Chiêu Hồn - Phần 1
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Nét chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Khóa 72A cho tới giờ phút nầy đã có ít nhất là 15 người ra đi, và trong số đã có những người ra đi rất sớm. Hãy kể tên những anh em đã khuất và cho họ một phút mặc niệm.
"Phút mặc niệm bắt đầu!"
1. Bùi Văn Bích (Mụn)
2. Nguyễn Văn Chiến (Răng Vàng) : Vị Quốc Vong Thân
3. Lương Thiện Cường
4. Nguyễn Văn Dân
5. Lê Minh Hải (Cải Lương) : Vị Quốc Vong Thân
6. Trần Đình Long (Đui)
7. Nghiêm Xuân Mạnh
8. Lê Công Ngữ (Công Ngủ)
9. Nguyễn Thiện Nhượng
10. Ngô Hoàng Oanh
11. Nguyễn Thanh Quan (Đen)
12. Dương Hồng Sơn : Vị Quốc Vong Thân
13. Phan Vĩnh Thành
14. Quách Dũng Tiến : Vị Quốc Vong Thân
15. Trần Trung Tín
Hãy vinh danh bốn bạn đã hy sinh trong khi thi hành công vụ trước. Theo lời kể của một người trong 72A, sau khi tốt nghiệp ra Phi Đoàn 221 Biên Hòa, Chiến Răng Vàng đã tử trận ở mật khu Mây Tào, Long Khánh trong một phi vụ đón Biệt Kích 81. Vinh danh bạn Nguyễn Văn Chiến đã hy sinh vì quốc gia dân tộc.
Cũng theo lời người đó, Hải Cải Lương ra Phi đoàn 243 Phù Cát và đã chết vào cuối tháng 03/1974. Hôm đó Hải bay gunship thuộc Phi đội Hắc Sư khi đang bay tiếp tế cho một đồn bộ binh tại đèo Phù Ly thuộc quận Phù Cát thì được lệnh về Nha Trang đáp. Hải Cải Lương cùng trưởng phi cơ cũng tên Hải ráng ghé về lấy đồ đạc và đã bị bắn rớt chết tại taxiway số 8.
Sau đây là lời Hải Ác Tăng nói về Dương Hồng Sơn:
"Dương Hồng Sơn thì tôi gặp ở trại Thượng Sĩ Tiến và khi ra Nha Trang ở cùng phi đội và barrack. Tướng Sơn thư sinh, đẹp trai và rất Không Quân. Sơn hội đủ điều kiện hoãn dịch nhưng vì mê làm phi công nên đăng lính. Gia đình Sơn là một gia đình nhà binh vì bố là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến và bà chị cả là sĩ quan Nữ Quân Nhân. Có lần Sơn tâm sự là đã thầm yêu trộm nhớ một người bạn của bà chị cũng là một sĩ quan Nữ Quân Nhân nữa nhưng chưa dám tỏ tình và vấn kế phải làm sao. Tôi cười và nói: "Bả lớn hơn mày ba tuổi, bộ mày thích đồ cổ lắm hả ? Hôm nào về phép, mày phải ăn mặc cho thật là "lính", mời chị ấy đi xi nê, và chờ lúc nào trên màn ảnh họ hôn nhau thì theo như thế mà làm". Không bao lâu sau đó, có lẽ để thực hiện chương trình, Sơn đã cùng Nguyễn Hữu Roanh và Nguyễn Minh Tâm dù về Sài Gòn, và khi trở ra thì bị Thiếu Tá Bé nhốt vào Cải Hối Thất và loại ra Bộ Binh. Khi ra trường Thủ Đức, Roanh về Địa Phương Quân đóng ở Long An, Tâm về Thủy Quân Lục Chiến ở căn cứ Sóng Thần và Sôn thì chọn Lôi Hổ ra Pleiku. Năm 1974 tôi có gặp Sơn tại Sài Gòn trong bộ đồ đen với huy hiệu Lôi Hổ, tóc dài, đen đúa, và trong túi áo có hai trái lựu đạn mini. Ngồi trong quán nước qua điều thuốc, Sơn đã nói: "Mỗi lần tao nhảy vào sào huyệt địch là một lần tao nghĩ không có ngày về". Đó có lẽ là lời trăn trối, vì giữa năm 1974 khi tôi ghé thăm gia đình Sơn ở Thị Nghè thì được cho hay Sơn đã tử trận đâu đó nơi miền núi Cao Nguyên. Trong sự bàng hoàng cảm xúc, tôi đã thương cho Sơn ra đi với mối tình chưa kịp tỏ bày".
