Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Không Gian Hằn Nỗi Nhớ

Collapse
X

Không Gian Hằn Nỗi Nhớ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Không Gian Hằn Nỗi Nhớ

    HQPD xin hân hạnh giới thiệu một quyển sách nhắc về những kỷ niệm trong cuộc đời quân ngũ do anh em SVSQ khoá 72A ghi chép lại với ước mong sẽ được để lại một chút gì để nhớ.

    Xin chân thành cảm tạ Niên Trưởng Nguyễn Hoàng Tân 72A đã vui vẻ cung cấp tài liệu với lời khích động chân thành.


    hung45qs
    Last edited by hung45qs; 04-22-2011, 09:57 PM.
    Hung45HTQS


  • #2
    Không Gian Hằn Nổi Nhớ

    Nguyên văn bởi hung45qs View Post
    HQPD xin hân hạnh giới thiệu một quyển sách nhắc về những kỷ niệm trong cuộc đời quân ngũ do anh em SVSQ khoá 72A ghi chép lại với ước mong được để lại một chút gì để nhớ. Xin chân thành cảm tạ Niên Trưởng Nguyễn Hoàng Tân 72A đã vui vẻ cung cấp tài liệu với lời khích động chân thành.

    hung45qs


    Tôi biết rồi đây sẽ có một ngày. Kỷ niệm buồn vui thời quân ngũ của bọn 72 A sẽ là những vết tích củ của một thời mặc áo liền quần sẽ trình làng.
    Trùi ui! bọn chúng tôi chỉ có 260 đứa, dẩu mà viết lên hết cả 260 câu chuyện đời mình...thì 36 năm qua, mổi lần gặp lại là một câu chuyện mới, vậy đến bao giờ mới nói hết chuyện ngày xưa??
    Đố ai mà quay ngược lại thời gian, quay làm sao cho bọn tôi chỉ tròn 21 tuổi, quay làm sao mà khi đứng nhìn bải biển nhatrang thấy mình hào hùng độc đáo như....những đàn anh...đã từng gán cho cái brand name để đời, khi những cô gái miền Thùy Dương nhắm mắt tha hồ mà chụp đại một anh nào đó....ít ra bọn tôi cũng đã được khéo tuyển chọn rồi trước khi vào quân ngũ.
    Bây giờ khi nhìn vào gương, bọn tôi không bao giờ nghỉ rằng...cái tên già 6 bó nầy trước kia cũng từng lấy mây trời làm lẻ sống....
    Thôi hãy nhường lại cho quý bạn bè, thân hữu xem phần lưu niệm với những mảnh đời của bọn 72 A đã kéo dài cuộc sống khi đã treo cánh gần 4 thập niên và rải rác trên quê mình, quê người hay đã ra đi vĩnh viễn.
    TG 72A
    Last edited by hung45qs; 04-22-2011, 09:57 PM.

    Comment


    • #3
      Lời mở đầu


      Mùa hè 1972 là thời điểm thay đổi cuộc đời của hàng ngàn thanh niên miền Nam thế hệ 50, sinh ra và trưởng thành trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Hình ảnh gần mười ngàn thanh niên tụ họp trước cổng Phi Long nộp đơn xin gia nhập Không Quân là khởi đầu của một tập hợp 360 Sinh Viên Sĩ Quan tài hoa, trẻ trung và hào hùng của Không Quân Việt Nam nói chung và Khóa 72A Sinh Viên Sĩ Quan nói riêng.

      Theo vận nước nổi trôi, ngày 30/4/75 nghiệt ngã đã phủ lên miền Nam nước Việt một bức màn đen tối. Những chàng Sĩ Quan Phi Công Trực Thăng, Phản Lực, Quan Sát hào hoa của 72A đã đành rời bỏ khung trời bay bổng chiến đấu. Những chữ Tổ Quốc Không Gian và Bảo Quốc Trấn Không cùng đôi cánh bạc đành xếp lại. Những chàng Sĩ Quan Bảo Trì, Tiếp Liệu, Phòng Thủ chiến đấu trong thầm lặng của 72A cũng đành giã từ nhiệm sở trong cuộc “Đổi đời” này.

      Một trang sử đã khép, dòng đời vẫn cứ trôi qua,người lao đao trong kiếp ngục tù, kẻ bôn ba vì cuộc sống vật chất. Chuyện gần 30 năm trước tưởng như đã phai mờ. Trong ký ức của từng Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân Khóa 72A Nha Trang năm nào, những nỗi buồn vui đời quân ngũ, của một thời bay bổng hào hùng tưởng cũng theo thời gian mà phai nhạt vì miếng cơm manh áo.

      Khóa 72A Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân Nha Trang không là một trong những hiện tượng bình thường đó. Cái tập hợp 72A nhỏ bé trong một Đại Gia Đình Quân đội và Không Quân Việt Nam Cộng Hòa chỉ tồn tại ba năm trong cuộc chiến nhưng nó sẽ còn mãi mãi trong tâm tưởng của từng Sinh Viên Sĩ Quan, cho dù trong cuộc chiến đó họ đã bay hay sắp bay, đã đổ máu hay chưa đổ máu. Những gì đã xảy ra sẽ không có ai và không bao giờ sửa đổi được. Dĩ vãng mãi mãi là dĩ vãng, chỉ là chúng ta sẽ nhớ và nhớ mãi.

      Và bây giờ Khóa 72A lại tụ họp về với nhau, lại vẫn còn những thằng "đầu trâu mặt ngựa" (lời của SVSQ Lê Công Ngữ), cho dù cái đám này đã bị chia lìa khắp nơi từ Mỹ, Pháp, Canada đến Úc châu vời vợi. Sau bao nhiêu năm xa cách, bao nhiêu thay đổi bể dâu, giàu nghèo, sang hèn, tự do hay vẫn còn trong nước, khóa 72A vẫn là khóa 72A. Vẫn là những chàng trai năm nào, sau mùa hè đỏ lửa xếp bút nghiên theo việc đao cung, và có cùng nhau một Mộng Mây Trời.

      Trong tình cảm đó, anh em SVSQ khóa 72 A thực hiện cuốn sách này cùng với sự đóng góp của anh em khắp nơi trên thế giới. Cuốn sách không viết vì văn chương thi phú, cho dù đã dùng rất nhiều văn thơ cùng nhạc phẩm để nhắc nhở chúng ta về thời gian và thế hệ. Những bài thơ và bài hát mà đã có một thời như là kinh thánh, làm ngây ngất những chàng trai trẻ tuổi 17, 18 của đầu thập niên 70. Cuốn sách như là một người bạn đồng ngũ, một cái nhìn về quá khứ, một kỷ niệm của khóa 72A.

      Tổ Quốc Không Gian vẫn còn đó, nhưng không phải là Tổ Quốc và Không Gian của người Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân Khóa 72A năm nào đã tụ họp dưới cờ. Cuộc đời là mất mát nhưng những người Sĩ quan Phi công Quan sát, Trực thăng, Phản lực, Bảo trì, Tiếp liệu... Khóa 72A vẫn còn lại một mối tình... Tình bạn đồng khóa.

      Cho dù cuốn sách không nhắc đến bạn, hoặc quên không nhớ đến bạn, hãy quý trọng và giữ gìn vì dù sao chúng ta cũng ở trong đó, trong cái bìa có in chữ KHÓA 72A Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân.


      Nhóm Chủ Trương
      Khóa 72A/SVSQKQ
      Hung45HTQS

      Comment


      • #4
        Duyên Tương Ngộ


        Từ dạo mùa hè ba mươi năm trước,
        Bọn chúng mình lũ lượt kéo nhau đi.
        Tuổi hoa niên thời loạn ước mong gì?
        Đời binh nghiệp thân trai vì sông núi.

        (Thơ Nguyễn Hoàng Tân)



        Mùa hè 1972 là một thời điểm khó quên cho những Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân của khóa 72A. Miền Nam Việt Nam vốn dĩ đã là vùng nhiệt đới, nhưng chưa bao giờ người ta thấy cái nóng thiêu đốt như năm đó. Từ tháng ba, những cơn bão lửa đã bắt đầu đổ xuống những địa danh địa đầu giới tuyến, những An Lộc, Đông Hà, Quảng Trị, Bồng Sơn, Lai Khê, và đã được Phan Nhật Nam ghi lại trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Lửa đã đến gần thành phố lắm rồi. Ở Trảng Bàng cách Sài Gòn có 40 cây số vào tháng sáu lửa bom napalm đã thiêu rụi mất áo quần của em bé gái Phan thị Kim Phúc trong một tấm ảnh đoạt giải Pulitzer chụp bởi Huỳnh Công Út. Những thanh niên chưa rời ngưỡng cửa nhà trường làm sao còn có thể quân tâm tới sách vở trong khi các đàn anh của họ đang lăn xả giữa đạn thù để tranh giữ từng tấc đất trong một cuộc chiến mà nhiều khi biên giới quá mù mờ. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Mười chín đôi mươi là lứa tuổi dễ chạnh lòng khi người ta nghĩ rằng mình đang trốn tránh trách nhiệm của trai thời loạn.

        Ở cổng Phi Long của phi trường Tân Sơn Nhất trong tháng 6/72 đã có hàng ngàn thanh niên đứng nối đuôi nhau chờ nộp đơn tình nguyện. Hãy nghe Huỳnh Thanh Hải kể lại ngày đầu tiên đến xin đơn.

        "Sáng hơn 9 giờ tôi còn tà tà ngồi uống cà phê rồi mới lên Tân Sơn Nhất xin đơn. Khi tôi đến vào khoảng gần mười giờ thì trước cổng Phi Long là một rừng người. Nhìn hàng dài mà tôi phát ớn, vội làm một vòng duyệt hàng binh để tìm cách xé rào. Qua hàng hàng lớp lớp người xếp hàng thứ tự, tôi nhận diện ra có bốn loại thí sinh là Sài Gòn, miền Trung, miền Bắc, và miền Tây. Tôi nghĩ nếu nhào vô đám Sài Gòn chắc là bị tụi nó đánh bỏ mẹ, dù có đai đen Thái Cực Đạo cũng không chịu nổi khi bị tụi nó hội đồng. Nhìn mấy cha nội miền Trung còn ớn chè đậu nữa, bởi nếu gặp đám như thằng Ngữ thì nó đánh có nước bị loại chớ bay bổng làm sao nổi, còn vào nhầm đám Bắc Kỳ Hố Nai nhỡ gặp đám như thằng Tỵ Già thì cũng miễn dịch vĩnh viễn và khỏi cưới vợ luôn. Do đó tôi quyết định bám sát đám miền Tây cho dễ ăn. Sau khi chọn một thời điểm thuận tiện tưởng là không ai để ý, bất thình lình tôi nhẩy đại vào hàng đứng với đám miền Tây, có lẽ trong đó có Út Small. Tôi nghe trong hàng phía sau lưng nổi lên những tiếng la ó chửi bới ỏm tỏi, nhưng cứ thản nhiên mặt lạnh như tiền lấy thuốc châm lửa hút để trấn an tinh thần và chuẩn bị dzọt nếu tình hình bất ổn. May sao tiếng xì xầm từ từ lắng dịu và im hẳn, bởi dường như tụi nó chấp nhận cho tôi một chỗ đứng... Số thứ tự nộp đơn của tôi là 251 . Tôi thầm nhủ ‘cảm ơn và cảm ơn!’ Do đó sau này ngoài những ơn nghĩa với Út Small tôi cứ trả hoài mà như còn nợ vậy.”

        Sau đây là lời Đỗ Minh Hùng về lý do chàng tình nguyện vô Không Quân.

        "Cái đời sống bận rộn ngày nay là một cuộc chạy theo với dòng đời không ngừng nghỉ. Nhớ lại chuyện 30 năm cũ thì một nửa đời người đã qua. Ngày còn bé tôi được cưng nhất vì là con trai một và là con trai trưởng theo phong tục cũ, nam trọng nữ khinh. Tối ngày tôi quấn quít bên mẹ.

        Năm lên bẩy tuổi, một buổi chiều kia tôi đã luồn vào rạp Nam Quang không mua vé như thường lệ. Cuốn phim chính thì không đáng kể, nhưng cuốn phim phụ, một phim Pháp phụ đề Việt ngữ, đã in vào trí óc tôi cho tới ngày nay.

        Cuốn phim có tựa đề là 'Cậu Bé và Chiếc Bong Bóng Đỏ'. Nhân vật chính trong phim khoảng trạc tuổi tôi. Một hôm khi rong chơi trên phố, cậu bé đã được ông bán bong bóng cho một chiếc. Chiếc bong bóng sau đó như một con vật sống trung thành bay theo cậu bé khắp nơi.


        Một hôm có đứa bạn tinh nghịch đâm thủng cái bong bóng, và cậu bé buồn sinh bệnh ngày càng trầm trọng, rồi bỗng một hôm trước khung cửa sổ không phải là một hay mười, mà là cả trăm cái bong bóng đỏ. Cậu bé vui mừng chạy ra nắm lấy chùm bong bóng, và nó đã từ từ đưa cau bay lên trời cao mất dạng.

        Cuốn phim chỉ có thế, nhưng trong tôi từ đó đã nẩy ra ý tưởng thèm được có một chùm bong bóng để giúp tôi bay lên được trời xanh.

        Khi lớn hơn chút nữa tôi không ưa con gái, chẳng giống như sau này thấy đàn bà con gái là mắt cứ nhắm tít lại không còn biết đường về nhà. Tôi thường hay nói với mẹ tôi rằng khi lớn lên tôi sẽ đi lính đánh giặc, khi nước nhà yên ổn thì tôi sẽ về nuôi mẹ mà không lấy vợ.

        Trong những năm sau đó, sau khi tôi đã biết yêu, một hôm vào tháng 6/72 khi đang lang thang gần Tân Sơn Nhất, tôi thấy nhiều thanh niên xếp hàng sau hàng rào dây kẽm gai. Hỏi ra mới biết Không Quan đang tuyển lựa sĩ quan. Thế là tôi quên khuấy mất rằng mình đang được hoãn dịch vì là con trai một và đang học đại học, vội nhẩy qua hàng rào kẽm gai để nhập vào hàng. Giữa những tiếng la ó phàn nàn, tôi giả điếc. Có lẽ nhờ cái tướng cô hồn của tôi nên nhiều người không muốn buồn phiền và đã để tôi yên.

        Sau khi nhận được số thứ tự để nộp đơn, tôi về nhà và báo cho cha mẹ biết rằng tôi đi lính, và mẹ tôi bật khóc. Đay là lần đầu tôi tự quyết định cho đời mình, và thấy đau xót vô cùng khi nhìn những giòng nước mắt của mẹ tôi. Bố tôi thì lặng yên. Báo tin cho người yêu, tức là vợ tôi bây giờ, thì nàng chỉ buồn không nói. Thế là ngày song bát 72 tôi vào trại ông Tiến chờ ngày ra Nha Trang huấn nhục."

        Huỳnh Thanh Hải sau này đã trả nợ Út Small ra sao, và Đỗ Minh Hùng đã trả giá đắt thế nào cho giấc mơ được bay lên trời, xin đón đọc hồi sau sẽ rõ. Bây giờ trở lại những thanh niên trong hàng hôm đó. Họ chưa biết lời của bài Không Quân Hành Khúc, nhưng khi ngẩng mặt nhìn trời xanh họ đã mơ hồ thấy bóng mình trong đó. Mộng mây trời là một giấc mơ kỳ ảo và đẹp đến độ gần như là hoang đường không có thật. Một cánh chim tung mình trong nắng sớm hay gọi đàn trong lúc hoàng hôn. Những khoảng trời thần thoại.

        Cái hình ảnh thơ mộng như một bài thơ tình diễm tuyệt kia đã làm cho những anh tân binh của 72A không buồn tiếc khi mái tóc xanh rậm rì của họ bị tông đơ gậm nham nhở trong trại ông Tiến sau ngày nhập trại. Bộ đồ ka ki xanh mặc vào cũng thấy thoải mái, và đôi giầy bốt đờ xô đi cũng êm chân. Ngày hai buổi trưa chiều sắp hàng chờ ăn cơm. Những chiếc khay nhôm bốn ngăn. Nhà bàn không còn máy lạnh nên hơi nóng bức và chứa đầy những dãy bàn dài ngồi sát cánh nhau. Cơm nhà bàn không đầy đủ như cơm nhà nhưng trong cái cảm giác mới mẻ quanh những thằng bạn từ bốn phương trời mới tụ họp về đây không mấy ai thấy đáng phàn nàn. Còn gì bằng trong giữa buổi trưa nắng bức qua hàng kẽm gai mua được bịch cà phê đá cầm về hút chung nhau điếu thuốc làm quen câu chuyện kể.

        Sau đây hãy nghe lời kể của Trần Đôn Điền.

        “Năm 64 bố mẹ tôi đã dẫn con cái lên Pleiku lập nghiệp. Thị trấn vùng cao nguyên, nắng bụi, mưa bùn. Ở đây là nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cho nên lính nhiều hơn dân, và phần đông dân là gia đình binh sĩ vì. Họ đến từ Đông Hà, Quảng Trị cho đến những người ở tận Cà Mau. Chính nơi đây tôi đã biết thế nào là chiến tranh qua những trận Pleime, Chư Sao, Mậu Thân.


        Hai người bạn tôi quen đầu tiên ở trại Thượng Sĩ Tiến là Mai Văn Dũng tức Dũng Đen và Dương Hồng Sơn. Dũng có vẻ từng trải, còn Sơn thì chẳng biết gì cả, ngáo bỏ mẹ. Nó hút ké tôi có một hơi thuốc mà ho sặc sụa. Bị Dũng Đen cười, nó quê lắm và bắt đầu tập hút thuốc. Thế nhưng trong ngày đầu tiên được cho về phép, nó đã lộn ngược tất cả các túi áo vì sợ rằng về nhà mà ông bà bô thấy nó có thuốc lá thì sẽ mắng nó. Thời trẻ của chúng ta là thế đấy phải không các bạn? Dù đã bắt đầu bước chân vào cuộc chiến, nhưng đối với bậc sinh thành thì điều gì các cụ không thích có khi nào chúng ta dám làm trước mặt?

        Trong buổi chiều chủ nhật cuối cùng ở trại Thượng Sĩ Tiến trước khi ra Nha Trang, ba đứa tôi xuống khu gia binh vào một cái quán vô danh nào đó kêu vài chai bia con cọp. Bia đắng vị houblon, uống một hớp là nhăn mặt một lần. Qua chai thứ hai thì có vẻ ngon hơn một chút, và tôi đã làm liều ghẹo cô con gái bà chủ quán. Tôi một hai kêu bà chủ quán bằng má xưng con. Đó là lần đầu tiên tôi bắt đầu biết xỉn.

        Hai năm sau đó khi quay về Bộ Tư Lệnh làm giấy tờ đi du học, tôi đã gặp lại hai mẹ con bà chủ quán. Bây giờ thì quán đã khang trang hơn và lại ở ngay sát nhà đậu xe trong Bộ Tư Lệnh, và tôi không còn dám gọi bà chủ quán là má nữa.”

        Trong thời gian ở trại ông Tiến, anh em khóa 72A đã đủ thì giờ quen biết nhau khá kỹ, và nhiều thằng đã bắt đầu giở trò phá phách nham nhở. Một hôm trong giờ tắm, Châu Thiên Huệ đã ve vẩy của quý như một chiếc ma trắc giả vờ như sắp phang vào Khanh Béo đang ngồi giặt quần áo gần đó trong khi thằng này không để ý. Phần Khanh Béo thì cũng chẳng vừa gì, Hải Ác Tăng vẫn còn nhớ cái giọng ca đểu cáng của nó theo nhịp quân hành khi cả đám sắp hàng đi ra phi đạo để lên phi cơ ra Nha Trang, “Má thằng Sơn vừa đi vừa vén cái quần lên, vén cái quần lên thì thấy cái đầu thằng Sơn.” Cả bọn cười rần lên trong khi Phạm Duy Sơn quê đỏ mặt tía tai không nói được lời nào. May mà đang đi trong hàng chứ không chắc Khanh Béo mập mình với thằng Sơn cú đó.


        Đến tháng tám thì mặt trời đã xuống gần hơn chút nữa. Sân cát Nha Trang chói lóa sau khi chào Đại Bàng vác sac marin chạy vòng quanh Phi Dũng. Những cái lưỡi trắng vì thiếu nước buổi trưa trong nhà bàn chỉ được thấm giọng bằng vài muỗng nước trà. Những khuôn mặt đẫm mồ hôi lấm lem đất cát. Những chiếc vớ hôi như mùi chuột chết. Đêm ngửa mặt nhìn sao nghe niên trưởng ngâm thơ

        Ôi không gian giờ đây ta mới biết,
        Mộng mây trời đã giết chết đời ta.


        Những nhọc nhằn này cũng dễ chịu thôi khi người ta có máu nóng và có bạn bè bên cạnh. Và sự gắn bó của những thằng bạn 72A đã thực sự bắt nguồn từ những giây phút huấn nhục cam go đó. Ba trăm sáu chục thằng lính mới trừ đi một trăm Không Phi Hành còn lại Phi Hành hai trăm sáu chẵn chòi.

        Trong khi đa số những bạn Phi Hành trong lứa tuổi mười chín đôi mươi và có tú tài I, các bạn Không Phi Hành thường đều ở đại học. Bởi trong kỳ đôn quân này tất cả những sinh viên học sinh vì bất kỳ lý do gì mà học trễ một năm trở lên đều phải đi lính, nhiều bạn Không Phi Hành đã sắp tốt nghiệp Phú Thọ, Y Khoa, hay Kiến Trúc đã phải cay đắng rời trường để miễn cưỡng thành quan Không Quân hơi sớm.

        Thế là những Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân khóa 72A đã bỏ lại sau lưng những quán cà phê đèn mờ với những bài hát của Trịnh Công Sơn mà trong đó có đàn bò vào thành phố và người con gái Việt Nam da vàng để thay vào bằng những câu hát mới

        Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió
        Hồn như đám mây trắng lững lờ
        Giang hồ không bờ không bến
        Đẹp như kiếp Bô Hê Miên


        hoặc

        Ta là đàn chim bay trên mây xanh
        Đi nhìn qua khói những kinh thành xa
        Đôi cánh tung hoành nhịp trên mây xanh
        Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng


        Khi rời quân trường, họ đã say mê tiếng hát Thanh Thúy qua những câu

        Giữa lòng trời khuya muôn ánh sao hiền
        người trai đi viết câu chuyện
        một chuyến bay đêm


        hay là Sĩ Phú trong bài Tuyết Trắng

        Khi nắng chiều đi không gian chợt tối
        Đã hẹn nhưng chẳng thấy anh sang
        Khi nắng sân trường soi bóng em
        Khi chiều ngả dài bao nhiêu nhớ thương
        Khi đường mây chờ anh tung cánh thép
        Đây áo bay màu xanh, xanh như tình ái
        Khép lại khăn ấm chính em đan


        Những bài hát của người phi công Việt Nam là như thế đó, đẹp và êm ái như những bức thư tình muôn thuở, không có đạn bom máu lửa, chiến công, thù hận. Người phi công của Việt Nam Cộng Hòa hào hoa đã nhận phi vụ lệnh và ra đi trong sự ung dung. Họ ra đi bằng tình thương hơn là sự thù hận, như Phạm Đình Chương trong Anh Đi Chiến Dịch

        Anh đi chiến dịch xa vời
        Lòng súng nhân đạo cứu người lầm than
        Thương dân nghèo đồng hoang cỏ cháy
        Thấy nỗi xót xa của kiếp đọa đày, anh đi


        hoặc Màu Áo Hoa Rừng

        Ngày anh ra đi với chiếc áo xanh màu hoa
        Ngày anh ra đi vai súng hiên ngang đường xa
        Băng suối qua rừng chập chùng
        Hay những đêm dài lạnh lùng
        Sương mờ nẻo vắng,
        bước chân anh không ngại ngùng.


        Không phải chỉ có những bài hát là nhẹ nhàng, mà ngay cả những tác phẩm về đời phi công cũng thế. Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh với Đời Phi Công, Dương Hùng Cường trong Buồn Vui Phi Trường với hình ảnh của Phượng, hay Saint Exupéry trong Chuyến Thư Miền Nam với hình ảnh mảnh mai của Geneviève đều là những tác phẩm đầy thi vị. Trong Cõi Người Ta người phi công đã phải bay len lỏi giữa những khe núi với những ngọn cao tới bảy ngàn thước để tìm đường vượt qua rặng Andes bằng những phi cơ chỉ bay tới cao độ năm ngàn hai trăm thước. Người phi công trong văn chương là người tình người chồng người cha, tức là những người đàn ông rất người.

        Dù những đêm huấn nhục mệt mỏi là như thế nhưng sau khi các niên trưởng leo lên StepVan rời Phi Dũng ra về là anh em vẫn còn đủ sức bò lên quán cô Thương mặt đỏ để làm gói mì và ly trà đá. Ngay từ ngày đầu tiên ra Nha Trang tới Phi Dũng khi về tới barrack là tất cả đã phải dốc ngược sac marin ra cho niên trưởng bộ khám. Không may cho những anh mang theo những món mặn để dành ăn cơm như thịt chà bông hay thịt kho mắm ruốc phải ăn cho hết, và những anh còn thuốc lá thì phải ngậm hết những điếu thuốc còn trong gói để châm lửa hút một lượt. Thế mà Nguyễn Đình Cẩn dấu làm sao mà còn được một gói ô mai cam thảo. Trong một buổi tối kia, chàng ta đã trèo lên một căn phòng trên lầu của một barrack bỏ trống mang ô mai ra pha trà tầu đãi những bạn thân là Bùi Mộng Lân và Nguyễn Hữu Thiện Tuấn, và bởi vì ô mai của chàng có lẽ đã bị người yêu bỏ bùa thư hay sao đó mà mấy thằng sau đó bị Tào Tháo rượt tơi bời hết cả một đêm.

        Sau mới có hai tuần lễ ở Phi Dũng là mười bốn anh em đầu tiên đậu ba kỳ thi Anh văn ở trường Sinh Ngữ Quân Đội đã được gọi về Sài Gòn để đi Mỹ. Những thằng đó có tên sau đây: 1. Lý Văn Ánh, 2. Lê Văn Cảnh, 3. Trần Ngọc Dương, 4. Nguyễn Thanh Liêm, 5. Nguyễn Thiện Nhượng, 6. Trần Văn Phiêm, 7. Nguyễn Ngọc Châu Phòng, 8. Trần Chung Thanh, 9. Lê Hữu Thiện, 10. Đoàn Anh Thuấn, 11. Nguyễn Trọng Tiến, 12. Nguyễn Hữu Thiện Tuấn, 13. Trần Ngọc Tùng, và 14. Trần Anh Tuấn. Về tới Tân Sơn Nhất, 11 người đã được làm thủ tục đi Mỹ nhanh chóng, chỉ có Trần Ngọc Tùng phải ở lại hơn một tháng để điều trị tim, Nguyễn Hữu Thiện Tuấn thì phải ở lại hai tháng vì hắn có tới ba hòn phải cắt bớt đi một, và Trần Chung Thanh bị kẹt lại vì lý do “an ninh” và sau đó ra Nha Trang học L-19.

        Một trong những việc mà anh em phải làm ở quân trường là đi gác, ngày cũng như đêm. Sau đây là lời tường thuật của Đỗ Minh Hùng.

        "Ở Nha Trang huấn nhục được khoảng 2 tuần, tôi và Đỗ Trọng Nhâm được xếp gác đêm với nhau. Mỗi thằng được phát một cây súng M-16 trước khi trèo lên vọng gác. Trước 12 giờ đêm, hai thằng còn tỉnh táo, nói chuyện huyên thuyên về gia đình, về bồ bịch, rồi chuyện tương lai một mai khi thành phi công. Cứ tưởng tượng trở thành phi công là thấy sướng đời mê đi rồi.

        Chỉ còn 6 tiếng nữa là trời sẽ sáng và phiên trực sẽ qua. Coi bộ hai thằng tôi không qua nổi đêm nay. Buồn ngủ ơi là buồn ngủ. Hai mí mắt nặng như chì, chỉ chờ dịp là xụp xuống. Tôi và Nhâm chia nhau giờ giấc. Tôi thức cho Nhâm ngủ trước. Sau đó Nhâm sẽ thức cho tôi ngủ. Ba tiếng đầu trôi qua chậm chạp. Phố Nha Trang im dần theo bóng đêm. Lâu lâu có những tiếng gõ lóc cóc của mấy hàng mì, hoặc tiếng rao: 'Ai xương xa, vịt lộn hôn' mà nghe như: 'Ai xa xa vật lộn hôn." Tới hết ca của mình, tôi đánh thức Nhâm dậy, giao súng cho hắn, rồi đi ngủ.

        Đang mơ màng trong giấc điệp thì tôi bật dậy vì lãnh một cái tát như trời giáng. Bên kia, Nhâm cũng cùng số phận. Ông trung sĩ trực quát tháo um xùm: 'Súng của các ông đâu?' Tôi và Nhâm nhìn quanh, cây M-16 mất tiêu. 'Mất súng là các ông ở tù mọt gông.'

        Tôi và Nhâm đứng như trời trồng. Tôi hình dung ra một viễn ảnh u ám. Từ bé tới giờ nào tôi đã biết tù tội là gì. Lúc này bỗng chúng tôi tỉnh táo vô cùng, có phải thức vài đem nữa cũng chẳng sao.

        Tôi và Nhâm được lệnh làm 50 cái hít đất. Sau đó ông trung sĩ trả lại súng. Thì ra khi chúng tôi đang say ngủ, hắn đã bò lên chôm súng rồi tặng chúng tôi mỗi thằng một cái bạt tai nhớ đời. Bên má trái tôi đau rát, chắc hôm sau cần mua thuốc dán. Chờ ông trung sĩ đi khuất, tôi rủa Nhâm: 'Đ. M., tôi thức thì ông ngủ. Tới phiên tôi ngủ, ông cũng ngủ là nghĩa làm sao?' Hắn nhìn tôi cười trừ, một nụ cười ngáo không thể tả."


        Sau bốn tuần huấn nhục, tháng chín đến là đã được mang Alpha mặc đồ vàng ra phố. Phố Nha Trang nhỏ nhưng cũng có tới bốn rạp xi nê. Những đôi giày củ chuối mà cũng lê được cho tới khi mòn vẹt gót. Thằng nào có đào thì đọc thư của mình, thằng nào không có đào thì nghe đọc thư đào của Vũ Xuân Quảng kể chuyện leo lên nóc nhà ngồi viết cho chàng. Người tình bé nhỏ dĩ nhiên sau này đã đẹp đôi với một anh cha căng chú kiết nào đó không phải trong khóa 72A, nhưng trong khi chờ đợi thì thư nàng viết cũng mùi. Kể ra những lá thư tình hay ho như thế mà viết cho một anh lùn phệ bụng mỗi tối mặc xiệp đánh giầy theo nhịp cha cha cha của Santana thì cũng quá ngược đời.

        Khi cuộc sống bắt đầu có chút thảnh thơi là khi Đỗ Tiến Như lên tiếng hát. Mỗi tối trong tiếng đàn ghi ta phừng phừng là phải nghe lại vài lần điệp khúc:

        Cho đồng bào tôi ở khắp bốn phương trời
        Hát những bài ca tôi mọi đã mòn hơi


        Không biết đồng bào đã mòn mỏi tới cỡ nào, nhưng tiếng hát mỗi tối của Như nghe chừng hăng say lắm.

        Khi đã được ra phố là Châu Thiên Huệ đã bắt đầu bị bôi bác. Có nhiều bạn đã làm chứng rằng vũ khí của hắn khi lâm trận chẳng những buồm không căng gió mà cột buồm cũng chẳng dương thêm kích thước bao nhiêu. Nghĩ nực cười, thằng bự con mà ưa khóc tổ cha! Trong mấy tuần huấn nhục cứ nghe nó khóc lóc với cán bộ khi bị móc ra phạt không thôi cũng đủ muốn bịnh luôn.

        Để chấm dứt chương này, hãy chép lại đây nguyên văn lời kể của Hoàng Văn Trung về Quân Trường Không Quân Nha Trang:

        "Kính tặng các niên trưởng của trại Ngân Hà đã dậy các khóa đàn em nhận xét và đối phó với những gian khổ trên đời.
        Cùng kính tặng những người lính VNCH để nhớ lại những ngày đầu vào lính.

        Tôi vào Không Quân trong cái lo âu của mẹ già. Nhưng trong không khí chiến tranh của cả nước, giặc Cộng nổi lên đánh phá khắp nơi, làm thân trai với một lòng yêu nước nhiệt thành, đã được hun đúc bởi bao nhiêu công lao dậy dỗ của các thầy cô trong những năm cắp sách, tôi không thể ngoảnh mặt quay lưng với những đau thương quằn quại của cả một dân tộc.

        Nếu muốn, thì với cái vốn 'con trai độc nhất còn lại trong gia đình', tôi có thể ở nhà, lang thang qua lại trong các trường đại học sống lây lất qua ngày! Hay là theo bọn Huỳnh tấn Mẫm, Lê văn Nuôi đi biểu tình chống chính phủ. Nhưng tôi đã chọn con đường mà biết bao thế hệ ông cha, trai hùng nước Việt đã chọn khi tổ quốc lâm nguy.
        Hai lần đưa đơn lên Đà Lạt không có hồi âm. Tôi vào Không Quân.
        Sau khi trải qua bao lo âu hồi hộp trong những kỳ khám sức khỏe, tôi được tuyển vào đợt đầu tiên, đợt 'ngon lành nhất'.

        Vào trại khóa sinh ở Tân sơn Nhất chờ ngày ra Nha Trang. Chúng tôi tập đi đứng như một người lính... (sau này ra Nha Trang tôi mới thấy đi một, hai kiểu Tân sơn Nhất là đi kiểu lính dởm!) Tôi dại khờ tự nhủ: 'Đi lính vậy mà có người than khổ.'
        Ăn thì xếp hàng thứ tự vào nhà ăn, cơm dọn sẵn có cá chiên có canh, cơm trắng. Tôi nghe ai đó nói là cá mối chiên, nên tôi lợm. Nghe đến tiếng 'mối' là thấy nhợn quá rồi. Mẹ tôi vào thăm qua ngả trại Hoàng hoa Thám, gặp tôi cứ xoa xoa nắn nắn: 'Trời ơi, mới có mấy ngày mà sao con gầy đét như thế này...'

        Ba chuyến C-130 chở bọn tôi hăm hở ra Nha Trang học lái máy bay! Tôi đi chuyến thứ hai. Lần đầu tiên trong đời được đi máy bay, thấy cũng thích mà cũng ớn. Ngồi trong lòng máy bay cứ mơ tưởng đến cái đẹp Nha Trang của miền thùy dương cát trắng trong sách vở mà lòng háo hức không thôi.

        Cảnh đẹp với những hàng dừa, phi lao, bãi cát trắng, bộ đồ ka ki vàng dạo phố, bộ đồ bay oai phong lẫm liệt như mấy ông pi lốt thường thấy trong xi nê, sách báo... Mình sắp ngon lành rồi..."
        Máy bay hạ cánh.

        Ái dà, Nha Trang với gió biển sao mà nóng quá vậy. Khô quá. Toàn cát là cát. Phi lao phi liếc gì đâu sao không thấy. Núi cao vời vợi. Hàng rào kẽm gai. Vỉ sắt lót đường. Sao không thấy gì hấp dẫn hết vậy ta?

        Sao không thấy ai đem đồ bay phát cho mình vậy? Đứa nào đứa nấy mặc đồ treidi xanh coi 'dởm' quá. Ông hạ sĩ quan hướng dẫn bọn tôi đang đứng ngóng chờ ai đó với xấp giấy trong tay. Trời Nha Trang với miền thùy dương cát trắng gì mà sao khủng khiếp thế này.

        Mồ hôi bắt đầu lấm tấm. A! May quá. Có hai người mặc ka ki vàng đi tới. A! Sinh Viên Sĩ Quan. Có đứa trong bọn tôi cười cười chỉ chỉ.


        Một ông ka ki vàng hùng hổ sấn tới:
        "Ông cười tôi cái gì?
        Cả bọn xính vính: 'Sao bất lịch sự quá. Ngang tàng quá. Ma cũ bắt nạt ma mới đây mà.'

        "Mấy ông đi đâu đây?
        "Dạ. Chúng tôi đi ra quân trường...
        Chưa dứt lời, 'hắn' đã chận họng:
        "Mấy ông là đàn bà đi chợ chứ đi quân trường cái gì... Như một đàn vịt ngoài chợ. Quân trường này không chấp nhận những người như các ông.
        Thêm mấy ông ka ki vàng tới nữa. Mặt ông nào ông nấy đằng đằng sát khí. Lườm lườm, kênh kênh, giận dữ, mắng mỏ. Không khí bất chợt trở nên cực kỳ ngộp thở.
        "Ông tên gì?
        "Dạ, tên...
        Bỗng... ông ka-ki vàng quát lên một tiếng long trời:
        "Dạ cái gì? Quân đội mà dạ hả? Không có dạ ai hết... Nghe chưa?
        Thằng đàn em run rẩy, lí nhí:
        " Dạ, nghe...
        Đây là còn ở phòng khách của phi trường Nha Trang. Bao nhiêu cặp mắt của đàn ông, đàn bà, con nít, người lớn, thanh niên, thiếu nữ đổ dồn về nhìn chúng tôi ngạc nhiên. Quê quá. Quê quá!
        "Lại dạ nữa... Ông bước ra khỏi hàng cho tôi.
        Thằng em tội nghiệp, lếch thếch vác cái túi đồ nặng chình chịch đi theo ông ka ki. Rất là vô lý và ngang ngược, ông ka ki đứng đối diện với con ma mới:
        "Ông thích dạ lắm phải không? Ra đứng đằng kia. Dạ đủ cho tôi một trăm tiếng.
        Thằng em chạy ra xa, mắc cỡ ngó đám khán giả, ngại ngần:
        "Ông chống đối phải không?
        "Dạ, dạ, dạ, dạ..."
        Tiếng dạ 'vang lừng' trời đất. Tôi liếc thấy mấy đứa con gái đang che miệng cười ngặt nghẹo. Quê ơi là quê! Bỗng... có tiếng nạt bên tai:
        "Ông ngó cái gì? Bò ra khỏi hàng, hít đất cho tôi một trăm cái.
        Tôi chới với, lừng khừng một chút:
        "Thưa huynh trưởng, tôi...
        Nạt nộ lấn át:
        "Huynh trưởng cái gì? Bộ ở đây là Thủ Đức hả? Hay là Hướng Đạo? Ông muốn chống đối phải không?
        Tôi tiu nghỉu, ngoan ngoãn bò ra khỏi hàng nằm chống hai tay xuống hít lên hít xuống. Thằng đứng kế tôi được một ka ki khác hỏi thăm:
        "Ông có cái băng vải đỏ với bốn chữ SVSQ là nghĩa gì vậy?
        "Dạ... là Sinh Viên Sĩ Quan...
        "À! Sinh Viên Sĩ Quan. Có nghĩa là ông bằng cấp bực với tôi phải không? Ngon. Ông có giấy tờ chứng-nhận là Sinh Vi ên S ĩ Quan không?
        "Dạ...dạ..không.
        Bỗng ông ka-ki vàng gào lên:
        "Ông muốn chết như những khóa trước ông phải không? Vậy thì ông cứ dạ hoài đi... Không Quân mà khúm núm như ông thì chết rồi. Ông có giấy gì chứng nhận là Sinh Viên Sĩ Quan không?
        Có lời nói to:
        "Không.
        "Ủa! Vậy là ông giả mạo Sinh Viên Sĩ Quan ra đây phải không?
        Cả bọn chúng tôi ngơ ngác chẳng biết mô tê gì hết. Bỗng một ông có vẻ là trưởng-toán đứng ở đầu hàng quân nói lớn:
        "Các ông xưng là SVSQ ra đây để hù dọa chúng tôi? Không ai gắn alpha cho các ông. Không ai có lấy một tờ giấy gì để chứng nhận. Tôi cho các ông 30 giây để xé cái băng SVSQ giả mạo xuống. Một, hai, ba, ...
        Cả đám nhốn nháo đưa tay xé, bứt... mà làm sao bứt được cái băng vải được may thật kỹ phía trên nắp túi. Giờ ngồi nghĩ lại thấy mình sao ngu quá: tự nhiên mấy người trời ơi đất hỡi nó đến nó "phạt" mình... rồi cái mình hùng hục làm theo, vậy à!


        Tiếng đếm vẫn lạnh lùng, khô khốc: 'chín, mười, mười một...'
        Thế là cả bọn tôi nhào vào, thằng này cắn cho thằng kia. Cả đám khán-giả ở ngoài xem vở 'bi... hùng kịch' chắc là... thích lắm.
        "Để trừng phạt cái tội giả mạo. Chúng tôi cho các ông một ân huệ là hít đất 100 cái đúng thế. Bất cứ ai ma giáo, cả hàng sẽ phải làm lại từ đầu.
        Những tiếng thét gào lại vang ầm lên như cố tình lấy oai với đám khán giả bất đắc dĩ ở phòng chờ đợi máy bay. Cả bọn chúng tôi bò nhoài ra. Cát bụi tung mù lên. Một, hai, ba, ... mười, ... hai chục, ... ba chục... Má tôi mà gặp cảnh như vầy chắc bả lấy đòn gánh khện mấy ông ka ki vàng này chết quá.

        Mồ hôi đã nhễ nhại. Cũng gần 80 cái rồi. Trời nắng chàng chang, gay gắt đổ lửa. Miệng lưỡi khô rát. Bỗng có tiếng quát tháo:
        "Có người ma giáo. Ông kia bước ra khỏi hàng. Bước ra mau. Mau. Nãy giờ nằm yên không lên xuống gì hết. Bỏ... Bỏ... Đếm lại... một, hai, ba, bốn... Ông kia nữa bước ra khỏi hàng. Tử tế, thấy các ông mệt mỏi, cho các ông khuây khỏa các ông không muốn. Các ông lại giở trò ma giáo với khóa đàn anh.

        Tôi nghĩ thầm:
        "À! thì ra là khóa đàn anh đây. À! thì ra đây là huấn nhục đây mà. Cũng chưa sao.
        "Hít. Hít. Hít.
        Cả bọn tôi sau vài lần đếm tới đếm lui, đếm qua đếm lại rất là 'bất nhân' của các ông 'anh', đã xơ xác tiều tụy thê lương lắm lắm rồi. Tiêu điều thấy rõ. Tôi thấy đã bắt đầu hơi... chán lính. Nhớ mẹ quá. Ai bảo? Cũng tại không nghe lời mẹ ở lại Sài Gòn đi học đại học!

        Hai chiếc GMC xịch đến. Hai chiếc xe buýt dân sự cũng chạy đến chở đám hành-khách Air Việt-Nam.
        "Các ông có 15 giây để lên xe. Ông nào lè phè ở lại sẽ bị hành xác tối đa.
        Cả bọn ùa lên xe nhào nhào. Đứa nào đứa nấy mặt cắt không còn hột máu. Tôi ước ao chạy lên chuyến xe dân sự về lại Sài Gòn sống với... má! Xe GMC đến một cái sân nhỏ có tượng Đại Bàng xòe cánh.
        "Trong 15 giây các ông phải tập họp trước tượng Đại Bàng. Xuống. Xuống. Lẹ lên.
        Có tiếng gào:
        "Mau lên. Dòm cái gì. Biết chạy không?
        Cả một bầy ka ki vàng nhốn nháo lăng xăng rầm rập gào hét khắp nơi y như một bầy kiến lửa bao vây xâu xé một bầy kiến đen bất hạnh đang co rúm người lại, rách bươm.
        "Các tân khóa sinh quỳ xuống. Chúng tôi trước tượng Đại Bàng... Xin thề.
        "... Toàn thể khóa sinh... Xin thề. xin thề.

        Tôi chẳng biết mấy ông nội nói cái gì. Thấy đưa tay thì cũng đưa lên đưa xuống. Khát nước quá. Mệt muốn lả ra rồi. Cát trắng Nha Trang khô khan nóng bỏng. Bên kia chắc là câu lạc bộ, vài người đang đưa ly nước đá lên uống. Ôi chao! Sao mà đã quá. Chắc là nước đá chanh đường. Bọn tôi vẫn thở hồng hộc, chỉ khác con chó là không có le lưỡi ra mà thôi. Mặt trời vẫn như đổ lửa xuống những con người khốn khổ dám mơ mộng đòi lái máy bay.
        Xe tiếp tục đến trại.
        "Nhanh lên, nhanh lên. Sao các ông giống mấy bà già quá...

        Vào đến nơi thấy mấy đứa đi chuyến máy bay trước đang lảo đảo chạy vòng quanh chào trại. Bọn tôi bị lùa vào chung một mẻ, vác cái túi nặng quân-trang trên vai nối theo dòng người, cùng nhau tơi tả. Cứ lếch thếch chạy như những người điên. Cái nắng, cái khô, cái mệt, cái khát cùng ập vào những người 'dại dột'. Những bước chân bắt đầu xiêu vẹo dần và từ từ gục ngã trên đám cát trắng của... miền thùy dương!! Vài đứa đã bắt đầu lật ngửa. Bọn không phi hành quả yếu thật. Lật chổng gọng dài dài. Vài ông đàn anh có vẻ nóng nẩy co chân đá vào cái túi quân trang. Té sấp. Lủi vào cát nóng bừng bừng. Có tiếng đàn anh hô to khoan khoái:
        "Có hai người chết rồi. Niên trưởng ơi, có người chết rồi. Hết thở rồi... Đem lên núi chôn đi...
        "Khoan. Cho nó phủ lá cờ đã rồi hãy chôn.
        Bốn đứa được chỉ định khiêng hai xác... 'chết' đem đi chôn. Một giọng nói lạnh lùng:
        "Lột áo ra.
        Hai chiếc áo được cởi ra. Hai đứa nữa được tăng cường để khiêng lên hai xác một lượt.
        "Để nằm trên vỉ sắt kia. Một lát nữa chôn cũng được.
        Vừa được đặt nằm lên vỉ sắt, bỗng hai xác chết bật dậy nhăn nhó quằn quại. Cái vỉ sắt có ba hàng sóng, lót cho xe chạy, nằm tênh hênh giữa bãi cát dưới ánh nắng thiêu đốt của quân trường Nha Trang đã trở thành một cái vỉ 'nướng'.

        Hai xác chết 'hồi dương' nhìn gương mặt lạnh lùng cô hồn của ông đàn anh đang nhìn chằm chằm, kênh xì-po. Biết thân biết phận hai thằng lại lủi thủi chạy. Ba ngày sau, trên lưng mỗi đứa đều hiện rõ ba sọc ngang của lá cờ, rát bỏng.
        Mèo vờn chuột một lúc rồi cũng phải chán.

        Vào nhà nghỉ lại phải chịu một đòn cân não.
        "Các ông mà lái máy bay cái gì. Chạy mới có mấy vòng đã xỉu lên xỉu xuống. Chúng tôi được lệnh phải loại sức khỏe khóa này 50%. Ai chịu không nổi sẽ loại ra khỏi Không Quân. Ê! Ông kia còn muốn lái nữa không?

        Thằng nào thằng nấy lắc đầu chua chát. Mấy ông kẹ bắt đầu thấy có vẻ dễ chịu hơn, có ông cười cười. Vừa vặn được năm, mười phút Bỗng bọn hắn 'trở mặt' thật lẹ. Một ông kẹ bỗng 'kiếm chuyện', quát lên:
        "Ra sân. Ra sân. Các ông là những con người lêu lổng. Tôi về Sài gòn đi phép gặp các ông tóc dài tóc ngắn. Đi với đào nắm tay nắm chân. Gặp tôi không biết đàn anh đàn em. Chưa ra quân trường mà dám móc an-pha đi dạo phố Sài Gòn. Yêu cầu mấy ông tập họp ra sân làm 100 cái hít đất.

