giờ em cũng vẫn còn sợ hột vịt lộn đó. Chỉ nhìn thôi là thấy tội và khiếp quá rồi nên dù đói mấy cũng không dám ăn...
                        Cám ơn chị đã chia sẻ một đoạn đường lãng du gian khổ mà không kém phần thú vị.
                        Em xin gửi đến chị bó hồng này với lòng ngưỡng mộ và kính phục một người vợ tần tảo, thủy chung đã thay chồng nuôi con một mình suốt mười năm dài. Một người mẹ tuyệt vời, dẫu phải đương đầu với cuộc sống khổ cực, chị vẫn giữ được một tâm hồn thơ văn thật phong phú. Chúc chị luôn vui mãi với niềm vui sáng tác.


                        Kính mến
                        TL

                        Comment


                        • #57
                          Cám ơn em Thiên Lý

                          [B]
                          Nguyên văn bởi thien ly View Post
                          Chị Hoài Hương kính mến
                          "...Cô Cúc mua cho nhóm mỗi người một trứng hột vịt lộn ủ ở rổ trấu nóng hổi. Các con tôi thấy con vịt chết nằm trong quả trứng, thì quá sợ lắc đầu lia lịa không dám ăn..." làm em nhớ lại hồi còn nhỏ và ngay cả tới bây giờ em cũng vẫn còn sợ hột vịt lộn đó. Chỉ nhìn thôi là thấy tội và khiếp quá rồi nên dù đói mấy cũng không dám ăn...
                          Cám ơn chị đã chia sẻ một đoạn đường lãng du gian khổ mà không kém phần thú vị.


                          Kính mến
                          TL


                          THH chân thành cám ơn "em hồng nhan tri-kỷ" đã ghé vào đọc truyện & ân cần ghi lại những lời thân tình, trung thực và hồn nhiên thế nầy. Những câu em viết mộc mạc nhưng thật cảm động. Em cứ giữ nguyên dáng vẽ hồn nhiên, và có lối viết theo văn phong riêng, mà THH thường đọc truyện của em như thế, em thành công là đương nhiên nhé.
                          Lẽ ra thì THH gửi đến em những hình ảnh khác, nhưng biết em và phu-quân chỉ ăn chay, nên em vui lòng nếm cây quả đầu mùa dịu ngọt nhe.
                          Tình thân,
                          THH
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 09-01-2013, 07:45 AM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • #58
                            Chị Hoài Hương kính mến

                            Ý trời ơi, chị HH cho em dĩa trái cây to quá vậy, thiệt là quí hóa biết bao! Mười mấy năm nay từ hồi sang Mỹ tới giờ, em chưa lần nào được ăn lại trái Na (người Nam gọi là trái Mãng Cầu dai phải không chị?)là loại trái cây mà em rất thích. Bây giờ nhìn trên dĩa trái cây, chị chưng tới 3 trái lận, chà hấp dẫn ghê đó. Em và ông xã chân thành cám ơn chị nhiều, anh ấy thích ăn trái Thanh Long lắm. Mai mốt chị có tìm thêm ra trái Na ở đâu đó, xin gửi cho em vài trái nữa nha, thưởng thức bằng mắt cũng đỡ ghiền lắm chị à.
                            Chúc chị luôn vui khỏe
                            Kính mến
                            HV/TL

                            Comment


                            • #59
                              Cám ơn Thiên Lý

                              Nguyên văn bởi Ha Vo View Post
                              Chị Hoài Hương kính mến

                              Ý trời ơi, chị HH cho em dĩa trái cây to quá vậy, thiệt là quí hóa biết bao! Mười mấy năm nay từ hồi sang Mỹ tới giờ, em chưa lần nào được ăn lại trái Na (người Nam gọi là trái Mãng Cầu dai phải không chị?)là loại trái cây mà em rất thích. Bây giờ nhìn trên dĩa trái cây, chị chưng tới 3 trái lận, chà hấp dẫn ghê đó. Em và ông xã chân thành cám ơn chị nhiều, anh ấy thích ăn trái Thanh Long lắm. Mai mốt chị có tìm thêm ra trái Na ở đâu đó, xin gửi cho em vài trái nữa nha, thưởng thức bằng mắt cũng đỡ ghiền lắm chị à.
                              Chúc chị luôn vui khỏe
                              Kính mến
                              HV/TL



                              Em Thiên Lý thân thương,

                              Ồ, hơn tuần nay không vô đây, nên THH chẳng biết có em đọc bài và chia sẻ. Vâng, tặng em và phu-quân lẵng trái cây có thanh long va na nè. Thích nhé! Phải chi mình ước gì có nấy, thì vui biết bao! Em nhỉ!
                              Thôi thì THH nhờ diễn đàn Phi Dũng làm cầu tri âm nối nhịp mà thả Thơ, để cám ơn em, tạ ơn HQPD & Đời, đã cho chúng ta có cái duyên tao ngộ, giống như ca dao sau:
                              Xa xôi dịch lại cho gần
                              Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
                              THH
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • #60
                                Trị Bình : Nỗi Đau Thương Quá Thật 100%



                                Trị Bình: Nỗi Đau Thương Quá Thật
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-15-2020, 06:07 AM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X