Về Quách Dũng Tiến thì có Nguyễn Hữu Tín là bạn cùng học khóa 2 HTTT cùng về Phi Đoàn 225 Ác Điểu, Cần Thơ. Tín đã kể lại chuyện sau đây:
"Khoảng đầu năm 1975, Quách Dũng Tiến đi hành quân ở mật khu Hải Yến, Cà Mau. Chuyến đi nầy Tiến là co-pilot cho Trung úy Tuấn bay chiếc gunship số 2 hộ tống một chiếc slick. Trong khi đang yểm trợ tiếp tế cho một đần quân bạn bị Việt cộng bao vây khoảng gần giữa trưa thì tàu Chiến bị bắn rớt. Gunship số 1 và chiếc slick đã cứu được Cơ Phi và Xạ Thủ văng ra hai bên phi cơ trên đám ruộng đầy nước. Từ đó đền tối các phi tuần A-37 thay nhau oanh tạc để bộ binh của Sư Đoàn 21 tiến vô, nhưng mãi hôm sau họ mới đến được tàu.
Ngày hôn đó tao bay với Trung Tá Châu đáp tận nơi tàu rớt vào khoảng giữa trưa. Đầu trực thăng của Tiến cắm xuống ruộng nước và đã cháy rụi, chỉ còn một khung sườn sắt. Bộ binh lượm được một mảnh nhỏ áo bay của Trung Úy Tuấn còn bảng tên và miếng vải để đeo lon, nhưng cái lon thì đã bị gỡ mất. Mảnh vải áo đó đã được tìm thấy trong vườn nhà dân cách tàu không xa lắm. Phần Tiến thì không còn một di vật gì, có thể vì Tiến mặc đồ bốn túi nên tất cả đã cháy ra tro. Sau đao tao có đền nhà Tiến ở khu gia binh Trường Quân Cụ Gò Vấp cho gia đình Tiến biết tin".
(xem thêm chi tiết tại http://hoiquanphidung.com/showthread...c-dieu-ngay-ve) , ghi chú của HQPD)
Hà Tấn Thông có ghi lại rằng Tiến đã gẫy cánh vào tháng 12/1974 tại Thới Bình, Cà Mau vì phòng không 12,8 ly của Cộng Sản trên đường vào điểm đáp. Đây là nơi mà Hà Tấn Thông đã hành quân hôm trước đó. Vinh danh bạn Tiến đã hy sinh vì quốc gia dân tộc.
Sau đây là những bạn đã qua đời vì bệnh, tai nạn hay tự kết liễu đời mình.
Người đầu tiên phải được nhắc tới ở đây là Nguyễn Thanh Quan tự Quan Đen, bởi cái chết của chàng có dính líu tới thời cuộc tháng 04/1975. Nguyễn Hữu Tín kể về Quan như sau:
"Tao biết khá rõ về Quan Đen trong những ngày chót. Ngày xưa ở Bình Dương, Nguyễn Thanh Quan, Võ Thanh Hà và tao học cùng lớp. Còn Nguyễn Thanh Tâm thì học chung với Ủ Văn Anh Dũng học Nông Lâm Súc. Dũng là người ở Biên Hòa nhưng qua Bình Dương học.