        Đến màn khám xét vật dụng lại có một trận cười ra nước mắt. Một tên có đem theo hộp sữa. Bắt phải khui ra. Vừa chạy từ đầu trại đến cuối trại, vừa nút hộp sữa vừa la to cho mọi người cùng nghe:
        "Tôi đi Không Quân mà chưa bỏ bú. Tôi chưa bỏ bú mà đòi đi Không Quân... Tôi đi Không Quân mà...
        Rồi liên tục bị quần thảo, bị hành xác từ sáng tinh mơ 4, 5 giờ đến 11, 12 giờ đêm là thường. Vào nhà ăn phải bò, phải lết, phải quỳ... Đang ăn mà chạm nhẹ cái muỗng lên mâm là cả ba bốn ông đàn anh đến hỏi thăm:
        "Ông ăn kiểu chợ Cầu Muối hay Cầu Ông Lãnh? Tư-cách SVSQ là như vậy hả. Bỏ mâm cơm xuống, bước ra khỏi hàng. Móc chân lên cửa sổ, chống hai tay xuống đất. Cầm cái muỗng ăn cũng không nên thân.
        "Ông kia nhẩy cóc chung quanh nhà ăn cho đến khi nào được lệnh mới vô."

        Có thằng tủi-thân khóc sướt mướt, lấy nước mắt chan cơm. Có thằng lóc cóc vừa nhẩy vừa sụt sịt.
        Tối phải cầm súng, thay ca, gác cho đàn anh ngon giấc. Cơm, phải thay phiên dọn sẵn, chờ các 'quan' ăn xong mới được vào ăn. Phòng tắm, nhà cầu phải sạch sẽ cho các 'ngài' xử dụng. Đang ngủ tơ lơ mơ 1, 2 giờ sáng lại bị dựng đầu dậy ra sân tập họp phạt vì... ngủ ngáy lớn quá. Đang mắc mùng đi ngủ thì bị lôi ra phạt nhễ nhại mồ hôi vì tội dám... đem muỗi ở Sài Gòn ra đốt khóa đàn anh! Đàn anh đi ngang chưa kịp chào cũng bị bắt lỗi là khi dễ đàn anh.
        Lại bò lê bò càng

        Một câu 'có vẻ' tình người nhất, là hôm chúng tôi được chở ra quân y viện Nha Trang hiến máu. Hiến xong, có bíp tếch, ốp la, thuốc bổ, cà phê sữa... khoan khoái cuộc đời, hổm rày ăn toàn... chửi rủa với hét la. Khi về trại, chúng tôi nghe một lời thảng thốt của ông Thiếu Tá Liên Đoàn Trưởng:
        "Trời ơi! Tụi nó là phi hành mà sao mấy anh bắt tụi nó đi hiến máu. Rồi làm sao huấn nhục được bây giờ.
        Phi-hành cũng có thớ lắm chứ nhỉ! Hà hà. Nhờ vậy mà nghỉ được vài ba ngày. Mấy ông đàn anh đi ngang cứ lườm lườm nguýt nguýt. Kênh kiệu. Gặp các ông khóa 40, 41 hoa-tiêu L-19 mặc áo bay, đội nón đen nón tím coi oai không thể tả. Mà gặp 'tụi nó' là coi như lãnh đủ. Mấy ông nội này mà 'quần' là xỉu dài dài. Thiên hạ đồn rằng 'vì các ông ấy bất mãn không được đi Mỹ lái F-4, F-5 nên trút tất cả bực dọc lên đàn em là những đứa có khả năng đi Mỹ nhiều hơn.' Mỗi lần mấy ổng 'ra tay' là 2 chiếc Dodge pick-up chờ sẵn.
        "Nếu không xỉu 2 phần 3 thì ngày mai chúng tôi sẽ không đi bay!
        “Hai chiếc xe chờ sẵn đây. Một chiếc sẽ chở các ông đi nhà thương. Một chiếc sẽ đi nhà xác nếu cần. Ông nào không đủ sức khỏe sẽ loại ra khỏi Không-quân.
        "Bước ra khỏi hàng. Tại sao niên trưởng đang nói mà ông dám ngáp. Biết các ông mệt, tôi đã cho các ông thoải mái mà các ông còn khi dễ chúng tôi. Nhẩy xổm 100 cái...
        Vua kiếm chuyện!' Làm sao thì làm, các ngài cũng không vừa lòng đẹp ý! Hiệu lệnh được phát động thế là cả đàn kiến lửa cộng thêm kiến có cánh, bò vào xé nát hàng ngũ đàn kiến đen xấu số... Lật! Ngả! Xỉu! Khiêng ra xe. Đủ một xe là phóng đi bệnh xá.
        Tiếng hét, tiếng la, tiếng gào tiếng hài tội. Cảnh áo vàng ka ki láng o đứng nghiêm nghị quắc mắt trước một tên áo treidi ướt đẫm mồ hôi, bèo nhèo, nhăn nhúm, đầu cạo trọc lóc, đứng không vững... là hình ảnh rõ rệt nhất của 'thế giới quân trường'.
        Lật! Lật! Ngả dài dài.
        "Bò! Bò như con chó đó. Sủa lên cho tôi nghe coi.
        "Gâu. Gâu. Gâu.
        "Lăn. Lăn như con heo đó.
        "Ông khiêng cái xắc ma ranh lên khỏi đầu nhẩy cho tôi 100 cái đúng thế. Nhẩy sai đếm lại từ đầu...
        Mệt lả. Khát nước. Mắt mờ đi vì mồ hôi cứ tươm vào mắt. Run rẩy. Hối hận. Phải chi giờ này ở Sài Gòn thì cà phê cà pháo. Khỏe quá. Không biết đào mình ở Sài-gòn bây giờ đang làm gì nhỉ? Chắc em tưởng mình đang 'thụ huấn, học lái máy bay khu trục chiến đấu Skyraider. Đang học oanh tạc, học bắn rocket!!' Ngu! Ngu thiệt! Em đâu ngờ anh bây giờ đang vừa bò vừa sủa như con ki ki nhà em!
        "Ông nhẩy xuống cái ống cống này cho tôi. Nằm xuống. Nhẩy lên. Nhăn cái gì. Chống đối phải không?
        Xe chở đi nhà thương dài dài. Và quả thật có hai thằng phải chở đi nhà xác.
        "Ông nhẩy cho tôi 100 cái công lực. Hai gót chạm mông. Sinh Viên Sĩ Quan mà các ông không có tư cách gì hết ráo.
        Chưa vào lính mà nghe nhẩy xổm sao thấy dễ quá! Nhẩy 25 cái thôi là biết đá biết vàng liền. Từ 5 giờ sáng đến 10 giờ đêm ít ra là khoảng vài ba ngàn cái hít đất, nhẩy cóc nhẩy nhái, nhẩy xổm, bò lê bò lết. Thư sinh cách mấy mà vô đó rồi thì cũng sạm đem. Thịt da săn cứng. Chắc nịch. Hùng dũng. Cô lét tê rôn, chất béo, chất mỡ gì là láng sạch sành sanh. Chạy đường trường năm ba cây số là đồ bỏ.
        Tin đồn huấn nhục chỉ hai tuần thôi mà sao kéo dài đến ba tuần. Rồi bốn tuần. Rồi hai tháng. Chết mẹ chắc 'mấy ổng' quên! Rồi... rồi... ba tháng hơn!
        "A ha ha! Rồi cũng đến ngày gắn An-pha.
        "Các niên trưởng của tôi rước cờ thật đẹp. Cho đến bây giờ tôi chưa thấy đội hầu kỳ nào đi oai phong, hùng dũng và lả lướt như đội hầu kỳ của Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân.
        "Quỳ xuống các khóa sinh...
        "Xin thề. Xin thề...
        "Đứng lên các Sinh Viên Sĩ Quan.
        –Đêm trao găng tay trắng diễn ra cảm động. Trong dẫy trại ba rắc, bên ánh nến lung linh mờ ảo. Sau lưng là các khẩu ga răng với dây đeo màu trắng móc chéo vào nhau. Giây phút chờ đợi của SVSQ Không Quân đang đến với chúng tôi đây. Thôi cũng được. Chúng tôi 'tha thứ' cho các niên trưởng đã hành hạ chúng tôi trong ba tháng qua. Toàn thể chúng tôi trong bộ ka ki vàng mới toanh. Từng hàng SVSQ niên trưởng bước vào tươi cười đeo găng cho chúng tôi. Rồi tiệc vui, thoải mái, 'bình đẳng'. Cuộc đời Sinh Viên Sĩ Quan chúng tôi sẽ khỏe khoắn hơn từ đây. Giã-từ những ngày huấn nhục kinh hoàng cho những chàng trai trẻ vừa từ giã chiếc ghế nhà trường. Hôm nay ta ngủ được một giấc ngủ yên lành không chiêm bao mộng mị. Hãy cầu xin trời đất phù hộ cho các đàn anh dù họ đã hành hạ mình quá sức tưởng tượng. Sau cơn mưa trời cũng phải sáng lại mà thôi. Ngủ cho ngon cái đã.
        "Tiếng kẻng báo thức 5 giờ. Bọn SVSQ mới, trở mình nhìn cái Alpha sung sướng.
        Mình là Sinh Viên Sĩ Quan rồi.
        Bỗng cả đám giật bắn người như điện giật, kinh hoàng co giò chạy ào ra còn hơn ma đuổi. Cái giọng hò-hét quát tháo quen thuộc của ông đàn anh lại vang lên:
        "Giờ này còn chưa dậy phải không? Cho các ông khuây khỏa, tự-giác các ông không muốn. Các ông lại muốn hành xác tối đa. Tập họp trong vòng một phút. Nhẩy cho tôi một trăm cái công lực đúng thế. Gắn Alpha rồi mà vẫn còn lè phè ngủ không biết giờ dậy. Từ hôm nay sẽ phạt gấp đôi!"


        Last edited by hung45qs; 04-14-2011, 04:19 AM.
        Hung45HTQS

        Comment


        • #5
          Mẫu Chuyện Đời Dang Dở


          Cuộc đời là một trường thiên đại kịch, và kịch trường có những nguyên tắc của nó. Khởi đầu một vở kịch là hình ảnh của một trạng thái quân bình, rồi sự quân bình này bị xáo trộn làm cho khán giả cảm thấy bất an. Sự xáo trộn này vừa không hợp lý và được tạo ra bởi ý muốn của một nhân vật nào đó làm cho khán giả bất mãn. Sự bất hợp lý này phải được giải quyết bởi các nhân vật trong vở kịch. Trong một vở kịch phức tạp có thể có nhiều sự éo le xẩy ra, hoặc trong cùng một lúc để rồi được giải quyết cùng một lần vào đoạn chót, hoặc xẩy ra từng sự việc một và được giải quyết tuần tự.

          Trước khi đi xa hơn, hãy phân biệt rõ ràng thế nào là “vô lý” và thế nào là “bất hợp lý”. Vô lý là khi có kẻ đồn rằng Phạm Công Chiến Thắng dùng Viagra. Chuyện này vô lý, nghĩa là không có lý, ở chỗ anh chàng ngăm đen bình thường trông đã rất khỏe mạnh cường tráng mà lại còn mới lấy vợ trẻ. Còn bất hợp lý, nghĩa là không đúng, là khi có người đề nghị bỏ treo cờ vàng ba sọc đỏ trong ngày họp khóa.


          Bây giờ hãy trở lại đề tài kịch nghệ. Hãy tạm dùng câu truyện cổ tích Thạch Sanh Lý Thông làm thí dụ. Khi vào truyện là một hoàn cảnh thanh bình đẹp đẽ. Hai anh em bạn thân từ tấm bé cùng lớn lên với nhau, một chàng thư sinh theo kinh sử sau làm quan, người kia khéo tay và khỏe mạnh thì thành người tiều phu đốn củi. Một trạng thái quân bình xã hội.

          Trạng thái quân bình đó đã bị lung lay sụp đổ khi công chúa bị chằng tinh bắt đi. Nếu công chúa không may trúng gió chết thì là vì tai nạn, không có gì đáng tức giận, nhưng đây là vì cái ý muốn tai ác của một chằng tinh. Bởi ý muốn đó không phù hợp với ý muốn của mọi người trong truyện như vua cha, triều thần, dân chúng, v.v..., cũng như ý muốn của khán giả, sự việc cần phải được giải quyết.

          Khi Lý Thông tình nguyện mang quân đi dẹp chằng tinh, chàng đã nhờ người bạn cũ giúp sức, và họ đã thành công trong việc giết chằng tinh để cứu công chúa về. Sự quân bình đã được tái lập, và câu chuyện có thể kết thúc mà khán giả không bất mãn, nhưng kết thúc như thế thì tẻ nhạt quá vì không có biến cố chi nhiều. Do đó phải có một sự bất hợp lý khác xẩy ra để tiếp nối câu chuyện. Sự bất hợp lý này đã được thể hiện qua việc Lý Thông bỏ Thạch Sanh lại dưới hang chằng tinh sau khi đã cứu được công chúa. Một lần nữa, ý muốn của Lý Thông không phù hợp với ý muốn yêu chuộng công bằng của đại đa số khán thính giả.

          Sự bất hợp lý đó đã được phanh phui trong bữa tiệc mừng Lý Thông thành phò mã. Cây đàn thần làm từ một khúc gỗ của một cây cổ thụ linh thiêng do chính tay Thạch Sanh đốn mang về trước đó đã lên tiếng hát:

          Đàn kêu tích tịch tình tang
          Ai đem công chúa lên hang mà về?


          Sau khi sự thật đã phơi bày thì dĩ nhiên Lý Thông phải bị trừng phạt, trong khi Thạch Sanh đã được thưởng xứng đáng với công trạng. Trạng thái quân bình hợp lý được tái lập, và người nghe có thể ra về thơ thới hân hoan.

          Vở trường thiên đại kịch là cuộc đời dĩ nhiên là phức tạp hơn nhiều. Vở kịch này hay hay dở là tùy nó có nhiều biến cố hay không, và những biến cố đó có được giải quyết hợp lý hay không.

          Câu chuyện của 72A cũng thế. Nó hay hay dở là tùy nó có nhiều tình tiết hay không, và những tình tiết này có được giải quyết hợp lý hay không.

          Khởi đầu câu chuyện là một thời gian tương đối thanh bình. Thế chiến thứ hai đã qua, những đế quốc đang mất dần thuộc địa và ở Đông Dương thì Pháp đã phải rút lui trả lại độc lập ngay vào khoảng thời gian anh em 72A ra đời. Mọi việc có vẻ rất quân bình hợp lý, nhưng ngay sau đó là đất nước bị phân chia vì ý thức hệ, và trong những năm sau đó thì miền Bắc đã tấn công miền Nam.

          Sự bất hợp lý đó đã là một đám mây mù che phủ cả quãng thời gian thơ ấu cũng như đến lúc trưởng thành của những người bạn 72A. Chính vì cái bất hợp lý đó mà những người bạn 72A đã đăng lính và đã gặp nhau.


          Năm 75 khi miền Nam thất trận thì biến cố này không hợp lý. Tuy nhiên, hãy tạm coi như đó là một tai nạn đi, vì biến cố đó không phải do một cá nhân gây ra, và bởi nó quá lớn cho những anh em 72A, họ cũng không thể làm gì được nữa.

          Sự mất quân bình không phải chỉ có thế thôi. Sau đó là những mảnh đời phiêu bạt. Kẻ chạy được sang ngoại quốc thì ở trong tâm trạng hoang mang thiếu chuẩn bị và chới với trong những môi trường xa lạ không người thân thuộc. Kẻ kẹt lại thì đi học tập ở những chốn rừng thiêng nước độc, cơm không có để ăn, áo quần không có mặc, ốm đau không có thuốc.

          Với thời gian rồi thì những khó khăn của hoàn cảnh cũng dần qua, nhưng hình như trạng thái quân bình vẫn chưa được tái lập. Đây là vì nhiều yếu tố: Thế giới đã thay đổi, con người đã thay đổi, xã hội Việt Nam đã thay đổi. Cái đời sống cũ như anh em 72A đã từng biết và từng chia xẻ đã mất. Nó đã mất quá đột ngột vội vàng. Thời gian qua quá nhanh, hình như có một cái gì đó không hoàn toàn hợp lý. Mỗi người có một cái gì đó không hợp lý mà có thể đã bắt nguồn từ tất cả những biến cố đã kể ngoài khả năng kiểm soát của chính mình, như chiến tranh, biến cố 75, v.v... Nếu sống trong một hoàn cảnh thanh bình, có thể mình đã không chọn cái công việc mình đang làm, có thể mình đã không chọn người bạn đời mà mình đang chung sống, hoặc có thể mình không chọn nơi mình đang ở.

          Bây giờ hãy thử nhìn sơ lược về những gì đã xẩy ra trong suốt thời gian qua của cuộc đời mình và ghi nhận xem mình đã có những gì khả dĩ làm cho mình được hài lòng, cũng như những gì vẫn còn chưa ổn. Qua những sự việc đó, hãy tự hỏi xem trong mỗi hoàn cảnh, mình đã có được sự chọn lựa nào. Dĩ nhiên ai cũng chỉ phải chịu trách nhiệm cho những gì do chính sự chọn lựa của mình đưa tới mà thôi.

          Last edited by hung45qs; 04-15-2011, 01:05 AM.
          Hung45HTQS

          Comment


          • #6
            Bối Cảnh Trước 75


            Hai mươi mấy năm đầu của cuộc đời những thằng sinh viên sĩ quan Không Quân của khoá 72A là những năm có nhiều biến cố lạ trong lịch sử của nước Việt. Từ khi đất nước chia hai, riêng miền Nam đã chứng kiến sự hiện diện của hai cường quốc, hai nền cộng hòa, và hai lần di cư.

            Nói về những nẻo đường đất nước, Bàng Bá Lân đã nói:
            Có thể ví những nẻo đường đất nước ta như những huyết quản chạy khắp châu thân là tổ quốc Việt Nam. Nước Việt Nam ta có một con đường chính nối liền ba miền Bắc, Trung, Nam, đầu gối Nam Quan, chân đạp Cà Mau, dài hơn 2.000 cây số. Con đường ấy thời xa xưa có cái tên rất Việt Nam là đường cái quan, nay là quốc lộ xuyên Việt số 1.

            Vào ngày 7/5/54, quân đội viễn chinh Pháp , một đội quân thiện chiến có hạng trên thế giới với một lịch sử kiêu hùng của hơn ba trăm năm, đã đầu hàng trong trận Điện Biên Phủ. Từ ngày 20/7/54 hiệp định Genève chia đôi đất nước, quốc lộ số 1 đã bị cắt đứt ngang vĩ tuyến 17 tại giòng sông Bến Hải. Trong phần Sông Mẹ của Trường Ca Mẹ Việt Nam, Phạm Duy đã viết:
            Chia tang thương phân tranh mộng đồ vương
            Cho con sông Bến Hải buồn thương
            Chia da thịt tang thương
            Cắt thân hình trơ xương
            Trái tim buồn còn hằn mang vết thương lòng


            Từ sau khi quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ trên Hiroshima, một cuộc chạy đua vũ khí vĩ đại đã diễn ra giữa Nga và Mỹ. Năm 52 thì bom khinh khí với sức mạnh tàn phá 100 lần hơn bom nguyên tử đã ra đời và gây đe dọa trầm trọng cho sự sống còn của nhân loại. Cho đến năm 54 thì miền Nam nước Việt, mà người Pháp gọi là Cochinchine là thuộc địa của Pháp. Trong khi đó thì đối với Bắc Việt là một phần của Indochine, hoặc là Đông Dương, gồm có Việt Miên Lào, thì họ chỉ là chính phủ bảo hộ mà thôi. Miền Trung thì tự trị bởi triều đình nhà Nguyễn. Ở Việt Nam ngày đó có rất nhiều thứ lính. Kể sơ sơ ra cũng đủ thấy ù tai. Nào là Khố Xanh, Khố Đỏ, Khố Vàng , Tẩy , Lê Dương, Pạc Ti Giăng, Lãng Binh, Dõng, Cơ, Lệ, Mã Tà, Mặt Rằn, Phú Lít . Đó là chưa kể tới những quân đội của các giáo phái địa phương không chịu thuộc vào một chính phủ nào.

            Cuộc di cư từ Bắc vào Nam đã chấm dứt vào tháng tư năm 55, và trong năm đó người Pháp đã bắt đầu rút khỏi Đông Dương. Cùng trong năm này, Bức Màn Sắt đã chia cắt Âu Châu làm hai khối. Chín trăm nghìn dân miền Bắc đã di cư vào Nam trong gần một năm sau hiệp định Genève. Theo với họ là những màu sắc tuy xa lạ nhưng rất nên thơ.
            Gió thổi mùa thu hương cốm mới
            Gió thổi heo may về Hà Nội

            Trong những vùng có đông dân di cư chiều cuối tuần những gia đình theo Công giáo hay có họp nhau đọc những câu kinh
            Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời,
            cầu cho chúng con là kẻ có tội
            hoặc:
            Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng,
            lời nói, việc làm và những điều thiếu sót:
            lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng

            Trong khi đọc ba lần lời cáo mình trong câu chót, người ta dùng nắm tay đấm nhẹ vào ngực, và do đó mà có kẻ đã dùng chữ “dân đấm ngực” để chỉ những người theo Công giáo.


            Vào năm 54, ông Ngô Đình Diệm đã được người Mỹ đưa sang Pháp để yết kiến Quốc Trưởng Bảo Đại nhận ủy nhiệm thư từ về làm thủ tướng Việt Nam. Lúc bấy giờ quân đội miền Nam nằm dưới quyền chỉ huy của Tổng Tư Lệnh Quân Đội là Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh với sự hậu thuẫn của Pháp. Ở Miền Nam thời đó còn có ba thế lực lớn không thuộc chính phủ là Cao Đài, Hòa Hảo, và Bình Xuyên. Riêng Bình Xuyên là một tập thể mạnh hơn cả ở miền Nam. Trong cái tinh thần “cứu khổn phò nguy” của các anh hùng Lương Sơn Bạc, người miền Nam rất ái mộ hai câu thơ sau:
            Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
            Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng

            Vào tháng 10/54, các đảng phái chính trị, tôn giáo, và các nghiệp đoàn đã họp nhau lại và cùng đồng lòng truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại và ủng hộ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Trong năm 55, Ngô Đình Diệm đã bình định miền Nam, và tướng Hinh thì đã lưu vong sang Pháp. Với uy nổi như cồn, đến ngày 20/7/55, Ngô Đình Diệm đã từ chối tham dự cuộc tổng tuyển cử toàn quốc. Vào tháng 9/57, chính phủ Ngô Đình Diệm làm một cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam, và ông đã được bầu làm tổng thống. Sau khi nhậm chức xong, giữa lúc tinh thần dân chúng đang lên cao, Ngô Đình Diệm đã hô hào rằng miền Nam lúc đó có ba thứ để cho mọi người cùng chống là Thực, Phong, Cộng. Lòng dân chúng miền Nam lúc đó đều hoan hỉ. Miền Nam như thế là được thái bình từ năm 56 tới 59.

            Từ tháng 4/56 người Mỹ bắt đầu giúp huấn luyện quân đội. Đến tháng 6/57 thì những cơ quan huấn luyện quân sự Pháp mới hoàn toàn rời khỏi miền Nam.
            Dù quân đội Pháp đã rời Việt Nam, nhưng ảnh hưởng của họ vẫn còn khắp nơi. Sàigòn với những ngôi nhà sơn trắng được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông (Perle d’Orient). Những chiếc Traction đen, Simca, Citroen, Peugoet vẫn còn ngày ngày chạy dưới những tàng cây me già trồng dọc theo đường phố Sài Gòn mà hai bên san sát những ngôi nhà quét vôi trắng. Những kiến trúc chính từ dinh Gia Long đến Sở Thú, vườn Tao Đàn, Tòa Đô Chính, Bến Bạch Đằng, chợ Bến Thành, cho đến nơi nghỉ mát của dân Sài Gòn là Ô Cấp (Cap Saint Jacques) đều là của Pháp để lại. Văn chương thì có Những Kẻ Khốn Nạn , Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ , và Vô Gia Đình đã mở ra những chân trời xa lạ làm cho độc giả Việt say mê. Thời đại lãng mạn của Trà Hoa Nữ đã qua. Ảnh hưởng của những nhà thơ lãng mạn Alphonse de Lamartine và Alfred de Vigny và những nhà thơ Việt chịu ảnh hưởng của họ như Xuân Diệu và Huy Cận đã phai mờ. Truyện ngụ ngôn của La Fontaine là những bài học vỡ lòng cho trẻ em:
            Ve sầu kêu ve ve
            Suốt mùa hè
            Đến kỳ gió bấc thổi
            Nguồn cơn thật bối rối
            Một miếng cũng chẳng còn
            Ruồi bọ không một con
            Ve đành phải khúm núm
            Sang chị kiến hàng xóm
            Xin cùng chị cho vay
            Dăm ba hạt qua ngày

            Trong cùng lúc đó thì ảnh hưởng văn chương Trung Hoa vẫn còn sâu đậm. Bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ không mấy ai là không biết:
            Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt
            Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên
            Có giang sơn thì sĩ đã có tên
            Từ Chu Hán vốn sĩ này là quý

            Hình ảnh nhà nho của thế hệ trước không còn thịnh hành, như cho thấy qua các câu thơ của Vũ Đình Liên:
            Mỗi năm hoa đào nở
            Lại thấy ông đồ già
            Bày mực tàu giấy đỏ
            Bên phố đông người qua
            Hoa tay thảo những nét
            Như phượng múa rồng bay
            Bao nhiêu người thuê viết
            Tấm tắc ngợi khen tài
            ...
            Nhưng mỗi năm mỗi vắng
            Người thuê viết nay đâu
            Giấy đỏ buồn không thắm
            Mực đọng trong nghiên sầu

            Các bài thơ chữ Hán vẫn còn trong chương trình trung học đệ nhị cấp. Cái bài thơ mà thân phụ của thi sĩ Hồ Dzếnh đã đọc bằng tiếng Quảng Đông trong căn phòng trọ khi mới sang Việt Nam tha phương cầu thực chính là bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế:
            Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
            Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
            Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
            Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

            mà Tản Đà dịch là:
            Trăng tà tiếng quạ kêu sương
            Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
            Thuyền ai đậu bến Cô Tô
            Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

            Trong Người Về Đầu Non, Võ Hồng đã kể lại bài vè ông học vỡ lòng chữ nho mà ông đã đọc như tụng kinh trong khi tay cầm que gõ nhịp làm sứt miệng ống nhổ của ông thầy đồ:
            Tử con, tôn cháu,
            Lục sáu, tam ba
            Gia nhà, quốc nước,
            Tiền trước, hậu sau

            Một điều ngạc nhiên là chữ Nho cũng có những câu thơ tục trào phúng, tỷ dụ như bốn câu sau chỉ cách xem tướng phụ nữ
            Hồng diện đa dâm thủy
            Mi trường hộ tố mao
            Triết yêu chân đại huyệt
            Trường túc bất tri lao.

            mà đã được dịch thành
            Những cô má đỏ hồng hồng
            Nước kia tát bẩy gầu sòng chưa vơi
            Những cô mày rậm mi dài
            Lông tơ đốt được một vài thúng tro
            Những cô thắt đáy tò vò
            Hang hầm rộng phải gọi đò sang ngang
            Những cô cẳng sếu chân giang
            Mỗi đêm thách thức cả làng không thua.

            Người miền Nam với tinh thần hài hước riêng của họ đã cười nhạo những kẻ thuộc thành phần “nho chùm hán(g) rộng” với những câu như sau
            Phòng sản kim tồn thạch bất truy

            Phòng sản là ngừa đẻ nói lái thành “đè ngửa”. Kim tồn là nay còn nói lái thành “con này”. Thạch bất truy là “đá chẳng theo” nói lái thành là “đ. chẳng tha”.
            Chữ quốc ngữ bây giờ đã tìm được chỗ đứng vững vàng của nó. Truyện thơ Kim Vân Kiều của Nguyễn Du đã được chọn cho chương trình trung học đệ nhị cấp thay cho Lục Súc Tranh Công :
            Trời hóa sanh muôn vật
            Đất dung dưỡng mọi loài
            Giống nào là giống chẳng có tài
            Người nào là người không nhờ vật
            Long chức quản bổ thiên dục nhật
            Lân quyền uy giúp thánh phò thần
            Quy thông tư thành bại kiết hung
            Phụng lảu biết thạnh suy bỉ thái

            Còn truyện Kiều thì ai cũng biết:
            Trăm năm trong cõi người ta
            Chữ tài chữ mệnh khéo mà ghét nhau
            Trải qua một cuộc bể dâu
            Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

            Một anh học trò cắc cớ nào đó đã sửa lời mấy câu này thành:
            Trăm năm trong cõi người ta
            Chữ chồng chữ vợ khéo mà quải nhau
            Trải qua một cuộc để râu
            Những lần vợ giật mà đau đớn cằm

            Trong chương trình trung học đệ nhất cấp thì có Bích Câu Kỳ Ngộ:
            Thành Tây có cảnh Bích Câu
            Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao
            Đua chen thu cúc xuân đào
            Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông

            Ở cấp tiểu học thì có những áng văn xuôi biền ngẫu rất êm tai như bài Tôi Đi Học trích trong một truyện ngắn cùng tên của Thanh Tịnh:
            Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
            hoặc Tâm Hồn Cao Thượng gồm nhiều bài văn ngắn do Hà Mai Anh dịch từ một quyển sách giáo khoa nguyên tác của Ý Đại Lợi. Dưới đây là một đoạn trích trong bài Học Đường:
            Cố lên! Tên lính nhỏ trong đoàn quân lớn lao kia! Cố lên! Con ơi! Lấy sách vở làm khí giới, lấy lớp học làm quân đội, lấy thế giới làm bãi chiến trường, coi sự ngu dốt là cừu địch và lấy sự văn minh của nhân loại làm cuộc khải hoàn, con phải phấn đấu luôn luôn và chớ hề làm tên lính hèn nhát.

            Tiểu học còn có những bài học thuộc lòng như:
            Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa
            Ngóng trông con đứa đứa về dần
            Xa xa con đã tới gần
            Các con về đủ quây quần bữa ăn
            Cơm dưa muối khó khăn mới có
            Của không ngon nhà khó cũng ngon
            Khi vui câu chuyện thêm dòn
            Chồng chồng vợ vợ con con một nhà

            và học sinh nào cũng thuộc lòng bài Học Sinh Hành Khúc:
            Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau
            Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao
            Lúc các quốc dân tranh đấu hy sinh cho nền độc lập
            Học sinh nề chi tuổi xanh trong lúc phấn đấu
            Đem hết can trường của người Việt Nam tiến lên

            Trong thời Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống khi đi coi hát bóng khán giả phải đứng nghiêm chào cờ, trước là nghe bài quốc ca:
            Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng
            Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống
            Vì tương lai nước Nam
            Cùng xông pha khói tên
            Làm sao cho nước Nam
            Từ nay thêm vững bền

            và sau đó là bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống:
            Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
            Gương hy sinh thề tranh đấu không hề phai
            ...
            Toàn dân Việt Nam biết ơn Ngô Tổng Thống
            Ngô Tổng Thống Ngô Tổng Thống muôn năm
            Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
            Xin thượng đế ban phước lành cho ngài!


            Những năm đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã mang đến nhiều hứa hẹn sáng tươi. Việc tốt đẹp đầu tiên là đóng cửa hai khu tứ đổ tường vĩ đại là Kim Chung ở Sài Gòn và Đại Thế Giới trong Chợ Lớn trước đó do Bình Xuyên kiểm soát. Số đề đã bị cấm và được thay bằng vé số Kiến Thiết Quốc Gia. Mỗi chiều thứ ba khi có xổ số ở rạp Thống Nhất thì ai cũng chờ bên cạnh máy thu thanh để nghe trực tiếp truyền thanh kết quả. Vũ Nam Nhuận học ở Võ Trường Toản gần đó cứ trốn học đi coi hoài. Bắt đầu buổi xổ số là giọng Quái kiệt Trần Văn Trạch:
            Kiến Thiết Quốc Gia
            Giúp đồng bào ta
            Mua lấy cửa nhà
            Giàu sang mấy hồi
            Tô điểm giang san
            Qua bao lầm than
            Ta cùng xây đắp
            Chung giấc mộng vàng

            Giấy bạc phát hành bây giờ có in dòng chữ nhỏ “Hình luật phạt khổ sai những kẻ nào giả mạo giấy bạc do Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam phát ra”. Ngày ngày trẻ em đi học mang theo bình mực xanh hay tím với quản bút dùng ngòi viết sắt làm theo hình bầu hay hình lá tre chấm mực. Tập vở Xích Lô Máy có bảng cửu chương đề là Table de Multiplication nhân từ một lần một là một, hai lần một là hai, tới 12 lần 12 là 144.

            Những trường tiểu học quét vôi vàng có trồng cây điệp bông vàng ở sân lâu lâu có chớp bóng những phim cao bồi cỡi ngựa bắn nhau với mọi da đỏ và phim chống muỗi anophen để phòng ngừa sốt rét. Giờ ra chơi mua khoai mì luộc, me ngào hoặc cà rem đậu xanh cắt ra từ những miếng dẹp. Mỗi độ hè về có hoa phượng nở đỏ ven đường. Mùa thu có lá me bay. Những tên đường được đổi từ Catinat, Bonard, và Richaud sang Tự Do, Lê Lợi và Phan Đình Phùng. Những nghệ sĩ di cư sáng tác mạnh. Nhạc thì có Phạm Duy, Phạm Đình Chương. Mai Thảo đã viết những tác phẩm với bối cảnh thời cuộc ở Bắc Việt trong những ngày trước khi vô Nam như Chuyến Tàu Trên Sông Hồng, hoặc Viên Đạn Đồng Chữ Nổi. Vũ Hoàng Chương vẫn nhớ thương cô học trò bé nhỏ của ông ngày xưa khi còn trẻ:
            Mươi hàng chữ đơn sơ, ồ ngượng ngập
            E dè sao mươi hàng chữ đơn sơ
            Màu mực tươi xanh ngát ý mong chờ
            Tình hé nụ bừng thơm trong nếp giấy...
            Ôi thân mến, nhắc làm chi thuở ấy
            Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn
            Khóc chia lìa ai níu gọi than van
            Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối

            Có những nghệ sĩ cải lương di cư ca vọng cổ bằng giọng Bắc rất mùi như Kim Chung và Bích Thuận. Cô đào Kim Chung nổi tiếng đến độ mà từ đoàn Kim Chung sau này đã lên tới Kim Chung 7, Kim Chung 8. Sự phát triển mạnh mẽ của cải lương đã dần đưa bộ môn Hát Bội vào bóng tối . Riêng bộ môn Ca Trù, tức là Hát Cô Đầu của miền Bắc sau di cư thì đã biến mất hoàn toàn . Xóm Khâm Thiên ở Hà Nội cũng đã không còn nữa.

            Thanh niên thoải mái mặc “áo chim cò, quần ống túm” chải đầu brillantine bóng mượt và bắt đầu biết lui tới phòng trà nghe nhạc Mambo:
            É Măm Bô
            Đi ra đi vô é
            Là hết năm trăm


            Khi ca sĩ Túy Phượng lên ngôi Nữ Hoàng Nhạc Twist thì mỗi chiều tối về là trong các xóm nghèo dưới ánh đèn dầu mù mờ có tiếng đàn ghi ta phừng phừng với những ca khúc truyền cảm:
            Tôi đi giữa hoàng hôn
            khi ánh chiều buông
            Khi nắng còn vương
            Một mình tôi ngắm cánh chim lạc loài
            Mà lòng mình thấy u hoài

            hoặc là:
            Xuyên lá cành trăng lên lều vải
            Lòng đất ấm thương tình đôi mươi
            Mộc mạc hơn thì:
            Ai đang đi trên đường đê
            Tai lắng nghe muôn câu hò đê mê

            Hai bản nhạc sau này thông dụng đến độ mà con nít đã sửa lời thành:
            Anh hết tiền em đi làm đĩ
            Đời con gái bây giờ lưu manh

            và:
            Ai đang đi trên cầu Bông
            Té xuống sông ướt cái quần ny lông

            Con nít nhà nghèo dù cơm ăn không có nhiều thịt cá nhưng có rất nhiều trò chơi như đánh khăng đánh đáo tạt hình tạt lon đá cá đá dế thả diều. Con gái thì nhẩy dây, lò cò, đánh đũa. Nếu giai đoạn hòa bình này mà cứ kéo dài mãi thì chắc những trẻ em Việt đã lớn lên với tâm hồn trong sáng không hận thù.
            Trong thời gian này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thực thi chính sách Cải Cách Ruộng Đất . Để thực hiện chính sách này, ông đã mua đất từ các đại địa chủ bằng công khố phiếu. Dân chúng ở nông thôn bất kỳ là dân miền Nam hoặc Bắc Kỳ di cư đều được chia ruộng. Từ những khu ruộng vườn đó mà mới tạo dựng nên những khu phát triển mới gọi là Khu Trù Mật.

            Gia đình Đỗ Văn Quá 72A, một gia đình theo Công Giáo, là một trường hợp điển hình của Khu Trù Mật. Khi mới di cư vào Nam năm 54 thì gia đình Quá ở Hố Nai. Sau khi bị hỏa hoạn mất nhà thì vào năm 56 gia đình Quá được cho đất về Khu Dinh Điền Cái Sắn thuộc tỉnh Rạch Giá. Khu này ở miệt Hậu Giang cách biển khoảng 40 cây số. Gia đình Quá được cấp cho sáu tháng lương thực, ba mẫu đất, cùng với một chiếc xuồng ba lá nhỏ để làm phương tiện di chuyển. Vùng đất này khi đó còn hoang vu đồng không mông quạnh không có trường học hay đường lộ, và những người về đó “phá sơn lâm, đâm hà bá” là những người đi khai phá. Khu Dinh Điền Cái Sắn là một vùng đất trầm thủy chỉ có một giống cây lác mọc chưa cao tới đầu người. Cứ mỗi năm thì nước ngập hết đất đai hàng tháng trời. Trong nhà thì đắp nền cao nên nước không ngập tới, và trong thời gian này mọi người phải rút vào trong nhà. Muỗi ở đây nhiều vô số kể, tối tối nhà nào cũng phải chui vô trong mùng ngồi ăn cơm. Thịt thì không có sẵn nhưng cá thì rất nhiều, chỉ cần đào một cái đìa nho nhỏ đâu đó là cuối năm tát nước bắt những con cá lóc to bằng bắp đùi phải mang trâu bò ra cộ cá về. Bình thường trong năm thì chỉ cần cất một cái vó xép là cá ăn không hết.


            Sự hiện diện của người Mỹ ở Việt Nam được ghi nhận thoạt tiên qua cái “đèn Hoa Kỳ” và cái “xe Hoa Kỳ”. Những chiếc đèn Hoa Kỳ khi mới đến Việt Nam đã được tặng không. Chiếc đèn ấy dài độ một gang tay, có bình chứa dầu và một ống thủy tinh trên hẹp dưới rộng mà người Nam kêu bằng ống khói hoặc bóng đèn và người Bắc gọi là ống thông phong. Khi dùng thì người ta châm dầu hỏa, tức là dầu hôi, vô bình để cho thấm lên tim đèn, mở bóng châm lửa rồi gắn trở lại. Bấc đèn có thể được điều chỉnh cao thấp bằng một bánh xe vặn cho tim lên xuống. Khi mùa mưa đến, những con mối đâm đầu vào ánh lửa rơi xác vào ngập ống thông phong bốc mùi khét lẹt. Chiếc đèn Hoa Kỳ ngày nay thấy lù mù là thế nhưng so với cây nến hoặc ngọn đèn dầu lạc mà nó thay thế thì nó đã từng là một tiến bộ lớn lao. Nhờ nó mà bao nhiêu nhân tài đã thành người trong mấy thế hệ. Tối tối trong nhà cùng ngồi quanh bàn dưới ánh một cái đèn dầu duy nhất. Cha thì xem báo, mẹ vá thêu, anh chị em thì học bài. Phạm Duy đã ghi lại cảnh này qua mấy câu hát:
            Cha tôi ngồi xem báo
            bên cây đèn dầu hao
            Me tôi ngồi may áo
            Ánh mắt có trăng sao

            Những chiếc xe Hoa Kỳ thì hiếm hoi hơn. Trước ngày di cư, ở Hải Phòng có nhạc sĩ Đoàn Chuẩn làm chủ một chiếc xe Hoa Kỳ mà ai cũng biết. Ở Sài Gòn sau ngày di cư, chúng đậu dọc theo đường Hàm Nghi trước Kho Bạc và Hotel Catinat chờ người thuê đi rước dâu đám cưới. Những chiếc xe này bắt mắt vì trông chúng rất đồ sộ so với những chiếc Citroen, Simca, Peugeot hoặc xe tắc xi Renault của Pháp. Thật ra thì Hoa Kỳ không có bán được cho dân Việt được mấy chiếc xe hơi mới. Những chiếc xe Hoa Kỳ mà dân Việt làm chủ đa số là do những người Mỹ trong phái đoàn ngoại giao làm việc ở Việt Nam mang sang dùng cũ rồi bán lại.

            Thời gian vui mừng của người dân chưa kéo dài được bao lâu thì du kích cộng sản bắt đầu khuấy rối ngay ngoại ô mạn Bắc Sàigòn vào đầu năm 58. Vào tháng 12/60 thì Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời sau một trận tấn công lớn ở Tây Ninh. Trong tập thể này đã có nhiều nhà trí thức tham gia vì bất mãn để rồi bị chính quyền miền Bắc cô lập sau đó một cách tinh vi.

            Vào giữa năm 61, phi hành gia Yuri Gagarin của Nga và Alan Shepard của Mỹ đã lên được quỹ đạo của trái đất trong không khí phấn khởi của mọi người. Dù ai cũng biết rằng Nga và Mỹ đang chạy đua vũ khí và tranh giành ngôi bá chủ, nhưng sự tiến bộ của khoa học trong bước đầu chinh phục không gian của nhân loại đã mang đến nỗi vui mừng. Trong khi đó thì tháng 9 Cộng quân đã tấn công nhiều nơi ở tỉnh Kontum, và vào tháng 11, Tổng Thống Kennedy đã tăng gia viện trợ quân sự cho miền Nam nhưng chưa có lính tác chiến Mỹ tham gia vào cuộc chiến.

            Tháng 2/62 thì chính sách Ấp Chiến Lược ra đời. Chung quanh vòng đai Ấp Chiến Lược có đào hào cắm chông. Không như các Khu Trù Mật trước đó, sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa chấm dứt thì các Ấp Chiến Lược hoàn toàn tan rã.

            Tháng 4/63 là lúc khởi đầu chương trình Chiêu Hồi. Tháng 5/63 đồng bào Phật tử xuống đường ở Huế vì các cơ quan võ trang của chính phủ ngăn chặn họ mừng ngày Phật Đản. Vào ngày 11/6, Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sàigòn. Bức hình ông ngồi xếp bằng trong đám lửa xăng đang cuồn cuộn cháy đã được đăng trên trang đầu của báo chí khắp nơi làm chấn động dư luận thế giới.

            Trong chín năm của thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có tới ba lần đảo chánh. Ngày 11/11/60, một cuộc đảo chánh của quân đội đã không thành công. Ngày 27/2/62 (26/2???) Trung Úy Phạm Phú Quốc và Chuẩn Úy Nguyễn Văn Cử đã dội bom dinh Độc Lập. Ngày 1/11/63 dinh Gia Long đã bị oanh tạc bởi phi cơ của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã chết vì bị ám hại sau khi vụ đảo chánh thứ ba này đã thành công, và nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã chấm dứt sau chín năm. Trong cùng tháng đó, Tổng Thống John F. Kennedy đã bị ám sát ở Dallas, Texas.

            Sau cuộc đảo chánh 63 không lâu thì Nguyễn Hữu Thọ của Mặt Trận Giải Phóng đã tuyên bố với báo chí Úc rằng đó là một ân huệ trời cho với họ, vì những người cầm đầu lực lượng an ninh của miền Nam đã bị thay thế hay xuống chức. Vào giữa năm 64, trong khi các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa đang tranh chấp, tình thế an ninh càng ngày càng suy kém, để cho bọn cộng sản nằm vùng tự do hoạt động hơn ở các nội thành, nhất là Sàigòn. Ở các ngoại thành thì quân của Mặt Trận Giải Phóng di chuyển dễ dàng và đã tấn công vào các địa điểm trọng yếu của phía bên ta.


            Cùng trong năm 64, tướng William Westmoreland đã sang Việt Nam. Brigitte Bardot của Pháp đã nhường bước cho Marilyn Monroe của Mỹ. Phim cao bồi đánh nhau với mọi da đỏ được chiếu cho bà con coi khỏi trả tiền ở các trường tiểu học cùng với các phim chỉ cách diệt muỗi anophen trừ sốt rét. Các thanh niên mặc quần ống túm áo chim cò và chải đầu bằng brillantine bóng bị các bà già chửi là “đồ cao bồi du đãng”. Với các cụ thì hình ảnh những anh chăn bò lấc cấc trên màn bạc coi không mấy dễ ưa.

            Trong khi tình hình miền Nam rối ren với tướng Nguyễn Khánh lật đổ tướng Dương Văn Minh vào đầu năm 64 thì vào đầu tháng 8/64 người Mỹ đã tuyên bố rằng hai chiếc khu trục hạm của họ đã bị tàu Bắc Việt tấn công . Để trả đũa, Đệ Thất Hạm Đội đã tấn công các căn cứ quân sự Bắc Việt. Cuối năm 64 và đầu năm 65 Cộng quân đã khủng bố các cơ quan quân sự Mỹ ở Sàigòn, Pleiku, và Qui Nhơn.

            Vào thời điểm này thì những chàng trai 72A đang lớn. Họ bắt đầu biết say mê giọng ca Thanh Tuyền trong Nỗi Buồn Hoa Phượng:
            Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn
            Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương

            hoặc Thanh Thúy trong Tàu Đêm Năm Cũ:
            Trời đêm dần tàn,
            tôi đến sân ga đưa tiễn người trai đi về ngàn

            cũng như Phương Dung trong Nỗi Buồn Gác Trọ:
            Gác trọ về khuya cơn gió lùa
            Trăng gầy ngiêng bóng cài song thưa

            Từ tháng giêng năm 65 lính Nam Hàn đã sang miền Nam. Từ tháng 3 là Mỹ dội bom Bắc Việt và đưa lính tác chiến sang. Sau đó là lính Phi, Thái, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi. Trong tháng 11 là những cuộc biểu tình phản chiến đã lan rộng khắp nước Mỹ. Con số lính Mỹ tăng dần cho đến cuối năm 68 thì đã lên tới con số cao nhất là 536.100 người.

            Sau khi tướng Nguyễn Khánh đi lưu vong vào tháng 1/65, vào tháng 6 thì Hội Đồng Lãnh Đạo Quốc Gia do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu đã bổ nhiệm Thiếu Tướng Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ làm thủ tướng. Sau đó thì Nguyễn Văn Thiệu đã được bầu làm Tổng Thống thứ nhì của Việt Nam Cộng Hòa trong cùng liên danh với Nguyễn Cao Kỳ, nhậm chức vào năm 67. Vào năm 71, Nguyễn Văn Thiệu đã tiếp tục nhiệm kỳ hai với Phó Tổng Thống Trần Văn Hương sau một cuộc bầu cử không có liên danh đối lập .


            Vào tết Mậu Thân, ngày 1/2/68, một nhiếp ảnh gia của Thông Tấn Xã Hoa Kỳ tên là Eddie Adams đã chụp được tấm ảnh Chuẩn Tướng Cảnh Sát Nguyễn Ngọc Loan xử tử một tù binh Việt cộng đang bị trói tên là Bảy Lúp. Khi tấm ảnh này chạy trên những trang báo với tít lớn ở hậu phương nước Mỹ, người dân Mỹ đã nêu lên một câu hỏi cho chính phủ Hoa Kỳ rằng “Đây có phải là cái dân chủ tự do mà chúng ta đang bảo vệ hay không? ” Ít có ai có thì giờ tìm biết sự thật bên dưới rằng ông Loan đã bắn tên tù binh đó vì hắn là một đại úy Việt Cộng vừa mới giết cả một gia đình của một cảnh sát viên. Khi hiểu ra sự thật đó, chính Eddie Adams đã khóc trong ngày ông Loan mất vì những thiệt hại mà tấm ảnh đã mang đến cho ông ta vào lúc sinh thời.

            Đầu năm 68 nhằm tết Mậu Thân cộng quân đã tấn công khắp nơi trên lãnh thổ Nam Việt từ ngày 30/1/68 cho tới hết tháng 2/68. Sau biến cố Mậu Thân thì các thanh niên phải tham gia Nhân Dân Tự Vệ để tối tối đi gác cũng như trước kia thanh niên phải vào Dân Vệ dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Những chàng trai của 72A đã từ giã tuổi thơ ngây để đi lấy Lược Giải Cá Nhân. Họ thao thức khi nghe những bài hát nói lên tâm trạng của người trai thời loạn những bài hát báo hiệu cho những gì đang chờ họ. Một thí dụ là bài Biển Mặn của Trần Thiện Thanh sáng tác và Nhật Trường trình bày:
            Tôi thức từng đêm,
            thơ ấu mà nghe muối pha trong lòng
            Mẹ là mẹ trùng dương,
            gào than từ bãi trước ghềnh sau
            Tuổi đời qua mau,
            nước biển mặn nuôi lớn khôn tôi
            nên năm hăm mốt tuổi
            tôi đi vào quân đội
            mà lòng mình chưa hề yêu ai
            hoặc Những Ngày Xưa Thân Ái do Duy Khánh hát:
            Những ngày xưa thân ái
            Anh gửi lại cho ai?
            Trăng mùa thu lên cao
            Bóng dừa xanh lao xao
            Anh cùng tôi trốn ngủ
            Ra ngồi xem lá đổ
            Vui hơn thì có Hùng Cường và Mai Lệ Huyền trong các bài ngợi ca đời lính:
            Anh là lính đa tình
            Tình non sông rất nặng
            Tình hải hồ ôm mộng
            Tình vũ trụ ngát xanh

            Văn nghệ ở miền Nam lúc này phát triển mạnh. Các bài ca tân cổ giao duyên trở thành quen thuộc. Mỗi sáng thứ bảy có đại nhạc hội tuyển lựa ca sĩ ở rạp Quốc Thanh qua đủ ba kỳ phúc khảo bán kết chung kết. Mỗi tuần một lần có chương trình ngâm thơ Tao Đàn do thi sĩ Đinh Hùng sáng lập với giọng ngâm bất hủ của Hồ Điệp . Trong chương trình Tiếng Tơ Đồng có các giọng ca Mai Hương, Thái Thanh người ta đã nghe lại được bài hát tân nhạc đầu tiên của Việt Nam do Thẩm Oánh sáng tác:
            Đôi oanh vàng
            Trong mây bạc
            Say sưa tạt sang đồi
            Tìm tổ ấm sánh đôi

            Trong địa hạt thơ, những thi sĩ mới đã tách rời những thể thơ Đường luật. Phạm Công Thiện trong thể thơ tự do trong toàn tập Ngày Sanh Của Rắn không có chữ nào viết hoa:
            bây giờ anh xa hương tới mấy đại dương xanh
            mấy phương trời cỏ mọc
            mấy phương trời hương khóc
            Trần Dạ Từ da diết hơn với:
            Thuở làm thơ yêu em
            Trời mưa không ướt áo
            Hoa cúc vàng chân thềm
            Gió mây giăng bờ dậu

            Bùi Giáng với khả năng dùng chữ trác tuyệt đã cho ra đời những câu thơ rất lạ như:
            Em về giũ áo mù sa
            Trút quần phong nhụy cho tà huy bay

            hoặc là:
            Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
            Kinh là kỳ từ phố quận tân toan
            Bạo dạn hơn nữa là Nguyễn Đức Sơn với:
            Năm mười bốn có lần anh ngó thấy
            Em ở truồng ngoe nguẩy cuối vườn trăng
            Khắp bầu trời ướp mượt cả lông măng
            Em chưa đái mà hồn anh đã ướt

            Nhiều bài thơ hay đã được Phạm Duy phổ nhạc, tỷ dụ như những câu sau của Cung Trầm Tưởng
            Lên xe tiễn em đi
            Chưa bao giờ buồn thế
            Trời mùa Đông Paris
            Suốt đời làm chia ly

            Đây là lúc mà truyện Trung Hoa hiện đại đang trở thành phổ thông. Những bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, Tây Du Ký, Thủy Hử bây giờ được thay thế bằng Mùa Thu Lá Bay của Quỳnh Dao hoặc Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung. Tiểu thuyết Nhật như Ngàn Cánh Hạc của Kuwabata hoặc Kim Các Tự của Mishima cũng đã được chào đón nồng nhiệt trong giới sinh viên. Herman Hesse với Câu Chuyện Giòng Sông hoặc Erich Maria Remarque trong Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh. Tập san Văn đã góp phần cho ra đời nhiều bản dịch như Mặt Trời Mù của nhà văn Ý Đại Lợi Malaparte mà trong đó khi một viên đại úy pháo binh đứng nhìn ra cửa sổ căn buồng khách sạn đã nhìn thấy “ngọn Bạch Sơn ánh thép chém loang loáng”, và khi cô bồi phòng lách người đi ra thì ông đã thấy “khuỷu tay chàng vú chạm mềm vào.” Chân Dung Nàng Thơ dịch từ tiếng Pháp, cho đến những tác phẩm có mầu sắc chính trị lịch sử như Niki Truyện Con Chó dịch từ tiếng Hung Gia Lợi, hoặc Bác Sĩ Zhivago của Nga.

            Vào cuối thập niên 60, ảnh hưởng của Pháp đã phai mờ lắm rồi. Sylvie Vartan với mái tóc ngắn trong Ce Soir Je Serais La Plus Belle Pour Aller Danser trên màn ảnh truyền hình đen trắng trông vẫn bắt mắt, nhưng không bằng Thanh Lan với đôi mắt to nửa ngây thơ nửa dạn dĩ. Không có thẻ hội viên để vào Cercle Sportif bơi thì ta đi hồ Nguyễn Bỉnh Khiêm để sau đó còn ăn bánh mì kẹp thịt nướng. Không được vào Trung Tâm Văn Hóa Pháp xem phim Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà thì ta ra rạp coi phim có phụ đề Việt Ngữ của các tài tử Mỹ Anthony Quinn, Yul Brynner, hoặc Charles Bronson đóng. Không xem BB thì ta coi tạm CC, MM , hoặc Sophia Loren cũng đỡ ghiền.
            Với cái vô tuyến truyền hình là những vở thoại kịch do Túy Hồng, La Thoại Tân, Thẩm Thúy Hằng, và Kim Cương đóng. Riết rồi hết đề tài để giữ chương trình hàng tuần, người ta bắt đầu cho ra những vở kịch dài, như là vở kịch ma Người Về Lúc Không Giờ.
            Khi anh em bắt đầu vô trung học là bắt đầu được mấy thằng bạn lớn hơn chuyền tay cho đọc tập Bẩy Đêm Khoái Lạc quay ronéo mực tím. Truyện viết dù không táo bạo nhưng có những chữ rất tượng hình như kiểu “vác cày qua núi”, “bà già ôm thúng”, hoặc là “bà kia xay bột” gợi cho những bộ óc còn non nớt những khung cảnh rất huyền ảo say sưa. Những tấm hình đen trắng chụp đi chụp lại nhiều lần mờ mịt mỗi tấm một người đàn bà trẻ trong tư thế sẵn sàng và rất gần gũi thiên nhiên làm điêu đứng những tâm hồn non trẻ.

            Về phần thể thao thì có trực tiếp truyền thanh các trận túc cầu vào chiều thứ bẩy. Những cái tên cầu thủ như Rạng, Tam Lang trở thành quen thuộc. Viện Nhu Đạo Quang Trung với Thượng Tọa Thích Tâm Giác ngày càng đông võ sinh, trong khi các trường dạy Thái Cực Đạo được mở ra khắp nơi. Trường Đua Phú Thọ hàng tuần vẫn đông nghẹt khán giả, và những vụ cáp độ vẫn xẩy ra sôi nổi.

            Trong thời gian đó, mỗi năm vào dịp Giáng Sinh đi qua những vùng đông người Bắc di cư, những biểu ngữ:
            Sáng danh Chúa Cả trên trời
            Bằng an dưới thế cho người thiện tâm
            đã được thay bằng những chữ nhiều vần bằng hơn:
            Vinh danh Thiên Chúa trên trời
            Bình an dưới thế cho người thiện tâm

            Gần chợ Bến Thành, nơi trưng bày đầy những tấm biển quảng cáo kem đánh răng Anh Chà Hynos và Leyna Kem Trắng Chỉ Hồng, mỗi tháng sáu người ta lại thấy chăng biểu ngữ:
            Hai mươi tháng bẩy năm tư,
            Giặc Hồ chia rẽ cơ đồ Việt Nam.

            Lên trung học thì học sinh không còn dùng viết chấm mực mà dùng viết máy bơm mực hiệu Pilot hoặc Parker.
            Có lẽ nhờ sự cố vấn của người Mỹ về các đặc tính của nền dân chủ mà người ta thấy có nhiều thay đổi. Câu “Kinh Thượng Một Nhà” trở nên quen thuộc. Các ứng cử viên thượng và hạ nghị viện lên vô tuyến truyền hình tranh cử rầm rộ, nhiều người nói tiếng Việt không rành. Nhờ tự do ngôn luận phỏng theo gương của Mỹ mà báo cứ ra như nấm. Thích chửi thì đọc Con Ong. Muốn đọc những bài trung thực hơn hoặc muốn xem rao vặt thì có Chính Luận. Vài tờ báo bị đục trắng loang lổ. Chương trình Hữu Sản Hóa Đồng Bào Vô Sản cũng như Người Cày Có Ruộng đã thêm vào đường phố những chiếc xa Lam 3 bánh có hai băng ghế sau mà trên nguyên tắc mỗi bên ngồi được bốn người, mà trên thực tế thì chở năm, kèm theo hai người ngồi ké hai bên tài xế làm cho xích lô máy và xích lô đạp bị ế. Xe ô tô buýt của Công Quản Chuyên Chở Công Cộng Đô Thành thì ít người đi hơn vì chờ lâu và lên xuống bất tiện. Những chiếc xe thổ mộ quang gánh chất đầy mui được kéo bởi những con ngựa gầy gò cũng dần dà ít thấy. Trong năm 67 loạt đầu của những chiếc xe Honda dame đỏ và Vespa đã được bán cho công chức với giá rẻ. Những chiếc Goebel, Mobylette, Puch ba đèn, và Velosolex bắt đầu bị sa thải. Mỗi lần đi xem chớp bóng là phải xem phim quảng cáo xe Suzuki “an toàn trên xa lộ, thanh lịch trong thành phố, tiện lợi khi vào ngõ hẹp” hoặc “hôm nay tôi ra đường nhiều người nhòm ngó tôi bởi vì tôi đeo chiếc đồng hồ Seiko mắt diều hâu”.
            Về phía bên kia bán cầu, từ khi Tổng Thống Kennedy mất thì lời hứa thực thi công bằng xã hội để dựng xây một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi công dân trên toàn cầu đã đi vào quên lãng. Sau vụ thảm sát Mỹ Lai xẩy ra vào giữa tháng 3/68, cuộc họp đầu tiên giữa Harriman và Xuân Thủy đã diễn ra ở Hòa Đàm Ba Lê vào ngày 10/5. Hòa đàm kéo dài cho đến ngày 15/12/69 thì Nixon tuyên bố sẽ rút là sẽ rút bớt một phần ba quân số tại Việt Nam cho đến ngày 15/3/70.

            Không lâu sau khi Nixon tự hào rằng phi hành gia Neil Armstrong đã lên tới mặt trăng trong năm đầu tiên ông nhậm chức thì vào tháng 5/70, Vệ Binh Quốc Gia Hoa Kỳ đã nổ súng vào những sinh viên của đại học Ken State đang biểu tình chống chiến tranh Việt Nam làm cho bốn sinh viên bị thiệt mạng. Biến cố này đã làm cho những người Hoa Kỳ ít quan tâm tới chính trị nay cũng lên tiếng phản đối chính phủ. Cùng với sự leo thang của những cuộc biểu tình phản chiến kéo dài sang năm 71 thì Nixon đã thông thương với Trung Cộng. Năm 72, khi Kissinger và Nixon hòa đàm với Nga và viếng thăm Mao Trạch Đông ở Hoa Lục thì ngày 1/5/72 Quảng Trị mất cho đến ngày 16/9 mới chiếm lại được.

            Ngày 27/1/73 Hiệp Định Ba Lê đã được ký kết và chiến tranh Việt Nam đã coi như là chấm dứt. Khi nghe tin này loan báo qua radio, anh em 72A reo hò vui mừng trong khắp các barracks trong khi minigun vẫn bắn như bò kêu trong khu Đồng Bò. Sau đó, quân đội Mỹ đã tiếp tục rút khỏi Việt Nam theo hiệp định, và đến ngày 22/3/73, người lính Mỹ cuối cùng mới rời khỏi Việt Nam.

            Dù hòa ước đã được ký kết nhưng quân Cộng Sản vẫn tiếp tục cuộc chiến xâm lược. Ngày 27/1/74, tức là đúng một năm sau khi hòa ước Ba Lê được ký kết, miền Nam lên tiếng công bố rằng 13.778 quân nhân và 2.159 thường dân đã chết dưới tay Cộng Quân trong một năm qua.
            Ngày 21/4/75, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. Ngày 28/4/75 ông Hương nhường chức lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Ngày 30/4 lính Bắc Việt vào Sàigòn, và ông Minh tuyên bố đầu hàng.

            Last edited by hung45qs; 04-17-2011, 08:37 PM.
            Hung45HTQS

            Comment


            • #7
              Chút Tâm Tình Đơn Sơ


              Trong những buổi sáng thu trời gây lạnh tôi hay nhớ tới mùi khói của lá cây vú sữa mà khi còn nhỏ tôi thường vun lại từng đống để đốt cho sạch sân nhà cô chú tôi. Lá vú sữa có hai màu, mặt trên màu xanh lục bóng như thoa mỡ, và mặt dưới màu nâu nhạt như một lớp nỉ mỏng. Vào mùa hè mặt trên của lá phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh như bạc theo từng cơn gió nhẹ. Tàng lá của cây vú sữa dầy đủ cho người ta mắc võng nằm ngủ mà không bị nắng chói, và những giấc ngủ trưa dưới bóng cây vú sữa là một sự thi vị mà tiền bạc khó lòng mua được nếu người ta chưa được trải qua. Khi trời trở lạnh những chiếc lá vú sữa rơi rụng đầy sân, và khi chúng bắt đầu kêu dòn tan dưới bước chân là lúc chúng khô đủ để đốt. Tôi luôn tình nguyện làm công tác này.


              Việc đầu tiên phải làm là gom những chiếc lá khô đó thành một đống bằng một chiếc chổi rễ quét sân. Dù những chiếc lá vú sữa khô vẫn dầy và nặng, chúng không cháy bùng như củi hoặc nóng như than. Chúng cháy thầm lặng, kêu tí táùch nho nhỏ, và tỏa rất nhiều khói thơm. Những luồng khói dầy toả đầy khu xóm ở đường Nguyễn Thông nối dài này làm cho người ta thấy ấm lòng, thoải mái, ngược với những luồng khói dầu cặn của các đầu máy xe lửa chiều chiều vẫn chạy qua nhà ga Chí Hoà cạnh đó.

              Tuy căn nhà là của hai vợ chồng cô chú tôi nhưng ít khi ông có ở đó. Là một sĩ quan bộ binh, ông thường không có mặt ở Sài Gòn. Ngày còn nhỏ trong những tháng nghỉ hè tôi thường lên ở chơi nhà cô chú tôi mỗi lần hai ba tuần lễ. Đó là nơi tôi đã đọc Liêu Trai Chí Dị lần đầu tiên trong đời. Cuốn sách toàn những chuyện các hồ ly tinh là chồn cáo tu luyện lâu năm thành người đi dụ dỗ những anh học trò nghèo. Mở đầu quyển sách, Bồ Tùng Linh viết:
              Nói dóc mà chơi, nghe dóc chơi
              Đầu giàn thánh thót giọt mưa rơi
              Chuyện đời đã chán không buồn nhắc
              Thơ thẩn nghe ma nói mấy lời

              Trong khu xóm xen giữa những ngôi mả đá, có những cái xây rất công phu đồ sộ có cổng cao tường gạch đó, người Nam và người Bắc chung sống rất hòa bình. Thỉnh thoảng tôi đi xuống cuối xóm đến một tiệm tạp hóa của ông Rung, có lẽ từ chữ Dung đọc theo một giọng Bắc Kỳ di cư, mua lạc rang và thuốc lào cho chú tôi thì tôi lại ghé qua mấy gian hàng cạnh đó mua trái thơm trái cóc và nghe tiếng ru em bằng giọng Nam dẻo quẹo:
              Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
              Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
              Anh về anh học chữ nhu
              Chín trăng em đợi ìøø... ầu... ơ ớ ơ
              Chín trăng em đợi mười thu em chờ

              Trong khung cảnh đó, tôi đã làm quen được với cô bạn gái thuần túy đầu tiên và duy nhất trong đời. Vì tôn trọng đời tư người bạn cũ, tôi sẽ không dùng tên thật mà sẽ gọi nàng là Ngân Hà, như tên cái trại của Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân, hoặc như trong thơ Hoàng Ngọc Tuấn:
              Em có về ăn cưới những vì sao
              Để chân bước trên giòng sông loáng bạc


              Năm 69 Ngân Hà vào Sài Gòn trọ học ở cạnh nhà cô chú tôi. Năm đó nàng mới lên đệ tam và được mười lăm tuổi. Trước căn nhà đó có một cái mả đá tổ ong xây cao hơn đầu gối, nơi mà chủ nhà thường đổ tro bếp lên, và mỗi khi mùa mưa về là trên ngôi mả đó mọc đầy những cây hoa vạn thọ tươi tốt chưa từng thấy. Một hôm, tôi đang tính qua hái trộm vài nhánh thì hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy một cô gái lạ mặc áo len nâu đang ngồi chẻ củi trước sân nhà. Tôi và cô ta cùng nhìn nhau kinh ngạc, vì người này cho rằng người kia là kẻ xa lạ, và thế là chúng tôi quen nhau.

              Năm 69 là một năm tương đối trầm lặng sau biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 68. Vào thời gian trước đó nhiều báo chí đã mang mấy câu Sấm Trạng Trình ra để tưng bừng bàn luận:
              Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh
              Can qua tứ xứ dậy đao binh
              Mã đề dương cước anh hùng tận
              Thân dậu niên lai kiến thái bình

              Trái với những lời giải đoán lạc quan, Mậu Thân ngay từ đầu đã là một năm kinh hoàng máu lửa, như trong câu hát của Lê Hựu Hà:
              Sao ta vẫn thấy mặt trời đen như mực

              Sau biến cố đó, tôi và các bạn 72A đã đều có Lược Giải Cá Nhân và những đứa ở thành phố đã phải đi gác Nhân Dân Tự Vệ, hoặc thuê người ta đi gác dùm. Nhạc Trịnh Công Sơn với những lời rất lạ và thấm thía như “người con gái Việt Nam da vàng, đi trong đêm đêm vang ầm tiếng súng” hay “đàn bò tìm giòng sông, nhưng giòng đã cạn khô” đang thịnh hành. Với những bài hát này, chiến tranh đã trở thành một thực tại gần gũi với những thằng con trai sống trong thành phố. Cùng với những bản nhạc của Tứ Quái Beatles, thanh niên thành phố để tóc dài, mặc quần ống loa, và sống bất cần như các hippies của Mỹ. Dấu hiệu cành cây ba chạc ngược tượng trưng cho hòa bình–hay có khi bị gọi là phản chiến–đã du nhập vào miền Nam, dù nhiều người không hiểu nghĩa nó là gì . Trong khi ở thành phố người ta phản chiến một cách tiêu cực thời trang như thế thì quê của Ngân ở Hàm Tân có cuộc sống rất khó khăn. Nhà Ngân gần biển cách chân rặng núi Trà Cú chừng bẩy cây số trong một vùng xôi đậu. Năm đệ tứ Ngân đã được chọn đóng vai Trưng Nhị trong vở kịch tất niên ở trường nàng. Một người thầy tu trẻ trong giòng Khổ Tu Phan Xi Cô mặc áo nâu có mũ che đầu, mũ may liền vào áo, ở một tu viện gần đó đã ngày ngày đến tập cho các em học sinh vở kịch lịch sử mà trong đó Hai Bà Trưng đã vùng lên đánh đuổi Tô Định giành độc lập cho nước nhà. Một hôm trong buổi tập khi cô bé Ngân mắc cở lính quýnh vấp chân vào bậc thang lên sân khấu, người thầy tu trẻ đó đã lấy thuốc đỏ băng bó chiếc móng chân bị sước cho cô nhỏ, và cô đã biết mắc cở lần đầu. Đến đêm trình diễn, trên một bục gỗ thấp đóng sơ sài làm sân khấu ngoài sân trường, khi hai chị em Trưng Trắc Trưng Nhị vừa giơ cao hai thanh kiếm gỗ sơn bạc thúc quân tiến lên thì bỗng có tiếng la hốt hoảng “Mìn, mìn!”, và khán giả xô ngã ghế ùa chạy. Người thầy tu trẻ đứng sau cánh gà đã nắm tay Ngân chạy, và vở kịch bị dở dang ở đó. Trên đường về đêm hôm đó Ngân không thấy sợ mà chỉ thấy tức nghẹn ngào. Trong cuộc đời nghèo nàn của “con mọi nhỏ ” chỉ có được một lần ra ánh sáng mà cũng không được trọn vẹn.

              Tình bạn của tôi với Ngân rất đơn sơ. Thỉnh thoảng tôi mượn cớ lên thăm cô chú tôi và ở lại cuối tuần để có dịp gặp Ngân. Giữa nhà chú tôi và nhà Ngân là một hàng hoa thấp lá dẹp xanh nở ra những bông hoa trắng mỏng thơm vào những đêm trời nóng nực. Lúc đó tôi đã biết suy tư; buổi tối tôi hay bắc ghế ra sân ngồi hút thuốc lá vặt dưới gốc cây vú sữa, nghe tiếng nói gợi cảm của “em gái Dạ Lan” nhắn gửi “những anh chiến sĩ can trường trên các nẻo đường đất nước” trên đài Tiếng Nói Quân Đội. Tôi thích tiếng hát Thái Thanh trong nhạc phẩm Những Nẻo Đường Việt Nam trong chương trình Dạ Lan:
              Những nẻo đường Việt Nam,
              suốt từ Cà Mau thẳng tới Nam Quan.
              Ôi những nẻo đường Việt Nam
              ...
              Yêu là yêu là yêu không bờ bến rồi
              Yêu là yêu là yêu những nẻo đường mới
              Yêu là yêu là yêu không bờ bến rồi
              Sao Cộng quân đành tâm chia đường cách đôi
              cũng như trong chương trình Chiêu Hồi:
              Người ơi sống chi cuộc đời thương đau
              Về đây áo cơm đùm bọc lấy nhau
              Ta nhắn gửi về nơi phương Bắc xa vời
              Hỡi ai lạc bước mau quay về đây

              Thỉnh thoảng tôi có dịp chở Ngân đi đâu đó, như vô thư viện Abraham Lincoln đọc Đất Lành của Pearl Buck hoặc xuống Rex coi phim chàng tài tử mặt ngựa Jean-Paul Belmondo hay chàng mặt lạnh như tiền Robert Hossein đóng. Nói đến đây tôi chợt nhớ lại anh Chà Và cao lớn ở cái thư viện sang trọng có máy điều hòa không khí đó. Trời Sài Gòn thường là oi bức nên khi bước vào một gian phòng có máy lạnh người ta thường dễ buồn ngủ. Nhiệm vụ chính của anh Chà hình như là rình xem có ai ngủ gục thì đến đánh thức dậy. Ở bất kỳ thư viện nào khác, khi người đọc mỏi mắt đều có thể tỳ mặt lên tay để nhắm mắt trong giây lát, hoặc gục thẳng đầu xuống bàn mà ngủ, nhưng ở cái thư viện sang trọng của nước đàn anh hùng mạnh giàu có này thì người dân của nước đàn em phải đọc chứ không có quyền nghỉ.

              Trở lại chuyện xi nê, có lẽ tôi là kẻ can đảm duy nhất trong đám thanh niên Sài Gòn đã dám đưa một cô bạn gái vào rạp Long Phụng coi phim thần thoại Ấn Độ nói tiếng Việt Nam . Lần cuối tôi đưa Ngân đi xi nê là phim Love Story. Tôi thích Ngân ở chỗ là nàng không hề lải nhải cái câu “Love means never having to say you’re sorry” như các em thời thượng khác.

              Trong những lần đi chơi với nhau, Ngân hay kể cho tôi nghe về những cô bạn học mà nàng mới quen ở Sài Gòn, những cô bạn nói tiếng Pháp thông thạo hơn tiếng Việt, về những con poupée tóc vàng chưng trong tủ buffet ở nhà họ, và về những bữa ăn mà trong đó người ta không dùng đũa. Tôi nói cho Ngân nghe về chuyện tất cả học sinh phải thi Tú Tài Việt, và những thành phần bourgeois gentilhomme mà dân Mít gọi nôm na là “trưởng giả học làm sang” còn sót lại của một thời xưa cũ.

              Khi thơ của nhà thi sĩ Ấn Độ Khalil Gibran được ra lò thì tôi đã mua tặng ngay cho Ngân một cuốn cho hợp thời trang dù tôi đọc chẳng hiểu gì cả. Và khi đi quán cà phê nghe thơ Phạm Thiên Thư do Phạm Duy phổ nhạc thì tôi cũng đã chép cho nàng những câu:
              Rằng xưa có gã từ quan
              Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
              Hẹn nhau tàn cuộc hoa này
              Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ

              Có lần tôi rủ Ngân cầu cơ. Tụi tôi bấy bát đổ gạo cắm nhang và mượn trong xóm được một bàn cơ làm bằng ván hòm về cầu với mấy đứa quen trong xóm. Ngân và tôi mỗi đứa ấn một ngón tay trỏ lên con cơ, và bỗng dưng cơ lên chạy vùn vụt. Cơ chạy tới chữ nào thì mấy đứa kia ghi xuống. Cái gì làm cho con cơ chạy đó đã tự xưng là Quách Thị Trang, tức là cô nữ sinh bị bắn chết trong lần biểu tình phản đối đàn áp Phật giáo trước đó, và chữ cơ chỉ ráp lại thành được một bài thơ lục bát có bốn câu, dù không hay nhưng cũng có vần hẳn hoi. Đến đó thì cơ ngừng và mấy cây nhang bốc cháy. Sau đó thì Ngân bị bệnh sốt mê man cả ba bốn ngày liền.

              Trong thời gian khi các bạn cùng học của tôi chạy xe Honda tới ngồi ngóng các cô nữ sinh của Gia Long hay Trưng Vương trong giờ tan học thì mỗi tối trước khi đi ngủ tôi thường nằm trằn trọc lo âu cho cái học bết bát và tương lai không định hướng của mình. Ngược với tôi, Ngân học rất chăm. Nàng bảo tôi rằng đó là lối thoát duy nhất mà nàng có được, dù chưa biết sau này nếu lên được đại học thì sẽ chọn ngành gì.

              Năm 72 trước khi nhập trại tôi có ghé qua từ giã Ngân. Tôi chở nàng đi xem bói, và thầy bói đã nói rằng tướng nàng khổ tâm nhiều và khó thọ quá ba mươi. Để an ủi nàng, ông đã nói:
              Hữu tướng vô tâm, tướng tòng tâm diệt
              Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh
              Ông khuyên nàng hãy cố làm lành lánh dữ để tu nhân tích đức, hy vọng sẽ cải số được phần nào.

              Trong lần Ngân và tôi gặp nhau cuối cùng ở Việt Nam đó, tôi đã ngồi nghe Ngân kể chuyện về cái quê hương khốn khó của nàng. Quận Hàm Tân thuộc về tỉnh Bình Tuy, tức là một tỉnh Bắc Nam Phần giáp ranh với Phan Thiết là một tỉnh Nam Trung Phần. Về hướng Tây, Bình Tuy nằm cạnh Bảo Lộc và Lâm Đồng. Trong địa phận tỉnh Bình Tuy gồm có ba quận là Hàm Tân, Hoài Đức, và Tánh Linh. Về phía Bắc tỉnh Bình Tuy có rặng núi Mây Tào khá hiểm trở mà Cộng Quân đã dùng làm mật khu của chúng. Ở Hàm Tân có Đập Đá Dựng và sông La Ngà, nơi mà hồi còn ở tiểu học có lần một cô bạn của Ngân đã trượt chân ngã xuống trong mùa mưa thác lũ và bị nước cuốn đi mất tích.

              Ngân đã kể cho tôi nghe về người tu sĩ trẻ của dòng Khổ Tu Phan Xi Cô ở Hàm Tân, người tu sĩ đi chân không, ngày ngày quỳ lên vỏ mít đọc kinh và tự đánh mình bằng roi cá đuối, đêm đêm nằm trên phản gỗ không chiếu mà xót thương cho những đứa trẻ Việt Nam bất hạnh lấy vỏ đạn làm đồ chơi, lấy lá cây làm qua tài đi chôn xác những con giun con dế, và bẻ nhánh cây giả vờ làm súng bắn nhau.

              Trong suốt buổi chiều hôm đó tôi ngồi lặng yên nghe Ngân kể những câu chuyện bâng quơ, những địa danh xa lạ. Tôi mơ hồ hình dung ra những bãi cát trắng tinh khôi trải dài giữa núi đồi và biển xanh. Tôi thấy hình ảnh đó đẹp lắm nhưng không có thực. Cho đến ngày nào những người lính xâm lược còn trà trộn giữa những người dân hiền lành khốn khó của Bình Tuy, Phan Thiết, Lâm Đồng, Bảo Lộc để cướp bóc bắt bớ, chui rúc trên núi Mây Tào chờ cơ hội xâm nhập miền Nam, len lỏi đặt mìn khủng bố ở các trường học trong những đêm văn nghệ tất niên, thì những hình ảnh đẹp đẽ kia với tôi vẫn không có thực, vì tôi sẽ không bao giờ có được cái cơ hội đặt chân đến viếng thăm để nhìn thấy một lần bình dị. Cái đau của tuổi trẻ Việt Nam chúng tôi trong chiến tranh là như thế. Chúng tôi chỉ được nghe về quê hương như trong những truyện hoang đường cổ tích ở những nơi nào xa xôi lắm, khi mà những địa danh đó thực ra chỉ ở cách nơi mình ở không đầy vài tiếng xe đò.


              Sau này trong thời gian ở Nha Trang, từ tháng 8/72 tới tháng 12/73, tôi có nhận được thư Ngân hai lần. Lần thứ nhất trong năm 72 cho hay nàng đã thi đậu tú tài hai và dự tính sẽ xin vào Khoa Học. Tôi ngồi trên tầng dưới chiếc giường sắt dưới bóng điện trần lật nắp tủ làm bàn viết để viết thư hồi âm chúc Ngân may mắn. Khi tắt đèn đi ngủ tôi hình dung ra khuôn mặt xinh đẹp trong sáng của Ngân và tự hỏi tại sao mình đã không yêu nàng dù chúng tôi đã chia xẻ được rất nhiều những vui buồn trong suốt cả ba năm trời và đã trở thành hai người bạn rất thân, nhất là vì Ngân không có ai thân ở Sài Gòn.

              Lần thứ hai tôi nhận được thư Ngân là vào mùa hè năm 73. Ngân cho hay đã học hết năm đầu Luật Khoa và đang dự tính tìm việc đi làm vì hai người anh chiến sĩ của nàng đã mất trong chiến tranh và cha mẹ đã bỏ ruộng nương nên không còn giúp nàng được nữa. Trong lá thư dài đó nàng còn kể cho tôi nghe về người tu sĩ trẻ ngày xưa đã ghé thăm nàng ở Sài Gòn trước khi lên đường sang Vatican học đạo. Tôi hình dung ra cảnh vắng lạnh của ngôi giáo đường mà Ngân đã đến quỳ đọc kinh ngày còn nhỏ ở một xứ mù sa gió cát, và tự dưng nhớ tới bài Giáo Đường Im Bóng của Nguyễn Thiện Tơ:
              Nhớ tới đêm đầy ánh sáng
              Hương trong gió tràn miên man
              Giây phút như ngừng thôi rơi
              Tiếng chuông muôn đời
              Dánh xinh xinh bao thiên kiều
              Quỳ niệm thánh kinh ban chiều
              Nơi giáo đường đêm Noel ấy
              Là người tôi mến yêu.


              Tôi nhớ đến Nhà Thờ Đức Bà ở Sài Gòn trong một đêm Noel xưa cũ khi tôi đứng cạnh Ngân nhìn giòng xe gắn máy chạy điên cuồng như thác lũ từ hướng bến Bạch Đằng lên mà không thể nào băng qua đường để đi lấy chiếc Honda đang gửi để đi về. Vì giòng xe đó mà tôi đã bị cô tôi la mắng tơi bời khi sau một giờ sáng mới đưa Ngân về tới nhà. Tôi nghĩ đến số lương trung sĩ hàng tháng chưa tới 18 ngàn của tôi và không biết phải hồi âm Ngân ra sao. Đến cuối năm tôi mới ra trường, và dù rất muốn về thăm cô bạn nhỏ, tôi không có cách nào đi được. Bây giờ hồi tưởng lại chuyện đời quân ngũ cùng những năm chiến tranh liên miên của thời mới lớn, tôi thấy không có gì đáng sợ bằng chuyện không được tự do đi lại theo ý thích, và không lúc nào việc mất tự do đó làm cho tôi khó chịu cho bằng khi được thư Ngân mà không về được thăm nàng lần đó. Tôi không nhớ Ngân bằng cái nhớ điên cuồng ray rứt của một người tình trẻ mà nhớ bằng một thứ cảm tình thương mến âm thầm của một người anh trai thương đứa em gái bơ vơ nơi xứ lạ. Hình như định mạng đã là như thế. Những người con gái Việt Nam lớn lên trong chiến tranh mộng mơ thui chột và bơ vơ sợ hãi ngay giữa trong lòng thành phố. Mà quả thật là đáng sợ như thế, bởi sau đó không lâu thì đời Ngân đã rẽ sang một khúc quanh không thể quay về.
              Last edited by hung45qs; 04-20-2011, 07:20 AM.
              Hung45HTQS

              Comment


              • #8
                Chim Trong Tổ


                Cuối năm 72 ở trại Ngân Hà trời gây lạnh. Khi trời còn nóng gay gắt trong những tháng trước thì đêm ngột ngạt không có gió, bây giờ thì gió lùa qua những rặng dương vi vu cả đêm. Mỗi tối nhờ đi tập văn nghệ tất niên mà tôi không còn bị Hà Tấn Thông móc ra tập cơ bản thao diễn. Thật ra thì đi cơ bản thao diễn không phải là khó, nhưng tôi thấy rằng đó là một việc hoàn toàn vô ích, bởi tôi vào Không Quân là để đi bay chứ không phải để đi ắc ê. Đã về Sài Gòn trong tâm trạng sắp đi Mỹ rồi lại khăn gói ra lại Nha Trang, tôi không thấy có gì hào hứng trong cái triển vọng sẽ về lại Sài Gòn lần nữa để đi diễn binh cả.


                Tôi được đi tập văn nghệ là nhờ cán bộ chiến tranh chính trị Xuân Sơn chọn. Để trốn hẳn nạn tập cơ bản thao diễn, tôi tình nguyện đi tập tới hai màn trình diễn khác nhau. Màn thứ nhất là vở kịch Du Xuân do chàng Lộc trong một khóa đàn em soạn ra. Hai vai nam thì Lộc và tôi đóng, còn hai vai nữ thì do Xuân Sơn và một chàng nào nữa đóng. Sau những câu hát mào đầu thì một vai nữ, do Xuân Sơn thủ diễn, hát trước:
                Thân em như cái sập vàng,
                Anh như manh chiếu rách bên đàng vất đi!
                và tôi hát đối lại:
                Lạy trời cho gió nổi lên,
                Cho manh chiếu rách bay lên sập vàng!

                Màn thứ hai là một vở thoại kịch. Tôi đóng vai một người cha đau khổ có hai đứa con trai, một đứa hư hỏng do Phạm Khắc Thành đóng, và một đứa bị bệnh cùi do Đỗ Văn Quá đóng. Trần Bá Sơn thì thủ vai bác sĩ. Ngoài ra tôi còn có một bà vợ và Quá có một vị hôn thê. Hai vai này do hai nữ quân nhân trong ban tâm lý chiến thủ diễn. Về phần cuối vở kịch, đứa con cùi của tôi đã trở thành một linh mục sau khi được một bà sơ chữa lành bệnh, và khi đứa con lớn của tôi hấp hối trên giường bệnh thì đứa kế đã làm lễ rửa tội cho anh mình, và lúc đó mọi người mới nhận ra nhau. Đoạn kết cảm động làm cho phu nhân của Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân khóc hết nước mắt, và kết quả là vở kịch đã được trình diễn thêm một đêm theo lời yêu cầu cho Sư Đoàn II Không Quân. Đỗ Văn Quá được một tuần lễ phép, trong khi những thằng còn lại được bốn ngày. Trong dịp đi phép này Trần Bá Sơn lấy cớ là phải về xứ ở tuốt dưới Vĩnh Bình không có phi vụ để ở nhà chơi đến cả hai tuần.

                Sơn là một cán bộ rất tốt. Tối nào họp nhau tập văn nghệ nó cũng săn sóc đoàn kịch bằng cách cho ăn xí mụi khát khô cổ, và sau đó thì nó cho uống trà đá phình bụng. Bên cơ hữu có một ông thượng sĩ tên Hương thổi saxophone rất não nùng, nhưng vì ông đã già nên mấy em nữ quân nhân ít để ý tới. Trong những đêm đi tập màn hát đối này Sơn hay giận tôi về tội bỏ bê nó để lo đi theo dê mấy em. Đêm về chỉ có hai thằng cuốc bộ lủi thủi dưới mấy hàng phi lao rít lên trong gió từng hồi giận dữ làm cho tôi dựng tóc gáy, thế mà nó nhất định không chịu đi gần tôi. Kỷ niệm giữa nó và tôi mãi mãi chỉ có thế thôi, một thằng đi bên này đường và một thằng đi bên kia đường.

                Trong thời gian này thì Xuân Sơn được ba bạn theo Công Giáo là Đỗ Văn Bính, Nguyễn Văn Hóa, và Đỗ Văn Quá săn sóc rất kỹ. Những đêm đi tập văn nghệ về muộn, ba chàng thường để dành cơm phạn xá và thịt hộp trong lon sữa Guigoz để chờ Sơn cùng ăn.

                Sau vở thoại kịch, Đỗ Văn Quá đã nghiễm nhiên trở thành Quá Cùi. Chỉ vì có cái tên này mà tình đồng đội giữa nó và Nguyễn Văn Bực đã sứt mẻ khôn hàn gắn. Một hôm Bực nổi hứng lên nhất định gọi Quá bằng cái biệt danh mới, và Quá đã phản đối kịch liệt và đòi uýnh, nhưng anh kia lại còn gân cổ ra cãi là “Mày Cùi thì tao kêu là cùi, rồi mày làm gì tao?” Khổ nỗi Đỗ Văn Quá thuở nhỏ là dân quê làm ruộng tính tình hơi cục mịch không mau mồm lắm miệng để cãi nhau chỉ cứ thẳng cánh thụi cho anh kia một quả làm cho lỗ mũi hắn ăn trầu.

                Bởi Quá đã nhắc đến Nguyễn Văn Bực ở đây thì có lẽ chỗ này là nơi tốt nhất cho bạn Bực lên tiếng. Bạn này thì ít nói nhưng khi đã mở máy thì hay triết lý ẩm ương, xin quý bạn bình tâm theo dõi.
                "'Nhập thế thì hành động, ém thế hưởng nhàn .'
                "Đã sinh ra ở trong trời đất là nam nhi, cụ Nguyễn Công Trứ đã có dạy ta rằng không công danh thà nát với cỏ cây hoa lá cành.

                "Bởi tin vào số mệnh của mình là số con rồng, mà rồng gì không cần biết miễn phải là rồng thì mới đi Không Quân được cho nên sau khi nhặt được cái bằng tú tài hạng bét tớ lật đật nhảy vào lính, vào đâu cũng được miễn là lính có hiệu con rồng là khoái rồi, dù bố mẹ có lo tiền để cho đi học tiếp, hay nói đúng hơn là trốn quân dịch, thì tớ cũng nhất định không màng.

                "Tớ sinh trưởng ở Tân Uyên. Nơi đây đời sống êm đềm lắm, có lẽ chỉ riêng tớ là thích bay nhảy. Nhớ lại cổng Phi Long ngày ấy sao mà cả một rừng người. Ngày nhập trại ông Tiến ưa nói chuyện thầy đời, nhìn cái thằng Hùng Goebel là tớ thấy đã rồi vì trông nó hách làm sao ấy. Thôi tạm dẹp mấy ông thần đó qua một bên để bước qua chỗ thằng Thiếu Úy Nhỏ nó điểm danh Khóa 72A để ra Nha Trang huấn nhục, ôi thôi càng nghĩ càng ngán ngẩm cái mớ đời, bởi giờ đây thấy nó lèo ơi là lèo.

                "Anh em 72A thân mến, chúng ta ai có quên chớ tớ thì nhớ rõ ngày đó lắm, bởi đây là cái ngày mà số mạng của tớ gắn liền. Tớ đã nghĩ rằng mình chọn lầm đường đi rồi, bởi những hung thần ác sát đang chờ chực tớ. Các AC Hùng, Lập, Minh, Ánh, Cao, Châu, Huệ, Út Small đã làm tớ chết đi sống lại. Tớ nào có lầm lỗi chi đáng lắm đâu mà có lẽ cái số của tớ là như vậy. Đường đi vào Không Quân thì có nhiều lối, mà vào trại Ngân Hà thì chỉ có một con đường. Bởi tớ đã lỡ đi lộn nhằm con đường đó thì cho nó lỡ luôn. Đường vào địa ngục nếu ta không vào thì ai vào đây? Cái cuộc đời của tớ nghĩ ra chẳng may mắn như bao nhiêu người khác nên đôi lúc chỉ muốn quên đi tất cả mọi chuyện lớn nhỏ cho xong, nhưng... còn anh em bạn bè, tất cả bao nhiêu người thân, nên tớ không thể thu mình vào cái vỏ sò bé nhỏ.

                "Riêng về thời gian huấn nhục, nội cái chữ huấn nhục không cũng lảng vảng trong đầu óc tớ suốt gần ba mươi năm. Tại sao lại gọi là huấn nhục? Bởi có nhục thì mới thấy không còn nhục. Tại sao chúng ta phải huấn nhục, mà chúng ta từng có bị nhục chưa?

                "Nếu nói công bằng thì mấy thằng 72A đi du học sớm thì ít bị mệt, còn những anh em ở lại thì chịu huấn nhục nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu nói đời Sinh Viên sĩ quan phi hành đều xuông xẻ thì đâu có những thằng giờ đã ra đi và để lại những gì mà chúng ta phải làm. Tuần huấn nhục khó phai mờ trong đời của những SVSQ chúng ta. Như anh em đã biết, tớ xém nữa là không đi khỏi quân trường Nha Trang. Tớ muốn làm siêu siêu đại cồ, mà làm mãi cũng chán nên đành phải làm thinh. Làm thinh lại không được vì tớ hay nói, mà nói thì thường hay mất lòng . Các đàn anh không hiểu như vậy nên buồn phiền đem tớ ra dợt chơi, xong rồi lại đem nhốt conex, mà trời Nha Trang thì anh em biết là nóng tới cỡ nào.

                "Trong thời gian các hung thần làm tớ điên đảo cuộc đời đó là những ngày nằm tù ở Phi Dũng. Buồn tình tớ bèn thổi ống khóa để có bạn đồng hành nên không may cho vài bạn 72A. Chiều hôm ấy sau khi tớ thổi khóa và niệm thần chú một hồi thì ông Trần Văn Vô vào. Tớ nói với Vô rằng có phép này linh nghiệm lắm để khi nào thoát ngục thì tớ sẽ truyền lại cho. Để biểu diễn cho Trần Văn Vô thấy phép thần thông của tớ, tớ đã làm lại mửng cũ, và thế là chiều hôm sau Phạm Nhân đã nhập niết bàn chung vui cùng bọn tớ...

                "Tớ phục Phạm Nhân lắm vì nếu tớ được một thì nó phải được tới mười, vì nó là người của cõi trên, có nhiều phép lạ. Anh em nào tìm được Phạm Nhân ở đâu xin chỉ hộ tớ, hay có lẽ AC Nhân đã thành chánh quả cũng không chừng...

                "Sau những ngày tịnh tâm dưỡng tánh đó, tớ có chế biến thêm nhiều tuyệt chiêu. Cái ngày học địa huấn ở Nha Trang tớ có nói một câu mà Đỗ Văn Quá đã làm cho tớ và các anh em khác cãi vã loạn cào cào lên. Vì hôm ấy tớ quên đem theo bảo vật trấn sơn nên Quá đã đả tớ trọng thương.

                "Anh em đã biết tớ thì theo đạo tự nhiên và thích hưởng nhàn. Tớ tuy đã là lính nhưng thích ở ngoài phố nhiều hơn trong trại. Bởi tớ tàng hình hơi nhiều nên anh em buồn gọi tớ là 'SVSQ ngoại trú'. Vì lẽ này mà ông Thiếu Tá Bé khắc tinh đã cạo đầu nhốt tớ nguyên thời gian ở trại Ngân Hà."

                Bạn Quá không phải lúc nào cũng chiến thắng vẻ vang, bởi Quá đã gặp Châu Đá là khắc tinh của mình. Trong khóa, Võ Thành Long Châu được Nguyễn Văn Châu rất thương mến, một phần có lẽ vì hai chàng cùng tên với nhau. Khi mới huấn nhục xong, một hôm Đỗ Văn Quá đòi đánh Long Châu vì một lý do gì đó, và Văn Châu đã nhẩy vô đá Quá một cái làm cho Quá phải rút lui. Có người thì cho rằng vì đó mà Nguyễn Văn Châu có biệt danh là Châu Đá. Tuy nhiên, cũng có người nói rằng vì hắn ngày xưa hùng cứ khu Cầu Đá hay Bến Đá gì đó ngoài Vũng Tàu.

                Có thể những đứa đi đóng kịch trốn tập cơ bản thao diễn là không công bằng với các anh em khác, nhưng chắc không bằng hiện tượng gọi là COCC, không phải ICCS viết tắt cho International Commission on Control and Supervision tức là Ủy Ban Liên Hiệp Đình Chiến Bốn Bên, mà là Con Ông Cháu Cha. Trong đám này có những anh như Châu Thiên Huệ, Phan Việt Quốc Vận, Nghiêm Xuân Mạnh, và Nguyễn Tiến Cường . Trong khi anh em bị phạt tơi tả thì ông anh sĩ quan cán bộ xách Cường ra tưởng là phạt riêng nhưng thật ra là để cho Cường nghỉ mệt.