Số quân của Nguyễn Thanh Quan là 73/606400. Mãn khóa 42 HTQS, Quan về Phi Đoàn 110 Đà Nẵng cùng Mai Đẹp Trai. Cuối tháng 03/1975 thì Phi Đoàn 110 di tản về Biên Hòa vài bửa rồi về Tân Sơn Nhất. Tao có gặp Quan ở Bình Dương trong những ngày cuối cùng đó. Trong chiều 28/04/1975 là hôm Nguyễn Thành Trung bay A-37 đánh bom Tân Sơn Nhất, Quan chở tao xuống Tân Sơn Nhất bằng chiếc Rabbit của tao (*đây là mộc chiếc xe hai bánh giống như chiếc Vespa, máy 150 phân khối, xài demarreur để mở máy. Xe nầy xưa các cố vấn Mỹ và Cảnh Sát Đặc Biệt ưa dùng với bảng số ẩn tế). Tao có rủ Quan xuống Cần Thơ để có thể sẽ ra đi với tao nhưng nó từ chối. Sáng hôm sau thì tao đền phi trường Trà Nóc. Sau hai ngày trong cảnh hoảng hốt và thiếu dự tính, tao đã không ra đi mà lại quay về Bình Dương. Về tới nơi vào lúc hai giờ chiều thì tao được tin Quan đã tự sát tại nhà nó ngày 30/04/1975 vừa mới chôn xong.
Theo lời bạn bè lối xóm kể lại thì sau khi đưa tao đi xong, Quan đã trở lại Bình Dương lấy chiếc Rabbit của tao chạy vòng còng cùng mấy đứa bạn học cũ, và trong cốp xe lúc não cũng có cây P-38 của nó. Trưa 30/04/1975 khoảng 11 giờ rưởi Quan chở hai thằng bạn ra trụ cờ ở chợ Bình Dương xem họ hạ cờ vàng xuống và treo cờ xanh đỏ sao vàng của MTGPMN lên. Sau khi chở hai thằng bạn về, nó về nhà tắm rửa leo lên giường đắp mền và sai đứa em trai tên Lâm đi mua mấy điếu Capstan. Em nó đi rồi thì nó lấy súng bắn vào tim. Khi ở nhà tìm được xe đưa vào bệnh viện thì nó đã chết.
Ngày nay ba má và em trai của Quan đều đã chết. Gia đình chỉ còn một cô em tên Ngọc Dung lấy chồng tên Châu sau năm 1975 và hai vợ chồng đã đi Pháp vào năm 1978 (* lời bạn Tín : "Châu tên thật là Lâm Minh Châu, học Nông Lâm Súc cùng lớp với Dũng và Tâm. Ai có liên lạc được với Dung hoặc Châu làm ơn cho Tín biết)".
Nói về cái chết của Quan Đen, không ai có thể ngờ được rằng một người bạn vô tư hay nghịch phá như Quan Đen lại có một thái độ nghĩa khí như thế. Nghĩ cũng đáng buồn cho người quân tử trong lúc cùng đường
xem thêm bài viết về Nguyễn Thanh Quan tại (http://hoiquanphidung.com/showthread...YEN-THANH-QUAN) , ghi chú của HQPD.
Cuối năm 2000, trong khi mọi người đang chuẩn bị nghỉ ngơi và thở phào vì vẫn chưa tận thế thì Lê Công Ngữ ở San Diego mướn phòng khách sạn uống thuốc ngủ tự tử chết để lại một lá thư tuyệt mạng. Trước đó Ngữ đã có viết một lá thư gởi bạn bè 72A. Lá thư nầy chàng đề ngày 12/09/2000, gửi qua bưu điện cho Đỗ Tiến Như và được chép lại nguyên văn sau đây:
"Những giòng chữ nầy đến Như thì mình đã đi xa rồi, xa lắm. Ở đó mình sẽ gặp Hải Cải Lương, Chiến, Mạnh, Dân và có lẽ vài thằng bạn nữa. Lần cuối mình gởi đến Như lời chào vĩnh biệt và nhớ Như cho mình nhắn lời từ giã tới đám "đầu trâu mặt ngựa 72A". Mình đi trước vài năm hoặc vài chục năm. Ở đó mình sẽ đợi chờ các bạn. Hy vọng lúc các bạn tới mình đã trờ thành siêu siêu đai cồ và mình hứa săn sóc kỷ các bạn".