                Sau đây hãy để cho Nguyễn Tiến Cường lên tiếng về hoàn cảnh của mình.
                "Gọi là COCC có hơi oan cho chúng tôi. Thật ra chúng tôi đã không sung sướng gì hơn các anh em khác mà còn bị ngược lại là khác. Hãy nhìn Châu Thiên Huệ khi vừa ra tới trại Phi Dũng là đã bị các niên trưởng réo tên kéo ra phạt gần chết vì là bạn thân của một niên trưởng trong Khóa 40 HTQS. Trần Minh Hiển chỉ vì có lá thư gia đình gửi gấm cho một quan cấp tá săn sóc đã bị Chuẩn Úy Nhân phạt đến khi vào barrack vừa khóc vừa kéo theo cái sac marin xền xệt sau lưng. Phần tôi thì trong ngày đầu tiên cũng đã rách tơi tả bình thường như tất cả anh em.


                "Đến ngày thứ nhì, tôi đang bị phạt trong barrack thì niên trưởng Nhân đi vào, vừa đi vừa la to:
                "–Ông nào là Nguyễn Tiến Cường, ra trình diện cán bộ coi."
                "–Có mặt!
                "–Có phải em Chuẩn Úy Dũng không?
                "–Dạ phải.

                "Thật tình lúc đó tôi mừng quá vì nghĩ anh tôi gọi. Bất thình lình cán bộ Nhân la lên:
                "–Trời ơi, vào quân đội còn chè lá hả? Ỷ anh là sĩ quan hù niên trưởng, năm chục cái nhẩy xổm.
                "Nhẩy xong đủ số, niên trưởng lại tiếp:
                "–Em Chuẩn Úy Dũng phải không?
                "–Dạ không!
                "–Trời ơi, mới đi lính có mấy ngày mà quên anh ruột rồi, một trăm cái công lực.
                "Bấy nhiêu là tôi đã hơn anh em rồi nhá. Nhưng chưa hết.
                "–Có đào chưa?
                "–Dạ chưa.
                "–Trời ơi, sinh viên sĩ quan Không Quân mà không có đào. Xấu hổ quá, năm mươi cái hít đất.
                "–Một, hai, ba, ..., năm chục.
                "–Sao đã có đào chưa?
                "–Dạ rồi.
                "–Ha ha, đàn anh chưa có đào mà đàn em đã có đào. Ông muốn gác cơ niên trưởng hả?
                "–Dạ không.
                "–Bây giờ ông đi vừa ôm hôn cột vừa la lên 'một cái cho em, hai cái cho em...' cho đến hết các cột ở barrack này.
                "Tôi không nhớ bao nhiêu cái cột tôi đã thương yêu hôn hít trong ngày hôm đó. Anh em có muốn làm COCC để được sướng như tôi không?"

                Có lẽ chính trong một buổi chiều lạnh lẽo giống như những buổi chiều cuối năm 72 đó mà mấy câu thơ sau ra đời:
                Phạn xá chiều nay buồn tê tái,
                Cà rốt khoai lang chấm mắm đường.

                Trong khóa 72A có nhiều chàng có tên hiệu, hoặc gọi nôm na là “biệt danh” do anh em trong khóa đặt cho. Bởi những biệt danh thường đi kèm với chứng tật hoặc dị tướng, thường là chúng không văn vẻ chi cho mấy. Tỷ dụ như bạn Phạm Văn Lộc. Sau những buổi trưa hè vất vả phải ngắm nhìn dung nhan mùa hạ của chàng, anh em tự dưng hình dung ra những hố bom lỗ chỗ, và đã thân ái đặt cho chàng cái tên Lộc Hố Bom. Đỗ Văn Bính thì hơi lạ, vì không hiểu tại sao lại được gọi là Bính Bần, bởi hắn không vay mượn ai dù là không bao giờ cho ai vay mượn. Vũ Xuân Quảng đã Ù còn Ghẻ! Trần Hớn Dân được gọi là Dân Già vì Phạm Văn Lộc và Trịnh Vĩnh Thụy là hai bạn thân của Dân vì thương những nếp nhăn ưu tư trên khuôn mặt bạn mình đã thân tặng cho cái tên tả chân đó. Sau ngày lên làm trung đội trưởng ở Ngân Hà thì Dân lại có một cái tên mới. Số là tính của Dân thì ngăn nắp chu đáo mà trung đội của nó thì lại toàn những thằng biếng lười ăn ở bừa bãi nhất như Phạm Văn Lộc, Trịnh Vĩnh Thụy, Nghiêm Xuân Mạnh, Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Phước Tuấn... Mỗi tuần chỉ có sáng thứ bẩy khám phòng xong mới cho đi phép mà các ngài cũng không chịu dọn dẹp làm cho Dân phải hò hét nhắc nhở việc dọn giường tủ cho gọn ghẽ. Mấy thằng kia bị la ó hoài đâm bực bèn cãi lại, “Mày đâu phải bà già tao mà cứ cằn nhằn hoài vậy!” Từ đó Dân thành Dân Bà Già. Sau này khi đi bay vì chữ “bà già” làm người ta hiểu lầm là “bay L-19” cho nên gọi là Dân Già cho tiện.

                Có những biệt danh hơi khó hiểu. Một tỷ dụ là biệt danh mà Tân Già đặt cho Bực. Cứ mỗi lần Tân Già đi qua giường Bực nằm là hắn lại chào bạn bằng cách gọi "Bực", gõ lên thành giường một cái "cạch", rồi kêu "Đại". Gom ba chữ lại thì thành ra cái biệt danh mà Tân Già đặt cho Nguyễn Văn Bực là "Bực Cạch Đại".

                Trong khi nhiều anh em có biệt danh mà một trong những đứa phá nhất khóa là Nghiêm Xuân Mạnh lại không có biệt danh thực là một điều vô lý. Trong thời ở Ngân Hà một hôm khi được phép cùng đi với Vũ Đức Trọng ra bệnh xá khám một căn bệnh vờ vịt nào đó, chàng ta đã trèo lên cây trồng ngay trong sân một căn nhà nghỉ của Chuẩn Tướng Oánh trong căn cứ để hái me. Trong lúc loay hoay tụt xuống, vì lo thủ đống me trong bụng, chàng đã té bịch xuống giữa sân, làm cho hai anh quân cảnh sợ hết hồn tưởng là có đặc công xâm nhập vội xông tới bắt. Thực ra thì chàng ngã hôm đó cũng chỉ bởi ham hái nhiều quá ôm không hết chứ sau đó trong những lần được ra phố Mạnh đã nhiều lần trèo những cây dừa cao tít mù trồng dọc theo bờ biển mà không bao giờ té cả. Chuyện của Mạnh còn dài và sẽ được nối tiếp sau.

                Một mục đích của thời gian huấn nhục là để khép các tân khóa sinh vào khuôn khổ quân đội, nhưng có nhiều bạn vẫn chưa chịu vô khuôn. Trong một buổi trưa ở trường Sinh Ngữ Nha Trang, bạn Trần Văn Vô chỉ vì ham uống một ly sữa đậu nành mà vô lớp trễ. Khi sĩ quan giảng viên bắt lên văn phòng lấy giấy vào lớp thì Vô điềm nhiên về trại Ngân Hà nằm nghỉ xả hơi chơi. Chỉ vì thế mà ngày hôm sau Vô đã xách túi vô Cải Hối Thất bên Phi Dũng nằm hết bẩy ngày. Đang hận đời thì chớ, vừa bước chân vào phòng giam thì gặp ngay Nguyễn Văn Bực. Thấy Vô là Bực phán ngay rằng: “Tao nằm đây một mình đã một tuần sợ ma quá nên hôm qua tao thổi ống khóa cầu xin có thằng nào vô bầu bạn, vậy mà không ngờ linh thiệt, bởi hôm nay có mày vào.”

                Dù ngay sau khi được thả về trong tuần sau đó, bạn Vô đã thi đậu Anh ngữ và được đưa về Sài Gòn chờ đi Mỹ, cho đến ngày hôm nay hắn vẫn còn bướng bỉnh cãi rằng: “Tao giận vì chỉ vô trễ có vỏn vẹn mười lăm giây thôi mà bị người ta gắt gỏng với tao...!”

                Nói về chuyện về Sài Gòn để đi Mỹ, trước khi đi đa số phải trải qua một thời gian ở Tent City Tân Sơn Nhất. Sau đây là lời kể của Nguyễn Tiến Cường.

                "Sau Noel năm 72 tôi cùng một số anh em 72A và các khóa đàn em được về Sài Gòn vì có số điểm ECL cao. Sau khi trình diện tại Bộ Tư Lệnh, chúng tôi được đi phép vài ngày rồi trình diện tại Tent City của Sư Đoàn V Không Quân. Tent City nằm sát bên Trường Sinh Ngữ Quân Đội Gò Vấp và đối diện Bệnh Viện Cộng Hòa. Nghe tên thì thật là thơ mộng nhưng sống tại đó thì như là một địa ngục. Có lẽ gọi là hỏa ngục thì đúng hơn vì nó nóng như một hỏa lò. Nằm dưới cái lều với khí hậu thiêu đốt chúng tôi như nằm trong một lò nướng bánh mì. Tôi không thể tả nổi sức nóng mặt trời xuyên qua lều vải khủng khiếp như thế nào. Anh em suốt ngày chỉ mặc quần lót, và khi nghỉ trưa phải nằm dưới gầm giường mới chịu nổi. Tôi sống chung với Mai Anh Dũng, Bùi Văn Minh, Nguyễn Dũng, và Vũ Văn Huyện, cùng một số anh em 72A Không Phi Hành. Buổi sáng thì tập họp đi qua trường sinh ngữ học bằng một cửa thông giữa trường và Tent City. Trưa trở về trại ăn uống nghỉ ngơi một lát rồi qua trường học từ 1 đến 5 giờ chiều.

                "Tent City được đặt dưới quyền của Trung Úy Ba có biệt danh là Ba Gà Mổ vì ông ta có nuôi mấy con gà Tây và rất hắc ám. Tôi ở đây được một tháng thì có một vụ tuyệt thực nho nhỏ xẩy ra. Số là chúng tôi đóng tiền ăn khá đắt đỏ mà nhà hàng do một ông chủ người Tàu thầu cho ăn còn tệ hơn ở nhà bàn Nha Trang. Dưới sự điều động của SVSQ trưởng trại, một niên trưởng Khóa 70 mà tôi đã quên mất tên, tới giờ ăn trưa chúng tôi đã cùng nhau ngồi trước sân nhà bàn chứ không chịu vào ăn. Thấy thế, Trung Úy Ba cùng vài anh quân cảnh chạy đến la hét định bắt chúng tôi vào ăn, nhưng chúng tôi nhất định đoàn kết với nhau ngồi ỳ ra đó. Cuối cùng Trung Úy Ba phải xuống nước hứa sẽ giải quyết. Ba hôm sau thì một cuộc điều đình đã diễn ra giữa nhà thầu, Trung Úy Ba, và SVSQ trưởng trại. Từ đó trở đi, thức ăn đã được cải tiến khá hẳn lên.

                "Thời gian ở chung với nhau cùng lều này dù gian khổ nhưng vui và nhiều kỷ niệm. Bùi Văn Minh tối ngày cứ chọc phá Nguyễn Dũng đến độ nhiều lúc tôi tưởng có đổ máu. Dũng người Đà Nẵng nói tiếng lạ tai nên mỗi khi có gì phát biểu thì tụi tôi phải cố gắng mới hiểu, và Minh đã chọc Dũng rằng 'Đ. M., mày nói tiếng Việt tao còn chưa hiểu mà bày đặt bặp bẹ tiếng Mỹ thì có trâu nó nghe!' Ông Dũng nghe thế nổi điên chửi lại, nhưng khổ nỗi là càng điên tiết thì giọng nói của Dũng nhà ta lại càng ngọng nghịu khó nghe hơn nữa. Từ đó chàng ta bị chết tên là Dũng Ngọng, dù anh ta đã nhiều khi gắng sức phân trần với anh em là tại cái lưỡi của mình ngắn nên phát âm khó nghe chứ không hề bị ngọng bao giờ cả.

                "Phần hai ông thần Mai Anh Dũng và Huyện Đề thì mê bài bạc. Giường tôi nằm ngay dưới ánh đèn sáng nên cha con chúng nó tụ năm tụ sáu sát phạt suốt ngày. Tôi thì đếch thích bạc bài nhưng vì nằm trong vùng đất tốt cho tụi nó cắm dùi nên lúc nào nằm nghỉ cũng sát sòng bài một bên. Một ngày kia tự dưng có vài người quân cảnh đột nhập vào trong lều và tóm trọn sòng gồm bẩy mạng. Tôi cũng bị bắt luôn vì cùng hiện diện ngay nơi đó, và thế là thành tám. Đêm đó cả bọn bị nhốt vào một conex đã có vài mạng lao công đào binh nằm sẵn từ trước, mà mấy tay này thì toàn là giang hồ tứ chiếng và đào ngũ mà thôi. Bạn nào đã từng nếm mùi conex thì biết nó chật chội như thế nào khi phải chứa bằng ấy mạng.

                "Sáng hôm sau Trung Úy Ba bắt tám thằng tôi ra giữa sân ngồi đúng theo vị trí của từng người y như đêm hôm trước rồi đưa cho một bộ bài cho đánh. Cứ mỗi ván bài ai thua thì phải uống một bi đông nước. Tôi đếch biết chơi nên cứ thua và uống dài dài. May nhờ Mai Anh Dũng thương tôi bị oan nên đề nghị mỗi thằng thua một lần để chia đều hình phạt, và nhờ đó tôi mới qua được.
                "Chuyện kế sau đây thì có liên hệ mật thiết tới Nguyễn Na. Trong một cuối tuần tôi và Na đi phép. Khi ra cổng thì có một cô mặc áo dài đứng cạnh chiếc Honda có vẻ như đang đợi chờ ai. Mắt Na tự dưng sáng lên, và hắn nói nhỏ: 'Cường, em bé nào xinh quá không biết đang đón ai trong trại, để tao ra thả... thử coi.' Nói xong là Na làm ngay, cứ tà tà tiến tới cô ta, còn tôi thì biết thân lo đi đón xe về. Sau này khi nhắc chuyện xưa thì Na nói rằng người xưa không ai khác hơn là bà xã của Na hiện tại. Đó là một mối tình Tent City.

                "Ở đó tới tháng 2/73 thì tôi có tên đi Mỹ. Anh em 72A có tên trong danh sách đi lần đó gồm có Trần Văn Minh tự Minh Nổ, Đinh Quang Minh, Trần Minh Hiển, Nguyễn Kỳ Trung, Hà Minh Tâm, Lý Thành Kiệt, Vũ Văn Huyện tự Huyện Đề, và Hạnh. Chẳng may gần ngày đi thì điểm thi của Hạnh hết hạn. Khi thi lại thì Hạnh bị rớt nên bị loại khỏi toán. Cho những anh em còn lại trong danh sách, thế là hạ màn cho những ngày đáng nhớ ở Tent City."

                Sau đây là phần Nguyễn Hoàng Tân kể lại vài kỷ niệm với Nguyễn Văn Hải tự Hải Mù như là một “huyền thoại”.
                “Tao gặp Hải Mù lúc khám sức khoẻ gia nhập Không Quân. Hắn là con nhà bình thường không giàu, không nghèo, nhưng hắn rất chiụ chơi. Thời đó tao rất nhà quê về chuyện chọc gái, nhảy đầm, ăn nhậu. Lúc ở Phi Dũng, mỗi lần gác ở phía Đồng Bò, hắùn là thằng dạy cho tao nhảy đầm. Lúc ấy có cả Trịnh Vĩnh Thuỵ, Lê văn Lâm tự Lâm Mắt Phụng, và Nguyễn Phước Tuấn (Crazy). Hải Mù và Lâm Mắt Phụng là hai tay khét tiếng nhảy đầm, bởi vậy nó mới mở mắt những thằng nhà quê ở miền Tây như tao. (Hải ơi! tao mà hư hỏng như ngày nay là tại mầy đó nghe.)

                “Hải là một là một tay nhiều đam mê. Nếu bảo hắn mê gái thì oan cho hắn lắm, vìø thằng 'ôn hoàn' thích đủ thứ. Có lần tao và nó lên xe Lam ra phố Nha Trang. Tình cờ trên xe có một em rất xinh, miệng móm xọm, đã vậy còn đưa môi dưới ra ngoài thừ lừ. Thấy thế, Hải nhà ta mới làm cái giọng nghiêm và buồn. Đ. M., cái thằng nầy nghèo cạp đất ăn... chứ cái tánh dê không bỏ. Cái cặp mắt dê xồm của nó láo liên, và trầm xuống như một con gấu đang rình mồi. Kể từ đó Hải có cái biệt danh là Hải Mù. Trời sanh con mắt nó bự mà không thấy đường...

                “Có lần hai thằng tao làm quen được với hai em ở đường Nhà Thờ. Hai nàng tên là Phượng và Hồng, nữ sinh trường Thánh Tâm. Thật là buồn cho đời SVSQ, có lần ra phố hai thằng không có một xu. Hải Mù có số đào hoa lại mát tay, hay có lẽ Phượng và Hồng thiếu nợ tình xa... gì đó hay sao, mà hai nàng săn sóc bọn tao rất kỹ. (Phượng ơi! nếu em có đọc những hàng chữ nầy thì em hãy biết rằng tình yêu mà bọn anh dành cho hai em có thật 100%, không phải như giọng làm bộ mơ hồ, trái tim lạnh lùng của Trần Chung Thanh suy luận về tình yêu và người tình hững hờ năm cũ.)

                “Sau nầy Huỳnh Văn Chín tự Chín Đen được sự trợ giúp của Trịnh Vĩnh Thụy giở trò 'dụ hổ ra khơi' và took over hai em, tụi tao không có chính thức bàn giao. Sau đó thì một hôm hai thằng nó dẫn hai nàng đi tắm biển. Tụi bây coi... con gái người ta mới tuổi 19 trong đồ tắm mỏng manh mà Chín Đen đành đoạn mang ra giữa biển, cách bờ khoản 20 mét. Trời thần ơi nó rên inh ỏi như heo bị thiến vậy. (Chín à! ngày nào gặp lại mầy, tao sẽ cho mầy nếm cái mùi cầm cái... mà mầy cho Cô Hồng cầm ở giữa biển, xem mầy có rên như heo bị thiến hay không?)

                "Chuyện tắm biển nầy do chính Trịnh Vĩnh Thụy kể lại. Bởi vậy tao ghét Nha Trang lắm. (Hồng ơi! suốt 8 tháng quen với em, anh chỉ nắm tay em được 16 giây lúc chia tay, nếu anh là điện 1000 Volt cũng chẳng giết chết được em đâu với 16 giây ngắn ngủi? Huống chi anh là thằng con trai khờ khạo,chưa biết tình yêu là gì, anh đã trao cho em tình yêu đầu đời của thằng con trai!! mà sau đó Chín Đen đã cướp của em những gì quý giá nhất. Chuyện nầy có thật 100%!!)

                “Có lần Hải Mù cho tao biết quan niệm của hắn về chuyện bay bổng như là một fashion của thời cuộc, không có oai hùng và độc đáo như chính hắn cũng không ngờ thiên hạ gán cho. Khi cuộc đời bất nhất, bất ổn, thời cuộc không cho phép những thằng cùng lứa như hắn đứng bên lề cuộc chiến, và chắc chắn rằng cũng không phải ai muốn làm người hùng là được.

                “Thằng Hải đã từng nói rằng: ‘Đ. M., cái thằng đàn anh mắc dịch nào nói cái câu: “Trời sanh ta ra để bay” rất là hay và cũng rất là dở.’ Dở bởi vì nghề đi bay cũng chỉ là tài xế một loại xe gắn máy có khả năng rời hổng mặt đất thế thôi. Nhưng hùng và độc đáo ở chỗ là có đứa đã không về, vì không còn xác để rơi!! Có đứa đã gửi gấm cuộc đời mình vào nghề bay, không phải phục vụ cho chiến tranh như là một công cụ, mà có tính cách bảo vệ phần lãnh thổ trên không phận quê hương. Xưa nay văn tự chỉ có khả năng khai thác mặt phẳng của vấn đề, không đủ chiều sâu để biết sự thật như những người đã từng lấy chiều cao và mây trời làm lẽ sống.”

                Khi các khóa đàn em ra Nha Trang ồ ạt thì người ta mới thấy khóa 72A đều may mắn không có ai buông xuôi hoặc đau màng óc. Nhiều bạn đã lên làm cán bộ với mục đích chính là hướng dẫn săn sóc đàn em. Khóa 72A có rất nhiều khóa đàn em, vì trong năm 72 có từ 72A tới 72H, và trong năm 73 có từ 73A tới 73F. Những anh em làm cán bộ không thuộc nhóm "13 Con Ma" kể ra sau đây theo thứ tự abc: Hứa Văn Bảo, Nguyễn Công Chánh, Trần Hớn Dân, Đinh Đông Định, Võ Thanh Hà, Nguyễn Văn Hóa coi Ẩm Thực, Mai Thanh Hoàng, Tạ Hoàng, Đinh Sỹ Hưng, Hoàng Đình Lai coi Nhà Bàn, Hồ Đắc Lễ, Bùi Văn Minh, Lê Văn Nguyên, Đỗ Trọng Nhâm, Đỗ Tiến Như, Đỗ Văn Quá coi Quân Kỷ, Vũ Xuân Quảng, Lê Quang Sang, Nguyễn Xuân Sơn coi Chiến Tranh Chính Trị, Hồ Đắc Tiến KHP, Nguyễn Văn Tiến KPH, Hà Tấn Thông, Đặng Quốc Thuần, và Vũ Đức Trọng.

                Theo ký ức của Hà Tấn Thông thì từ thời gian trong trại ông Tiến, SVSQ đại diện cho 72A Phi Hành là Lưu Khải Minh. Khi ra Nha Trang vì Minh báo cáo quân số lắp bắp nên Đỗ Tiến Như làm thay cho anh em đỡ bị phạt lây. Trong thời gian này không có chức trưởng khóa rõ rệt mà chỉ có một vài người trong đó có Võ Văn Tấn, Phạm Công Chiến Thắng, Hà Tấn Thông, và Đặng Quốc Thuần thay nhau đếm bước cơ bản thao diễn cho anh em đi ắc ê và chia gác, trực cổng. Sau khi về Ngân Hà thì Đỗ Tiến Như chính thức được làm trưởng khóa 72A Phi Hành. Sau khi các khóa 40 và 41 Hoa Tiêu Quan Sát ra trường thì Trung Úy Thắng cắt một SVSQ Không Phi Hành là Nguyễn Văn Tiến làm SVSQ Không Đoàn Trưởng và Hà Tấn Thông làm SVSQ Không Đoàn Phó. Khi các SVSQ 72A Không Phi Hành đi học chuyên môn thì Phi Hành gom lại ở Ngân Hà, và Hà Tấn Thông lên làm Không Đoàn Trưởng và Mai Thanh Hoàng làm Không Đoàn Phó. Ở cấp liên đoàn thì có Trần Hớn Dân coi Tác Chiến, Lý Minh Trung coi Kiến Tạo, Phạm Công Chiến Thắng coi Phòng Thủ. Lúc này thì Đỗ Tiến Như coi Phi Đoàn A kiêm phụ trách huấn nhục các khóa đàn em cùng với Đặng Quốc Thuần.

                Theo lời Võ Thanh Hà, ngay từ thuở khởi đầu ở Ngân Hà là đã có bốn người làm cán bộ ở chung trong barrack của các cán bộ niên trưởng trong khóa 40 và 41 Hoa Tiêu Quan Sát. Ba chàng này là Võ Thanh Hà, Mai Thanh Hoàng, Nguyễn Xuân Sơn, và Hà Tấn Thông. Hà thì coi về Tác Chiến, Hoàng thì coi về Phòng Thủ tối tối có nhiệm vụ phát súng cho những anh em tới phiên cắt đi gác, và Xuân Sơn làm cán bộ chiến tranh chính trị.

                Trong số bốn người, Xuân Sơn là người lên làm cán bộ đầu tiên. Sau vài ngày huấn nhục ở Phi Dũng thì một buổi tối kia có một màn trình diễn giúp vui của Khối Chiến Tranh Chính Trị. Họ có ba ca sĩ, một nam hai nữ, trình bày những bản nhạc lính có tính cách hơi sến. Về phần 72A thì ngày hôm trước cán bộ niên trưởng Huệ coi barrack của Sơn đã hỏi có ai biết hát, và Hoàng Đình Lai đã lên tiếng tiến cử Nguyễn Xuân Sơn. Trong đêm văn nghệ đó, Sơn đã lên hát bài Thu Vàng và được anh em hoan nghênh nhiệt liệt. Thế là sau đó Sơn đã được niên trưởng Soạn thuộc Khóa 40 HTQS là cán bộ chiến tranh chính trị cất nhắc lên làm cán bộ phụ tá ngay. Sau ngày đó thì Xuân Sơn không phải bị huấn nhục nữa. Chỉ có đêm lột xác trước khi gắn alpha thì Sơn cũng phải ra cùng với anh em mà thôi.

                Theo lời Võ Thanh Hà về phần ba anh em cán bộ còn lại thì trong thuở ban đầu, mỗi barrack anh em đã cử ra một người làm cán bộ. Khi đó những chức không và liên đoàn trưởng đều do các đàn anh trong các khóa 40 và 41 HTQS giữ, và Võ Thanh Hà, Mai Thanh Hoàng, và Hà Tấn Thông chỉ là những "cán bộ nhí" mà thôi.

                Vào đầu năm 73 thì các khóa đàn em ở chung trong Ngân Hà rất đông. Sau khi các bạn Không Phi Hành đã được phân phối theo các tài khóa và các khóa bay trực thăng quốc nội chưa khai giảng thì bạn Nguyễn Văn Tiến 72A Không Phi Hành làm Không Đoàn Trưởng . Bên Phi Hành thì Võ Thanh Hà lên làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Tác Chiến. Trong thời gian này Võ Thanh Hà và Nguyễn Văn Tiến có nhiều kỷ niệm vì hai chàng đi ăn cơm tháng cùng với nhau.

                Cán bộ Hà lúc đó thì dành thì giờ coi các khóa đàn em, trong khi cán bộ Thông thì săn sóc các anh em 72A nhiều hơn. Ngoài các anh em cán bộ vừa kể thì tất cả các SVSQ phi hành của 72A còn lại đều có thể, và có lẽ đều đã từng, bị Hà Tấn Thông phạt. Khóa 72A chia ra làm hai phi đội A và B. Đỗ Tiến Như coi một trong hai phi đội và nằm dưới quyền cán bộ Hà Tấn Thông.

                Khóa 72A bấy giờ thu gọn lại còn có dưới một trăm người ở trong hai barracks. Bởi có lẽ chờ đi học bay lâu mệt mỏi quá nên anh em 72A đã bắt đầu chán nản. Một hôm Trung Úy Tấn đi khám phòng thấy các khóa đàn em dọn phòng sạch sẽ trong khi 72A thì không chịu dọn phòng. Ông bắt Võ Thanh Hà viết nhật lệnh phạt 72A dã chiến và đọc trước hàng quân trong buổi họp mặt trình diện quân số lúc sáu giờ chiều. Võ Thanh Hà rất ngại nhưng bất đắc dĩ phải thi hành lệnh này. Một điều bất ngờ xẩy ra là khi nhật lệnh được đọc xong thì các Sinh Viên Sĩ Quan cùng hè nhau bỏ chạy hết trước mặt các khóa đàn em.

                Sau khi các thằng ông nội 72A đã bỏ chạy hết thì Trung Úy Tấn đã cầu viện tới Đại Úy Thắng . Vào lúc cỡ 11 giờ đêm trong khi hai barracks 72A đã tắt đèn đi ngủ thì bốn người là Đại Úy Thắng, Trung Úy Tấn, Thiếu Úy Hòa, và Chuẩn Úy Trí đã chia ra chận hết hai đầu của mỗi barrack và kêu mở đèn lên. Đèn vừa bật sáng là có nhiều thằng đã bỏ chạy ra cửa hông. Đại Úy Thắng rút súng bắn lên trời và kêu tất cả các anh em còn lại ra tập họp. Cùng lúc đó, ông ra lệnh cho Võ Thanh Hà viết lệnh cạo đầu tất cả. Anh em 72A nhận chịu dã chiến nhưng không chịu cạo đầu nên không ra tập họp. Lúc đó mới thấy Khóa 72A đoàn kết, vì không có một anh nào ra cả.

                Bấy giờ thì không khí đã khá căng thẳng. Không biết làm sao hơn, Đại Úy Thắng đã gọi quân cảnh, và một lúc sau thì hai xe GMC chở đầy quân cảnh đến đậu ngay trước phòng ông Bé. Trong khi quân cảnh vây hai căn barracks thì Chuẩn Úy Trí vô dỗ ngọt. Biết không thể làm gì hơn, tất cả đã ra chịu cạo đầu.

                Khi anh em đã tập họp ngoài sân xong thì có lẽ Đại Úy Thắng định loại một hai người ra bộ binh cho nên đã hỏi: "Anh nào chống đối?" Nghiêm Xuân Mạnh đã bước ra khỏi hàng và nhận rằng: "Tôi
                chống đối."

                Sau khi Mạnh đứng ra nhận thì những anh em còn lại đều bước sang đứng cạnh. Theo lệnh Trung Úy Tấn, các cán bộ Hà và Thông đã phải đưa tông đơ ra. Anh em cạo lẫn nhau, người này cạo cho người kia. Sau đó là lên xe GMC đi nhốt trong hầm đá bên Sư Đoàn II. Năm sáu chục thằng mà nhốt vô một công sự xây bê tông chỉ có vài lỗ châu mai, sau khoảng mười phút là đã xỉu bốn năm thằng. Những thằng còn lại phải gân cổ lên gào kêu cứu. Lúc một giờ sáng quân cảnh mở cửa mang những thằng đã xỉu lên nhà thương. Sau đó họ mở cửa cho anh em ngủ ở ngoài đến sáng hôm sau thì thả cho về hết.

                Trong năm 73 trong nhóm "13 Con Ma " có 11 người làm cán bộ là: Nguyễn Hữu Đức coi Thể Thao, Võ Thanh Hà coi Kỷ Luật, Trần Thanh Hảo, Lê Văn Lâm, Nguyễn Văn Luông, Nguyễn Văn Son, Trần Văn Thành coi Ẩm Thực, Lê Ngọc Thảo làm Không Đoàn Phó, Trương Thanh Vân làm Không Đoàn Trưởng, Nguyễn Hồng Việt coi Kỷ Luật, và Trương Văn Vĩnh.

                Đa số các SVSQ cán bộ 72A được anh em cảm mến, bởi trong khi ai cũng lo học cho mau mau để thi đậu Anh văn đi Mỹ thì các SVSQ cán bộ đã phải hy sinh bỏ giờ ra lo phụ giúp điều hành công việc
                trong đoàn. Hơn nữa, lắm khi vì cùng khóa, các cán bộ còn du di cho. Tuy nhiên, cũng có một thiểu số có lẽ vì chưa thích ứng với hình ảnh phong nhã của người sĩ quan phi hành tương lai của binh chủng hào hoa nhất nước nên đã hung hăng hơn cần thiết với anh em trong khóa cũng như với đàn em trong các khóa sau.

                Cùng với những khóa đàn em ra Nha Trang, trại Ngân Hà không còn chỗ ở, và đoàn SVSQ lan dần sang trại Thùy Dương. Đây là nơi mà chuyện rình coi một người đẹp rất trẻ lúc đó đang sống chung với một ông đại úy bên khu gia binh đêm đêm ngồi xổm tắm đã xẩy ra. Thấy người ta xối nước mà thèm, bởi mình thì phải đóng tiền mua máy bơm. Chẳng những máy bơm hư, mà đèn thì đứt bóng, máy lạnh nhà bàn hết chạy, bồn cầu bị ai tháo gỡ, rồi còn phải đóng tiền giặt ủi, v.v..., thật là nhiều vấn nạn. Người anh em nước đồng minh thì đã rút dù rồi, mà sau đó ván ép đóng trên tường của những cái barrack do họ để lại cũng bị bay đi đâu mất sạch, đêm đêm gió núi lùa qua kẽ ván đóng lá sách lạnh lùng. Ngày đó vì chưa hiểu người anh em đồng minh nhiều, tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy có những kiến trúc của Pháp xây cất từ lâu rồi mà vẫn còn chắc chắn, trong khi những kiến trúc của người anh em từ một nước hùng cường giàu mạnh số một trên thế giới này mà sao chỉ có sau vài năm là sụp đổ tan tành.

                Trời đêm lạnh thì hay mắc tiểu. Có đêm Thiếu Úy Tấn đang nhẹ nhàng bước chân đi tuần thì một tên cốt đột nào đó thò củ qua các tấm ván tè trúng ngay giầy ông ấy, và thế là cả barrack phải thức dậy thi hành lệnh phạt. Sau đó thì có đứa kể rằng bị Thiếu Úy Tấn bắt đi “xúc cát”, và sau khi nghe lệnh xong thì nó bất mãn quá, bởi vì nó nghe tiếng miền Trung không rành cho nên đã cho rằng hình phạt gì mà quá dã man, trong khi đang đói mệt thì làm sao mà thi hành nổi!


                Khi bắt đầu được gắn alpha ra phố Nha Trang thì một mục tiêu chính của các SVSQ là các nữ sinh trung học. Theo thứ tự đáng kể là Nữ Trung Học Huyền Trân, trường đạo Thánh Tâm, và trường Tây
                Hàn Thuyên. Nguyễn Đình Hòe ngày đó lắm mối đi chơi nhờ có họ hàng xa với bà chủ quán cơm Thanh Lộc , tức là quán cơm cho dân của Không Quân. Bà chủ quán có một cô con gái tên Ty đang học ở Huyền Trân, năm đó cỡ đâu trăng tròn lẻ và có rất nhiều cô bạn học. Bởi lẽ đó mà ngày như ngày chàng Hòe đóng vô bộ đồ cơ hữu đội nón xùm xụp cho khỏi ai trông thấy mặt rồi chuồn ra phố ở tới sáng hôm sau mới mò vô, lần nào cũng vừa đúng lúc điểm danh. Nhờ quen mấy em nữ sinh đó mà Hòe lúc nào cũng có những anh tà loọc đi theo để hưởng lộc, thường trực là Ủ Văn Anh Dũng, Võ Đức Di, và Nghiêm Xuân Mạnh. Có một lần Hòe với hai thằng nữa là Quách Dũng Tiến và Trần Anh Hùng sáng thứ hai đang lầm lũi đi vô cổng thì xe Thiếu Tá Bé chạy qua, và ba thằng vội nhẩy vô trong chiếc C-47 đậu làm kiểng ở gần cổng Long Vân trốn. Thiên bất dung gian, Thiếu Tá Bé trông thấy ngừng xe xuống thò đầu vô kêu: “Mấy anh kia chui ra đây! SVSQ mà hèn như thế à? Mỗi người đưa cho tôi tấm giấy phạt .”

                Ở Nha Trang dạo đó ngoài Thanh Lộc ra còn có một quán cơm đắt khách nữa và có ba chị em xinh xinh hầu bàn là quán Thọ Lộc mà phần lớn khách là dân Hải Quân. Kể ra thì Nha Trang là một thành phố hy hữu vì đi đâu cũng thấy khóa sinh quân đội. Đa số các cô gái đến tuần cập kê thì thường muốn tìm một anh SVSQ Không Quân hay Hải Quân nào đó để nương tựa sau khi anh ta mãn khóa ra trường, và nếu gia đình đã chấp thuận như thế thì cũng dễ dàn xếp. Ngược lại, nếu gia đình nào không muốn gả con cho lính thì họ giữ con gái trong nhà rất kỹ, sợ lỡ con mình phải lòng một chàng một anh chàng điển trai nào đó trong bộ quân phục tiểu lễ bắt mắt mỗi cuối tuần tản bộ đầy đường.

                Trong khóa dĩ nhiên ngoài chuyện vui ra còn có những chuyện đáng buồn. Đó là những anh em không may phải ra bộ binh trước khi đi học bay. Phạm Nhân là cái tên đầu tiên phải nhắc tới. Có lẽ vì cái tên định mạng mà Nhân tù tội liên miên, SVSQ mà bị nhốt bên Sư Đoàn II Không Quân rồi mới ra Lao Công Đào Binh. Ngoài ra còn có ba anh em bị thuyên chuyển ra khỏi Không Quân vì lý do kỷ luật. Nguyễn Minh Tâm thì chọn binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, Dương Hồng Sơn thì gia nhập Phòng 7 Tổng Tham Mưu, còn Nguyễn Hữu Roanh thì sau này phục vụ tại Tiểu Khu Bình Dương.

                Last edited by hung45qs; 04-26-2011, 04:26 AM.
                Hung45HTQS

                Comment


                • #9
                  Mọc Cánh


                  Từ cuối năm 72 là đã có nhiều sinh viên sĩ quan phi hành của khóa 72A được gửi đi học bay từ những tài khóa phản lực ở Mỹ, trực thăng tại Mỹ cũng như tại các phi đoàn tác chiến ở Việt Nam, và L-19 ở Nha Trang. Các khóa đàn em từ 72B tới 72F đã lần lượt kéo ra, và nhiều anh em 72A giờ đây phải thay các niên trưởng lo việc chăm sóc và điều hành trại Ngân Hà.
                  Sau khi tốt nghiệp, dù là Phi Hành hay Không Phi Hành, các anh em 72A đã về phục vụ tại các sư đoàn tác chiến sau:
                  • SĐ I KQ Đà Nẵng, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Khánh.
                  • SĐ II KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Lượng, với bản doanh ở Nha Trang và căn cứ ?????? Chiến Thuật Phan Rang.
                  • SĐ III KQ Biên Hòa, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Huỳnh Bá Tính.
                  • SĐ IV KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Hữu Tần, với bộ chỉ huy đặt ở Bình Thủy và căn cứ ?????? Chiến Thuật Trà Nóc.
                  • SĐ VI KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phạm Ngọc Sang, với bản doanh ở Pleiku và thêm căn cứ 60 Chiến Thuật Không Quân Phù Cát.

                  Riêng Sư Đoàn V Vận Tải ở Tân Sơn Nhất, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phan Phụng Tiên, thì không có anh em 72A nào về.
                  Sau khi ra phi đoàn thì cuộc sống của mỗi SVSQ phi hành gắn liền với một con số và cái tên của phi đoàn mình phục vụ. Các phi đoàn Quan Sát thì bắt đầu bằng số 1, tỷ dụ như 112, 124. Các phi đoàn Trực Thăng thì bắt đầu bằng số 2. Các phi đoàn Khu Trục thì bắt đầu bằng số 5. Những khóa học bay được kể lại sau đây theo thứ tự đó.

                  Vào đầu năm 73 gần tết con trâu thì khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát bắt đầu khai giảng ở Trường Phi Hành thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Những huấn luyện viên là những thiếu úy mới ra trường từ Mỹ về. Các khóa sinh hơi vất vả vì phải học bay vừa bằng tiếng Việt vừa bằng tiếng Mỹ. Triệt nâng thì là stall, cận tiến là final approach, chong chóng là propeller, và cánh cản là flap. Khi cất cánh là lúc bận rộn nhất, các khóa sinh lại càng thêm lúng túng khi miệng đang lẩm bẩm “hòa khí già, tay ga tống hết” trong khi huấn luyện viên ngồi cạnh hò hét những “mixture: rich, throttle: full”. Trong những buổi briefing, thằng học trò ngồi xanh mặt nghe đàn anh mắng mỏ mà không khỏi chạnh lòng nghĩ tới những thành phần bourgeois gentilhomme mới lên của thời đại, những bourgeois gentilhomme hút Salem, Winston, Pall Mall thay vì hút Con Mèo hay Ba Số 5 như thời trước. Các đàn anh đã không có thì giờ rảnh vào phạn xá xem để biết rằng các tiêu chuẩn dinh dưỡng của các đàn em rất là thấp, khó mà vẽ được cái lazy eight cho được tròn trịa như tiêu chuẩn mà khỏi run tay hoa mắt ù tai. Không nên la mắng đàn em quá, bởi đất nước đang chờ.


                  Khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát là khóa bay L-19 đầu tiên có sự hiện diện của 72A. Khóa này có 27 khóa sinh gồm có 23 anh em 72A, hai sĩ quan và hai SVSQ khóa 72E. Những SVSQ của 72A gồm có:
                  1. Lê Minh Bảo, PĐ 110 Đà Nẵng
                  2. Trần Quang Diệu, PĐ 110 Đà Nẵng
                  3. Nguyễn Văn Đích, PĐ 124 Biên Hòa
                  4. Tạ Viết Đỉnh, PĐ 110 Đà Nẵng
                  5. Đặng Văn Hai, PĐ 120 Đà Nẵng
                  6. Kiều Công Ngọc Khuê , PĐ 112 Thanh Xà, Biên Hòa
                  7. Nguyễn Tuấn Kiệt, PĐ 110 Đà Nẵng
                  8. Nguyễn Văn Năm, rớt bay bị loại ra bộ binh
                  9. Đinh Trọng Nghĩa, PĐ 124 Biên Hòa
                  10. Đường Lập Nghĩa, PĐ 110 Đà Nẵng
                  11. Nguyễn Thanh Quan, PĐ 110 Đà Nẵng
                  12. Đào Thanh Sơn, PĐ 120 Đà Nẵng
                  13. Nguyễn Thanh Tâm, PĐ 120 Đà Nẵng
                  14. Võ Văn Tấn, PĐ 124 Biên Hòa
                  15. Vũ Văn Tân, PĐ 116 Cần Thơ
                  16. Trần Chung Thanh, PĐ 112 Thanh Xà, Biên Hòa
                  17. Võ Văn Thừa, PĐ 116 Cần Thơ
                  18. Mai Ngọc Trai, PĐ 110 Đà Nẵng
                  19. Phạm Quang Trung, PĐ 124 Biên Hòa
                  20. Nguyễn Thanh Tùng, PĐ 114 Nha Trang
                  21. Nguyễn Long Tựu, PĐ 112 Thanh Xà, Biên Hòa
                  22. Hứa Tỷ, PĐ 110 Đà Nẵng
                  23. Trần Văn Ứng, PĐ 110 Đà Nẵng

                  Trong khóa 42 HTQS, Trai Đầu Bò còn nhớ Tạ Viết Đỉnh là một anh chàng hơi gầy gò và có tật ưa nói cà lăm không kịp thở mỗi khi chàng đang hừng chí. Một hôm khi dẫn đào nhí ra Hòn Chồng ngoạn cảnh, trong một lúc cao hứng chàng đã thao thao kể cho nàng nghe rằng trong khi đang bay mà buồn ngủ là chàng chui vào mây gác cánh lên đó mà ngủ, cho đến lúc mây tan máy bay rớt xuống thì chàng mới giật mình thức dậy mở máy để bay về đáp. Không may cho chàng là có mấy huấn luyện viên của Trường Phi Hành tình cờ ở gần đó nghe hết mà chàng không biết. Vì câu chuyện này mà Đỉnh bị kết từ hôm đó, ngày nào cũng bị đàn anh huấn luyện viên hỏi rằng “hôm nay có tính gác cánh lên mây mà ngủ hay không?”

                  Trong thời gian học bay của khoá 42 HTQS thì câu lạc bộ của Đại Tá Thịnh khai trương. Mỗi buổi trưa các khóa sinh mặc đồ bay lấy khay sắp hàng chờ mấy cô đứng sau quầy múc cơm vô khay cho. Cơm ăn đủ no nhưng thịt thà rau cỏ thì ít, cho nên thêm được chút nào hay chút nấy. Trai Đầu Bò vì được cô Tuyết có cảm tình nên lần nào cũng được múc cho một cục thịt kho bự nhất. Dĩ nhiên thì chuyện chả đi tới đâu vì Trai chỉ lợi dụng tình thế đùa giỡn cho vui vậy thôi. Ít lâu sau thì cô Tuyết cũng hiểu ra như thế, và từ đó là cục thịt mà cô múc cho Trai bao giờ cũng bé nhất. Bù lại thì Mai lại được chị Trinh gốc người Hoa là chủ cái gian hàng tạp hóa cạnh quán ông Tá dành cho những cảm tình đặc biệt nên nó lúc nào cũng có xà bông Camay để tắm. Nhiều bữa thấy hai chị em Trinh-Trai tâm tình thủ thỉ mà anh em đâm ra ghen tị, vì qua sự thân mật gắn bó đó người ta đủ biết rằng những nhu yếu phẩm thì Mai không thiếu. Gì chứ những món đồ bày sau tủ kính của chị Trinh như xí mụi, thuốc lá, mì gói, cà phê, gương lược, bánh kẹo, v.v..., Mai muốn gì mà chị chẳng cho!


                  Có lúc khóa 42 HTQS được cho qua trại sĩ quan khóa sinh Hoàng Yến ở. Gian trại làm bằng sắt từ trần cho tới sàn, và cứ hễ từ trong bước ra hay ở ngoài bước vôâ là bị điện giựt nhẩy nhổm. Trại đó rộng rãi thoải mái nhưng vắng vẻ xa đoàn SVSQ nên anh em hơi buồn cho rằng mình bị đì. Bởi ở xa Ngân Hà nên buổi tối nhiều thằng ưa dù ra phố chơi. Có một buổi tối Thiếu Tá Bé gọi những thằng còn lại lên trình diện. Tôi vì cao nhất làm trưởng toán dẫn anh em vô văn phòng trình diện xong thì Thiếu Tá Bé hỏi: “Tôi cho các anh sang bên đó ở là ưu đãi lắm rồi mà tại sao các anh còn chống đối, các anh hãy trả lời đi!” Tôi đứng nghiêm hô to: “Trình Thiếu Tá, chuyện đó chúng tôi không được rõ!” Thế là Thiếu Tá Bé đập bàn đuổi cả đám về, trừ tôi thì cạo đầu nhốt một tháng. Cái conex của Ngân Hà đã nghiễm nhiên biến thành tư gia của tôi, ban ngày trần xì một chiếc quần xà loỏng trong đó thỉnh thoảng cậy cửa đưa nón sắt nhờ đàn em nào tình cờ đi ngang múc dùm ít nước xối cho đỡ nóng, ban đêm thì lạnh dã man, nhiều khi muốn tè nhưng teo đâu mất. Một tháng sau khi vừa được thả ra một hôm tôi được cắt đi với một ông sĩ quan huấn luyện kiểng không có dạy khóa sinh nào mà chỉ thỉnh thoảng bay kiếm giờ. Khi lên tàu ông ra lệnh, “Anh buông tay để tôi bay”, và thế là tôi buông tay cho ông bay là là dọc đường về Cam Ranh chơi, chẳng may vì ông ngồi sau không thấy đường chui cha nó vào một cây đa suýt chết cả hai. Sau khi về đáp thì ông ta đi méc Trung Tá Duy Chỉ Huy Trưởng Trường Phi Hành, và tôi lại vô phòng giam gần phía ngoài bệnh xá nằm thêm một tháng nữa . Cứ thế mà nằm cho gần đến lúc mãn khóa ra phi đoàn. May mà có một hôm cô tôi ở Sàigòn ra chơi nhà ông anh họ xa bắn cà nông không tới đang là một phi đoàn trưởng khu trục. Bà nhờ ông gọi Thiếu Tá Bé xin cho tôi ra phép, và từ đó về sau thì mới hết bị nhốt.

                  Trong những đêm hiếm hoi được thả ra thì tôi nhẩy tường ra phố thăm cô Lan bán quán bà Tá. Lan khi đó ở với bà chị nuôi có ba con mà không chồng trong một đường hẻm cách cổng trước không xa. Đêm đêm nằm nghe gió biển thổi vi vu, tôi lải nhải khuyên Lan hãy về Huế trở lại ở với mẹ già để còn lo đi lấy chồng làm lại cuộc đời, và bữa nào khi ngừng nói tôi cũng đều nhận ra là Lan đã ngủ. Cùng khóa 42 HTQS của tôi có Đào Thanh Sơn ngày nào cũng chạy Honda rề rề theo Lan tới nhà để thả dê, nhưng với cái tên Đào Thùng Nước Lèo, hắn coi như là vô hy vọng.

                  Chiều nào tôi về trong sam 42 HTQS chờ giờ dù ra phố thì cũng một hoạt cảnh cũ tái diễn. Nguyễn Long Tựu cứ ăn cơm xong về là nhẩy loi choi hai tay khuỳnh ra như gà mắc đẻ, và sau khi la “cục tác, cục tác” vài tiếng là lại ư ử bằng giọng mấy người đang lên đồng: “Con cò xanh nhẩy quanh đầu sói, chờ nước đục rỉa lông rỉa tóc.” Cứ chấm dứt chữ “tóc” là Tựu phải vùng chạy ra sân cho mau, vì Trung Úy Thân đầu hói cùng khóa bay ở cuối phòng cầm cây giăng mùng chạy tới đập. Ngày nào cũng màn đó mà Trung Úy Thân chưa bao giờ đập Trúng Nguyễn Long Tựu cả. Phần tôi và ông Thiếu Úy Hải thì một màn khác. Bởi tôi cứ nằm tù conex hoài, ông lấy vần điệu tên tôi ra để gọi tôi là Tù Chung Thân, và tôi thì dịch tên ông thành Dê Địt Bể.

                  Ở trại Hoàng Yến lúc đó ngoài khóa 42 HTQS, và Khóa 17 Bảo Trì Phi Cơ ra thì hầu như chẳng có ai, và vì thế tụi tôi rất cẩu thả trong vấn đề ăn mặc. Có những buổi trưa cuối tuần nóng nực, tụi tôi thằng nào cũng chỉ trần xì một chiếc xiệp . Lâu lâu cứ hễ cô Tuyết ở quán Đại Tá Thịnh tới tìm Trai Đầu Bò mà nó đi vắng thì Nguyễn Văn Đích và Nguyễn Thanh Quan cùng hai ba chàng nữa chạy ra hỏi thăm tíu tít và thân ái mời “em vô nhà chơi để tụi anh đi kiếm nó...” trong khi mặt cô nàng đỏ bừng lên và cứ cắm cúi nhìn xuống đất như đang tìm bạïc cắc rơi. Kiệt Lặc thì ưa đạo đức giả, những lúc đó cứ hay lải nhải phê bình về tư cách những thằng đang săn sóc kỹ cô Tuyết với Lê Minh Bảo. Tội nghiệp thằng Bảo hiền lành nói gì thì hắn cũng ừ. Hình như nó là người bạn duy nhất mà Kiệt có.

                  Khóa 43 Hoa Tiêu Quan Sát hình như không có anh em 72A nào.


                  Khóa 44 HTQS có những anh em 72A sau:
                  1. Diệp Vĩnh Trí (Bộp, tức là nhẩy Bebop giỏi)
                  2. Huỳnh Văn Chín (Đen)
                  3. Nguyễn Văn Hiếu (Gà Tây)
                  4. Phạm Văn Hiếu
                  5. Lưu Khải Minh (Chè)
                  6. Đỗ Trọng Nhâm
                  7. Nguyễn Phước
                  8. Trịnh Vĩnh Thụy
                  9. Huỳnh Văn Trọng (hay là Trần Bình Trọng???? Khóa 72A có hai Trọng là Vũ Đức Trọng học khóa 2 HTTT và một Trọng nữa. Trọng kia họ là gì?????)

                  Sau đây là những giai thoại của Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát ghi lại theo lời kể của Đỗ Trọng Nhâm.
                  Trong thời gian Khóa 44 HTQS đang học bay T-41, một buổi sáng trong khoảng tháng 9/74, bốn bạn 72A trong khóa đã vì ham vui mà bị nhốt. Số là trên con đường nối từ cổng Long Vân chạy dài tuốt qua Phi Dũng, giữa khoảng trại Ngân Hà và trường Phi Hành, trước khi tới chỗ dạy bay phi cụ cạnh trường Phi Hành, có một quán trong đó chỉ có vỏn vẹn hai cái bàn bi da đã cũ xì. Dù là đã vô trường bay rồi nhưng tật ham cá độ của vài anh em 72A vẫn chưa chịu bỏ. Một buổi sáng thứ bẩy các khóa sinh 44 HTQS phải lên trường Phi Hành chào cờ. Trên đường đi, bốn chàng gồm có Chín Đen, Minh Chè, Nhâm, và Thụy đã rủ nhau vào đánh bi da độ với giải thắng là một ly cà phê và một gói xôi. Bởi ham tranh giải, bốn chàng đã trễ giờ chào cờ, và bị trường Phi Hành cạo đầu và nhốt vô trại giam quân cảnh gần phía phòng lương và câu lạc bộ của Đại Tá Thịnh.

                  Trong cái trại giam của quân cảnh này có hai phòng giam, một phòng có một chiếc giường sắt hai tầng và một phòng có lưới không có giường ghế chi cả. Bốn chàng có máu đỏ đen nhà ta đã bị nhốt vô cái phòng thứ hai hết sáu ngày trời. Xui làm sao lúc đó Nha Trang lại đang bị bão lớn mà căn phòng giam lại bị dột ướt mẹp chỉ ngồi được co ro ở dưới sàn xi măng. Đã vậy mà không có gì ăn, mấy chàng phải nhằm lúc được cho đi ra làm tạp dịch dọn dẹp cây cối bị bão rơi xuống để nhờ anh em đi mua thức ăn dùm.

                  Trong thời gian sáu ngày mưa bão mà bốn chàng bị nhốt, Hiếu Gà Tây ở nhà lấy hết mấy cái giường của bốn chàng ra chắn mưa trên mấy cửa sổ của barrack. Ngoài mớ giường ra chưa đủ, Hiếu nhà ta còn lấy cả va ly của Minh Chè ra xài đỡ vào việc chống bão luôn. Khi về thấy vậy, Minh Chè nộ khí xung thiên bèn đập Hiếu Gà Tây một mách tơi bời, dù chàng này đã hết lời giải thích và năn nỉ. Sau đó Hiếu đã chạy đi đâu kiếm được một khẩu M-16 mang về lên đạn chĩa thẳng vô Minh Chè làm cho chàng này vội nhẩy núp sau cái tủ gỗ nhỏ cạnh đầu giường. May mà nhờ có một thằng nào đó chụp được súng chứ không thì chắc Minh Chè đã sớm thăng thiên.

                  Sau khi được thả ra, tật nghịch ngợm của bốn chàng cao thủ bi da vẫn chưa chịu bỏ. Một tối kia bốn thằng rủ thêm được Dân Già ra bờ biển trên đường Độc Lập nhậu, đến khi về thì trời đã khuya. Lúc đi qua một quán cóc kia, thấy mấy anh phu xích lô đạp đang chúi mũi vào một cái vô tuyến truyền hình coi một tuồng cải lương mùi mẫn, Thụy nhà ta đã đỡ nhẹ một chiếc đưa cho Dân Già đạp. Anh phu xe bất đắc dĩ này đã chở được hai hành khách là Chín Đen và Thụy về tới cổng Long Vân thì vứt xe ở đó và ba chàng điềm nhiên dẫn nhau vào cổng.

                  Lần đó không phải là lần duy nhất mà Dân Già nghe theo lời xúi làm bậy của Trịnh Vĩnh Thụy. Trong một lần về Tân Sơn Nhất chờ ra khóa bay trước đó, Thụy đã dụ dỗ Dân làm bậy rồi. Một hôm khi Dân đang ngồi ngáp gió vặt thì Thụy ở đâu lù lù lái chiếc Toyota của ông già vô. Thấy Dân, Thụy ra vẻ mừng lắm và xúi Dân đi gỡ mấy con chuột đèn néon cho hắn. Dân Già nghe xong nổi máu quân tử Tàu lên bèn lên giọng mắng mỏ rằng "Tao không quen ăn cắp!" Nhờ mau mắn miệng mồm, Trịnh Vĩnh Thụy đã phát ngôn vài lời đường mật rằng "Tao nhờ mày gỡ đây là gỡ cho tao, chứ có phải đâu là tao xúi mày gỡ cho mày..." Dân Già nghe nói bùi tai bèn trèo lên gỡ sạch hết vài trăm cái đưa cho Thụy. Thụy xách mớ con chuột đi đâu một lát trở lại với bia và mồi lủ khủ. Thế là anh em được một bữa nhậu xả ga mà không tốn công đi vay mượn hay ký sổ đồng nào.

                  Trở lại chuyện học bay của Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát. Dù gọi chung là Khóa 44 HTQS nhưng thật ra một nửa số khóa sinh học L-19 và một nửa học T-37. Số 30 khóa sinh sau khi học xong T-41 đã được chia làm hai, 15 người ở lại trường Phi Hành Nha Trang học bay L-19, và 15 người kia đi Phan Rang theo Khóa 3 Quốc Nội T-37. Trong số chín anh em 72A đã kể ở trên, có năm người đi Phan Rang là Huỳnh Văn Chín, Phạm Văn Hiếu, Lưu Khải Minh, Đỗ Trọng Nhâm, và Trịnh Vĩnh Thụy. Trừ Hiếu ra thì bốn ông thần phá làng phá xóm ở Nha Trang trước kia tiếp tục ở chung với nhau.

                  Những anh em học bay L-19 của Khóa 44 HTQS đã ra trường và về phi đoàn trước tháng 4/75. Riêng những anh em học T-37 thì chưa kịp ra phi đoàn, dù chương trình học thì coi như đã hoàn tất. Một lý do là vì các anh em đó phải học Giai Đoạn II Quân Sự tới hai lần. Lần học thứ nhất là khi còn ở Nha Trang, nhưng học không đủ sáu tuần nên sau đó phải về học thêm.

                  Bây giờ bước sang các khóa bay đào tạo hoa tiêu cho các phi đoàn có mang số 2 ở đầu, tức là các phi đoàn trực thăng. Theo lời kể của Phan Văn Út, Khối Huấn Luyện của Bộ Tư Lệnh Không Quân đã đào tạo được 6 khóa trực thăng quốc nội chia làm hai đợt. Đợt thứ nhất gồm Khóa 1 ở Sư Đoàn III Biên Hòa, Khóa 2 ở Sư Đoàn IV Cần Thơ, và Khóa 3 ở Sư Đoàn I Đà Nẵng. Đợt thứ nhì gồm Khóa 4 ở Sư Đoàn III Biên Hòa, Khóa 5 ở Sư Đoàn IV Cần Thơ, và Khóa 6 ở Sư Đoàn I Đà Nẵng.

                  Cũng theo lời bạn Út, khi mỗi khóa bay trực thăng hoàn tất thì 60% khóa sinh tốt nghiệp sẽ ở lại sư đoàn huấn luyện họ, 20% sẽ ra Sư Đoàn II Nha Trang, và 20% sẽ về Sư Đoàn VI Pleiku. Bởi khóa sinh học ở ba sư đoàn, với sự phân chia như thế thì mỗi sư đoàn đều nhận được số hoa tiêu trực thăng quốc nội bằng nhau.


                  Khóa 1 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội đã rời Ngân Hà đi học bay vào khoảng tháng 9/73. Khóa này đỡ hơn khóa 42 HTQS ở chỗ không phải nghe tiếng Mỹ nhiều từ các huấn luyện viên mới ở Mỹ về, nhưng ngược lại thì phải học ở hai nơi khác nhau. Theo lời Nguyễn Đình Hòe kể thì sau thời gian xuyên huấn ở Phi Đoàn 116, ở Sư Đoàn IV Không Quân Cần Thơ, với U-17 để làm quen với phi cơ, cao độ, phi cụ, cùng các cảm giác bay bổng, các khóa sinh đã học bay trực thăng tại Phi Đoàn 245 ở Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Nơi đây thì họ đã được chia làm hai toán, A và B, cứ toán nào học địa huấn buổi sáng thì chiều học bay và ngược lại. Trong số 41 khóa sinh, có 37 SVSQ khóa 72A và bốn SVSQ khóa 72B. Những anh em 72A được kể ra sau đây.
                  1. Đỗ Văn Ban, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
                  2. Hứa Văn Bảo, Phi Đoàn 251, Biên Hòa
                  3. Đỗ Văn Bính, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
                  4. Nguyễn Văn Bực, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
                  5. Nguyễn Công Chánh, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
                  6. Nguyễn Văn Châu, ra bộ binh ở Long Thành
                  7. Ngô Đình Chi, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
                  8. Nguyễn Văn Chiến, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
                  9. Nguyễn Văn Cửu, PĐ 251, Biên Hòa
                  10. Võ Đức Di, PĐ 235 Sơn Dương, Pleiku
                  11. Ủ Văn Anh Dũng, PĐ 221/245, Biên Hòa
                  12. Trần Văn Duy, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
                  13. Nguyễn Văn Đại, PĐ 231/245, Biên Hòa
                  14. Đinh Đông Định, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
                  15. Huỳnh Thanh Hải, PĐ 251, Biên Hòa
                  16. Lê Minh Hải, PĐ 243 Mãnh Sư, Phù Cát
                  17. Châu Minh Hoàng, PĐ 229 Pleiku
                  18. Nguyễn Văn Hóa, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
                  19. Nguyễn Đình Hòe, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
                  20 Nguyễn Đình Hồng, PĐ 223, Biên Hòa
                  21. Châu Thiên Huệ, PĐ 229 Pleiku
                  22. Nguyễn Quang Hưng, PĐ 223, Biên Hòa
                  23. Đinh Sỹ Hưng, PĐ 251, Biên Hòa
                  24. Hoàng Hữu Khuê, PĐ 251, Biên Hòa
                  25. Hoàng Đình Lai, PĐ 223, Biên Hòa
                  26. Đặng Thanh Liêm, PĐ 223, Biên Hòa
                  27. Trần Đình Long, PĐ 223, Biên Hòa
                  28. Lê Văn Nguyên, PĐ 223, Biên Hòa
                  29. Đỗ Tiến Như , PĐ 231, Biên Hòa
                  30. Phùng Văn Ninh, PĐ 251, Biên Hòa
                  31. Võ Kim Phi, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
                  32. Liêu Huỳnh Phong, PĐ 251, Biên Hòa
                  33. Đỗ Văn Quá, PĐ 243 Mãnh Sư, Phù Cát
                  34. Vũ Xuân Quảng, PĐ 251, Biên Hòa
                  35. Nguyễn Văn Sơn, PĐ 221/245, Biên Hòa
                  36. Nguyễn Xuân Sơn, PĐ 251, Biên Hòa
                  37. Phạm Duy Sơn, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang

                  Nhiều chàng có biệt danh từ khi ở Nha Trang, nhưng Nguyễn Công Chánh của Khóa 1 HTTT thì đã có biệt danh khi đang học bay U-17 ở Cần Thơ. Một hôm sau khi hết phép trở lại, Hải Ác Tăng đã nói với các bạn rằng, “Ê tụi bây hồi nẫy lúc ngồi xe đò tao thấy thằng lơ xe coi y chang như thằng Chánh.” Cả bọn cười ồ lên, và cái tên Chánh Lơ Xe đã có từ hôm đó, dù Hải không cố tình đặt, nhưng Chánh phải mang cho đến bây giờ. Kể ra với tướng tá “thư sinh trắng trẻo” như Chánh mà bị cái tên này thì hết sức là oan uổng...

                  Ở đời nhiều khi bên dưới những mặt nước trầm lặng âm thầm là những cơn sóng ngầm chảy xiết. Một trường hợp điển hình là bạn Nguyễn Văn Bực. Trong suốt thời gian mười mấy năm ở cùng thành phố với bạn này ít có ai được hắn cho diện kiến. Nếu bạn nào muốn gặp Bực trong tương lai, tôi đề nghị là cứ đến nhà hắn đập cửa vào khoảng nửa đêm, và nếu hắn không mở cửa thì cứ đứng lỳ ra đó và kêu rầm lên để đánh thức tất cả hàng xóm dậy như là đi đòi nợ vậy. Đó chính là cách tôi dùng để lấy bài viết của bạn này...

                  Bây giờ tôi xin nhường lời cho Bạn Bực nói về thời mọc cánh.
                  "Cái gì đến thì nó phải đến, và do đó tớ được học bay. Nếu nói bay U-17 thì tớ đã được Đại Úy Nhơn truyền cho trên dưới 100 giờ bay ở Bình Thủy, Cần Thơ. Thời kỳ này tớ khoái nhất. Thần ưng cũng cất cánh hạ cánh taxi ào ào ra phết. Có lần trong phi vụ huấn luyện làm triệt nâng có máy và triệt nâng phụ ở gần phi trường Rạch Sỏi là tớ nhớ để đời. Hôm đó Đại Úy Nhơn đã cho tớ chạy bộ ở phi trường vì không thuộc bài. Lúc cất cánh tớ đã đạp phía trên hai pedal để thắng thay vì đạp phía dưới để điều khiển bánh lái và cánh đuôi .

                  "Sau tớ chán bay U-17 vì lý do giản dị là sau 100 giờ mà không solo được . May mà tớ lết được về theo anh em học bay trực thăng ở Biên Hòa.
                  "Anh em 72A trong Khóa 1 Hoa Tiêu Trực Thăng thân mến, đây là khúc quanh của đời tớ. Cái chiếc trực thăng sao mà nó dễ thương lạ lùng. Chiếc U-17 trước kia đã lì lợm ngựa chứng bao nhiêu thì chiếc UH-1 nó nhẹ nhàng êm ái bấy nhiêu. Trung Úy Sơn đã truyền biệt nghệ cho tớ, chỉ sau 11 giờ bay là tớ đã nghiễm nhiên thành một trong bốn thằng solo đầu cùng với Nguyễn Văn Châu, Đỗ Tiến Như, và Đinh Sỹ Hưng. Một lần tớ bay huấn luyện với Thiếu Tá Hùng trên Long Thành làm cất cánh hạ cánh bình phi và hovering. Trên đường trở về Biên Hòa thì Thiếu Tá Hùng khám phá ra rằng máy đã tắt trong khi tớ đang chăm chú nghe tổng đài liên lạc để vào phi đạo. Ở cao độ 1200 bộ tớ định làm một cái standard auto landing nhưng vừa down pitch thì Thiếu Tá Hùng bảo tớ để cho ông bay. Tớ nói 'OK, thưa Thiếu Tá' chưa dứt câu thì tàu đã hạ càng trên một miếng ruộng hoang ở Long Thành. Bằng một giọng ấm áp, ôn hòa, Thiếu Tá Hùng đã hỏi tớ có sợ hay không. Tớ không biết làm sao mà ông ấy đã bình tĩnh được như vậy trong khi tớ thì quá bàng hoàng. Ông chỉ nói giản dị 'Anh Bực ơi, chắc tàu bị gãy đuôi' trước khi hai thầy trò lên một chiếc khác để về lại phi trường Biên Hòa. Hình ảnh đó tớ ngồi đây một mình trong đêm ôn lại giống như đang ở trước mặt.

                  "Trong những lần bay huấn luyện sau đó vì đã nếm mùi hiểm nguy tớ dè dặt hơn và học hành cũng kỹ càng hơn. Tớ check P-1 với Trung Úy Út. Hình như ông này cũng là thầy của AC Nuôi. Sau đó tớ check P-2 với Trung Úy Dũng."

                  Sự nghiệp văn nghệ của Xuân Sơn vẫn tiếp tục trong thời gian nằm trong Khóa 1 HTTT học bay ở Phi Đoàn 245. Ở ngoài phố Biên Hòa, Sơn đã từng hát ở rạp Thanh Bình và sân patin Lôi Hổ. Xưa ở Nha Trang Sơn đã được nhắc nhở qua bài Thu Vàng thế nào thì ở Biên Hòa chàng đã thành công với bản Giết Người Trong Mộng thế ấy. Khi ra phố có nhiều cô nữ sinh trường Ngô Quyền đã theo Sơn nhắc nhở bài này. Sau này khi ra Nha Trang học bổ túc giai đoạn 2 quân sự, Sơn đã hát ở matineé (xuất trưa) tại một vũ trường ở đường Độc Lập.
                  Bố mẹ của Xuân Sơn thì ở ngoài Phan Thiết, nhưng Sơn có bố mẹ nuôi ở Biên Hòa. Bởi vậy, trong thời gian học bay, các bạn có gia đình ở xa như Đỗ Văn Bính, Lê Minh Hải, và Nguyễn Văn Hóa đã hay về nhà Sơn nghỉ ngơi, nhất là trong các ngày lễ tết.

                  Trong số khóa sinh của Khóa 1 HTTT, trừ Châu Đá bị loại vì lý do sức khỏe ra thì tất cả đều được gắn cánh bay. Như đã liệt kê bên trên, những phi công xuất thân từ Khóa 1 HTTT hầu hết bay ở Biên Hòa, trừ vài người ra Pleiku, Phù Cát, và Nha Trang.

                  Khoảng một tháng sau Khóa 1, Khóa 2 HTTT đã khai giảng ở phi trường Trà Nóc Cần Thơ. Những anh em sau đây đã có tên trong khóa này.
                  1. Nguyễn Văn Dân, PĐ 255 Cần Thơ
                  2. Trần Hữu Du
                  3. Mai Thanh Hoàng, PĐ 255 Cần Thơ
                  4. Nguyễn Đình Hồng (Già), PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
                  5. Nguyễn Thành Hơn, PĐ 229 Pleiku
                  6. Nghiêm Xuân Mạnh, PĐ 227, P/Đội 259H Cần Thơ, PĐ 211 Thần Chùy Cần Thơ
                  7. Lê Công Ngữ, PĐ 243 Mãnh Sư Phù Cát
                  8. Trương Tấn Phát, PĐ 255 Cần Thơ
                  9. Lê Quang Sang, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
                  10. Phạm Hoàng Tảo
                  11. Nguyễn Thành Tài, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
                  12. Hoàng Văn Thanh, bị loại về Nha Trang
                  13. Phạm Văn Thế, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
                  14. Nguyễn Hoàng Thọ, PĐ 227 Cần Thơ
                  15. Nguyễn Thái Thọ, PĐ 227 Cần Thơ
                  16. Hà Tấn Thông, PĐ 255 Cần Thơ
                  17. Quách Dũng Tiến, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
                  18. Nguyễn Hữu Tín, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
                  19. Võ Văn Triên
                  20. Vũ Đức Trọng, PĐ 227 Cần Thơ
                  21. Trương Đình Tuyền

                  Khóa 2 HTTT đã kết thúc vào đầu năm 74. Trong thời gian học, Lê Công Ngữ vì ham đánh bài với Tài Miên mà đói dài dài đến nỗi phải đi mò khoai của các quân nhân cơ hữu trồng mang về luộc ăn cầm hơi để hôm sau đi học bay tiếp. Trong khi Ngữ vì không có tay nghề kiếm không đủ khoai ăn thì Nghiêm Xuân Mạnh ra khoét dọc theo chân các luống khoai moi từng thùng khoai non mới lớn bằng ngón tay cái và chặt những buồng chuối non đem về buồng treo lên chơi. Khi Trọng Đen hỏi Mạnh rằng “mày không ăn tha về để làm gì” thì Mạnh chỉ toét miệng ra cười, bởi chính đương sự cũng không biết để làm gì nữa.

                  Khóa 3 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội có ba anh em 72A là
                  1. Huỳnh Văn Dũng, Phi Đoàn 215 Nha Trang
                  2. Đặng Chấn Kỳ, Phi Đoàn 213 Song Chùy Đà Nẵng
                  3. Đào Huy Thái, Phi Đoàn 253 Sói Thần Đà Nẵng

                  Theo lời kể của Đặng Chấn Kỳ thì Khóa 3 học bay ở Đà Nẵng. Khóa 3 khai giảng sau Khóa 2 một tháng, tức là khoảng cuối năm 73, và ra trường tám chín tháng sau đó, lúc trời đang nóng như đổ lửa.
                  Tiểu sử của Khóa 3 HTTT cũng khá ly kỳ. Vào khoảng giữa năm 73, hơn 40 sinh viên sĩ quan đã về Sài Gòn chờ đi Mỹ. Khi về tới nơi, vì nóng lòng về thăm nhà sau gần một năm xa cách, tất cả đều bỏ đi về hết. Trung Úy Tấn không có cách gì hơn là phải làm thủ tục báo cáo với phòng nhân viên rằng cả đám vắng mặt không có giấy phép.

                  Một tuần lễ sau cả đám, kể cả Đặng Chấn Kỳ, trở lại trại ông Quế thì được cho hay rằng sau khi vắng mặt không có giấy phép 48 tiếng đồng hồ là coi như đã đào ngũ, và thế là tất cả cứ ở trong trại mà không được ai điểm danh cả. Một tuần sau nữa thì tất cả được đưa qua phòng An Ninh Quân Đội ở số 7 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để thẩm vấn. Sau khi thẩm vấn xong, sở An Ninh Quân Đội đã kết luận rằng cả đám đều thuộc thành phần vô kỷ luật. Trong số hơn 40 thằng về chỉ có mấy thằng con ông lớn là được ở lại đi Mỹ, số còn lại dồn hết vô Khóa 3 trực thăng. Ngoài 3 bạn 72A ra còn có hai niên trưởng cán bộ là Út hình như từ khóa 70A và Viết từ khóa 71. Phần còn lại là các khóa đàn em.

                  Để bổ túc cho lời kể của Đặng Chấn Kỳ, bạn Đào Huy Thái cùng trong toán về Tent City lần đó kể rằng trong số anh em 72A còn có Huỳnh Văn Dũng, Phó Hoàng Trí, và Đoàn Anh Tú. Cả toán nằm dưới sự hướng dẫn của Thiếu Úy Tấn về trình diện Bộ Tư Lệnh. Sau khi C-130 đáp xuống Tân Sơn Nhất, Thiếu Úy Tấn đã ra lệnh tập trung điểm danh. Vì hôm đó nhằm ngày thứ sáu, tất cả anh em đã lên tiếng xin cho về thăm gia đình đến sáng thứ hai sẽ vô trình diện. Khi bị từ chối, tất cả đã đồng lòng tan hàng và hẹn gặp lại sáng thứ hai tại cổng sau gần Tent City để vào trình diện.

                  Đúng như lời hẹn, tất cả đã tụ tập tại điểm hẹn vào sáng thứ hai. Sau khi sắp hàng điểm danh xong thì Phó Hoàng Trí đến cổng gặp quân cảnh trình bày xin vào trình diện nhưng quân cảnh đã trả lời là phải chờ Bộ Tư Lệnh quyết định. Đến khoảng một giờ trưa thì cả toán được cho vào làm thủ tục nhập trại và làm thủ tục chào sân...

                  Sau khi nhập trại rồi, ngày qua ngày gần một tháng không có ai thèm đếm xỉa gì tới. Có vài SVSQ trong các khóa đàn anh không biết nghe tin ở đâu về cho biết có lẽ tất cả sẽ ra bộ binh. Thình lình trưa hôm đó có một văn thư từ Bộ Tư Lệnh gửi tới trại cho biết có ba người được làm thủ tục theo học tại trường Sinh Ngữ Quân Đội. Ba người này là Phó Hoàng Trí, Đoàn Anh Tú, và một người khóa đàn em. Số anh em còn lại rất giận dữ, và nêu thắc mắc là tại sao chỉ có ba người. Sau bữa ăn chiều hôm đó, tất cả đã họp lại để hỏi xem có phải vì ba người này đã vào trình diện trước, nhưng tất cả đều phủ nhận. Theo lời yêu cầu anh em trong toán, ba người đã xác nhận trên giấy trắng mực đen là đã không có vào trình diện Bộ Tư Lệnh hôm thứ sáu. Với bằng chứng này, tất cả anh em đã yêu cầu Bộ Tư Lệnh giải thích lý do.

                  Sau một tuần lễ chờ đợi thì câu trả lời đã không giống như anh em mong đợi. Tất cả đã được đưa đến số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức là một phòng an ninh quân đội trực thuộc Không Quân, trên một chuyến xe buýt để điều tra sự vụ.

                  Lúc tới nơi, tất cả đã được Thiếu Tá Thức phát cho mỗi người một tờ giấy ca rô và chỉ định mỗi người một góc tường trình mọi chi tiết của chuyến đi về trình diện Bộ Tư Lệnh. Sau khi khai xong, tất cả đã được đưa trở lại trại để chờ. Kết quả là Thiếu Úy Tấn bị ký củ và giam lon sáu tháng, bởi lúc đó đã có quyết định thăng cấp trung úy cho ông ta. Phó Hoàng Trí và Đoàn Anh Tú đã bị ra bộ binh. Tất cả số còn lại được cho học Khóa 3 HTTT quốc nội tại Đà Nẵng. Một người còn lại trong ba người có tên trong văn thư đầu tiên thì nghe đâu là COCC nên không biết ra sao. Khóa 3 HTTT đã hoàn tất vào ngày 2/5/74.

                  Khóa 4 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Biên Hòa. Trong khóa này có các bạn 72A Trần Hớn Dân, Vũ Văn Ninh, Hoàng Văn Thanh, và Huỳnh Văn Tỵ.

                  Khóa 5 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Cần Thơ. Chuyện anh em 72A trong khóa này đi kèm với giai thoại "13 Con Ma". Hãy nghe chính lời của một trong 13 Con Ma là bạn Út Small kể lại:
                  "Vào khoảng đầu năm 73, mười bốn anh em 72A sau đây đã về Trung Tâm Giám Định Y Khoa Tân Sơn Nhất khám để theo học khóa 2 HTTT Cần Thơ:
                  1. Võ Thành Long Châu, Phi Đoàn 255 Xà Vương
                  2. Nguyễn Hữu Đức, Phi Đoàn 255 Xà Vương
                  3. Võ Thanh Hà, Phi Đoàn 255 Xà Vương
                  4. Trần Thanh Hảo
                  5. Nguyễn Thành Hơn
                  6. Lê Văn Lâm (Chùa)
                  7. Nguyễn Văn Luông (Cả Luông), PĐ 255 Xà Vương
                  8. Nguyễn Văn Son (Cả Son), Phi Đoàn 255 Xà Vương
                  9. Trần Văn Thành
                  10. Lê Ngọc Thảo, Phi Đoàn 227 Hải Âu
                  11. Phan Văn Út (Small), Phi Đoàn 217 Thần Điểu
                  12. Trương Thanh Vân
                  13. Nguyễn Hồng Việt (Mắt Lồi)
                  14. Trương Văn Vĩnh

                  "Kẻ đã gây ra mọi chuyện rắc rối là người mang số 5 trong danh sách bên trên. Nguyễn Thành Hơn quê ở tuốt trong Hóc Bà Tó là địa danh cuối cùng của miền Nam.
                  "Sau khi khám bệnh xong, cả toán đồng ý dzù về thăm nhà cho đỡ... nhớ và hẹn đúng một tuần sau sẽ trở ra trình diện ông Bé. Không hiểu vì nhà ở quá xa Sài Gòn hay bị đào đá nên Ông Thần Nguyễn Thành Hơn quên đi lời hẹn ước lót tót ra Nha Trang một mình trình diện ông Bé. Thế là hư bột hư đường ráo trọi. Khứa Bé biết bọn này dzù dzọt nên lập tức cho toán khác về Sài Gòn khám sức khỏe trám vô.

                  "Một tuần sau đó y hẹn tất cả ra trình diện đúng ngày, không ngờ ngày trở ra là ngày vô Cải Hối Thất Phi Dũng, lãnh 26 ngày trọng cấm và bị loại ra khỏi Khóa 2 Hoa Tiêu Trực Thăng. Hơn ơi là Hơn, mày hại anh em mày hại bạn bè.
                  "Ôi không gian giờ đây ta mới biết,
                  "Chuyện dzọt dzù giết chết một đời ta .
                  "Sau đó chỉ có Nguyễn thành Hơn là được đi học bay , 13 tên còn lại chịu cảnh tù đày. Sau khi mãn tù về lại đoàn SVSQ để trình diện Thiếu Tá Bé, có lẽ vì hối hận việc mình đã làm hoặc trong thời điểm đó khóa đàn anh không còn ai nên 'khứa' nâng đỡ tụi này lên làm cán bộ để hướng dẫn các khóa đàn em. Tất cả đều nằm trong hệ thống cán bộ chỉ huy, duy chỉ có Võ Thành Long Châu và Út Small tôi không chịu ra hàng nên ông Bé bắt làm tạp dịch ở văn phòng ông ấy đôi ba ngày rồi cũng quên luôn.

                  "Trong thời gian chờ đợi đó, mặc dù cuộc sống có thoải mái là không phải tạp dịch, tập họp điểm danh, dzù ra phố chơi mút chỉ, nhưng vì không biết tương lai đi về đau nên thằng nào cũng trầm lặng và ưu tư như những bóng ma với bao nỗi lo lắng... Thế là danh từ '13 Con Ma' hay '13 Thằng Lôi Hổ' ra đời. Trong 13 thằng đó có 2 không chịu hưởng cái ơn mưa móc do một người ban cho, mà người đó vì sự bực tức nhất thời mà suýt chút nữa là đã hại cuộc đời của một nhóm người trẻ đầy nhiệt huyết nghe theo tiếng gọi của non song mà 'xếp bút nghiên theo việc đao binh' với mong ước rằng ít nhiều mình sẽ góp một bàn tay để bảo vệ quê hương. Cả bọn phải chờ gần một năm sau khi ông Bé và Bộ Tư Lệnh Không Quân 'xóa bỏ hận thù' mới cho đi học khóa sau, dù sao thì cũng còn hên...
                  "Mười Ba Con Ma là nhóm 72A cuối cùng rời đoàn SVSQ đi học bay. Chúng tôi đã nhập chung với các khóa đàn em để theo học Khóa 5 Trực Thăng Cần Thơ. Nhờ trời tất cả đều ra trường, trừ Trương Văn Vĩnh bởi 'lên tướng một sao' nên đã bị loại vì lý do sức khỏe. Cả Luông solo đầu; Lê Ngọc Thảo chiếm thủ khoa. Mười hai anh em đã ra phi đoàn bay bổng được vài tháng cho đến ngày đứt phim 30/4.

                  " Các bạn ơi! Rủi ro thay cho vận nước, chúng mình bị cái đại họa Cộng Sản nên giờ đây chịu kiếp sống lưu vong, canh cánh bên mình với bao nỗi niềm hoài vọng cố hương."
                  Trong 13 Con Ma, chỉ có Võ Thành Long Châu và Phan Văn Út là không ra làm cán bộ vì thích lè phè. Bạn Út có bày một bàn cờ tướng chiêu mộ được nhiều anh em suốt ngày đấu trí với nhau.

                  Theo Võ Thanh Hà thì Trần Thanh Hảo sau khi tốt nghiệp ra Pleiku thì đã bị bắn rớt tàu trong phi vụ hành quân đầu tiên và sau đó đã không còn đi bay nữa.

                  Khóa 6 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Đà Nẵng. Trong khóa này chỉ có Lý Minh Trung là SVSQ 72A duy nhất. Ngày xưa Trung đã làm trưởng toán dẫn anh em khóa sinh về Trung Tâm Y Khoa Không Quân tại Tân Sơn Nhất khám sức khỏe để gia nhập Khóa 1 HTTT, nhưng bì bị viêm xoan hàm (sinus), nên phải nhập viện khẩn cấp tại TTYKKQ điều trị. Sáu tháng sau khi Trung đủ sức khỏe để đi học bay thì tên của chàng lọt vào Khóa 6 HTTT.

                  Lý Minh Trung là một người trong khóa 72A mà anh em ít gặp nhất. Chàng ta đã được ông Bé cho sự vụ lệnh ra làm việc ở ngoài phố Nha Trang cho đến khi đi học bay.
                  Theo lời Võ Thanh Hà trong 13 Con Ma thì các Khóa 4, 5, và 6 HTTT khai giảng cách nhau chừng một tháng từ khóa này qua khóa sau. Giai đoạn mà các khóa này sắp khai giảng là giai đoạn buồn nhất của Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân. Vào khoảng trước tết con cọp tức là khoảng đầu tháng 2/74, Bộ Tư Lệnh Không Quân thông báo danh sách của ba khóa 4, 5, và 6, và đồng thời cho biết rằng tất cả những sinh viên sĩ quan còn lại đều phải ra bộ binh. Con số này lên đến sáu bẩy trăm người.

                  Sau khi tin này được loan ra thì không khí trong trại Thiên Nga hết sức buồn bã. Những anh em có tên đi học tối tối thường dù ra phố ngủ, một phần vì muốn tránh mặt những người bạn thiếu may mắn không có tên trong danh sách tài khóa. Ăn tết con cọp vừa xong thì một đoàn mấy chục chiếc xe GMC từ Đồng Đế chạy tới trại Thiên Nga để đưa những người bạn này rời trại và đồng thời cũng là rời khỏi binh chủng không quân.

                  Trong những đêm cuối cùng của đoàn Sinh Viên Sĩ Quan đó, Võ Thanh Hà ngủ trong trại, một phần là vì không quen ai ở ngoài phố, phần kia là vì chàng là người chịu trách nhiệm cho toàn trại. Như vậy thì Võ Thanh Hà chính là người làm cán bộ lâu nhất trong Khóa 72A. Hà là một trong những anh em 72A làm cán bộ đầu tiên, và cũng là một trong những anh em 72A làm cán bộ sau cùng. Sau khi các khóa 4, 5, và 6 HTTT rời Thiên Nga là đoàn SVSQ đóng cửa luôn.

                  Khi mỗi một trong ba khóa 4, 5, và 6 HTTT hoàn tất huấn luyện thì những khóa sinh tốt nghiệp về thẳng Nha Trang để học Giai Đoạn 2 Quân Sự. Sau đó cả ba khóa trực thăng, Khóa 2 T-37 , và Khóa 1/74 Quan Sát Viên cùng làm lễ ra trường tập thể ở Nha Trang. Trong buổi lễ ra trường vào tháng 12/74 có Chuẩn Tướng Lành tham dự. Ra trường xong là các anh em nhận sự vụ lệnh về phi đoàn trình diện luôn.

                  Dù đa số phi công trực thăng xuất thân từ khóa 72A đã học bay tại Việt Nam, có những anh em học bay từ Mỹ về, và cũng đã ra phi đoàn tham dự hành quân. Bởi nếu tính từ ngày nhập ngũ cho đến lúc mãn khóa học mà trên hai năm thì được ra trường với cấp bậc thiếu úy, những bạn học bay ở Mỹ về thường là ra trường với cấp bậc này vì có thời gian học thêm Anh ngữ ở Mỹ.


                  Vào tháng 7/73, 18 SVSQ đã lên đường đi du học Mỹ trong một tài khóa trực thăng. Trong số đó có những anh em 72A như Phan Hoàng Hải, Trần Bá Sơn, và Lương Tường Vân.
                  Nếu kể về dân 72A học trực thăng ở Mỹ và đã ra đơn vị đánh giặc thì có 4 chàng sau:
                  1. Trần Minh Hiển, Khóa 74-22
                  2. Tạ Hoàng, Khóa 74-22
                  3. Nguyễn Tấn Thành (Cao), Khóa 74-22
                  4. Trần Bá Sơn, Thủ Khoa Khóa 74-24 , PĐ 255 XàVương

                  Khóa 74-24 trực thăng nhập học tại trường bay Ft. Rucker, tiểu bang Alabama tháng 10/73. Sau khi tốt nghiệp, Trần Bá Sơn đã về VN vào tháng 8/74. Sau khi chọn phi đoàn, Sơn trở lại Nha Trang học Giai Đoạn 2 Quân Sự cuối tháng 8/74. Sau khi tốt nghiệp, Sơn về trình diện Phi Đoàn 255 Xà Vương Cần Thơ vào khoảng tháng 12/74.

                  Bây giờ kể tới phần anh em học bay phản lực. Trong số 14 anh em đậu Anh Ngữ về Sài Gòn ngay trong thời gian huấn nhục để đi Mỹ thì chỉ có 11 là đi ngay. Qua trường bay sớm nhất là Trần Anh Tuấn và Trần Văn Phiêm. Kế tiếp là Lý Văn Ánh, Nguyễn Ngọc Châu Phòng, và Nguyễn Trọng Tiến.

                  Đoàn Anh Thuấn là một trong 14 anh em đậu Anh ngữ về Sài Gòn đi Mỹ trong đợt đầu tiên. Vì đi sớm nên Thuấn ngại rằng các anh em khác cho rằng không có nhiều kỷ niệm chung với họ. Thuấn đã học T-37 tại Sheppard AFB ở Wichita Falls, Texas. Sau đó Thuấn theo học Khóa 74-07 là khóa bay A-37 cuối cùng có các khóa sinh VN ở Mỹ tại England AFB ở Alexandria, Louisiana. Lớp này có 13 khóa sinh người Việt, trong đó có bốn anh em 72A là Trần Ngọc Dương, Nguyễn Thiện Nhượng, Lê Hữu Thiện, và Đoàn Anh Thuấn . Thuấn và Trần Ngọc Dương cùng đậu thủ khoa. Cùng về Việt Nam trong tháng 7/74, Thuấn và Trần Ngọc Dương ra Phi Đoàn 520 Cần Thơ.

                  Trần Văn Tỵ thuộc đợt hai đậu Anh văn và từ Nha Trang về đi Mỹ trong tháng 12/72. Nhóm này gồm có mười người là: Huỳnh Đình Chí, Lý Anh Dũng, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương, Trần Văn Tỵ [mới có 6, còn ai???]

                  Khóa 74-09 học T-37 khai giảng vào cuối tháng 1/74 ở Sheppard Air Force Base ở Texas gồm có các anh em 72A sau: Lê Văn Cảnh, Huỳnh Đình Chí, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương (Mập), Trần Văn Tỵ Bắc Kỳ. Trong một khóa T-37 khác của năm 74 có Nguyễn Hoàng Tân và Nguyễn Tấn Thành.
                  Trần Văn Tỵ ra Phi Đoàn 532 Gấu Đen ở Phù Cát. Nguyễn Thiện Nhượng đã về phi đoàn này trước.

                  Sau đây hãy nghe Đỗ Minh Hùng kể chuyện học bay ở Mỹ.
                  "Sau khi tốt nghiệp khóa Anh ngữ ở căn cứ Lackland, tôi có tên trong danh sách di qua trường bay Hondo để được huấn luyện giai đoạn 1 phi hành, tức là học bay T-41. Lòng tôi tuy vui mừng nhưng không khỏi lo lắng. Đây là bước rẽ của đời bay bổng. Tôi lân la tìm hiểu về những ông thầy bay. Mỗi người một tính. Trong nhờ đục chịu. Lo cho lắm, tắm cũng cởi truồng. Đa số thầy bay là dân sự, vì thiếu thầy quân sự. Nam 72 là cao điểm cho khóa sinh Không Quân Việt Nam đi ngoại quốc lấy cánh bay. Mỹ Việt phải vội vàng vì hiệp định Paris có đoạn về bình thường hóa quân đội Việt.


                  "Ở Hondo, có một thầy bay khét tiếng tàn nhẫn. Hắn là người Mễ Tây Cơ, tên Volander mà phe ta gọi la Võ Lang Đài. Mỗi ông thầy sẽ chọn 4 khóa sinh. Riêng tên này luôn luôn cho rớt 2 khóa sinh, bất kể họ bay giỏi cỡ nào. Khóa tôi không ai muốn học với hắn. Ngày đầu tiên trình diện thầy bay là ngày lạnh lùng nhất trong đời bay bổng của tôi. Sau màn giới thiệu, thầy bay bắt đầu chọn đệ tử. Tên nào trúng thầy hiền thì vui như trúng số, chưa học mà đã thấy đậu rồi. Tôi được Võ Lang Đài chọn. Cả khóa nhìn những đệ tử của hắn với ánh mắt phân ưu.

                  "Các điểm phê ở trường bay như sau: U đỏ là unsatifactory, U đen là unable, F là fair, G là good, và E là excellent. Hai U đỏ liên tiếp là ngừng bay, chờ ngày ra hội đồng. Tùy theo khả năng, khóa xinh có thể được học lại khóa sau hoặc đi không phi hành nếu có tài khóa, hoặc đi về nước làm cái gì đó không biết. Hai U đen liên tiếp là thành một cái U đỏ. Ngạc nhiên thay, trong sáu bẩy phi vụ huấn luyện đầu, hắn đều cho tôi E. Cái cánh bay coi như đã chắc đeo trên ngực, tôi xoay sang ái ngại cho 2 con vịt đẹt–hình như Nguyễn Thanh Phương ở trong nhóm của tôi.

                  "Đến bài slow flight là bài dễ nhất trong các thao diễn, không hiểu sao tôi bị ngọng. Đáp thì không có gì trở ngại, dù trong bài đáp có kèm slow flight, nhưng khi làm slow flight riêng rẽ thì ngọng. Máy bay không quá tốc độ thì lại đâm nhào. Võ Lang Đài cho tôi U đen.

                  "Đến ngày hôm sau, làm lại bài slow flight, tôi lại thất bại. Võ Lang Đài chán nản không tập thêm cho tôi những thao diễn khác. Hắn quay máy bay về phi trường. Tôi được han cho thêm 1 cái U đen. Như thế là thành 1 cái U đỏ.
                  "Một cái U đỏ nữa là chấm dứt nghiệp bay. Tôi buồn bã không chuyện trò với ai trong khóa, và cũng chẳng ai muốn nghe tâm sự của tôi. Người nào cũng có nỗi lo, dù một số đã solo.
                  "Ngày định mệnh đã tới. Tôi đi ra phi đạo như cái xác không hồn. Có thể đây là phi vụ cuối trong đời bay bổng của tôi. Cho dù tôi có làm được slow flight đi nữa, tôi cũng sẽ bị liệt vào 1 trong 2 con vịt đẹt. Kết quả trong hôm đó không khá gì hơn ngày hôm trước, vì tôi vẫn không bay được slow flight. Võ Lang Đài la ó um xùm, rồi chửi rủa, miệt thị. Nào là bà nội hắn hơn 80, mắt đã nhòa xỏ kim không qua, nhưng bay slow flight nhuyễn như cháo. Nào là con khỉ nếu được huấn luyện như tôi thì có lẽ đã solo từ đời thuở nào rồi.

                  " Võ Lang Đài tha hồ nói. Tôi không nghe nữa. Mình sẽ thu dọn hành lý chờ ngày về nước. Nhục nhã quá chẳng còn biết nói gì. Bất chợt hắn chồm qua bóp cổ tôi. Theo phản ứng tự nhiên, tôi gạt mạnh tay hắn ra. Hắn sững sờ nhìn tôi. Tôi lặng lẽ nhìn hắn. Hắn rút xì gà châm lửa. Hắn có thói quen là khi trên tàu lúc nào điếu xì gà cũng gắn trên môi. Tôi thầm nghĩ, đây là chuyến bay cuối, hắn hút thì tôi hút. Tôi bỏ cần lái, moc túi lấy thuốc hút. Hắn nhìn tôi. Tôi nhìn hắn. Hai ánh mắt chạm nhau. Hắn quay mặt đi. Tôi quay mặt về.

                  "Chiếc máy bay không người điều khiển từ từ chúi xuống. Nước mắt bắt đầu lăn trên đôi má tôi. Tôi chẳng còn gì để sống, thôi thì 'đi không ai tìm xác rơi'. Võ Lang Đài cũng chẳng động đậy. Tốc độ con tàu mỗi lúc mỗi tăng. Mất đất gần lại. Tôi nhớ tới mẹ tôi, người yêu tôi, và những người thân hôm tiễn tôi đi Mỹ. Tôi nhớ chiếc bong bóng đỏ của cậu bé lúc bị kim chích nổ tung... Tôi nghĩ tới tên thầy bay Mễ Tây Cơ khốn nạn. Cũng vì mày mà bao nhiêu mộng tan tành. Thôi thì mình chết với nhau.

                  "Những con bò dưới cánh đồng càng lúc càng gần. Đã quyết định xong, tôi không chụp cần lái. Không chịu được trò chơi ú tim, hay vì có lẽ chưa muốn chết, hoặc do phản năng sinh tồn tự nhiên, hắn giơ tay chụp cần. "Kéo mũi con tàu lên trở lại, hắn gào như cha chết: 'mother fucker'. Chiếc máy bay trực chỉ phi trường Hondo. Hắn và tôi không trao đổi một lời nào. Hắn châm điếu xì gà. Tôi châm điếu thuốc. Tôi thấy hài lòng.