Kể ra thì Lê Công Ngữ có lòng lắm, vì chàng ta đã ký là SVSQ 72A với cái tên "Công Ngủ" bất hủ mà anh em đã đặt cho. Lời thư tỉnh táo, mạch lạc, lại còn đượm nét khôi hài chứng tỏ một cái chết có dự tính chứ không phải vì một phút giây nóng giận. Ngữ, nếu dùng chữ mà mầy hay dùng ngày xưa để nói, thì mày ra đi như thế là "vô hậu". Cái chết của người bạn xuề xòa vui tính nầy có nên là một điều đáng cho anh em suy nghĩ hay không?
Khi Lê Công Ngữ đã chết rồi thì một số anh em có góp tiền phúng điếu. Bạn Đỗ Văn Bính bảo rằng cái chết của Ngữ đã làm cho chàng suy nghĩ nhiều. Dù Bính có đóng góp như các anh em khác, chàng đã ngậm ngùi nói lên nỗi tiếc đã không giúp được bạn mình khi còn sống qua hai câu ca dao: "Khi sống thì chẳng cho ăn, đến khi chết xuống làm văn tế ruồi".
Vũ Xuân Quảng nói đã có gặp Ngữ trong thời gian 1983-1985 ở chợ trời Sài Gòn sau khi Quảng đi "học tập" về khoảng cuối năm 1980. Khi Ngữ và Quảng gặp lại nhau trong lần họp khóa năm 1999 ở miền nam California, Ngữ có kể rằng làm ăn thua lỗ và vợ không vui vẻ. Vào đầu năm 2000, một buổi tối Ngữ đã gọi Quảng bảo rằng muốn từ San Diego lên Orange County ở gần Quảng, và Quảng đã bảo rằng hãy cứ lên, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo, nhưng sau đó không thấy Ngữ dọn lên. Trong đám cưới con gái Na tháng bẩy cùng năm đó, Quảng thấy vợ chồng Ngữ rất bình thường nên cho rằng vợ chồng dù có lúc giận hờn nhưng đêm nằm ngủ đụng nhau là huề thôi, không ngờ đến cuối năm thì được tin không lành về Ngữ. Quảng rất ân hận đã không tìm hiểu thêm về bạn mình trước khi việc đáng tiếc xảy ra.
Lê Công Ngữ và Nguyễn Hữu Tín học chung khóa 2 HTTT. Theo lời Tín kể thì sau khi qua Mỹ, Ngữ là người sống gần gũi với Tín nhất. Trong thời gian Ngữ bị vợ hắt hủi, Tín cũng đã nhiều lấn cố gắng khuyên can. Tín đã viết về Ngữ như sau:
"Ngữ ở San Diego với Dân Già, Thụy, Dương và tao. Trong những lần vượt biền tìm tự do Ngữ đã mất mẹ, mất đứa con, đứa em gái. Con của đứa em gái đã bị bắn chết khi Ngữ đang bồng trên tay. Khi vô được trại Mã Lai và tìm được xác con, Ngữ đi gom củi và thiêu xác con ngay trên bãi biển. Ngữ đến San Diego khoảng năm 1991. Trên xứ tự do gia đình nó tan vỡ. Nó đã tìm đến cái chết một lần nhưng được cứu thoát. Trong lần thứ hai thì nó đã ra đi."
Ngữ có gửi một lá thư cho Huỳnh Thanh Hải. Lá thư đó được chép gọn lại sau đây:
"San Diego, 15/10/1999
Ác Tăng thân mến,
Chiều hôm qua thằng Dân đưa tao cái áo mà tao gởi mua cho mày, sáng nay tao sẽ đi gửi cho mầy, kèm theo hình đám cưới của tao hồi 1989 ở Sài Gòn cùng hình tao, vợ tao và bốn con. Đây là gia đình nho nhỏ của tao.