                  "Sau khi Võ Lang Đài taxi tàu vào bãi đậu, tôi đi thẳng vào phòng bay. Thường thì sau khi đáp là khóa sinh phải cột tàu lại rồi xách hai cái gối cho hắn. Thân thể hắn không dài quá thước sáu, khi bay, hắn cần 2 cái gối. Một lót mông và một lót lưng. Hôm nay hắn phải làm những công việc đó.

                  "Vào phòng bay xong, tôi đứng chờ hắn. Ve vẩy tờ giấy phê điểm, hắn nhờ tôi lấy cho hắn ly cà phê với nửa cà phê nóng và nửa nước lạnh như lệ thường sau mỗi chuyến bay. Tên này hơi quan liêu. Không có thì giờ nhiều, tôi mang cho hắn một ly cả hai nửa đều là cà phê nóng. Nhắp môi vào là phun tung tóe, hơi bất lịch sự. Thêm một tiếng chửi thề dòn. Hắn đưa mắt nhìn tôi. Để giúp hắn, tôi ném lên bàn cây viết đỏ. Cả phòng bay im lặng nhìn.

                  "Hắn trả tôi cây viết và rút trong túi ra một cây viết đen. Hắn ghi điểm xuống: good. Hắn nói với tôi: 'Mày là một thằng cao bồi Việt Nam.' Tôi cảm ơn và yêu cầu hắn đừng la lối khi tôi bay.

                  "Đến hôm sau, tự nhiên tôi làm slow flight ngọt ngào. Hắn ngạc nhiên, và tôi phục tôi quá. Những phi vụ huấn luyện sau đó dễ dàng. Chỉ ưu tư không biết ai sẽ thành con vịt đẹt.

                  "Đa số các bạn trong khóa đã hoàn tất giai đoạn 1 chờ ngày đi giai đoạn 2 tức là học bay T-37 ở Sheppard. Huỳnh Đình Chí tốt nghiệp với số điểm 94%. Thầy hắn tuyên bố nếu ai hơn điểm sẽ được tặng hai thùng bia. Tôi thích những thách đố, bởi vàng thiệt không sợ lửa. Một ông đại tá Mỹ đã check ride tôi với kết quả hơi lạ. Tôi ra trường với 97% và hai thùng bia.

                  "Lạ lùng hơn nữa là trong bốn thằng đệ tử của Võ Lang Đài, không ai làm con vịt đẹt. Tất cả đều mọc cánh. Từ khóa tôi trở đi, Võ Lang Đài trở thành ông già Noel. Ai được hắn chọn là coi như đã đeo được nửa cánh bay. Mỗi đời người có nhiều khúc rẽ, nhưng chắc ít khi mà một chuyến bay đã là hai khúc rẽ, cho cả Võ Lang Đài lẫn chính bản thân tôi.

                  "Sau khi ra trường, tôi được bổ xung về Phi Đoàn 520 Cần Thơ nhưng không thích lắm. Tôi muốn ra Đà Nẵng để gặp Nguyễn Hữu Thiện Tuấn nhưng không có ai sắp về Đà Nẵng chịu đổi. Chỉ có một người ở Phan Rang thích về Cần Thơ đề nghị đổi cho tôi và các cho tôi ít tiền uống cà phê. Tôi nghĩ mặt trận ở vùng đó có lẽ sôi động hơn ở Cần Thơ và sẽ cho tôi nhiều sự hào hứng hơn nên tôi chịu đổi. Thế là tôi về Phi Đoàn 534 Không Đoàn 62 Chiến Thuật Phan Rang."

                  Sau khi học T-41 xong thì các khóa sinh tốt nghiệp đã qua Sheppard để học bay T-37. Thời gian học ở đây tuy bận nhưng cũng có những lúc thoải mái. Hãy để cho Đỗ Minh Hùng hồi tưởng lại một ngày cuối tuần ở Sheppard.


                  "Ở căn cứ Shepard, các sinh viên sĩ quan phi hành nhìn có vẻ phi công lắm. Không vui sao được, vì đã xong nửa cánh bay rồi còn gì. Hiếm lắm mới có thằng rớt bay phản lực. Dù cho có rớt ở Mỹ thì về Việt Nam học tiếp rồi cũng đeo cánh. Đời sống thoải mái hơn lúc học Anh văn và bay T41 vì lương từ khoảng 240 dọt lên 420 đô. Tiền phòng một tháng chỉ trả 30, gọi là có chút quà cho các em Mễ dọn phòng. Ăn ở câu lạc bộ sĩ quan sáng tốn 25 xu, trưa 50 xu, và tối 75 xu. Đi chợ 10 đô la đầy tủ lạnh.

                  Đa số phe ta thích nấu nướng lấy, vừa hợp khẩu vị vừa ít tốn kém. Đi từ xa đã ngửi thấy nồng mùi nước mắm. Phe ta ở khu nào là ở đó ít bóng ngoại quốc vãng lai.

                  "Như các cuối tuần khác, dẫy barrack ồn ào hẳn lên. Tiếng nhạc um xùm. Túm năm tụm ba nhậu nhẹt. Đêm về thì không khí yên lặng hơn. Có băng vào câu lạc bộ nghe nhạc uống nước. Có băng ra phố để tìm bạn bốn phương, dù hơi hao pin. Phí tổn taxi thì chia đều, còn tiền hotel và em út thì phần ai nấy trả. Đoàn Anh Thuấn văn nghệ hơn, ôm đàn xuống phố thăm các nữ quân nhân để làm kiếp ca hát ngày tháng cho người mua vui. (Giọng ca của Thuấn hay tuyệt vời, chỉ thua tôi một chút thôi.) Riêng phần tôi thì tuần này phải đi ăn tiệc ở nhà Huỳnh Đình Chí.

                  "Chuyện khá đơn giản. Chí ta quen một em quân nhân tóc vàng mắt xanh. Chàng muốn tiến xa hơn ranh giới bạn bè, nhưng còn hơi mắc cở. Chàng tổ chức một buổi tiệc nhỏ, tính nhờ miếng rượu để mở đầu câu chuyện lòng. Tôi có nhiệm vụ đi trước lót đường đụng rượu với em một tăng, và sau đó Chí sẽ kết thúc buổi tiệc. Hy vọng khi cân tửu lượng của hai thằng, em sẽ không còn biết đường về.

                  "Sau khi hầu tiếp em đâu khoảng nửa chai whiskey, tôi viện cớ cáo lui để Chí bắt đẩu tổng tấn công...

                  "Đêm đi dần vào khuya. Tôi không có gì làm nên còn thức xem ti vi lai rai. Chợt thấy có bóng ai ngoài cửa sổ, tôi mở cửa để nhìn cho kỹ: thì ra là cô bạn của Chí. Tôi ngạc nhiên hỏi: 'Sao về sớm vậy?'
                  "Cô em xinh đẹp mỉm cười ngây thơ: 'Chí say quá. Đừng lo, tôi đã vực anh ấy vào giường và đắp chăn cẩn thận. Mai tôi sẽ gọi anh ấy sau. Good night.'"

                  Số học bay T-38 ở Mỹ thì gồm có hai anh em 72A là Huỳnh Đình Chí và Chu Văn Hùng trong khóa 75-05 sau khi đã tốt nghiệp T-37 tại Sheppard. Khóa T-38 này đã nhập học vào ngày 8/1/74 ở Webb Air Force Base ở Texas. Khóa gồm có 6 người Việt và 24 người Mỹ. Họ đã bắt đầu học bay T-38 vào tháng 7/74, và tốt nghiệp bay vào tháng 1/75. Riêng Chu Văn Hùng thì ngoài chứng chỉ mãn khóa ra còn nhận được thêm một Distinguished Graduate Certificate. Theo lời tờ báo Prairie Pilot ra ngày 31/1/75, những khóa sinh tốt nghiệp T-38 ở Mỹ xong sẽ được huấn luyện bay F-5 ở Việt Nam. Sau đây là lời Chu Văn Hùng:


                  "Riêng về nghiệp bay tao chỉ muốn nói đây là cái nghề nếu ai không yêu thì không nên theo. Bay nhiều thì mệt, không bay thì nhớ, nhớ lâu thì thèm. Đối với tao, bay phi cụ là một cái môn chơi khó, hấp dẫn, và hồi hộp nhất, vì mình phải mang chính sinh mạng mình ra thử lửa. Nó không cho phép mình làm sai một lần nào cả.

                  "Về việc bay phi cụ, tao đã nghiên cứu rất nhiều tài liệu mà sau khi về Việt Nam tao chắc chắn phải xài đến vì thời tiết ở đó thường rất xấu. F-5 là phi cơ khó đáp nhất bởi lý do là cánh nhỏ nên cần chạm bánh ở vận tốc trên 135 knots. Phi cơ nào cũng có cái ưu điểm riêng của nó, nhưng nói chung bay là một cảm giác rất cao độ. Nó làm cho mình vừa mệt vừa sướng."

                  Sau đây hãy nghe Hoàng Văn Trung kể chuyện “học bay trên đất Mỹ”.
                  Song-song với những tháng ngày "được" quân trường huấn-nhục, chúng tôi dự khóa huấn-luyện quân-sự giai-đoạn một. Đó là lúc cũng đeo ba-lô, đội nón sắt, đeo dây đạn, bình nước, bò, lết, nhắm, học cách tháo gỡ và xử-dụng các loại súng thông-dụng, học cách ném lựu-đạn... Đây là môn tôi ớn nhất. Nói thật tình, nếu tôi có trái lựu đạn thật trong tay chắc tôi cũng không đủ gan rút chốt!

                  Các khóa học Anh-văn tại trường sinh-ngữ Không-quân ở Nha-trang là những tháng ngày êm-ả như thuở học trò. Giám-đốc là Trung-tá Toàn, anh hay em gì của ông Lê bá Kông thì phải. Huấn-luyện-viên gồm cả sĩ-quan và hạ-sĩ-quan như: Thượng-sĩ Vàng, Thượng-sĩ Nhan, Thượng-sĩ Em... Còn sĩ-quan thì nhiều quá, nhớ không hết. Sư-phụ của tôi là Trung-úy Trỉnh.

                  Quân-trường Không-quân không phải như những quân-trường khác là Sinh-viên Sĩ-quan cùng vào và cùng ra trường một ngày. Có những cái nhiêu-khê rắc-rối xẩy ra trước khi một khóa-sinh được tuyển đi Mỹ học lái máy bay. Có người bị kẹt ngoài quân-trường với lý-do hồ-sơ an-ninh không được thông-suốt vì gia-đình có ai đó hình như không biết rõ được tung-tích. Có người bị kẹt vì lý-do không đủ điểm Anh-văn.

                  Đang khi "được" huấn-nhục bầm-dập, đột-nhiên có mười mấy anh chàng tốt số, giỏi tiếng Anh, có sự-vụ-lệnh gọi về Sài-gòn trình-diện đi Mỹ dù nhóm đó chưa học bắn một phát súng, chưa biết cây súng là gì và cây kim kích hỏa dài ngắn ra sao...

                  Các chàng khác lận-đận ì-ạch học hoài. Có khi bạn cùng khóa đã có cánh bay, đeo thiếu-úy, bay đánh bom tơi-bời ở chiến-trường rồi, vậy mà các bạn cùng khóa vẫn đang "hùng-dũng" học Anh-văn, thi hoài vẫn chưa đủ điểm đi Mỹ.

                  Tuy tôi chưa phải là vịt đẹt, nhưng vì thời trung-học chỉ học Pháp-văn nên thi xếp hạng Anh-văn chẳng ra cái thể-thống gì cả. May nhờ trời, chỉ học có bốn tháng là đủ điểm ECL (English Comprehension Level) đi Mỹ.

                  Ngày lên máy bay, chúng tôi mặc bộ vét nỉ xanh của Không-quân, đeo hai cầu vai vàng rực, phù-hiệu con rồng của Không-quân, dây biểu-chương màu xanh lá cây choàng qua cả hai chữ Việt-Nam đỏ tươi, rực-rỡ trên cánh tay áo xanh đậm. Những chiếc khuy to bằng nhôm sáng bóng, nổi hẳn lên bộ vét xanh của Không-quân.

                  Chúng tôi đến phi-trường San Francisco lạ nước lạ cái. Tiếng Anh chỉ biết lõm-bõm vài tiếng đủ để rời Việt-Nam mà thôi. Thấy hai chữ "rest rooms" tôi cứ ngỡ là phòng nghỉ-ngơi cho hành-khách. Có đứa vội mua post-card bỏ ngay vào thùng rác gởi cho bồ! Đến đâu đâu cũng có sĩ-quan Mỹ ra chào hỏi đưa đón. Cái choáng ngộp đầu tiên của tôi là xa-lộ gì mà to rộng quá xá quà xa! Đi máy bay có mấy đứa bị ói. Tôi cũng 'lắc-lư con tàu' nhừ-tử, vừa lo sợ lẩm-bẩm:
                  "Chết thật! Thế này làm sao mà lái máy bay cho được."
                  Đến trường sinh-ngữ Lackland làm thủ-tục xong, gặp bà bồi phòng hỏi:
                  "Do you have key yet?"
                  Tôi ngớ ra hỏi thằng bạn:
                  "Bả hỏi cái gì vậy mày?"

                  Thằng này nhắc tôi nhưng lại không đủ can-đảm há mồm trả lời. Còn tôi, sau khi hiểu ra thì rất hăng-hái:
                  "Dét. Dét. I have it. Thank you."
                  Bốn tháng sau ngày đó, tôi đủ điểm Anh-văn qua trường bay; còn thằng con "biếng ăn biếng nói" kẹt lại khóa sau.
                  Qua trường bay T-41, là loại giống máy bay bà già mà các bạn cùng khóa của tôi "bị xui" nên "trúng tuyển" học lái khóa 42 ở Nha-trang.

                  Những ngày mùa đông năm ấy không thể nào quên: kho xăng Nhà Bè bị Việt cộng phá-hoại cháy tan-tành; khối OPEC không bán dầu cho Mỹ. Cả nước Mỹ nhốn-nháo. Một chiếc tàu chở dầu sang Việt Nam viện-trợ bồi-hoàn theo hiệp-định Paris bị cản-trở ở cảng. Dân Mỹ mua xăng phải xếp hàng xin thẻ. Bộ-trưởng Không-quân lên đài trấn-an là với số xăng dự-trữ của Không-quân, dân Mỹ có thể vẫn xài phủ-phê đến ba, bốn năm nữa.

                  Chúng tôi không có nước nóng tắm. Trước khi tắm là phải sửa-soạn trước mền và giường, rồi cùng nhau chạy một, hai, ba, bốn cho nóng người trước khi ào vào phòng tắm mở nước, chà xà bông, xả, chạy mải về phòng đắp mền và run lên lập-cập. Tôi vẫn không thể quen được cái lối tắm chung-chạ kiểu Mỹ như vậy.

                  Học lái T-41 là giai-đoạn "khốn-khổ" nhất của tôi. Trong khi những đứa khác vừa lái vừa giỡn, cười đùa, enjoy thì mặt tôi cắt không còn giọt máu. Hưng, người vẫn lái máy bay vòng vòng hai lần cho hội chợ Xuân ở San Jose, là bạn cùng khóa với tôi. Khóa T-41 này, Hưng rất giỏi, được solo đầu. Coi như đậu hạng nhất. Tôi tụt xuống hạng chót. Cũng may mà còn đậu vớt. Đậu vớt là vì không thể đánh rớt được chứ cũng không đáng chấm đậu. Ông thầy tôi là phi-công oai-hùng của thời đệ-nhị thế-chiến với gần 20 ngàn giờ bay. Bay giỏi kinh-khủng và dậy dở không ai bằng. Sau này, khi tốt-nghiệp khóa phản-lực A-37 tôi mới thấy rằng tôi đậu khóa T-41 với cái lối dậy như thế chỉ là nhờ phước-đức ông bà để lại. Không rớt tàu bay chết đã là may. Mà tôi cũng chán tôi quá: đang bay bốn ngàn bộ thì tôi tàn-tàn tụt từ-từ xuống còn ba ngàn rưởi rồi lên lại ba ngàn tám. Kêu đổi hướng qua 270 thì tôi đổi đến 280. Khi cất cánh, dù thầy đã dậy bao nhiêu lần, chiếc máy bay do tôi điều-khiển vẫn niểng đầu qua một bên... Phạm lỗi hoài nhưng chưa bao giờ có thì-giờ nhận thấy lỗi vì thầy đã chụp cần lái, hét ầm lên và sửa ngay khi lỗi vừa nhen-nhúm. Mà gào thét cho lắm thì thầy tôi vẫn phải thả tôi solo (đơn phi). Nếu không thả được tôi solo sau khi đã đánh rớt hai đứa khác thì coi như thầy tôi cũng bị lay-off luôn.

                  Lần solo hôm đó thật hãi-hùng làm sao! Bốn lần đáp thì một lần bị đài đuổi go around vì quá nguy-hiểm. Lần thứ nhì bánh bên trái chạy lên cỏ. Lần thứ ba, bánh bên phải lăn lên cỏ. Lần thứ tư, xém chút nữa là lủi vô hàng rào ở đầu phi-trường Hondo nếu tôi không chịu "cãi lời thầy" mà nâng đầu máy bay lên, tống ga cho con tàu nấc lên một tiếng kêu ai-oán trước khi rơi đánh phịch một cái bên kia hàng rào và run-rẩy lết-lết về cuối phi-đạo để nhìn thấy bóng dáng ông thầy đang thểu-não lủi-thủi đi theo một ông pi-lốt trong hội-đồng chấm thi vào phòng họp:
                  "Nó bay yếu như vậy mà sao dám thả solo?"

                  Sau ngày đó, hình như tôi đã mường-tượng thấy một cái gì kỳ lắm trong cái kỹ-thuật dạy bay của thầy tôi nhưng chưa cảm thấy rõ được.

                  Đau-khổ là như thế mà cái "tánh hào-hoa" của con nhà Không-quân cũng chẳng bỏ. Tôi quen được rất là tình-cờ một em Mễ tên Julie Tôi hỏi chuyện và khen em có giọng nói quá truyền-cảm dễ thương. Thế là hẹn gặp nhau đi chơi. Tôi nhớ nhất là khi đi dạo trong cái thành lịch-sử Alamo, và dưới gầm cầu bên dòng sông êm-ả. Tôi chưa kịp ngỏ lời tỏ tình thì đã bị em ghì... ra tay trước. Đàn bà con gái gì mà... mà... dễ thương quá!

                  Ngày rời cư-xá Medina đi Wichita Falls học T-37, tôi tìm mọi cách ra từ-giã Julie. Buổi tối, cầm 100 đô đưa cho thằng bạn, tôi dặn:
                  "Mày ra PX mua dùm tao cái va-li. Vào phòng tao, gặp cái gì cũng tộng hết vào. Tao sẽ về trước khi trời sáng."
                  Nhưng tôi chỉ trở về bốn tiếng đồng-hồ sau khi trời đã sáng chỉ để kịp nhẩy lên xe buýt rời cư-xá trong tiếng càu-nhàu nhiếc-móc của thằng bạn:
                  "Mày chỉ chết vì..."
                  Tôi hỏi lại:
                  "Cho mày được chết vì cái đó... mày muốn chết không?"
                  Khóa chúng tôi chia làm hai. Toán của tôi đi Sheppard, toán kia đi Webb. Học phản-lực mới chính-thức là vào cuộc chơi. Bay T-41 chỉ là cho có chút ít khái-niệm về máy bay. Còn lần phản-lực này thì có quy-củ hơn nhiều. Ôm một đống sách "giáo-khoa" thấy mà ngao-ngán. Cơn ác-mộng T-41 vẫn ám-ảnh tôi không phút nguôi-ngoai:
                  "Chắc mình không có khiếu bay bổng quá."

                  Màn đầu là học nhẩy dù. Tôi lại cảm thấy là số tôi còn may quá nên đã không nổi hứng đi Nhẩy-dù như từng "ước-nguyện" theo gót ông anh tôi. Không-quân chỉ là học cách rớt dù xuống đất thôi mà tôi đã "lạnh" quá rồi nói chi tới từ trong máy bay nhẩy ra.

                  Sau đó thực-tập bằng cách đeo dù cho xe kéo lên như thả diều rồi huấn-luyện-viên buông dây. Chiếc dù lên cao khoảng một, hai trăm feet nhưng hồn phách tôi đã phiêu-diêu đến tận thiên-đàng! Ba lần té dập xương đủ ba. Từ đó mới biết, không phải dễ để được gọi là lính Nhẩy-dù.
                  Lý-thuyết về máy bay, cơ-khí, kỹ-thuật bay, nhào lộn, đối-phó với các trường-hợp hiểm-nguy và... thực-hành đi sát với nhau như hình với bóng. Học xong cách lấy tọa-độ, tính đường bay thì chậm lắm là hôm sau đã lên máy bay thực-tập rồi.

                  Thi-cử rất gắt-gao. Bất cứ vì lý-do gì, tổng-cộng chỉ được du-di cho thi-lại-ba-lần cho cả khóa, dù là bài lý-thuyết hay thực-hành hay là gộp lại. Lần thứ tư phải xách va-li go home. Bye!
                  Trong lúc nghỉ giữa giờ học là những hình ảnh blonde tóc vàng óng-ả và... cả 100% núi đồi cây cỏ chập-chùng được chiếu lên màn ảnh cho khóa-sinh rửa mắt, tỉnh ngủ và "tẩy-não". Các cô thư-ký trong không-đoàn đang đứng bên ngoài xem và "học ké" chúng tôi, cũng xem luôn, vừa cười khúc-khích. Đâu có thấy thưa kiện gì là sexual harassment như bây giờ đâu?

                  Ông thầy thứ nhất dậy tôi T-37 với phương-pháp giống y ông trước. Te-tua. Chán-ngán. May quá, ông ta được đổi qua phi-đoàn khác và tôi được giao cho một ông đại-úy ân-nhân của cả cuộc đời tôi cho đến bây giờ và mãi-mãi về sau, đại-úy Shetter. Tôi học được ở ông quá nhiều và nhờ đó mà tôi thoát chết... đói dưới thời Việt Cộng. Vào cockpit (phòng lái) ông ta chỉ nói với tôi mỗi một câu:
                  "You are on your own. Do whatever your book tells you to do. Tự mình lái đi. Theo đúng sách vở."
                  "Yes. Sir."
                  Ông thầy chỉ cho tôi phải làm gì, làm gì và như thế nào rồi... mặc kệ tôi. Hễ bay sai, tôi tự nhận thấy và tự sửa. Cuộc đời bay của tôi phát lên thấy rõ, như máy bay phản-lực đang vun-vút trên trời. Khà khà! Ta cũng đâu đến nỗi quá đần! Hai mươi ngày sau đó, tôi oai-hùng solo trên chiếc phản-lực T-37. Đáp bằng tay mặt cầm stick và cất cánh bằng tay trái. Vì công-tắc đóng mở thắng gió -speed brake- của tôi bị hư nên phải nắm cần lái bằng tay trái còn tay phải thì dùng công-tắc của bên thầy ngồi để rút thắng gió vào, rồi chụp lại cần lái bằng tay phải vừa lúc máy bay đã lại rời phi-đạo. Cất cánh đủ ba lần bằng tay trái. Trên thế-giới chắc chưa khóa-sinh "solo đầu-tiên" nào dám liều-lĩnh cất cánh ba lần bằng tay trái trong một tình-cảnh như vậy. Trước đó ông thầy tôi đã biết nhưng cũng chịu chơi nhắm mắt cho học trò liều mạng.

                  Tôi tự-tin vô cùng. Hăng-hái vì tay tôi đã "phiêu"- feel- được cái cần lái để xem con tàu đang muốn cái gì. Solo một, solo hai rồi solo vùng trong một tuần. Cầm con tàu sao bây giờ thấy hứng-khởi quá. Bây giờ tôi mới nghiệm ra rằng lúc học bay T-41, tôi chẳng được cho bay gì cả, toàn là thầy giật cần lái của tôi rồi bay hết cả buổi mà thôi.

                  Một hôm, vì là một hot stick - khóa-sinh bay giỏi - nên tôi được phi-đoàn-trưởng chỉ-định lấy con tàu solo cuối-cùng của phi-đoàn. Tôi rất hãnh-diện để lấy con tàu cuối ngày. Đó là một buổi chiều với ánh nắng đã ngả bóng ở cuối chân trời. Lúc taxi cho tàu chạy ra phi-đạo, tôi bắt gặp bóng tôi in nghiêng-nghiêng trên mặt đất với cái nóc canopy mở cao, lưng hơi khum-khum, cái nón bay, cái ống dưỡng-khí lủng-lẳng bỏ rời đang lắc-lư theo nhịp nẩy của con tàu lăn bánh. Trông oai không thể tả! Hai ống phản-lực ngốn gió vào cuồn-cuộn, rít lên như xé tai. Trông thật giống tấm hình của một ông pilot A-37 mà bộ tư-lệnh Không-quân dùng để đăng thông-cáo tuyển khóa-sinh. Cũng vì tấm hình đó mà tôi... lỡ dại đăng lính vào Không-quân.
                  "Đào mình thấy cảnh này chắc nó yêu mình còn dữ nữa."

                  Sau khi bay thật khá, chúng tôi phải bay không-hành -cross country-xuyên tiểu-bang. Đám bạn bên Webb đã hẹn tôi sang với đủ món ăn chơi. Tôi đã cùng với hai ông trung-úy, Tullis và Clark, xin phi-lệnh để cùng Xuân Tây Lai đi Webb và El Paso. Thế mà vì thời-tiết, không thể qua được El Paso "giao-chiến". Đành phải hạ cánh ở San Antonio. Cư-xá sĩ-quan chật ních. Toàn là dân bay. Toàn là áo bay tấp-nập. Chúng tôi ra thuê khách-sạn ngoài phố. May quá, còn số điện-thoại của Julie trong ví.

                  Tôi thấy ngường-ngượng. Lúc qua Sheppard đã cố trốn rồi thế mà bưu-điện Mỹ cũng cố tìm cho được tên tôi theo yêu-cầu của cô nàng ngoài bìa thư và cho vào hộp thư tôi cái thiệp với những hàng chữ: "When the bird forgets how to sing, the bee forgets its honey, the duck forgets how to swim then I will forget you..." và thêm giòng chữ viết tay của cô nàng: "like you forget me!!!!" Nhận xong, thấy cảm-động quá nhưng cố kềm lòng... bỏ luôn. Bây giờ đứng trở lại San Antonio, tôi bồi-hồi và bối-rối không biết có nên kêu không, hay là nó đã có bồ khác rồi, lạng-quạng bồ nó uýnh bỏ mạng.
                  Reng. Reng. Reng.
                  "Hello... Julie?"
                  "...Yes..."
                  "Hey. Anh đây, Julie..."
                  "Tre..eng?... Where are you?"
                  "Right here in San Antonio. Anh tới thăm được không?"
                  Cô nàng hối-hả:
                  "Được. Được. Nhưng mà em không có xe..."
                  "Thì kêu taxi ra khách-sạn Tropicana đón anh. Anh mặc đồ bay đứng trong phòng khách nghe, honey."
                  "OK. OK."
                  Một tiếng đồng-hồ sau tôi đã ở nhà nàng.
                  "Anh tệ quá. I hate you. You forgot me."
                  "Nếu anh quên em tại sao anh lại xin bay qua đây để thăm em."
                  Cô nàng lộ rõ vẻ cảm-động. Đàn bà sao kỳ vậy? Chỉ thích nghe những lời như thế. Đúng, sai mặc kệ. Nghe đã lỗ tai là được rồi.

                  Mười hai giờ đêm, nhất-định phải từ-giã nàng. Tôi biết, nếu nằm xuống là đi luôn một giấc tới sáng và chắc-chắn sẽ lãnh cái búa tạ của Không-quân. Trong khi cột lại đôi bốt-đờ-sô, tôi nói Julie gọi lại chiếc Taxi lúc nãy với tên tài-xế Mad Dog và dúi cho nàng một nắm tiền để em đi Macy shopping mua quà cho đỡ nhớ anh.

                  Tôi lau nước mắt cho Julie, cắn nhẹ lên bờ môi mỏng, khen nàng đẹp vô cùng, đội nghiêng cái nón ca-lô trên đầu rồi đi nhanh ra ngõ, nhập vào con đường Mathews tối đen. Xa xa chiếc taxi của Mad Dog đang chiếu đèn trờ tới.

                  Bốn giờ sáng lấy dù, nai-nịt sẵn-sàng, thuyết-trình cho hai ông sếp nghe sẽ đi đâu, cao bao nhiêu, hướng nào, đổ xăng, gió xuôi gió ngược. Bốn giờ rưỡi xách nón bay, lấy tàu ra đầu phi-đạo chờ. Giọng của đài kiểm-báo vang lên trên vô-tuyến:
                  "Shep 25 clear to take off. Cất cánh."
                  Bốn ngọn đèn pha rực sáng dưới hai đôi cánh. Hai cái đèn đỏ xoay tròn chớp-chớp trên lưng. Hai con tàu nhịp-nhàng dìu nhau trong tiếng rì-rầm của bốn động-cơ phản-lực. Hai tay tống ga, một cái gật đầu, bốn chân nhả thắng, các ống phản-lực gầm lên hung-hãn, đẩy hai con tàu vùn-vụt trên đường băng, lao thẳng vào màn sương đêm ướt-đẫm của thành-phố San Antonio...
                  Kéo cần... lên.
                  Lên.
                  Hai con tàu ngóc đầu rời phi-đạo.
                  “Ta là đoàn chim bay trên cao xanh.
                  “Đi nhìn qua khói những kinh-thành xa.
                  “Đôi cánh tung-hoành nhịp trên mây xanh.
                  “Ta là tinh-cầu bay trong đêm trăng...”

                  Tàu lấy dần cao-độ, êm-ả lướt trên cái đệm không-khí mát lạnh của buổi bình-minh. Hai bên tai bắt đầu tiếng kêu lụp-bụp, lóc-bóc. Rải-rác đó đây, vài cụm mây bông gòn lẻ-loi, bềnh-bồng ngái-ngủ đang dựa-dẫm sưởi ấm bên những tia nắng ban mai vàng nhạt. Chiếc đèn beacon trên nóc tháp San Antonio Tower cũng còn chớp-chớp. Những dẫy đèn chia thành-phố ra từng ô thật rõ thật đều. Ở một góc nào đó của thành-phố này, nàng Julie yêu-kiều của tôi chắc đang ngủ vùi sau những tiếng đồng-hồ nồng-nàn tâm-sự.
                  "Em phải ngủ ít nhất đến 11 giờ sáng mới lấy lại sức. Chết rồi! Không biết nàng có nhớ dẫn con nàng đi học hay không? "
                  "Ngủ đi mộng vẫn bình thường
                  “À ơi có tiếng thùy-dương mấy bờ.
                  “Cây dài bóng xế ngẩn-ngơ.
                  “Hồn anh đã chín mấy mùa buồn đau..."
                  Đó là lần cuối-cùng tôi gặp lại Julie, một thiếu-phụ đa-tình của xứ Mễ Tây Cơ.

                  Tàu vụt lướt vào một cơn mưa. Chúng tôi quyết-định bay xuyên trong mây. Chung quanh tối mờ mờ. Một luồng mây theo lỗ gió tràn vào phòng lái, thẳng tắp. Hai tay đeo găng chợt ướt lạnh. Tàu vẫn lừ-lừ ngóc đầu lấy cao-độ. Những giọt nước li-ti..., thật li-ti chảy bắn thành dòng ngược lên đỉnh. Mắt đảo qua ba, bốn dẫy đồng-hồ phi-cụ. Tất-cả đều trong tình-trạng toàn-hảo. Mở heat. Hơi nóng tràn vào thật ấm. Mở luôn heat cho cái pitot tube kẻo nó đóng băng thì đồng-hồ tốc-độ hết chạy. Nhìn qua tàu bên cạnh, Xuân Tây Lai vẫn đeo sát một bên, thật đầm.
                  "Thằng này bay formation cũng đẹp quá chứ!"

                  Pi-lốt đang bay coi oai thật! Nón bay trắng, cái kính visor nâu đen che trùm đến mặt nạ và ống dưỡng khí. Hai bên vai là những dây đai của chiếc dù. Lỉnh-kỉnh trước ngực nào là nút, nào là dây, nào là khóa và móc sắt, nào phẹc-mơ-tuya. Màu cam của ống-thuốc-nổ-tự-động-mở-dù nổi bật trên nền áo bay xanh xám. Rồi lại phù-hiệu xanh xanh đỏ đỏ cam cam trước ngực và trên cánh tay áo. Chết thật! Ai vẽ kiểu cái áo bay như thế này hèn gì "đám con gái" cứ mãi xếp hàng ngẩn-ngơ trước cổng Phi-Long! Ở Nha-trang, các nàng ra tay trước, còm-măng sẵn ở cổng Long-vân của trung-tâm huấn-luyện Không-Quân. Đến là tội-nghiệp cho Không-quân, bị săn đuổi ráo-riết từ trên trời cho đến khi xuống đất! Có lẽ ngoài Không-quân chưa ai nghe rằng: "Mỗi đường bay là một cánh hoa rơi." Thật ra hoa như hồng, như lan, như lây-ơn... ai mà nỡ cho rơi. Còn hoa cà-chớn thì... cứ tự-do rơi.

                  Hai mươi ngàn bộ.
                  Ánh sáng bỗng vụt chan-hòa, rực-rỡ chói-chang như cảnh thiên-đàng.
                  Trần mây giờ lại trở thành một thảm mây.
                  Không một ai cả! Chỉ có một tấm thảm mây mênh-mông và hàng ngàn hàng vạn những ngọn "núi mây" cao thấp chập-chùng, sừng-sững hiện ra trước khoảng không-gian xanh thăm-thẳm... ngút-ngàn... Hai con tàu chơi-vơi, bay giữa trời xanh mây xám. Hai con người Việt-Nam đang lướt trên mây ngàn của đất nước Hoa-kỳ! Ôi Không-gian vô-cùng vô-tận! Bao-la, hùng-vĩ biết là bao! Tôi bật cười nhớ lại thời huấn-nhục, các ông anh hành-hạ ước-mơ "pilot" của chúng tôi khi bắt chúng tôi vừa bò vừa lết vừa ngâm:
                  "Ôi Không-gian giờ đây ta mới biết.
                  “Mộng mây trời đã giết chết đời ta."
                  Tôi bỗng ước-ao có Tề-thiên Đại-thánh cầm thiết-bảng hiện ra cùng bay với chúng tôi cho vui. Tôi đẩy cần ga vụt lên trước bỏ lại Xuân Tây Lai sau lưng, lộn ngang hai vòng. Đã quá!
                  Mây ơi là mây! Tôi muốn ôm mây mà cắn, muốn ngủ trong mây, hít một hơi mây thật dài thật sâu thật đậm. Tôi muốn nằm vắt-vẻo bềnh-bồng trong mây, muốn bò trong mây, chạy nhẩy tung-tăng trong mây. Tôi muốn đem một chút mây về cho cả thế-gian này làm kỷ-niệm của chốn thiên-thần.

                  Cầm phản-lực nhào lộn 20 ngàn bộ trên mây! Một ước mơ của bao người con trai trên thế-giới! Tôi may-mắn và sung-sướng biết là bao! Ôi các phi-diễn nhào lộn trên không đã từng một thời làm tôi mơ-tưởng: Cuban eight, clover leaf, loop, roll... Ôi những khi đem tàu quật ngang quật dọc vẫy-vùng, áp-lực của trọng-lực G và sức ly-tâm đè chặt cứng lên người..., thật... đã.
                  Tiếng Morse quen thuộc từ phi-trường vọng lại tai tôi. Tít tít tít. Tít ta ta tít. Tít tít tít.
                  Từ 25 ngàn bộ, chúng tôi đã thấy bóng phi-trường Sheppard. Tiếng Morse vẫn vọng lại đều đều trên vô-tuyến. Tít tít tít. Tít ta ta tít. Tít tít tít.
                  "Shep 25 gọi đài kiểm-báo Sheppard."
                  "Sheppard nghe rõ. Shep 25 xuống 5 ngàn feet. Vòng qua Henrietta. Hướng 330. Vào đáp phi-đạo 15. Gió hướng 180, 10 knots. Over."
                  Cúp ga cho tàu trườn xuống. Áp-lực không-khí nặng chình-chịch ở hai tai. Valsava. Valsava.
                  "Shep 25 trên Henrietta. Đang vào đáp. Over."
                  "Shep 25. On course. On glide path. On course. On glide path. Đúng hướng đáp. Clear to land. Over."
                  Đáp đôi.
                  Như hai con đại-bàng đang cong mỏ, quắc mắt, xòe cánh, giương móng, chúng tôi cùng xuống.
                  Cùng xuống. Xuống thấp. Thấp.
                  Flare. Ngóc đầu lên.
                  Flare... Flare...
                  Kéo cần...Kéo...kéo...
                  Cúp ga.
                  Chạm đất.
                  Formation touch down.
                  Beautiful! Hãy cho tôi nghe bài hát của Không-quân!
                  “Ôi phi-công danh-tiếng muôn đời.
                  “Nhìn xa... Phi-trường Việt-Nam.
                  “Không-quân ra đi cánh bay rợp trời.”

                  Với cái trớn hăng-hái đó, tôi hùng-dũng ngốn hết các chuyến bay trong chương-trình. Những kỳ thi dồn-dập tới-tấp. Thi academy lý-thuyết: gió nào mây nào, con ốc, con vít, nút kiểm-soát, cầu chì nào ở đâu, bị emergency thì phải làm gì...mỗi hai tuần lại phải thi. Thi bay lúc đầu còn từ từ: căn-bản C-9, contact, rồi đến lúc gần mãn khóa phải thi gấp nên bay cũng gấp, bay cả thứ bẩy chủ nhật, một ngày ba chuyến nhào lộn tưng-bừng. Thi phi-cụ instrument, link, formation (hợp-đoàn), không-hành... Thi đủ bài. Bay đủ giờ. Ngày gắn cánh, cấp bằng bay đã đến. Khoá-sinh chúng tôi cảm thấy thật là mãn-nguyện cho cái ước mơ nghe qua tưởng chừng giản-dị nhưng có lúc hầu như đã quá tầm tay với:
                  Lễ gắn cánh bay. Quá cảm-động và hào-hùng.
                  Cám ơn đất nuớc và dân-tộc.
                  Cám ơn Quân-lực Việt-Nam Cộng-hòa.
                  Cám ơn quân-chủng Không-quân.
                  Chúng tôi nghĩ đến nhiệm-vụ trước mắt, nghĩ đến những đàn anh, những hy-sinh và bây giờ, chúng tôi... những đàn em tiếp bước.
                  Đến đây là hết phần kể học bay T-37 ở Mỹ của Hoàng Văn Trung. Như đã kể về Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát bên trên, có năm người học T-37 tại Phan Rang là Huỳnh Văn Chín, Phạm Văn Hiếu, Lưu Khải Minh, Đỗ Trọng Nhâm, và Trịnh Vĩnh Thụy.

                  Trong những anh em SVSQ Phi Hành, có những người đã được chuyển sang Không Phi Hành trong thời gian huấn luyện. Phần Đinh Văn Vượng thì du học Mỹ năm 73. Đầu tiên là học Anh văn ở Lackland Air Force Base, Texas. Sau đó học bay trực thăng ở Fort Rucker, Alabama. Vượng, Lâm Ngọc Tuấn 72A, và một bạn khóa khác cùng học bay với một thầy. Tuấn trội nhất trong nhóm nên được thầy thả cho solo. Chẳng hiểu vì rét quá hay vừa bay vừa nhớ đào mà ngay trong lần đầu tiên bay thử Tuấn đã rơi trong một rừng cây làm máy bay vỡ tan tành, may mà chàng chỉ bị gẫy chân. Vì vụ đó mà ông thầy dạy bay của ba chàng cứ bị lôi ra hội đồng kiểm thảo hoài! Phần Vượng và anh bạn còn lại hoặc vì không có khiếu bay hoặc vì thầy bị ê càng nên không dám thả cho solo. Nhờ gặp lúc có tài khóa, Vượng được chuyển qua học khóa không phi hành về ngành Điều Khiển Không Chiến ở Tyndall Airforce Base, Florida. Vượng về nước và học điều chỉnh sĩ quan ở Nha Trang năm 74.

                  Theo lời Nguyễn Na thì 72A ngoài bạn Vượng ra còn có Na, Tống Văn Dũng, Trương Văn Hóa, và Nguyễn Văn Chín du học về cùng làm trong ngành Kiểm Báo. Những bạn này được gọi là Sĩ Quan Điều Không. Họ làm việc ở đài Kiểm Báo để intercept khi có máy bay lạ vô vùng chứ không phải là để liên lạc như nhiều người lầm tưởng.

                  Trong các anh em Không Phi Hành từ đầu thì có bạn Hồ Đắc Tiến. Theo lời Tiến kể lại thì khi các SVSQ PH qua Ngân Hà thì các SVSQ KPH ở lại Phi Dũng, và Tiến làm SVSQ cán bộ phụ trách an ninh. Qua đầu năm 73 thì Tiến được theo học khóa 17 Bảo Trì Phi Cơ. Khóa học có 10 giai đoạn, mỗi giai đoạn có 3 tuần. Có 13 SVSQ trong khóa 17 BTPC, kể cả các bạn sau.
                  1. Dương
                  2. Liêm
                  3. Nguyễn Đức Long
                  4. Tài
                  5. Hồ Đắc Tiến (sau chuyển qua khóa 18)
                  6. Nguyễn Văn Tiến
                  7. Từ Phước Thiện (sau chuyển qua khóa 18)

                  Khóa 17 cùng ở trại Hoàng Yến với khóa 42 HTQS. Trung Úy Hiển, trước kia làm Thiếu Úy Huấn Luyện Viên Quân Sự Phi Dũng, là Sĩ Quan Trưởng Trại Hoàng Yến. Ông Hiển là một thầy tu xuất thường giúp Cha Tuyên Úy làm các thánh lễ trong Trung Tâm Huấn Luyện. Sau khi các sĩ quan khóa sinh học khóa quan sát viên ở trại Hoàng Yến ra trường đi rồi thì Tiến làm SVSQ cán bộ Trưởng Phòng Nhân Viên Hoàng Yến. Trong thời gian này, SVSQ KPH Nguyễn Văn Tiến cùng khóa 17 BTPC đang làm SVSQ Không Đoàn Trưởng coi hết Ngân Hà, Hoàng Yến, và Thiên Nga. Ngày ngày bạn Nguyễn Văn Tiến phải về bên Ngân Hà làm việc, dù quân số của bạn này vẫn nằm trong sự cai quản của Hồ Đắc Tiến ở Hoàng Yến. Bạn Hồ Đắc Tiến là một trong sáu SVSQ ở trong căn nhà vòm dùng làm phòng trực. Nơi đây là nơi yết thị nhật lệnh. Những khóa sinh ở Hoàng Yến thỉnh thoảng mới có chào cờ và tương đối được thoải mái hơn các anh em ở các trại khác.

                  Bởi ở cùng dưới những căn “nhà vòm” của trại Hoàng Yến, bạn Hồ Đắc Tiến quen biết nhiều các anh em 42 HTQS và thường đi ăn với Tạ Viết Đỉnh. Bởi thân quen và muốn che chở cho anh em nên Tiến đã bị một tai nạn. Một hôm Trần Văn Ứng của 42 HTQS dù về Sài Gòn chơi, và dù rằng đã biết như vậy, nhưng khi báo cáo quân số Tiến đã báo cáo đủ. Không may Trung Úy Hiển biết được và đã nhốt Tiến một tuần. Bởi vì vắng mặt mất một tuần trong ba tuần lễ của Giai Đoạn 6 của khóa học, Thiếu Úy Nghiêm là huấn luyện viên đã thuyên chuyển Tiến từ khóa 17 qua khóa 18, làm cho Tiến ra trường trễ mất khoảng ba tuần lễ. Khóa 18 ra trường vào tháng 11/73, tức là khoảng cùng lúc với khóa 42 HTQS. Sau khi rời Nha Trang, có hai bạn thuộc khóa 18 đã ra Đà Nẵng. Hồ Đắc Tiến coi cơ xưởng Động Cơ Phản Lực, và Nguyễn Hữu Danh coi cơ xưởng Trực Thăng.

                  Trong những người đi học bay ở Mỹ, có ba anh em đã ở lại vì hoàn cảnh riêng. Nguyễn Duy Bình thì vì nợ nần một cô gái Mỹ còn trong lứa tuổi trung học. Bùi Mộng Lân và Nguyễn Trọng Tiến thì không biết vì lý do gì.

                  Sau này khi đoàn sinh viên sĩ quan dọn qua trại Thiên Nga thì quán ông bà Tá cũng trung thành dọn theo, và những chiếc thẻ lương vẫn đều đặn lên nằm ở đó cho đến kỳ lương hàng tháng. Cuối năm 73 trời hay có giông bão, có đêm mưa bay thốc từng luồng nước từ cửa sổ bên này sang bên kia. Những bạn chưa có tài khóa đi học bay giờ này cũng đã thấy ngao ngán với các cuốn sách Anh ngữ 2100, 2200. Khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát phần vì sắp ra trường phần vì anh em 72A đã rời Nha Trang đi gần hết nên rất nôn nóng. Mấy thằng phá phách của Khóa 42 nhiều đêm thức trễ binh xập xám đói bụng đã cậy tủ của Trần Văn Ứng và Hiệp 72E ra lấy đồ hộp ăn cùng cà phê sữa đặc uống. Tối tối cứ hễ buồn không có chuyện gì làm thì tôi lại lôi Quan Đen ra tập hát bản nhạc dịch Đồng Xanh. Câu chót của bài hát là “Và đã bao năm rồi ta đứng chờ giữa cánh đồng” mà Quan luôn luôn hát thành “Và đã bao năm rồi ta đứng chờ ai giữa cánh đồng”. Bởi Quan tự thêm vào một chữ “ai” đó mà lần nào nó hát cũng trật nhịp. Chỉ có một chút đó mà cho tới khi mãn khóa chia tay ra phi đoàn nó và tôi sửa vẫn chưa xong.

                  Ra Ràng: Đi Nhìn Qua Khói...

                  Có đứa rớt lúc quê hương mù mịt,
                  Chỉ vài giây xương thịt chẳng còn chi.
                  Mai về sau quân sử chắc còn ghi,
                  Dù cuộc chiến đã đi vào quên lãng.
                  (Thơ Nguyễn Hoàng Tân)

                  Vào đầu năm 74 thì gần một phần ba SVSQ 72A đã ra phi đoàn và đi hành quân, và trong số này trong năm đó đã có thằng đền nợ nước. Những bạn không phi hành thì may mắn hơn bởi không ở cùng tâm trạng sống nay chết mai để phải khuyên người yêu đi lấy người chồng nào có đời sống an toàn hơn. Dùng chữ người yêu cho văn vẻ vậy chứ thật thì ngày đó tôi chưa biết yêu là gì, và bây giờ thì tôi hoài nghi không biết tình yêu trai gái có thật hay không, hay chỉ là những huyền thoại mà người ta thêu dệt ra cho cuộc đời có ít sắc hương để đỡ phần tẻ nhạt.

                  Bạn Nguyễn Hữu Thiện Tuấn không hài lòng với những điều tôi vừa nói và đã gián tiếp trả lời như sau.
                  “Hôm nay tôi vừa đón đứa con trai bẩy tuổi xuống school bus được vài phút thì bất ngờ bị lọt vào trung tâm một cơn bão xoáy cấp độ 60 dặm một giờ làm cho nhà sập cây đổ tứ tung chung quanh tôi. Lúc ôm đứa con vào lòng và nằm bò ra để tránh những mảng tường, cành cây, lò than nướng thịt ngoài trời, bàn ghế, v.v... của những nhà bên cạnh bị cuồng phong bốc lên ngập trời và rơi lả tả, tôi bình thản đưa lưng ra đỡ cho con. May mà cơn bão qua mau, con tôi an toàn và tôi chỉ trầy sơ sài chút đỉnh. Tuy nhiên, từ cái tai nạn đó mà tôi nhận ra là tình yêu cha con thật sự hiện hữu tuyệt đối trước nguy nan. Có thể tình yêu ở khắp mọi chốn nơi, không từ chối ai nhưng cũng không để bị ai chiếm hữu, và chỉ có chúng ta quay lưng lại với nó mà thôi. Dù thế, nó không trừng phạt, đe dọa, hay ghét bỏ chúng ta, và nếu ta nhận nó thì nó lại vào trong tâm hồn ta để cho ta chia xẻ.”

                  Sau khi ra phi đoàn thì cuộc sống của mỗi SVSQ của 72A gắn liền với một con số và cái tên của phi đoàn mình phục vụ. Như đã nói trong một chương trước, các phi đoàn Quan Sát thì bắt đầu bằng số 1, Trực Thăng thì bắt đầu bằng số 2, và Khu Trục thì bắt đầu bằng số 5. Ngoài ra còn có một phi đoàn chở yếu nhân chính phủ là Phi Đoàn 314, và những phi đoàn Vận Tải bắt đầu bằng số 4. Tuy nhiên, bởi không có SVSQ 72A nào có cái may mắn được thong dong đi bay như đi chơi trong các phi đoàn chở VIP hoặc đi trao đổi hàng hóa trong các phi đoàn vận tải, chúng tôi chỉ có những mẩu chuyện hành quân. Sau đây là những mẩu chuyện của 72A từ các phi đoàn mang số bắt đầu bằng 1, 2, hoặc 5.

                  Tôi ra trường khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát vào cuối năm 73, và đầu năm 74 thì về phục vụ tại phi đoàn Thanh Xà 112 Biên Hòa. Thời xưa thì phù hiệu của phi đoàn tôi có hình rắn hổ phùng mang với ngôi sao trắng trên nền đỏ coi rất le lói, nhưng khi tôi về phi đoàn thì tất cả các phi đoàn quan sát trên khắp bốn vùng đều mang một cái phù hiệu giống nhau có vẽ hình một con dơi đang bay với đôi mắt chiếu ra hai tia sáng màu vàng như ánh đèn pha xe đò đi Lục Tỉnh. Bởi cái hình vẽ không yêng hùng chi mấy này mà tôi không có may nó vào một chiếc áo bay nào cả. Ngày về phi đoàn trình diện xong thì việc đầu tiên phải làm là đi lãnh quân trang gồm có áo bay, áo lưới, mũ bay có microphone và earphones, súng lục P-38, một dây nịt đeo súng đạn, một túi may bằng loại vải dù để đựng mũ bay khi xách đi xách về, và một cây súng bắn flares tròn nhỏ bằng ngón tay cái. Giầy thì tôi không nhớ đã lãnh giầy gì, chỉ biết rằng giầy mang đi bay hành quân tôi đã đi mua loại nửa da nửa vải có móc cột dây để cởi ra cho lẹ khi cần thiết. Khi lên tàu thì các hoa tiêu quan sát có nhiều kinh nghiệm thường mang trong túi bay một bộ quần áo dân sự để lỡ bị rớt tàu thì thay vào mà chạy.


                  Dù là trong thời gian huấn luyện tôi đã học bay T-41 và L-19, chiếc tàu tôi bay hành quân là L-19. Tàu này do hãng Cessna làm, với 150 mã lực, và có hai ghế. Ghế trước dành cho hoa tiêu, và ghế sau dành cho quan sát viên. Hoa tiêu mới ra trường sẽ được cắt bay với quan sát viên nhiều kinh nghiệm, và ngược lại. Phi vụ thì có nhiều loại như phòng thủ vòng đai phi trường, hộ tống xa đoàn, chở các sĩ quan quân báo của bộ binh đi liên lạc, và hướng dẫn khu trục. Trong một phi vụ hành quân, phi hành đoàn của mỗi chiếc tàu luôn luôn có một hoa tiêu và một quan sát viên. Quan sát viên sẽ nhận chỉ thị, liên lạc với các đơn vị bạn, điều động khu trục, và hướng dẫn khu trục đánh khi họ lên vùng. Nhiệm vụ của hoa tiêu là mang tàu lên vùng, bắn hỏa tiễn khói, và bay theo lời quan sát viên yêu cầu để khỏi bị khu trục đụng nhằm khi họ lên xuống thả bom. Những phi vụ của L-19 giới hạn thời gian trong hai tiếng rưỡi đồng hồ kể từ khi cất cánh cho đến khi về đáp. Trên nguyên tắc thì khi hướng dẫn khu trục L-19 phải bay trên cao độ từ 1500 tới 3000 bộ trên mục tiêu hành quân, nhưng vì tàu bay chậm mà đại liên phòng không bắn quá rát nên thường là bay ở 6000 bộ trên mục tiêu trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến.

                  Đối với các đơn vị quân bạn ở dưới đất thì tài nghệ của hoa tiêu, hoặc sự tin tưởng của họ về phi hành đoàn quan sát, trong một phi vụ hướng dẫn khu trục, là ở chỗ trái rocket khói trúng cách mục tiêu quân địch bao xa. Trong những ngày có gió lớn mà bay cao thì khó bắn trúng đích, nhưng nếu trái khói trúng mặt đất xa mục tiêu quá thế thì sự tin tưởng của họ đã bị lung lay ngay từ phút đầu. Với một hoa tiêu L-19, không có gì buồn bằng khi nghe quan sát viên ngồi đằng sau bảo khu trục “đánh dài 300 thước ”, hay đánh “300 thước về phía trái” trên đường họ bay xuống mục tiêu.

                  Bởi quan sát viên là người hướng dẫn cho khu trục đánh, nhiệm vụ của họ rất quan trọng. Họ phải nắm vững tình hình bạn ở đâu, địch ở đâu, và địch có những loại vũ khí gì. Trước khi đánh, họ phải cho khu trục biết những chi tiết này căn cứ trên vị trí của trái khói. Một điều nữa là khu trục có lẽ là thuận quẹo trái hơn quẹo phải hay sao đó mà thường là L-19 bay về bên phải của đường xuống của khu trục để cho khi đánh xong thì họ rẽ trái khi lên.

                  Trước khi khu trục lên vùng, địch quân ít khi bắn L-19 vì sợ lộ mục tiêu. Khi khu trục lên vùng rồi là lúc địch quân sẽ bắn, cho nên sau khi bắn trái khói xong là L-19 nên biết thân mà tránh ra xa xa một chút. Ngay trong khi khu trục chúi xuống đánh, địch cũng ít khi bắn vì sợ lộ mục tiêu dễ dàng cho khu trục thả bom, cho nên lúc thuận tiện nhất là lúc khu trục bay lên lại. Bởi vậy khu trục thường đánh một lúc hai chiếc, chiếc đi vô bắn yểm trợ cho chiếc đi ra. Dĩ nhiên đây là nói theo sự việc thông thường thôi, chứ trong quãng thời gian mấy tháng cuối cùng của chiến cuộc thì súng đạn phòng không của địch hình như quá thừa thãi. Chúng cứ bắn tứ tung, nhiều khi như rải hoa trắng trên trời vậy. Trong những lúc đó thì “trờiø kêu ai nấy dạ” vậy thôi chứ không còn biết đâu mà tránh, cũng như theo lời những người lính bộ binh nhiều kinh nghiệm kể lại thì “đạn nó tránh mình chớ mình không biết đâu mà tránh nó.”

                  Trong suốt thời gian đi bay, tôi không hề có một khái niệm gì về cái chết, dù có những phi hành đoàn quanh tôi đi không về, cũng như trong khi đi gác quan tài cho một sĩ quan tử trận nào đó ở địa phương đang được quàn trong nhà chờ chôn. Khi thấy đạn đại liên phòng không nở trắng quanh mình trong chuyến bay ở Trảng Bàng hoặc Củ Chi, tôi chỉ nghĩ thầm với riêng mình rằng, “Đ. M., bữa nay tụi nó bắn dữ à nha!” Có hôm đi hành quân về thấy một hoa tiêu cùng phi đoàn ngồi khóc ngoài phi đạo, tôi dừng bước hỏi có chuyện gì. Sau khi được cho biết là một phi hành đoàn bạn cùng đi hành quân với hắn trong một giờ trước đó đã bị bắn rớt, tôi chỉ hỏi một câu ngắn “Thế à?” rồi tiếp tục đi. Đó không phải vì tôi vô tình, bởi nếu còn có thể làm gì được cho phi hành đoàn đó thì tôi sẵn sàng làm ngay, nhưng vì tàu của họ đã bị bắn gẫy đôi cắm đầu xuống đất thì chắc chắn là hết thuốc chữa rồi, tôi có ngồi khóc theo cũng chẳng có ích gì hơn cả. Ngày hôm nay tôi vẫn còn nhớ mẩu chuyện đó, nhưng thú thật hôm đó khi quay lưng đi là tôi đã quên ngay và chỉ lẳng lặng đi làm những việc cần thiết như về đi tắm, đi ăn, rồi đi ngủ. Có như vậy thì ngày hôm sau mới tiếp tục được cho những nhiệm vụ kế tiếp của một ngày mới đó.

                  Sau đây là kỷ niệm của Mai Ngọc Trai trong thời gian phục vụ hành quân ở phi đoàn.
                  "Khi chiếc C-130 vừa chạm bánh xuống phi đạo Đà Nẵng, nó bỗng gầm gừ và rung động toàn thân như nhắc nhở chúng tôi là đã đến nơi chúng tôi sẽ phục vụ cho bầu trời tổ quốc. Tôi cùng Quan Đen, Điệu Long An, Nguyễn Tuấn Kiệt, Nguyễn Thanh Tâm, Bảo Nhí , Ứng Cải Lương, Định Già, Hải Già, Hứa Tỷ, Đường Lập Nghĩa, và Đào Thanh Sơn đang ngơ ngác và chới với vì cái nóng đổ lửa thì có chiếc pickup trờ tới. Chúng tôi được đưa về cư xá sĩ quan độc thân của phi đoàn.

                  "Khi mới về phi đoàn là phải làm sĩ quan trực. Bảo Nhí ngồi buồn lật sổ khám bệnh xem tên từng người rồi về công bố cho cả xóm nghe. Quan Đen thì cười ha hả khi đọc thư đào, rồi đọc xong thì mang khoe tùm lum. Phòng Lê Quang Diệu cạnh phòng tôi. Mỗi lần say thì nó lấy P-38 bắn xuyên qua vách rồi hỏi tôi thức ngủ. Khi tỉnh thì nó lấy quần lót phụ nữ ra căng dây treo tênh hênh giữa lối đi làm cho Hứa Tỷ và Đường Lập Nghĩa chửi ỏm tỏi không dám đi ngang vì sợ xui.

                  "Một hôm trời nóng quá nên anh em sống thoải mái không mặc gì để thỉnh thoảng tiện đi tắm. Tôi đang nằm phè cánh nhạn trong phòng thì nghe tiếng đàn bà kêu thất thanh. Tôi ngạc nhiên chạy ra xem thì thấy bà vợ của ông phi đoàn phó của chúng tôi cùng mấy vị phu nhân khác nữa đang đứng trước mặt Hứa Tỷ mà tay thì đang bụm mặt. Chàng này thì hai tay đang bưng một nồi chè, và ngoài nồi chè đó ra thì không còn gì khác che thân. Tôi khép vội cửa phòng, nhưng vẫn còn tò mò nhìn qua khe hở xem chuyện gì sẽ xẩy ra. Tôi thấy mấy bà tuy đỏ mặt nhưng vẫn nhìn chằm chằm vào một nơi nào đó trên người Hứa Tỷ.

                  "Tôi tưởng sau đó mấy bà sẽ thối lui, nhưng không. Bà vợ ông phi đoàn phó bình tĩnh hỏi: 'Phòng của Thiếu Tá H. ở đâu vậy em?' Tỷ ấp úng cho hay rằng phòng ông H. ở dãy bên kia. Cảm ơn xong, mấy bà thay vì lui ra lại còn tiến sâu hơn vào trong hành lang tới cuối dẫy phòng, báo hại làm mấy thằng khác đang nấp xem vội ùn ùn chạy như đàn vịt.
                  "Sau khi mấy bà rút lui, tụi tôi đã tìm hiểu ra rằng mấy bà rủ nhau đi đánh ghen nhưng đi lộn khu.
                  "Sáng hôm sau thì một ông trung tá huấn luyện chọn Hứa Tỷ đi check ride. Tỷ hoang mang quá, bởi bà vợ của ông có mặt trong phái đoàn đánh ghen hôm trước. Tỷ sợ lỡ khi về nhà bà có lời gì so sánh chiều dài của cái nòng súng ngắn của mình với ông ta và làm cho ông giận hay không.

                  "Một hôm cả bọn đang ngồi trong câu lạc bộ tán dóc thì một vị đại úy chạy vào nói: 'Đ. M., sao mấy thiếu úy ngồi đây? Trung tá phi đoàn trưởng đang làm cỏ ngoài kia kìa.'
                  "Khi chúng tôi kéo ra thì thấy mấy ông thiếu tá ra dành làm, rồi bán cái lại cho mấy ông đại úy. Chuyện bán cái cứ tiếp diễn cho đến phiên tụi tôi là ngưng. Tôi không khỏi chửi thầm trong bụng.
                  "Vị phi đoàn trưởng của tôi xuất thân từ trường võ bị nên rất qui củ. Phòng họp hành quân có hai cửa vào, một cho cấp đại úy trở lên, còn cửa kia thì cho các cấp dưới. Một hôm tôi vô ý đi lộn cửa và bị bắt đi trở lại. Tôi buột miệng hỏi: 'Vậy khi bị pháo kích thì chạy cửa nào ra?' Thế là tôi bị khiển trách vì ăn nói thiếu lễ độ với cấp trên.

                  "Có lần tôi lên phi đoàn thấy tên mình nằm trong phi hành đoàn spare #2 nên về cư xá tắm. Có lẽ vì tôi đã lỡ làm mất lòng ông đại úy phi đội trưởng nên ông đã đưa tôi lên spare #1. Đến khi ban Hành Quân Căn Cứ điều động thì tôi không có mặt để cất cánh. Ông đại úy phi đội trưởng đã đòi nhốt và đưa tôi ra tòa án quân sự. Tôi điềm tĩnh trả lời rằng sẵn sàng chấp nhận hình phạt, nhưng mong rằng không phải do thù cá nhân. Ông ta nghe xong càng nổi điên hơn nhưng tôi không sợ. Bất quá bị đổi về Pleiku, chứ đâu có căn cứ nào gần Bến Hải hơn đâu mà sợ.

                  "Cá lớn hiếp cá bé. Đi lính mà không biết nịnh hót chè lá thì cũng thiệt hại cho mình. Không biết khi già lạnh cẳng thì có biến tính thành giống như vài đàn anh để an nhàn hay tiến thân hay không, chứ lúc đó tôi bất cần. Tôi vào Không Quân để lái máy bay, dù có làm thiếu úy muôn đời cũng chẳng sao. Cây ngay không sợ chết đứng. Khi nghe anh em kể chuyện đời lính, tôi thấy đa số anh em may mắn hơn tôi vì có những thượng cấp không bắt nạt đàn em để tiến thân."

                  Trước khi nhường lời cho các bạn bay trực thăng, tôi xin ghi lại đây lời của bạn Nguyễn Hữu Thiện Tuấn về bay bổng.
                  “Trong đoạn đời đi bay có thằng bay vì tự mãn, có thằng bay vì hào nhoáng thời thượng, có thằng bay vì tinh thần phục vụ, hoặc cũng có thằng bay vì sợ đi bộ binh. Nhìn lại cuộc đời bay có anh em vẫn còn hãnh diện, nhưng có anh em nhàm chán. Với riêng tôi thì đời bay là một giấc mộng đến rồi đi, có khi khủng khiếp nhưng quyến rũ vô ngần, đến độ mất nó rồi tôi không dám nhìn lại vì biết rằng sẽ không sống nổi trong tiếc nuối. Nó là một người tình mà ân tình gián đoạn đã mang cho tôi nhiều đau khổ. Lắm lúc tôi ước mình đã bị bắn trong phi vụ để sống trọn vẹn với người tình mây gió đó.”
                  Khi bắt đầu bay hành quân chính là khi thử lửa. Đây là lúc anh nào mau lạnh cẳng thì sẽ lòi ra ngay. Mà không lạnh cẳng sao được kia chứ! Ngày xưa chiếc Skyraider kềnh càng chậm chạp như thế mà cũng đã từng vang bóng một thời, nhưng lúc này thì bay mau như phản lực thế mà cũng còn bị phiền vì hỏa tiễn SA-7. L-19 tuy chậm chạp nhưng không phải vô sát vùng nên đỡ, hơn nữa địch ít khi bắn L-19 vì chúng sợ lộ mục tiêu . A-37 thì lên vùng “đánh đại rồi về” . Còn lại bao nhiêu thì trực thăng phải gánh. Những thằng 72A mới ra trường bay trực thăng làm copilot là những thằng đau khổ, vì khi lên vùng thì chỉ được pilot dặn dò là “nếu tôi bị thì anh cứ theo hướng bao nhiêu độ đó mà bay ra” rồi cho ngồi chơi xơi nước. Phần bay bổng và liên lạc thì pilot lo hết. Bởi vậy những phi vụ đi theo tháp tùng của copilot được vài anh em gọi đùa là “tháp tùng tử”. Riêng một mình Nguyễn Đình Hòe thôi cũng đã bị bắn rớt ba lần.

                  Sau đây là phần tường trình của Nguyễn Đình Hòe theo ký ức.
                  “Phi đòan 221 Lôi Vũ, Biên Hòa được chia làm 3 phi đội. Mỗi phi đội làm 2 ngày và nghỉ bù hành quân với sự vụ lệnh một ngày . Hai ngày làm thì chia ra thành một ngày chính và một ngày phụ. Trong ngày chính thì bay các phi vụ hành quân, bốc đổ biệt kích, bay cho các tư lệnh sư đoàn, hoặc bay cho Quân Đoàn 3. Ba sư đoàn mà chúng tôi bay cho các vị tư lệnh là 5, 18 và 25. Bay cho các tư lệnh thì chán vì nhạt nhẽo lắm nhưng an toàn. Đôi khi tầu được biệt phái cho các trung đoàn khi tư lệnh không dùng đến. Những tầu nào được cắt bay cho Quân Đoàn thì sẽ được biệt phái cho các tiểu khu tùy theo nhu cầu chiến trường của Vùng III Chiến Thuật trong phạm vi các tỉnh Bình Long, Phước Long, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Long An, Gia Định , Biên Hòa, và Bình Tuy.

                  “Trong ngày làm việc phụ thì tôi lên ca làm sĩ quan trực phi đoàn, ứng trực bay các phi vụ hành quân , bay liên lạc kỹ thuật , hoặc bay đêm phòng thủ chống pháo kích chung quanh phi trường Biên Hòa. Mỗi phi vụ phòng thủ phi trường kéo dài hai tiếng đồng hồ và gồm một chiếc slick có trang bị hệ thống đèn soi sáng và 2 gunships. Nhiệm vụ bay đêm mới trông thì rất đơn giản: cứ đổ đầy xăng, cất cánh, rồi bay bình phi ở cao độ 600 bộ ở vận tốc 75 knots vòng quanh Biên Hòa. Trong thời gian đó thì hoa tiêu ung dung châm thuốc lá mở radio nghe nhạc ngắm nhìn thành phố ngủ im trong muôn vạn ánh đèn lấp lánh như sao giăng. Tuy nhiên, coi vậy mà không phải vậy. Bay đêm có cái nguy hiểm của nó. Lơ mơ bị vertigo, phi cơ cắm đầu xuống đất mà không biết, hoặc ngồi gunship không có cửa lạnh mê tơi... Đã vậy mà còn lại được các em gái hậu phương âu yếm gọi là “đi soi ếch”!

                  Ngày nghỉ thì Hòe được tự do xuất trại với sự vụ lệnh nghỉ bù hành quân. Có những thằng, như Đinh Sỹ Hưng, đã lỡ ván đóng thuyền quá sớm thì đành ôm bụng về nhà “cơm nhà quà vợ,” riêng Hòe thì đã lỡ mang danh là một kẻ hào hoa... lại càng bận rộn hơn trong những ngày bù dưỡng để khi hết ngày phép trở lại phi đoàn còn mệt hơn là lúc chưa đi phép.
                  Sau đây là lời kể chi tiết hơn của Nguyễn Đình Hòe.

                  “Cho đến giờ phút này tôi vẫn tự hào và hãnh diện rằng mình đã không sai khi chọn cho mình đôi cánh bằng làm lẽ sống. Thiết tưởng hình ảnh của cái anh ‘chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt ’ đâu đó của ngày xưa chắc cũng ngon ngon giống như tôi hay chỉ hơn tí ti là cùng. Trước những cặp mắt tròn xoe đầy ngưỡng mộ của các em gái hậu phương và lũ con trai cùng trang lứa, tôi: chàng phi công thời chiến trẻ tuổi đẹp trai con nhà giầu... túi lủng, cỡi chiếc Vespa láng coóng, vận áo bay màu xanh (xanh như tình ái...,) đầu đội kalo lóng lánh chiếc mai vàng đã được đánh bóng sáng choang, xệ xệ bên hông phải cây P38, bên hông trái cây dao găm và trước bụng thì lỉnh kỉnh cây flare gun cùng đầy hỏa pháo xanh đỏ... đến trường đón em tan học về, dù không có cảnh trời mưa nho nhỏ cho vừa nhớ thương như người ta, nhưng chắc cũng đủ để trở thành một thứ thần tượng ái tình nào đó.

                  “Không giống như những anh em bên fixed wings được chính thức chịu trách nhiệm và làm chủ con tầu của mình ngay sau ngày ra trường, pilots bay trực thăng thì chịu thiệt thòi không ít vì khi mới tham dự hành quân chỉ có function là hoa tiêu phó ù, mà làm hoa tiêu phó thì không có quyền quyết định gì trong phi vụ cả. Tất cả quyền sinh sát nằm trong tay trưởng phi cơ , còn mình thì ‘trong nhờ, đục chịu’. Sau một thời gian có nhiều giờ bay và kinh nghiệm thì hoa tiêu phó có thể được đề bạt lên hoa tiêu chánh bởi các staff trong phi đoàn rồi được check flight bởi sĩ quan huấn luyện hay trưởng phòng hành quân. Còn lên làm trưởng phi cơ thì phải cần nhiều kinh nghiệm trong nghề...


                  “Phi hành đoàn của một chiếc UH-1 gồm có bốn người, hai hoa tiêu một chánh một phụ, một cơ phi và một xạ thủ . Khi sửa soạn cho một phi vụ hành quân thì hoa tiêu phó ký nhận tầu từ cơ trưởng. Sau đó thì hoa tiêu phó làm tiền phi , tức là check dầu mỡ xăng nhớt , cánh quạt chính, cánh quạt đuôi... Anh cơ phi thì lo châm dầu mỡ và bảo trì tổng quát, và anh xạ thủ thì lo đi lãnh hai cây súng đại liên M-60 từ kho ra ráp vô tầu. Ở hai ghế phía trước, hoa tiêu chính ngồi ghế phải và hoa tiêu phụ ngồi ghế trái.

                  “Những phi vụ lệnh cho mỗi ngày được nhận từ ngày hôm trước do sĩ quan trực. Nhiệm vụ của sĩ quan trực là điều hành tổng quát cho phi đoàn. Việc chính là khoảng chín rưỡi tối qua bên không đoàn lấy phi vụ lệnh cho ngày hôm sau về viết lên một cái bảng to treo trên tường để cho trưởng phòng hành quân chỉ định các phi hành đoàn.

                  “Một ngày của tháng 4/74, tôi đang nằm nghỉ lưng trong barrack của phi đoàn thì có lệnh hành quân. Nhiệm vụ hôm đó là đón toán trinh sát ở tọa độ phía trái quốc lộ 13 khoảng 35 cây số nơi Trung Đoàn 7 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang hành quân giải tỏa quốc lộ. Toán trinh sát gồm khoảng 50 người đang bị VC bám theo rất sát, cần phải được bốc về Lai Khê ngay. Hợp đoàn chúng tôi gồm có một C&C , 4 slicks và 4 gunships. Tôi là co/pilot cho Trung Úy Cư bay chiếc slick thứ 3, trong khi C&C là Đại Úy Hạnh bay ở cao độ 10 ngàn bộ để dẫn hợp đoàn vào. Chúng tôi bay low level formation sát ngọn cây cao su vào LZ . Qua vô tuyến liên lạc, tôi nghe đã có hai chiếc trong toán bị bắn te tua và đã được gunships bắn che đưa ra ngoài hiểm địa trở về Lai Khê bình an. Trong khi đó thì tầu của tôi đã đến địa điểm LZ. Nhìn xuống dưới, tôi thấy lố nhố những người lính đang chạy đuổi theo phi cơ, trong khi đằng sau họ lố nhố đám địch quân đang bám sát. Tình thế quá gay go. Những chiếc gunships của hợp đoàn tôi thì đang hộ tống những chiếc slicks ra khỏi vùng, trong khi tàu của tôi chỉ võ trang bằng hai cây M-60 ở hai bên cửa. Tình trạng không gunships cover mà vào một hot LZ thì có khác gì Kinh Kha qua sông Dịch ngày nào? Khi xuống tới 15 bộ trên mặt đất vào sát LZ thì đạn bắn tới tấp vào con tàu tự dưng trở thành mong manh nhỏ bé của tôi . Tôi theo phản ứng tự nhiên co dúm người lại trong ghế lái đồng thời nghe tiếng đạn thân tàu nghe lộp độp. Lúc đó tôi rất yêu những tấm giáp dầy che chở quanh ghế lái. Tầu chưa chạm đất thì đã đầy ngập người, và không hiểu Trung Úy Cư có một phép thần thông nào đó mà đã bốc được con tàu lên khỏi mặt đất. Tầu mới lên không được chừng năm phút và vừa bay được một cây số thì phải đáp khẩn cấp xuống ruộng. Trong khi hành khách chạy ùa ra xa con tàu thì Trung Úy Cư ra lệnh cho tôi phá hết các tần số radio, từ VHF, UHF, FM, tới IFF... rồi kéo tôi chạy, vậy mà tôi cũng còn kịp với tay vớt khẩu carbine M-2 báng xếp. Khoảng năm phút sau thì phi hành đoàn của chúng tôi được chiếc C&C nhào vội xuống pick up và đưa về Lai Khê.
                  “Khi chiếc tàu của tôi được câu về Biên Hòa ngày hôm sau, tôi đã tò mò tạt ngang xưởng bảo trì để thăm. Hệ thống thủy điều dùng để điều khiển cánh quạt chính đã bị bể, và tôi đếm được dọc thân tàu mười lăm lỗ đạn.”
                  Đó là lần đầu tiên trong đời bay hành quân Hòe đã được nếm mùi ground fire và crash landing đáng kể, chứ còn bị bắn lủng tàu thì... nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ, đối với một phi công thời chiến? Tiếp theo đây Hòe sẽ cống hiến thêm một mẩu chuyện về một phi vụ khác.
                  “Một ngày nhằm tháng 12/74 tôi làm hoa tiêu phó cho Trung Úy Quyền trong một phi vụ tiếp tế lương thực và đạn dược cho căn cứ hỏa lực Tân Khai. Chúng tôi bay sang căn cứ Long Bình từ sáu rưỡi sáng để nhận hàng và đón back seats . Tôi và Trung Úy Quyền thả bộ xuống quán ăn sáng. Để lấy sức cho một ngày bận rộn, tôi gọi một phần bánh mì ốp la, một ly cà phê sữa đá, và một gói Pall Mall đỏ.
                  “Căn cứ hỏa lực Tân Khai ở phía Nam thị xã Bình Long nằm trên Quốc lộ 13 từ Suối Tàu Ô đến An Lộc. Tình hình chung quanh căn cứ mấy hôm đó được coi là yên tĩnh, dù Quốc lộ 13 vẫn còn bị gián đoạn tại Suối Tàu Ô, giữa Chơn Thành và An Lộc. Trong suốt thời gian thị xã Bình Long bị áp lực của Cộng quân đè nặng, trực thăng là phương tiện tiếp tế và yểm trợ chính. Có những phi vụ mà chúng tôi phải bay tới 12 hoặc 15 tiếng một ngày.
                  “Sau cả ngày làm việc mệt mỏi, khi chúng tôi sắp rời vùng để về Biên Hòa thì nhận được lệnh ghé ngang chi khu Đồng Xoài chở xác một viên đại úy Địa Phương Quân chết vì bị pháo kích đêm trước về Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Trời đã hơn năm giờ chiều, trời ở vùng Đôn Luân Đồng Xoài đang có mưa càng lúc càng lớn. Qua intercom, Trung Úy Quyền hỏi tôi:
                  “–Mày dám đi Đôn Luân với tao giờ này không?
                  “–Nghĩa tử là nghĩa tận, đi thì đi chớ. Tôi theo ông tới bến luôn cho biết.
                  “Cùng thời gian này đã có những trận đánh lớn xẩy ra gần trung tâm quận lỵ và cường lực của Cộng quân càng lúc càng tăng. Chúng tôi có ba điều bất lợi. Thứ nhất là thời tiết xấu. Thứ nhì là không có gunships cover . Thứ ba là địch quân có thể pháo khi chúng tôi vào đáp.

                  “Khi nghe thấy sự quan tâm của chúng tôi thì viên thiếu tá bộ binh ngồi phía sau vội lên tiếng cho hay rằng tình hình trong vùng rất yên tĩnh, bãi đáp trong chi khu nên rất an toàn không cần gunships cover, và toàn thể mission sẽ chỉ là một chuyến bay hóng gió vậy thôi.

                  “Đổi hướng tàu bay lên Đông Bắc ở 90 knots sát ngọn cây, Trung Úy Quyền nói với tôi:
                  “–Tao bay, mày để ý coi chừng tao. Nếu tao có chuyện gì thì mày mang tầu theo hướng 270 mà ra.
                  “Tôi trả lời nhận rõ, sửa lại thế ngồi, kéo tấm giáp che ngực, và với tay bật máy qua FM để liên lạc với chi khu dưới đất. Tôi bảo họ chuẩn bị sẵn sàng để tầu đáp và bốc lên ngay. Liếc nhanh qua bảng phi kế , tôi nhẩm đọc, ‘main rotor rpm 6600, instruments normal, airspeed 90 knots, no circuit breakers pop out, altitude 50 feet above ground level...’ Dưới chân tôi là một tấm thảm xanh dầy đặc của lá cây lướt vùn vụt. Nhìn ra phía trước chỉ thấy một mầu trắng; tầm nhìn bị giới hạn trong vòng 500 thước. Khi thấy từ LZ có khói đỏ bốc lên, Trung Úy Quyền kéo nhanh cần cyclic quẹo trái đưa phi cơ về hướng gió và flare phi cơ để giảm nhanh tốc độ. Trong khi toàn thân tầu run lên vì bị giảm tốc độ đột ngột, Trung Úy Quyền kéo gọn cần collective đặt tầu nhẹ nhàng trên mặt đất.

                  “Toán lính dưới đất di chuyển nhanh chiếc băng ca mang xác của viên đại úy trùm trong poncho ra tàu. Không biết vì sức gió của cánh quạt quá mạnh hay vì luống cuống vội vàng mà họ loay hoay mãi vẫn chưa đưa được chiếc băng ca vào phi cơ. Qua intercom, tôi nói như hét hai tay cơ phi và xạ thủ phía sau nhảy xuống giúp họ. Khi chiếc băng ca nằm gọn trong thân tàu, những người lính bộ binh ở lại đứng nghiêm giơ tay chào vĩnh biệt người chỉ huy của họ mà nước mắt lưng tròng. Ôi, một cảnh bi hùng của chiến cuộc!

                  “Khi chúng tôi rời vùng thì không được êm thắm như lúc đến. Bởi vào và ra cùng đường, địch quân đã có thì giờ chuẩn bị chờ chúng tôi. Giữa tiếng đạn ghim vào thân và đuôi tàu, có âm thanh lạ phát ra từ máy tàu, đồng hồ torque lên quá cao trên 40, và những đồng hồ oil pressure nhẩy loạn xạ. Trong khi viên Thiếu Tá Bộ Binh ngồi đàng sau hốt hoảng gọi máy tứ tung báo cáo tình hình, tôi nhìn qua Trung Úy Quyền thì thấy anh vẫn bình tĩnh. Qua những lời trao đổi liên lạc của viên Thiếu Tá, tôi ghi nhận được rằng trong vòng năm cây số không có đơn vị bạn. Khi Trung Úy Quyền vào tần số phi đoàn báo cáo tình trạng phi cơ và xin đáp khẩn cấp thì được cho hay rằng quanh vùng không có phi cơ nào, và phi đoàn cho lệnh tùy cơ ứng biến. Thế là Trung Úy Quyền quyết định quay trở lại đáp khẩn cấp ở chi khu Đôn Luân nơi chúng tôi vừa đón xác. Đến gần 11 giờ đêm, tàu liên lạc kỹ thuật lên đón phi hành đoàn chúng tôi về Biên Hòa.”
                  Chữ "tháp tùng tử" mà Hòe nhắc lại trong phần hắn viết là một chữ thông dụng trong giới phi công trực thăng với nhau. Nó có nhiều nghĩa, trong đó có cả ý nghĩa hai hoa tiêu đi với nhau vào sinh ra tử, và hoa tiêu phụ phải tháp tùng hoa tiêu chính. Một trong những người có nhắc tới chữ đó là Huỳnh Thanh Hải. Chàng này thì có tật không dậy sớm nổi nên rất khổ sở khi phải đi những phi vụ sớm. Khi đi đổ biệt kích cho Căn Cứ 81 là một thí dụ. Năm giờ thì máy bay cất cánh, và thường là copilot cùng cơ phi xạ thủ phải ra kiểm tàu và chuẩn bị sẵn sàng, thế mà lúc phi cơ quay máy rồi vẫn chưa thấy chàng ta đâu. Cứ mỗi lần được đánh thức là chàng vội vàng sọt đồ bay chụp bàn chải đánh răng và nón bay chạy ra tàu. Tuy thế nhưng trưởng phi cơ chỉ chửi: "Ê, bộ mày là cha tao hay sao vậy!" chứ không bao giờ báo cáo. Điều này cho thấy rằng người phi công trưởng trong phi hành đoàn rất có tình nghĩa với người phi công phụ cùng chia xẻ những hiểm nguy với mình. Nói thẳng ra trong các quân binh chủng chỉ có những sĩ quan hoa tiêu là ít quan liêu nhất, vì như người ta thường bảo đùa rằng "Không Quân là thứ lính mà chỉ có quan chứ không có quân."
                  Sau đây là một kỷ niệm để đời, cháy tàu ở U Minh, do Trần Hữu Du kể.
                  "Kinh 9. Quận Hiếu Lễ. Rừng U Minh.
                  "Cho đến bây giờ, đã 27 năm qua rồi, mà cái địa danh ấy vẫn còn hiện rõ trong trí nhớ tôi mồn một. Đây là một cứ điểm nằm giữa Cà Mau và Rạch Giá. Người ta gọi nó là Kinh 9 bởi vì nó là con kinh thứ 9 đếm từ Thới Bình, Chương Thiện dọc theo rừng U Minh Hạ lên phía Bắc, từ Kinh 1, Kinh 2, Kinh 3, ..., rồi tới Kinh 9. Nếu từ đó đi theo kinh lớn thì về quận Hiếu Lễ, rồi về Rạch Sỏi, Rạch Giá. Tôi đoán nếu chèo thuyền tam bản cũng phải mấy một ngày đường. Bên trái Kinh 9 là rừng đước, U Minh Thượng. Bên phải Kinh 9 là những cánh đồng bát ngát cò bay thẳng cánh kéo dài về Cờ Đỏ, Chương Thiện, Cần Thơ. Hướng Nam là U Minh Hạ rồi Thới Bình, Cà Mau.
                  "Từ Kinh 9 đi lên Rạch Sỏi hay xuôi xuống Thới Bình chỉ có con lộ duy nhất dọc theo bờ kinh lớn. Thường thì dân địa phương chỉ di chuyển bằng thuyền trong những mùa nước lũ, và đó cũng là phương tiện duy nhất của họ để giao lưu.
                  "Hôm đó là ngày 14/7/74.
                  "Tôi co-pilot cho phi vụ biệt phái tiểu khu Rạch Giá. Trưởng phi cơ là Trung Úy Thắng. Mỗi lần nhắc tới anh, tôi lại nhớ nụ cười dễ mến của anh. Cảm tình của tôi với anh là cái cảm tình đặc biệt riêng dành cho một ông anh người Biên Hòa cùng đơn vị. Khi cười, tiếng cười của anh kêu khanh khách, dòn tan, rộn rã. Tôi vẫn bảo anh em trong Phi Đoàn Thần Điểu 217 của tôi rằng: 'Không ai cười thoải mái như anh Thắng .'
                  "Một giờ trưa.
                  "Trời âm u. Những áng mây chồng chất lên nhau kéo theo cơn mưa tháng bảy trĩu hạt đổ lên Rạch Giá. Hai anh em tôi nhận lệnh của tiểu khu từ phi trường Rạch Sỏi. Chiếc trực thăng UH-1H uể oải chuyển mình băng trên phi đạo hướng phía Nam. Lấy cao độ xong, chúng tôi bay về Hiếu Lễ. Đó là chặng ngừng thứ nhất. Chúng tôi lấy thêm tin tức cần thiết để thi hành phi vụ tiếp tế và tải thương cho tiểu đoàn pháo binh. Tiểu đoàn này đang bị trung đoàn Cộng địa phương bao vây đã hơn ba tuần lễ tại Kinh 9, quận Hiếu Lễ, Rạch Giá. Chiếc phi cơ như rẽ sóng, xé cơn mưa trước mặt. Tới Hiếu Lễ, phi cơ nghiêng mình giảm cao độ rồi từ từ khẽ đặt mình lên thảm cỏ trước cột cờ của trụ sở quận. Đó là một dẫy nhà gạch mái tôn mới cất nằm lẻ loi bên cạnh con kinh lớn. Chúng tôi tắt máy rồi rời phi cơ. Với tấm bản đồ vùng 4 trên tay, tôi chạy một mạch trong mưa vào tới mái hiên của văn phòng quận, nhưng không ngăn được những hạt mưa vương ướt trên chiếc áo phi hành.
                  "–Chào trung tá.
                  "Tôi và Trung Úy Thắng bắt tay ông. Trung Tá Cuội. Quận Trưởng Hiếu Lễ.
                  "Trung Tá Cuội người Nùng, nói tiếng Miên rất giỏi. Không riêng gì dân trực thăng, hầu như ai đã từng phục vụ ở Vùng IV Chiến Thuật đều nghe tên tuổi của ông .
                  "Hôm ấy Trung Tá Cuội nhờ anh em chúng tôi giúp dùm một phi vụ tiếp tế vào Kinh 9. Trên đường ra, tiện thể chuyển dùm một số thương binh. Tiểu đoàn pháo binh đang bị bao vây và công hãm kịch liệt. Hơn 40 binh sĩ bị thương nặng, chưa kể con số thương vong. Tôi trải tấm bản đồ bay trên bàn cho ông chấm mực đỏ chỉ vị trí của bạn và địch. Ba đại đội bên ngoài bộ chỉ huy thì đã lui về cách đồn khoảng 100 mét để bảo toàn lực lượng còn lại. Theo tin báo cáo mới nhất, quân số tiểu đoàn còn cỡ 55%. Trong căn cứ còn hai khẩu pháo 105 ly. Hoàn cảnh hiện tại đòi hỏi thuốc men, lương thực, và đạn dược.
                  "Sau khi lấy đủ tin tức cần thiết, chúng tôi bắt tay từ giã Trung Tá Cuội. Tháp tùng chúng tôi là Chuẩn Úy Hoàng, một sĩ quan trẻ tại quận. Anh cầm máy truyền tin theo chúng tôi lên phi cơ. Các thứ cần mang đi đã được chất lên tàu. Phi cơ cất cánh theo hình xoắn ốc lấy cao độ rồi hướng về Kinh 9.
                  "2 giờ 15 trưa.
                  "Mưa vẫn nặng hạt. Bên dưới là rừng đước và những cánh đồng ngập nước.
                  "–Thần Điểu gọi Toàn Niên. Bạn nghe rõ trả lời.
                  "Trên tần số FM, tiếng trả lời như bắp vỡ:
                  "–Toàn Niên nghe Thần Điểu 5 trên 5.
                  "–Thần Điểu trên đường đến nhà bạn. Chuẩn bị cho Thần Điểu biết tình hình hiện tại của gia đình bạn.
                  "–Đám chuột đang bám sát chung quanh chúng tôi. Bạn vào tốt nhất là hướng Tango .
                  "Đồng hồ cao độ chỉ 3500 bộ. Tôi quay sang nhìn anh Thắng:
                  "–Anh xuống 2500 bộ để xem tình hình thế nào.
                  "Hình ảnh của căn cứ tiểu đoàn pháo hiện ra dưới mắt tôi ngay góc Kinh 9. Căn cứ hình tam giác, những bờ đất và hàng rào kẽm gai bao quanh lấy nhau. Hai khẩu đại bác 105 ly nằm ở giữa đồn.
                  "Tình hình yên tĩnh kỳ lạ. Phi cơ chúng tôi vẫn vòng quanh trên cứ điểm ở 3000 bộ. Tôi hơi ngạc nhiên. Một đơn vị đang bị địch quân bao vây công phá mà sao có vẻ bình yên thế này? Tôi nói với anh Thắng trên intercom:
                  "–Anh cẩn thận, coi chừng bị tụi nó gài bẫy.
                  "Chúng tôi liên lạc với bên dưới:
                  "–Toàn Niên, đây Thần Điểu gọi.
                  "–Thần Điểu, đây Toàn Niên nghe bạn 5.
                  "–Thần Điểu trên đầu bạn. Cho trái khói.
                  "Một luồng khói màu đỏ cuốn theo gió bốc lên ngoài sân đồn. Anh Thắng quay sang tôi. Anh ra dấu hiệu bằng một cái nháy mắt về cái quyết định sau cùng của anh.
                  "–Du, chuẩn bị xuống.
                  "Thắng đẩy cần collective xuống, cắt tay ga, chân trái đạp hết về phía trước. Chỉ trong vài giây, con tàu trong vị thế mất thăng bằng lao xuống thật nhanh theo vòng xoắn ốc, lồng lộn như một con chim điên. 2800 bộ... 2700 bộ... 2000 bộ... 1700 bộ... Tùng Tùng... Tốc Tốc... Đùng Đùng... Những tiếng đạn thi nhau rộn rã nổ, nghe rõ ràng trên ống nghe trong nón helmet của tôi. Từng chùm đạn lửa kéo dài đan vào nhau ngang dọc bên ngoài cửa kính. Con tàu của anh em tôi chìm trong bẫy lửa của lũ giặc Cộng.
                  "–Anh Du ơi, em bị rồi!
                  "Tôi ngoái cổ lại. Người xạ thủ M-60 nằm úp xuống sàn tàu, hai tay ôm bả vai bên trái. Thân tàu bỗng lắc về bên phải thật mạnh, như một khối sắt nặng trĩu bị xô hẳn sang một bên. Đùng, một tiếng nổ khá lớn, tiếp theo là một vật gì chạm mạnh dưới ghế của tôi. Lớp da dưới ghế vỡ tung tóe. Hai chân tôi tê tê vì những mảnh vỡ bắn vào. Một viên đạn vô tình đi thẳng vào phía dưới mặt ghế tôi ngồi, nhưng không xuyên thủng được lớp thép chống đạn của nó.
                  "Khói bắt đầu bốc ra từ máy phát điện chính dưới cánh quạt . Mùi khét của các giây điện cháy xông lên mũi tôi. Tôi mở to mắt nhìn dãy phi cụ trên dash board. Kim đồng hồ cao độ xoay vùn vụt. Kim RPM rơi. Kim của máy phát điện rơi. Đèn đỏ trên bản Warning sáng lên và chớp từ nhiều chỗ. Không có thời gian để nhận định tình trạng con tàu. Phải làm sao để thoát chết. Tôi chụp vội cần lái. Phải giúp anh Thắng. Đẩy nhẹ cần lái về bên phải, tôi nói trấn an:
                  "–Anh Thắng bình tĩnh. Anh thấy trái khói màu vàng bên dưới chưa? Quân bạn ở hướng đó.
                  "–Du, tắt xăng, tắt điện .
                  "Tôi giơ tay lên trần phi cơ tắt hai công tắc xăng và điện. Chiếc tàu lao xuống theo hình xoắn ốc cành lúc càng nhanh. Ở 100 bộ, đám khói màu vàng đang ở về phía trước mặt. Tôi phụ Thắng kéo cần lái về phía sau. Con tàu nhếch mũi, giảm tốc độ, trườn qua lớp hàng rào kẽm gai rồi ném mình xuống sân cát bên ngoài hàng rào căn cứ. Tiếng đạn từ trong bắn ra lẫn ngoài bắn vào hỗn loạn, ầm ĩ. Tôi giật mạnh chiếc nón bay đang đội, mở tung seat belt, phóng người ra theo anh em chạy qua bờ rào đất vào đồn.
                  "Vào được căn hầm của bộ chỉ huy, tôi thở phào nhẹ nhõm. Vị thiếu tá tiểu đoàn trưởng, mà tôi không nhớ tên, cùng chúng tôi bắt tay và vồn vã hỏi thăm nhau. Căn hầm ồn ào tiếng liên lạc gọi nhau của các đơn vị đang tử thủ ở bên ngoài căn cứ. Qua cơn sinh tử rồi mà tôi vẫn chưa hoàn hồn. Tôi chỉ ghi nhận được rằng mới đây tôi ở 3000 bộ, và bây giờ tôi ở trong căn hầm này.
                  "Tôi gọi y tá săn sóc cho người xạ thủ bị thương của tôi. Máu đẫm ướt bờ vai của anh. Tôi xé áo anh ra. Máu thấm vào tay tôi. Tôi nhìn thấy lỗ đạn xuyên qua bả vai anh sang phía bên kia.
                  "–Em đau quá anh Du.
                  "–Cậu yên chí đi. Vết đạn chỉ đi qua phần thịt, chưa vào xương. Cậu may mắn lắm đó.
                  "Tôi nói dứt câu, anh Thắng nhìn tôi rồi lắc đầu. Như trong một cơn say, bây giờ tôi vẫn chưa phân biệt được những gì vừa xẩy ra là thực hay mơ. Trong cuộc đời người lính chiến đấu, người ta vẫn thường có những hoàn cảnh giống nhau. Sống và chết chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc. Máy bay chúng tôi đó, bây giờ chỉ là một con vật nằm bất động ngoài kia. Con chim sắt đã trúng đạn kẻ thù. Thân thể nó bị xâu xé bằng không biết bao nhiêu viên đạn xuyên qua, anh xạ thủ đồng đội bị thương, tắt máy trên lưng chừng trời để tránh cho tàu khỏi bốc hỏa, đáp khẩn cấp. Bao tai họa cùng một lúc xẩy ra, thế mà con tàu gặp nạn vẫn đến được cái điểm phải đến để cứu rỗi mấy mạng sống của anh em tôi.
                  "Chúng tôi không dám tự hào về những gì chúng tôi đã làm trên đoạn đường tìm sự sống ấy, mà chúng tôi chỉ muốn được thầm cảm ơn thượng đế đã giúp sức cho anh em chúng tôi qua cơn hoạn nạn. Chúng tôi đã có thể chết cháy giữa trời. Chúng tôi đã có thể rơi vào tay giặc cách đó không đầy gang tấc. Con tàu đã có thể rơi ngửa bụng trên đống kẽm gai. Con tàu có thể đã không lê lết nổi chặng đường cuối cùng để rớt ngay giữa con kinh nước đục. Trong số đó, hoàn cảnh nào cũng chết. Cái khối sắt không còn ngoan ngoãn điều khiển được đó chỉ có một chỗ đáp là bãi cỏ êm đềm mà nó đã đáp thì chúng tôi mới sống.
                  "Trong những ý tưởng miên man đó, tôi bước qua căn hầm bên cạnh. Mùi máu, mùi thịt thối rữa tanh hôi từ những vết thương loang lở bốc lên ngộp thở từ những anh thương binh nằm sán sát bên nhau. Có tiếng rên rỉ của vài anh đang cầm cự với sự đau đớn trong cơn mê man. Một nỗi thương cảm tràn ngập trong tôi. Có mấy ai hiểu được niềm hy sinh quá lớn lao của những người lính cầm súng chiến đấu ngoài trận tuyến nếu không nhìn thấy họ trong những hoàn cảnh ngặt nghèo như thế?
                  "Tôi trở lại căn hầm chỉ huy. Anh Thắng vẫn ngồi đó với vị tiểu đoàn trưởng. Họ đang liên lạc báo cáo về tiểu khu cũng như Sư Đoàn 4 Không Quân về tình trạng tai nạn của chúng tôi.
                  "5 giờ chiều.
                  "Bên ngoài trời đã lấm lem tối. Từ chiếc máy FM tôi nghe:
                  "–Thần Điểu, đây Alpha .
                  "–Alpha, đây Thần Điểu.
                  "–Thần Điểu sửa soạn. Alpha trên đường pickup Thần Điểu khoảng 10 phút.
                  "Tôi lắc mạnh tay anh Thắng. Tôi xốc anh xạ thủ bị thương ngồi dậy, và nghe tiếng Alpha liên lạc với đơn vị bạn:
                  "–Toàn Niên cho Alpha trái khói.
                  "–Nghe 5 trên 5 Alpha. Khói đỏ hướng Nam.
                  "Chúng tôi bước ra sân khi nghe tiếng đều đều của cánh quạt từ xa. Ở cao độ 3000 bộ, hai chiếc trực thăng võ trang đang tiến lại gần. Chiếc C&C ở phía cao hơn đang đánh vòng ở hướng Đông. Tôi vừa mừng vừa lo. Tiếng động cơ càng lúc càng gần. Tiếng súng lại bắt đầu rộn rã nổ. Không biết chuyện gì sẽ xẩy ra cho chúng tôi đây.