Ác Tăng mến, khi đi lính gặp mầy sống với mầy, mầy là thằng bạn thân nhất của tao. Khi mày đi Biên Hòa học khóa 1 thú thật tao chỉ muốn vác sắc theo mầy thôi. Sau nầy suốt một thời gian dài sóng gió tới nay những lúc mơ về dĩ vãng hình bóng mày luôn hiện diện với tao và tao mỉm cườĩ. Cuộc đời bầm dập quá phải không mày? Nhưng mầy yên tâm, bạn mầy vẫn sống, vẫn đùa giởn với số phận. Tao chỉ muốn bạn tao biết rằng: tao sống luôn lương thiện, hợp đạo lý.
Với cuộc đời phức tạp cần nghị lực và sự tính toán thì tao không có được những điều đó. Tao vẫn như ngày nào sống cẩu thả vô tính toán thì làm sao khá được? Khi Như về cùng mấy thằng bạn khóa mình nhậu ở nhà Tín thì tao có chạy ngang nhưng không vào. Đêm đó tao ngủ trong xe nghe sương rơi lộp độp.
Hải ơi, mai kia mốt nọ dầu bất cứ chuyện gì xảy ra cho tao mầy cứ nghĩ đó là số mệnh.
Bạn thân của mầy,
Lê Công Ngữ".
Sau đây là những lời Hải Ác Tăng viết về Lê Công Ngữ:
" Lê Công Ngữ tánh tình ba gai nhưng rất trung hậu với bạn bè. Trong năm 1973 khi Thiếu Tá Bé chuẩn bị tổ chức hội chợ thì có cho một SVSQ 73A về phép với điều kiện khi ra phải mang theo sáu con bọ, một loài vật bốn chân lông trăng trắng lớn hơn con chuột, để chờ dùng trong hội chợ. Sau khi bọ được mang ra thì chúng được cất trong phòng Thượng Sĩ Hội. Ngữ bảo tôi: "Mầy canh cho tao vào chôm mấy con bọ đó nhậu chơi!" Thế là nó lấy hết sáu con bọ mang ra sau trại Ngân Hà nhờ một bà rô ti đêm đó nhậu với rượu nếp than. Dĩ nhiên là Thiếu Tá Bé chưa bao giờ tìm ra thủ phạm cả.
Cho đến năm 1975 khi ra Nha Trang học bổ túc giai đoạn 2 quân sự, Ngữ và tôi thuê một căn phòng ở gần chợ Nguyễn Hoàng. Một buổi chiều hai thằng đang đi bộ từ trại Phi Dũng về gần tới bến xe đò Nguyễn Hoàng thì thấy một em bé trai cụt tay đứng khóc. KHI Ngữ hỏi tại sao thì em vừa khóc vừa chỉ một đám năm sáu tên thanh niên đang đứng trước một quán nước và trả lời: " Em từ Pleiku về vừa xuống xe thì bị tụi nó lột hết đồng hồ và tiền", Ngữ kéo tay cậu bé băng ngang đường đền gần đám thanh niên và hỏi "Thằng nào?" bằng một giọng gằn nặc mùi Quảng Trị. Khi em bé chỉ vào một tên trong bọn thì Ngữ lập tức nắm ngực áo tên ấy lôi ra giữa đường đánh túi bụi. Khi mấy thằng còn lại nhẩy vô thì tôi cũng nhảy vào vòng chiến. Lúc đó tôi thấy Ngữ anh hùng thiệt, và đó là Lê Công Ngữ, một kẻ "giữa đường gặp chuyện bất bình ra tay".
Khi viết những giòng chữ về Sơn và Ngữ, tôi đã đốt một nén hương lòng cho một bạn chết cho quê hương tổ quốc trong khi bạn kia đã ra đi bởi dòng đời nghiệt ngã. Khi để lại bốn đứa con thơ, đối với tôi thì Ngữ như một đào binh trốn trách nhiệm. Tôi cầu mong cho hai bạn cũ sẽ bình yên hơn ở bên kia thề giới."
Comment