                  "Đúng ra chúng nó không nên đùa với hỏa điểu của anh em tôi. Tiếng rocket nổ lồng lộn vào những mục tiêu quanh căn cứ lẫn với tiếng gào thét của 4 khẩu miniguns trên hai trực thăng võ trang đang bay quanh trên mục tiêu để cover cho chiếc rescue đang tiến vào bãi để bốc chúng tôi. Tiếng cánh quạt ào ào bên bờ đất cuốn bụi bay mù mịt. Tôi la lớn:
                  "–Let's go! Let's go!
                  "Bốn anh em chúng tôi lao ra khỏi bờ đất phóng về chiếc rescue còn hover chưa chạm đất. Tôi là người vào tàu sau cùng. Con tàu quay đầu, cắm sát mũi xuống lấy tốc độ rồi nhào lên cao. Tiếng súng nổ rộn rã trên đường trở ra, nhưng trong khoảnh khắc con tàu đã ở cao độ 1000. Tôi ngoái đầu nhìn lại. Căn cứ mờ dần sau cánh rừng chàm ngập nước. Tôi ngả người dựa lưng vào thành tàu. Tôi ngoắt tay chào pilot và co-pilot khi hai anh quay lại nhìn tôi. Sau này tôi biết pilot là Trung Úy Công và co-pilot là Trung Úy Toàn. Hai anh ở phi đội tải thương cùng căn cứ thuộc Không Đoàn 64 Chiến Thuật với tôi .
                  "Về đến căn cứ Cần Thơ thì trời đã tối. Khi đến phòng hành quân phi đoàn thì mọi người đang quây quần ở đó để đón anh em chúng tôi. Chúng tôi đi theo trung tá phi đoàn trưởng về câu lạc bộ phi đoàn. Đêm đó chúng tôi nhậu say bí tỷ.
                  "Sáng hôm sau khi trở lại phòng hành quân phi đoàn, tôi đã nhận được tin tức từ phòng hành quân chiến cuộc của sư đoàn báo rằng ngay vào nửa đêm hôm trước bọn Việt Cộng đã tràn ngập căn cứ của tiểu đoàn bộ binh ở Kinh 9 Hiếu Lễ. Bộ chỉ huy tiểu đoàn đã phá hủy hai khẩu 105 ly bằng cách cho nổ lựu đạn trong lòng súng rồi mở đường máu về hướng Bắc đi dọc theo kinh lớn về Rạch Giá. Quân số còn lại vài chục người. Những thương binh đã chết hết vì bị Việt Cộng ném Beta vào hầm. Xác chiếc trực thăng của chúng tôi để lại bị chúng đốt.

                  "Một tuần sau tôi có dịp bay qua Kinh 9. Xác con tàu cũ của tôi cháy nám vàng như con cua lột nằm lật nghiêng xác xơ cạnh một tiền đồn hoang vắng. Không biết bây giờ mấy chục linh hồn chết tức tưởi của những anh em tôi gặp ngày đó đã siêu thoát hay chưa. Riêng tôi, tôi xin nhắc nhớ đến các anh để thành kính vinh danh. Các anh là anh hùng vị quốc vong thân không cần tên tuổi."
                  Trong những tháng cuối cùng, Đinh Sỹ Hưng đã tham gia nhiều phi vụ đáng ghi nhớ. Điển hình là một chuyến bay đêm, nhưng chuyến bay đó không thơ mộng như trong bài hát. Trên đỉnh núi Bà Đen ở Tây Ninh có một đài truyền tin mà tất cả các quân chủng của phe ta đều xử dụng. Gần đó là một đơn vị địa phương quân đóng để giữ đài. Đơn vị này đã bị địch quân vây bọc khắp chung quanh, tình hình hết sức khẩn trương.

                  Đêm hôm đó, tàu của Hưng là một trong hơn hai mươi chiếc trực thăng cùng bay ở nhiều cao độ khác nhau. Mục đích của phi vụ đêm đó là để tiếp tế cho đơn vị địa phương quân vừa kể. Nhiệm vụ mới nghe qua thì thật là đơn giản. Trên vài chiếc tàu đã có sắp sẵn hai kiện hàng đặt trên hai đường rầy hướng ra phía cửa. Khi gần tới thì đơn vị bạn sẽ soi sáng điểm thả hàng bằng một mũi tên lửa, và chỉ cần đẩy được một kiện hàng trúng mục tiêu là mỗi người sẽ được thưởng ngay 100 ngàn cùng 10 ngày phép, và rồi thì cả phi hành đoàn sẽ được thăng cấp.

                  Đoàn tàu tắt hết đèn đuốc cùng nhắm hướng mục tiêu bay tới. Dù là trời đêm rất tối, tiếng cánh quạt của trực thăng thì khó mà làm cho êm được, nhất là khi đi cả một đoàn như vậy. Bay chưa tới được gần núi thì bên dưới đạn đỏ đã bay lên như mưa thành một màng lưới dày đặc không thể nào bay lọt qua được. Dù là những chiếc gun ships đều có mang hai chiếc miniguns sáu nòng có khả năng bắn 2, 4, hoặc 6 ngàn viên trong một phút, nhưng mang rải những viên đạn đó xuống một vùng rừng núi bao la bên dưới thì có khác gì mang muối bỏ biển. Sau một lúc suy nghĩ và cố gắng, tất cả các phi hành đoàn đều đồng ý là không có cách gì hoàn tất phi vụ được. Thế là tất cả đành phải bay về.

                  Trong số những phi công bay trực thăng có Vũ Đức Trọng. Ngày mới lớn có lần ra tiền đồn thăm ông anh nhằm ngay hôm có ca sĩ Phương Dung đến hát những bài ủy lạo chiến sĩ, như bài Chiều Hành Quân:
                  Một chiều hành quân qua thôn xưa
                  Lúc nắng xuân chưa nhạt mầu
                  Chạnh lòng tìm người em gái cũ:
                  Em tôi đã đi phương nào?
                  Nhìn những người lính cộng hòa, Trọng nhà ta đã hết sức khâm phục và thầm mơ ngày vào quân đội. Sau thời gian ở quân trường và đi bay hành quân, Trọng thất vọng với thời thế và đã tự xưng là Phi Công Do Thái.

                  Trọng là một trong những thằng bay trực thăng ở Vùng IV. Thời ở Nha Trang còn ngây thơ thằng nào cũng tưởng về vùng sông nước hiền hòa đó thì thọ, thật là bé cái lầm. Tôi còn nhớ đã được nghe một cô gái Vùng IV trắng trẻo mượt mà nói cho nghe rằng nếu muốn nhớ địa danh miền Tây thuộc đồng bằng sông Cửu Long thì chỉ cần nhớ bốn chữ Giang. Tiền Giang thì có Mỹ Tho, Hậu Giang thì có Cần Thơ, Kiên Giang thì có Rạch Giá, và An Giang thì có Châu Đốc. Miền đất hiền hòa đó có biết đâu là nằm trong đường chuyển vận đường biển qua ngã Căm Bu Chia của Việt Cộng, và không có thiếu thứ gì kể cả xe tăng đại bác phòng không cao xạ.

                  Có những chuyện của 72A mới nghe kể thì có vẻ rất sôi nổi hùng hồn, nhưng khi nghe xong chuyện thì thật ra không có biến cố gì cả. Một thí dụ là chuyện tình của Ủ Văn Anh Dũng. Hắn đã từng yêu tha thiết nhiều lần, tỷ dụ như hồi hắn mới học lớp tám đã yêu đắm đuối một chị lớp chín mà không dám nói, hoặc như hồi học bay và ra hành quân ở Sư Đoàn III đã yêu thiết tha một cô em bán câu lạc bộ, nhưng rồi không dám tỏ tình. Chả có chuyện nào đi đến đâu và cũng không có biến cố gây cấn chi cho mấy. Tương tự như loại chuyện đó là chuyện bay bổng của Hứa Văn Bảo theo chính lời đương sự kể:
                  “Tao là Hứa Văn Bảo số quân 73-606-504, sau khi mãn khóa 1 Trực Thăng đã phục vụ tại Phi Đoàn 251 Biên Hòa đến cuối 74 thì ‘được’ thuyên chuyển sang Phi Đoàn 245. Hai sự việc xuýt bỏ mạng đã xẩy ra cho tao tại hai phi đoàn này.
                  “Sự việc tại Phi Đoàn 251 là cái dại để đời. Tao đã phạm điều tối kỵ của dân phi hành là bay thế. Câu chuyện như sau: Một buổi sáng tươi mùa hè 74, Ninh Đầu Bò tức là Phùng Văn Ninh 72A túc trực 1, và tao túc trực 3. Đúng ra là tao dzọt, vì túc trực 3 như tụi mày đã biết là hầu như không bao giờ bị điều động cả, nhưng không biết vì lý do gì làm tao hơi oải người vào ngày hôm đó nên làm biếng chưa thăng. Ninh Đầu Bò thấy tao còn chàng ràng tự dưng nổi chứng muốn về Sàigòn du hí và nhờ tao thế. Tao lên tiếng phản đối rầm rĩ, và cảnh cáo rùm beng là đéo chịu thế dù nó có bị điều động thì ráng chịu. Dĩ nhiên là nó biết tính tao xuề xòa dễ dãi ưa cằn nhằn nhưng rất điệu với anh em... nên nó cứ coi lời tao nói như củ khoai lang và tỉnh bơ xách xe đi thẳng. Quả nhiên tao đoán không sai, khoảng 10 giờ sáng thì phi tuần nó bị điều động, và tao đã ra tay nghĩa hiệp, một phần cũng vì tưởng rằng đó chỉ là một phi vụ liên lạc kỹ thuật mà thôi, đến khi xách nón hỏi phi vụ gì thì chỉ nhận được một câu trả lời cộc lốc là 'cất cánh rồi nhận lệnh!' Lúc đó nói thiệt là tao đã thấy hơi nhột, nhưng đã lỡ rồi không biết trả lời sao. Sau khi một C&C và hai gunships cất cánh thì mới biết là phải bay vào Lộc Ninh để rescue một phi hành đoàn C-47 của Miên bay lạc bị bắn rớt nhưng chưa chết. Khi nghe lệnh xong tất cả phi hành đoàn đều tắt tiếng, còn tao thì trong bụng chửi thầm tổ sư cha cái con bà nhà nó..., và nghĩ không lẽ lại đúng như câu của lính Không Quân thường nói là 'không bao giờ tình nguyện bay thế cho ai, kể cả ông già dzợ.' Sau khi đáp tại Bình Dương nhận briefing với Sư Đoàn 5 Bộ Binh về phòng không và chờ nhận chỉ thị thì 12 người trong phi hành đoàn chả ai buồn nói tiếng nào. Có thằng mặt xanh lè vì biết phi vụ này chắc chắn là đi vào cửa tử, chỉ còn biết chửi đám phi hành Miên sao ngu quá đi đâu không đi lại nhè Lộc Ninh là chỗ chết mà đâm cha cái đầu nó vào, chẳng thà như ngày xưa có thằng bị chửi như thế này mà không tức:
                  “Em leo lên núi hái chè,
                  “Gặp thằng phải gió nó đè em ra.
                  “Em van nó cũng chẳng tha,
                  “Lẳng lặng nó nhét đầu cha nó vào.
                  “Tao đang bồn chồn vì rét thì bỗng thằng Đinh Đông Định từ đâu đi tới . Nó liếc nhìn sơ tao và hỏi sao mà mặt mày tao tái mét, hay là có cảm mạo thương hàn gì để nó cạo gió dùm cho. Sau khi nghe tao kể lể sự tình hồi lâu thì nó tỏ ra hết sức thông cảm nhưng không giúp gì cho tao được phương kế gì hay ho để gỡ rối tơ lòng cho tao cả. Bí kế quá tao đành hỏi nó là nghĩ sao nếu tao xách nón ra quá giang xe đò về, để cho thằng Ninh ra tòa án quân sự cho bõ ghét, còn hơn là tao phải gởi lại cái mạng còn son trẻ giữa chốn nơi rừng rú hoang vu? Nghe tới đây thì thằng Định có vẻ hơi hốt hoảng, chắc vì sợ bị đổ thừa là xúi tao làm bậy, nên vội vã ra tàu cất cánh bay đi mất, để lại tao giữa bãi đậu tàu trơ trọi một mình. Khoảng nửa giờ sau thì một chiếc xe Jeep từ đâu chở ông sĩ quan liên lạc lù lù chạy đến. Tao đã tính tránh mặt, nhưng không còn kịp nữa, nên đành phải đứng lại nghe xem còn chuyện gì xui xẻo nữa sẽ xẩy ra. Không ngờ thế mà lại là tin vui, bởi ông ta cho hay phi vụ đã bị hủy bỏ vì nguy hiểm quá! Tao thở phào nhẹ nhõm như vừa trút xong gánh nặng ngàn cân. Phi tuần trưởng vội vàng ra lệnh cất cánh gấp và không mở radio để khỏi bị điều động đi điều động lại lôi thôi, vì lý do chính là ‘chúng tôi muốn sống!’ Khi về tới không phận Biên Hòa tụi tao mới mở máy vô tuyến lại và về đáp thiệt êm thắm nhẹ nhàng.

                  “Về đến phi đoàn, lòng tao hầm hầm chỉ chờ thằng Ninh lên để dzần cho một trận nên thân nên nết cho chừa. Mãi đến gần chiều mới thấy nó lò mò lên, tao liền nhào ra chửi cho đã miệng. Hắn đúng là thằng không biết xấu, cứ ngoác miệng ra cười. Cái dã man là nó về Sàigòn chả có đếch gì quan trọng cả, chỉ ‘hang around’ Gò Vấp, tụi mày nghĩ có tức không? Có ghiền quá thì dzọt mẹ nó ra Dốc Sỏi làm đại cha nó một cái đỡ đi. Đồng ý là ở đó thì đồ hơi cũ, nhưng chẳng thà như vậy còn hơn cứ kiểu này thì có ngày thằng nhỏ hại thằng lớn thôi con ạ!”
                  Đó là kết thúc câu chuyện thứ nhất của Hứa Văn Bảo. Tiếp theo đây là câu chuyện thứ hai.

                  “Tao đã kể xong cái dại tự nguyện bay thế xuýt bỏ mạng . Bây giờ đến phi vụ của chính tao. Vào khoảng giữa tháng tư 75, tao bị bắn bởi 37 ly phòng không khi phục vụ tại Phi Đoàn 245. Phi vụ là đi bảo vệ và yểm trợ cho Tiểu Khu Long Thành với một C&C, cùng hai gunships. Trên đường đi cũng như lúc tới target thì không có chi đáng nói. Đi đâu chứ Long Thành thì quen thuộc quá chẳng khác gì lòng bàn tay. Trong khi hai chiếc gunships lẽo đẽo theo sau tao vòng quanh quận lỵ ở 2500 feet và 90 knots, tao vừa nghe nhạc giải sầu và thò đầu ra cửa sổ ngó quanh ngó quẩn, vì không có chuyện gì làm, thì tao thấy bên phải con quốc lộ đầy những Thủy Quân Lục Chiến di tản từ Đà Nẵng về đóng . Đang enjoy thoải mái thì thình lình nghe nổ hai phát khá lớn mà tao biết chắc rằng không phải 12 ly 7, vì tao đã hưởng qua một lần 12 ly 7 tại Bắc Tân Uyên, tao bèn ngơ ngác thụt đầu vô và nhìn thấy phía trước mặt có hai cụm khói nổ. Trưởng phi cơ vội vàng chụp cần và nói ‘Tao bay!’ Ông ta kéo mũi tàu lên và quẹo phải để rời vùng. Ôi thôi lúc đó đang bay 90 knots mà tao cảm thấy như đang hovering vậy. Chưa quẹo xong thì mấy em Vẹm lại phụt thêm hai phát nữa, và lần này tao mới biết sợ là gì. Xương sống tao lạnh toát mồ hôi khi hai phát đó lướt qua tàu và nổ phía dưới cách trim bubble không xa cho lắm. Cũng may mà không trúng tàu chứ không thì đíu có mồ để mà xanh cỏ. Khi đã dzọt ra khỏi hot zone, hai thằng gunships hỏi thăm tới tấp, nhưng khi đáp xuống Tiểu Khu Long Thành coi lại tàu thì không bị tổn thương gì. Hai thằng gunships nóng mũi chửi thề “Đ. M., nó coi thường mình quá phải dằn mặt nó chút xíu.” Sau khi bàn tán với nhau, tất cả đều đồng ý sẽ ăn thua đủ. Thật sự lúc đó tao cũng hơi rét, nhưng vì bên kia quốc lộ là quân bạn, cùng lắm trúng đạn thì ráng lết chút xíu là OK.

                  “Ba chiếc tàu lần lượt cất cánh và căn dặn nhau rằng C&C sẽ giữ cao độ 5000 trong khi hai gunships thì 3000. Trớ trêu thay, mình chưa kịp vô thăm thì Vẹm đã ra giữa đường đất đỏ tay cầm AK ngoắt mình vào. Hai chiếc guns đang đổi hướng sắp bay vào nhưng chưa làm gì được vì còn ngoài tầm oanh kích của minigun và rocket thì 12 ly 7 đã gáy lên vài phát làm cả đám phải bay ngược về bên này quốc lộ. Trong lòng ấm ức, phi hành đoàn chửi thề um xùm và liên lạc về quân đoàn xin pháo binh từ Long Bình xịt lên vài quả nhưng bị từ chối vì ngoài tầm bắn. Nghĩ có tức không chứ, đạn 175 ly chỉ từ Long Bình mà bắn không tới Long Thành là nghĩa lý gì, hay là bán mẹ nó hết đạn hoặc thông đồng với địch? Có lẽ là đúng thế vì chỉ vỏn vẹn vài tuần sau đó là mất nước. Sau khi pháo binh khước từ, tụi tao liên lạc xin được khu trục. Nửa giờ sau thì một em Lan 19 xuất hiện, không biết có phải Django hay cụ nào của khóa 42. Sau khi nghe rõ là có 37 ly, bà già L-19 vội lên cao độ có vẻ như muốn ‘đằng vân’ luôn vậy. Vài phút sau thì hai chiếc A-37 đến, nhưng sau khi nghe có 37 ly thì họ lên trên 10 ngàn bộ cỡi mây lượn quanh vài vòng rồi lấy cớ mây thấp và có 37 ly nên đề nghị xin F-5 rồi rời vùng. Lúc đó thì trời đã gần xế chiều, nếu có xin F-5 thì cũng chưa chắc được nên đành liên lạc với Long Thành thông báo bay về. Có lẽ vì sắp mất nước nên không ai còn hăng đánh đấm gì nữa.”
                  Để trả lời Hứa Văn Bảo, tao xin xác nhận rằng thường thì tao bay 3000 bộ trên mục tiêu để bắn trái khói, nhưng vào đoạn cuối ít khi nào bay dưới 6000. Tao hỏi mày chứ với một chiếc tàu 150 mã lực mà bên Mỹ lúc đó dùng để xịt thuốc rầy, nếu bị xịt thì tao dzọt đi đâu để tránh? Bởi vậy khi khu trục gần lên thì tao phải đi ra xa xa, chứ ở gần nó ngứa mắt xịt cho vài quả thúi um thì biết mần răng?
                  Bây giờ tới phiên Nguyễn Văn Bực nói về đời bay bổng của chàng.

                  "'Về đây anh ơi, ta nối lại tình xưa... '
                  " Ngày năm thằng Khóa 1 HTTT ở Biên Hòa ra trình diện đơn vị Phi Đoàn 215 Thần Tượng, Sư Đoàn 2 Nha Trang, tớ coi như là bắt đầu một cuộc đời mới. Tụi tớ gồm có Đỗ Văn Ban, Nguyễn Văn Hóa, Võ Kim Phi, Phạm Duy Sơn, và Nguyễn Văn Bực, tức là chính cái bản thân nhà tớ. Vì nhu cầu chiến trường đòi hỏi, trong một thời gian rất ngắn Tớ và Hóa đã được checked out hành quân với danh hiệu Copilot Tháp Tùng Tử mà Thiếu Úy Nguyễn Đình Hòe đã đặt cho.

                  "Phù hiệu của Phi Đoàn 215 có hình con voi hát xiệc đứng trên trái banh nửa đỏ nửa trắng, đầu voi đội chiếc nón trông cũng vui mắt. Phi Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Khưu Văn Phát dáng oai phong nhưng lại rất hiền, nói cười nhỏ nhẹ làm cho ai cũng mến. Ngược lại, Trưởng Phòng Hành Quân là Thiếu Tá Tường đô con trắng trẻo đẹp trai nhưng ai cũng ngán.
                  "Bởi vì tớ thường hay bay chung với Hóa như HO 1 và HO 2 nên hai thằng thường chuyện trò tâm sự nhiều hơn nhng anh em khác. Ở Vùng 2, hai đứa tớ đi đâu cũng đều như bóng với hình.
                  "Vùng hoạt động của bọn tớ khá rộng rãi. Ngoài Nha Trang biển rộng bao la thùy dương cát trắng và rừng Ban Mê Thuột dày đặc ra còn có Cam Ranh, Đà Lạt, Đơn Dương, Bảo Lộc, Đắc Tô, Quảng Nghĩa, Quảng Đức, Pleiku, Kontum, Ninh Hòa, Phú Yên, Qui Nhơn, Phù Cát, Mộ Đức, Tam Quan, Bồng Sơn. Ôi, những địa danh quen thuộc mà dấu chân Thần Tượng của tớ đã ghé qua.

                  "Sau khi được checked out ra hành quân, một hoa tiêu trực thăng phải có vài kỷ niệm khó quên mới thấm thía chữ 'tháp tùng tử', có bay mà không được cầm cần bay. Có vào vùng đối diện hiểm nguy mới thấy sự sống là quý, và mới bắt đầu biết thế nào là lạnh cẳng. Trong thời gian dài làm copilot, tớ có nhiệm vụ là chụp cần bay nếu trưởng phi cơ có bị trúng gió và cứ theo lời thầy dặn dò để quay 180 độ trở về là ăn chắc.

                  "Vào một ngày kia tự dưng tớ thấy trong lòng buồn buồn làm sao. Đang ở Ban Mê Thuột thì được lệnh đi Phù Cát yểm trợ cho Sư Đoàn 22 đổ toán ở một nơi có địa danh rất hay là Phù Mỹ. Trung Úy Thiện và tớ đi chiếc số 2 vào Đập Đá thuộc Qui Nhơn. Sau khi chiếc số 1 đổ toán xong bay lên thì chiếc tớ bay vào. Đang trên đường cận tiến thì tàu của tớ bị Ve Chai nằm sẵn ở dưới bắn lên như mưa.
                  "Dù tàu tớ bị trúng đạn nhưng Trung Úy Thiện vẫn bình tĩnh đổ xong được 7 tên. Trong khi tên còn lại chưa kịp nhẩy ra thì tớ khám phá ra rằng hệ thống thủy điều của tàu đã hết hoạt động. Cùng lúc đó thì Trung Úy Vinh (ở đâu????) la lên rằng 'Hai ơi hai, sau đuôi máy của bạn có khói.' Lập tức Trung Úy Thiện bảo tôi: 'Anh để cần collective xuống phụ dùm tôi.'

                  "Sau đó là một màn đáp khẩn cấp. Khi chạm đất chiếc trực thăng của tớ đáp chạy dài trên các luống khoai mì gần non cây số. Mùi xăng và khói bốc nồng nặc. Khi tớ nhảy ra khỏi phi cơ còn quay lại đỡ anh xạ thủ đã bị bắn trúng chân xuống. Sau khi phi hành đoàn qua chiếc C&C về căn cứ Phù Cát kiểm điểm lại thì phi hành đoàn vô sự trừ chiếc helmet của Trung Úy Thiện trúng đạn gần đỉnh đầu, và trán ông bị trầy một đường rướm máu.

                  "Sau trận đó tớ được một Phi Dũng Bội Tinh với Cánh Chim Đồng.
                  "Khoảng một tháng sau tớ đi biệt phái Kontum. Trong một lúc xế chiều cùng bay với Trung Úy Danh vừa bốc toán xong Lôi Hổ, tàu đã bị bắn bể skit bên trái. Khi nghe tiếng đạn trúng tàu, Trung Úy Danh liền hụp tàu xuống và bay ngay tầm ngọn cây. Tớ có cảm tưởng rằng tàu sẽ bị crashed, thế mà tàu chỉ giật mạnh một cái. Hú vía!
                  "Khi về Trung Úy Danh nói với tớ rằng ông đã hạ máy bay thấp xuống như thế để đánh lừa Ve Chai cho chúng khỏi bắn nữa. Tớ chỉ nhìn theo đó để rút kinh nghiệm chứ chưa đủ khả năng bay như vậy.
                  "Qua hai lần tàu trúng đạn đó, tớ rất lo sợ cho cái nghiệp bay bổng. Từ đó về sau trong những chuyến hành quân tớ đều có cảm tưởng rằng có đi mà chẳng có về. Ngày đó tớ hay tự nhủ rằng: 'Nếu sống không làm tướng chắc khi ra đi ta sẽ được làm thần. Thần Tượng chưa đủ, mà phải là Ôn Thần để cho mấy thằng Ve Chai bị ôn dịch chết hết để cho mình trở lại thôn xưa thăm em xóm cũ.' Các anh em có đồng ý với tớ không?

                  "Đời bay bổng của tớ là như thế. Nghĩ ngợi thêm cho nhiều cũng vậy thôi. Cày cho lắm tắm cũng chẳng có quần thay. Chúng ta đã hy sinh cho ai và phục vụ cho ai nhiều khi tớ cũng không biết nữa."
                  Nối tiếp chuyện Nghiêm Xuân Mạnh, ngay sau khi đã ra trường đi bay rồi mà một hôm về Sàigòn hắn còn dẫn một đám con nít cùng xóm bơi qua sông Thị Nghè ăn cắp dừa của mấy ông Frère đóng bè bơi về bị Nhân Dân Tự Vệ bắt. Khi Vũ Đức Trọng mặc đồ bay đến lãnh chàng về, anh Trung Sĩ trưởng toán Nhân Dân Tự Vệ đã hết lời xin lỗi bắt lầm Thiếu Úy Mạnh bởi vì trên mình Thiếu Úy chỉ trần xì có một chiếc quần xà loỏng làm cho anh ta khó nhận ra là cấp bậc sĩ quan...

                  Khi ra Phi Đoàn 227 Cần Thơ, một hôm tới giờ bay ra tầu không thấy trưởng phi cơ đâu, Mạnh đã một mình cất cánh đúng giờ, nhưng khi lên trời rồi thì không biết đi đâu cho nên Mạnh đã mang phi cơ ra đầu phi đạo làm lá rơi chơi, báo hại suốt hơn một giờ đồng hồ không có phi cơ nào cất cánh hoặc hạ cánh được cả. Ngày hôm đó những người hiện diện được một phen mãn nhãn. Bởi khi còn bé đã từng nhiều lần mình trần thân trụi ở trên ngọn dừa nhìn xuống thế gian không chóng mặt cho nên Mạnh cắt ga cho phi cơ rớt rất ung dung. Sau một tiếng đồng hồ huy hoàng đó, Mạnh đã bị đì phải khăn gói sang Hồng Điểu.

                  Trên trời thì Mạnh bay giỏi như thế, nhưng dưới đất lái xe thì khác. Theo lời kể của Võ Thanh Hà, khi Mạnh đang phục vụ tại Phi Đoàn 211, một hôm chàng đi bay về qua phi đoàn thì thấy có chiếc xe pickup xanh của ông phi đoàn trưởng Lâm Đen đậu ở đó. Chàng tuyên bố: "Ông không biết bay nhưng biết lái xe." Sau đó chàng mở máy sang số thế nào mà xe chạy tới đâm ngay vào văn phòng của ông phi đoàn trưởng bể hết một mảng tường.

                  Bây giờ tới phần của dân bay khu trục. Trong 14 Con Ma, Trần Văn Phiêm và Tuấn Babilac là hai thằng đầu tiên của khóa 72A được gởi đi học T-41 và T-37. Ngày mãn khóa, Phiêm được cơ hội đi học huấn luyện viên T-37 nhưng từ chối vì ham hình ảnh của một phi công tác chiến, một quyết định mà nếu chỉ tính về phần lợi hại thì có lẽ là hơi dại dột. Hai thằng về Tân Sơn Nhất vào tháng 12/73 học giai đoạn 2 quân sự trong 2 tuần rồi Phiêm đã được lựa đơn vị và đã chọn về Cần Thơ, coi như thêm một lỗi lầm nữa. Phần Tuấn thì ra Đà Nẵng.

                  Phiêm về phi đoàn 526 hồi tháng 2/74 để thực tập hành quân. Khi ra hành quân rồi, chàng đã trải qua hai tai nạn crash landing nhưng may mắn đều tai qua nạn khỏi. Lần đầu tiên là đi hành quân ngồi ghế phải với một ông Trung Úy Đà Lạt. Sau phi vụ về đáp gặp mưa, thế mà vừa chạm bánh là ông Trung Úy vội thắng liền nên bánh bị lock up và phi cơ quay 180 độ văng ra và ngừng trên bãi cỏ giữa phi đạo và taxi way. Tai nạn xảy ra quá lẹ, đến khi Phiêm lấy lại bình tĩnh thì chiếc A-37 đã tắt máy tự lúc nào.

                  Lần đáp khẩn cấp thứ hai của Phiêm là trong phi vụ huấn luyện hành quân. Phiêm ngồi ghế trái, và Thiếu Tá Phi Đoàn Phó ngồi ghế phải. Khi về đến phi trường và quẹo vào cận tiến thì bánh đáp không bung ra. Sau khi bay lên lại và làm đủ mọi cách mà không kết quả, họ đành phải đáp bụng không có foam trên phi đạo. Lúc phi cơ bắt đầu chạm đất cạ rầm rầm trên xi măng thì là một cảm giác rùng rợn vì thân chiếc A-37 rất thấp, và khoảng cách giữa cockpit và bụng phi cơ không có bao nhiêu, chừng một hai tấc là cùng. Thế mà bà hú cú kêu làm sao mà sau đó hai người leo ra bước đi tỉnh bơ không trầy một vết!

                  Nhắc lại chuyện xưa, Nguyễn Hữu Thiện Tuấn đã sống lại trong một lúc suốt một quãng đời đó và đã viết lại một hồi ký không dừng một phút nào. Để tôn trọng văn mạch của nguyên tác, hãy ghi lại đây nguyên văn phần đầu bài viết của Tuấn .
                  “Sau đây là mẩu hồi ký tôi muốn viết để đóng góp tưởng nhớ những cựu chiến hữu và các bạn đồng khóa 72A mong làm một đóng góp nhỏ cho cuốn sách lưu niệm của khóa. Tôi đặt cho mẩu hồi ký này cái tựa là Ba Năm Lính Ba Năm Tù. Những gì kể lại có thể không hoàn toàn chính xác vì thời gian tính và trí nhớ giới hạn; người viết xin nhận và cảm ơn mọi sửa đổi cho đúng sự thật nếu có.
                  Bảy Hai Kẻ Sĩ tòng quân,
                  Đáp lời Tổ Quốc, tinh thần hiên ngang.
                  Ba trăm sáu tiếng rền vang,
                  Mộng Mây Ngàn giữa Không Gian đáp đền.

                  “Bắt đầu phần ba năm lính, cũng như các anh em SVSQ 72A khác, tôi vừa rời mái trường thân yêu , bỏ lại sau lưng những mộng ước riêng tư đầu đời để tình nguyện gia nhập binh chủng Không Quân vào tháng 8/72 với trận chiến mùa Hè đỏ lửa đang còn nóng bỏng. Trong mấy tuần huấn nhục, tôi với Trần Chung Thanh đã là hai thằng 72A đầu tiên bị nhốt conex. Có tối hai tên cùng mở khóa trốn lên câu lạc bộ cô Thương trong khi toàn khóa đi tập lễ gắn alpha; đang ngồi uống nước khuây khỏa thì bị Bố Già Chuẩn Úy đáng mến bắt gặp đem về chuồng gia tăng nhốt tiếp. Trong khi cơ bản thao diễn đi còn chưa vững nhịp, tôi và Thanh được gửi về Sài Gòn trong nhóm 14 người để dự khóa huấn luyện phi hành tại Mỹ. Mãn khóa vào tháng 4/74, tôi về trình diện Sư Đoàn 1 Không Quân, Không Đoàn 61 Chiến Thuật tại phi trường Đà Nẵng.

                  “Phi trường Đà Nẵng tọa lạc tại thành phố cùng tên. Biển ở đây đẹp thơ mộng, nếu vào thời bình thì hẳn đây đã là một nơi du lịch đáng kể của Việt Nam. Phi trường được bao quanh bởi bãi biển Tiên Sa và Mỹ Khê ở phía Đông, núi Phước Tường tại phía Tây, cùng thắng cảnh Ngũ Hành Sơn ở phương Nam và đèo Ải Vân cao trên ba nghìn bộ về phương Bắc của bãi biển Nam Ô nổi tiếng bên kia vịnh Đà Nẵng trên đường ra Huế. Đèo Ải Vân, có ngọn núi Mang cao 5125 bộ, hùng vĩ và hiểm trở, những tháng trời xấu mây mù phủ gần nửa ngọn đèo trông rất huyền hoặc. Trước năm 70 lái xe qua đèo rất nguy hiểm, xe cộ chỉ được lưu thông một chiều để tránh tai nạn lao xuống vực. Phi cơ phản lực với vận tốc nhanh lúc đáp cũng phải cẩn thận tối đa, nhất là khi vào vòng đáp hợp đoàn vào những ngày mưa bão mây che mù tịt mất thành phố. Đã có phi công vong mạng mất xác trong vùng đèo này.

                  “Những trận dội bom lên đầu Cộng Sản
                  “Ở Đà Nẵng thì tôi đã biết mùi hỏa tiễn địa không tầm nhiệt SA-7, hỏa tiễn địa địa 122 ly, cùng cao xạ phòng không 12.7 ly, 23 ly, và đại bác phòng không 37 ly trong thời gian huấn luyện phi tuần viên ngay trong những phi vụ hành quân, kể cả khi ngồi ghế phải hoặc ghế trái. Sau khi thực tập thả bom trên đảo Hòn Ong vùng cù lao Chàm ngoài biển phía Đông Nam của phi trường, tôi đã tham dự hành quân. Những trận chiến mà tôi đã tham dự xin được kể lại sau đây không ngoài mục đích ghi lại phần nào những đóng góp anh dũng cho đất nước của các phi công và các chiến hữu của họ trong những binh chủng bạn trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà tôi được biết.

                  “Tại những vùng Thường Đức, Điện Bàn, Quế Sơn, Đức Dục, và Nông Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam, tôi đã tham dự trong nhiều phi vụ. Trong mặt trận Thường Đức ngọn đồi 1062 lúc đầu xanh rì mà sau hơn một tháng chịu bom và pháo đã hóa đen. Trong những trận này đại bác phòng không bắn lên như pháo bông và nổ thành những đám mây nhỏ chung quanh chung quanh đến độ làm cho tàu chòng chành.

                  “Cùng tham dự trận chiến này là một chiến sĩ Nhẩy Dù can trường mà tình cờ sau này thành em rể tôi. Anh chàng cho biết bọn Vẹm dùng chiến thuật biển người và bám sát tuyến của đơn vị anh để mong tránh bom. Vì lý do này, thể theo lời yêu cầu của cấp chỉ huy Nhẩy Dù qua tần số FM, chúng tôi đã dội bom ngang gần sát đơn vị của họ. Đánh bom như vậy phải thật chính xác mới giải tỏa hữu hiệu áp lực của địch.

                  “Để đánh cho chính xác, chúng tôi phải xuống thật thấp khi thả bom. Ở thời điểm này phi cơ ở trong một vị trí rất bất lợi với hỏa tiễn tầm nhiệt, vì để lấy lại cao độ thì phi công phải tống hết ga, và hai động cơ phản lực tỏa nhiệt tối đa. Phi cơ thường phải thả flares để đánh lạc hướng hỏa tiễn. Phi cơ của Đại Úy Quốc của Phi Đoàn 516 bị SA-7 nổ nát phần cánh đuôi và rơi vào spin lúc ở cao độ thấp sau khi mới thả bom. Bởi cao độ là yếu tố cần thiết để lấy lại bình phi an toàn khi bị vào spin, ông đã lọt vào một trường hợp hết sức nguy hiểm gần như phải bó tay. Tuy thế, thay vì nhẩy dù ra, ông đã nhanh nhẹn lấy lại thế bình phi một cách tài tình rồi bay chậm và thấp ra biển rồi về đáp thẳng ở phi trường một cách an toàn. Sau này, khoảng hơn mười năm trước tại Ventura, California, tôi có gặp lại ông tại nhà vị cựu sĩ quan hành quân của Phi Đoàn 528. Lúc đó Đại Úy Quốc đang bay cho một hãng hàng không dân sự của Mỹ.

                  “Tiếp theo đây là kỷ niệm mặt trận Truồi ở phía Tây Đầm Cầu Hai hoặc phía Tây Nam của Phá Tam Giang và Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên. Trong trận đánh này, bọn Vẹm đổ từ Trường Sơn vùng thung lũng Ashau ra với dự tính cắt đứt Quốc lộ số 1 hầu cô lập Cố Đô Huế. Vì trong mùa trời xấu, chúng tôi phải bay từ ngoài biển vào với cao độ thấp dưới mây để có thể thấy mục tiêu. Đã vậy mà mục tiêu lại bị chắn bởi ba quả núi nằm theo thế chân vạc nên riêng việc chọn trục ném bom cũng là một vấn đề nan giải. Tệ hại hơn nữa là trên cả ba đỉnh núi đều có súng phòng không thay nhau bắn tới tấp vào mục tiêu chính là tàu của chúng tôi. Chán nhất là phòng không phục ở hai bên núi cao bắn vòng cầu vào phi cơ làm tôi có cảm giác như bị bắn trực xạ ngang đầu mình. Lúc đó tôi mới biết thế nào là chữ ‘lạnh cẳng’ của dân bay, và mới khâm phục sự bình thản của Thiếu Úy Thắng ngồi bên cạnh. Vì địa thế hiểm trở và địch không chịu bỏ chốt, A-37 đánh bom mãi không thấm nên phải viện thêm AC-130 dội bom xăng vào làm mục tiêu thành bình địa thì địch mới chịu rút lui.

                  “Trong một phi vụ mà tôi tham dự ở vùng Ba Gia, Nghĩa Hành thuộc tỉnh Quảng Ngãi, trời xấu đến độ phải dùng BOBS (Beacon on Bombing Systems), tức là bombing on beacon sounds, mà pháo đài bay B-52 xử dụng. Đây là dùng lối bay hợp đoàn theo hình mũi tên gồm bốn đến tám chiếc hoặc nhiều hơn nữa, bình phi ở cao độ hơn 10 ngàn bộ, mỗi phi cơ mang số lượng bom tối đa ở hai bên cánh và được hướng dẫn bằng những tín hiệu của đài beacon qua headphones. Sau phi vụ này, nhiều phi công đã được Sư Đoàn 2 Bộ Binh thưởng huy chương.

                  “Những phi công Việt Nam Cộng Hòa không thi hành phi vụ lệnh một cách hoàn toàn máy móc. Chúng tôi còn được hướng dẫn bằng lòng nhân đạo và tình hình chiến cuộc. Bởi vậy mà đã hai lần chúng tôi phải đổi nục tiêu dội bom trái với dự tính hành quân. Lần thứ nhất là trong phi vụ chận đường tiến quân của địch trên Quốc Lộ số 1. Bọn Vẹm hèn nhát đã lùa dân chúng di tản từ Tam Kỳ ở phía Nam đi ngược về hướng Bắc của quốc lộ số 1 để dùng dân làm bình phong tiến chiếm hai thành phố Hội An và Đà Nẵng. Vì không thể thả bom vào dân chúng, chúng tôi bay về phía Bắc với dự tính phá sập chiếc cầu nằm trên cùng quốc lộ số 1 và cách xa đoàn người hầu trì hoãn sức tiến của địch. Một tình cờ thích thú cho chúng tôi là bọn Vẹm đã vừa chiếm chiếc cầu đó. Thấy dàn đại bác phòng không và hai chiếc T-54 , chúng tôi như mèo thấy mỡ. Bất chấp đạn bắn như mưa vào mặt, chúng tôi liền xuống thấp và thay nhau rolling hot xơi tái ngay dàn cao xạ cùng hai con cua sắt đang loay hoay tìm đường lẩn trốn và làm hư hại cây cầu.

                  “Trong lần thứ hai chúng tôi phải đổi mục tiêu dội bom là vì địch quân đang ở trong một khu làng mà một phi tuần viên bay cùng phi vụ là Thiếu Úy Bé cho biết rằng đó là quê anh và anh còn bà con ở trong đó. Thay vì đánh thẳng vào mục tiêu, chúng tôi chỉ đánh những chiếc T-54 ở ven làng. Hú vía cho Thiếu Úy Bé–thử tưởng tượng nếu anh không bay phi vụ đó! Chiến tranh trên quê hương mình lắm lúc thật vô tình. Bởi cùng dòng máu cha ông nên chúng tôi lắm lúc phải chùng tay và thận trọng trong từng phi vụ.”

                  Trong khi ở Đà Nẵng Nguyễn Hữu Thiện Tuấn đã tình nguyện và được bay tháp tùng nhiều hơn một hoa tiêu trung bình, Tuấn cũng như các anh em về Cần Thơ như Trần Ngọc Dương, Nguyễn Thiện Nhượng, Lê Hữu Thiện, và Đoàn Anh Thuấn cho tới ngày 30/4 vẫn chưa được tự cầm tàu đi hành quân. Khi được cắt đi bay, các anh em ngồi ghế phải, tức là ghế cho copilot hoặc huấn luyện viên, chứ chưa được ngồi ghế trái của pilot. Vì ở Cần Thơ ít được cắt đi bay, có người đã gọi các anh em này là "pilot kiểng".

                  Hãy tạm ngưng chuyện hành quân ở đây. Chuyện đời bao giờ cũng có những ngoại lệ. Truyện 72A Phi Hành cũng thế, và Trần Lâm là trường hợp đó. Theo lời Lâm kể thì khi vào Không Quân, Lâm thuộc thành phần “lính bò”, nhưng vào năm 74 đã chuyển sang “lính bay”. Lâm đã học trực thăng ở Phi Đoàn 245E, ra Phi Đoàn 235 Pleiku, và sau đó qua 243 Phù Cát. Tuy nhiên, có lẽ vì Lâm mới ra phi đoàn chỉ làm sĩ quan trực chưa phải bay hành quân ride nào cho nên anh em 72A không gặp .

                  Đầu năm 75 tự dưng lại có lệnh cho 72A ra lại Nha Trang học bổ túc giai đoạn hai quân sự. Những thằng phi công đã mấy trăm giờ hành quân mỗi ngày lại vô ngồi bệt trên sàn xi măng của trại Phi Dũng học về chiến thuật và chiến lược. Hôm nào đi học khí tượng ở Trường Phi Hành thì được ngồi ghế để nghe Thiếu Tá Bé giảng về mây đùn, mây đống... Lúc này thì ăn ở tự túc cho nên anh em thuê phòng ở ngoài phố và ăn cơm tháng. Có thằng đi Mỹ về như Nguyễn Hữu Thiện Tuấn có Honda 90 chạy nghênh ngang. Cô em Tuyết ngày xưa làm câu lạc bộ cho Đại Tá Thịnh giờ này vẫn chưa chồng, sau khi bị Trai Đầu Bò cho leo cây. Gặp lại anh em 72A cô mừng lắm như gặp lại nhân tình cũ, nhưng những người tình thơ ngây của năm xưa nay đã giang hồ phiêu bạt lắm rồi, khó lòng mà quay lại bến sông xưa.
                  Last edited by hung45qs; 05-03-2011, 03:59 AM.
                  Hung45HTQS

                  Comment


                  • #10
                    Hạ Màn Một


                    Khi các phi công 72A ở Sư Đoàn 3 trở lại đơn vị từ Nha Trang sau giai đoạn hai quân sự thì các phi đoàn không còn ở Biên Hòa nữa mà đã về hết Tân Sơn Nhất. Mỗi ngày đi hành quân đều thấy C-141 của Mỹ cất cánh đều đặn từ phía bên kia phi trường và những chiếc xe buýt vẫn đưa hành khách vào phi trường đều đặn. Có hôm sau giờ pháo kích anh em lục đục kéo lên lầu ngủ lại thì thấy đám phụ nữ thân nhân của mấy đàn anh còn ngồi bẹp dưới hố cá nhân, thì ra họ sợ quá không dám lên. Với những thằng phi công tối ngủ lại trong căn cứ như chúng tôi thì chuyện pháo kích đã trở thành cơm bữa. Thường là đêm nào có pháo kính là tôi lại thấy mình thức dậy dưới hố cá nhân ở ngoài sân, có nghĩa là sau khi nghe tiếng hỏa tiễn đến tôi đã choàng dậy mở khóa tông cửa phòng chạy ra sân và nhẩy xuống hố cá nhân ngồi an vị xong rồi mới bắt đầu thức giấc. Những phản xạ của con người không ngờ lại có thể giúp cho tôi làm những chuỗi động tác phức tạp bằng một thứ tự rất nhịp nhàng.


                    Ở Đà Nẵng thì Nguyễn Hữu Thiện Tuấn đã nếm mùi pháo tới tấp vào phi trường vào cuối tháng 3, nhưng khó quên đêm 29/3/75 nằm suốt đêm dưới giao thông hào bên cạnh phi đoàn mà đếm không hết pháo của Vẹm. Trong khi đó thì các phi đoàn khu trục bạn di tản gần hết chỉ còn lại đám phi công trẻ háo thắng và gan dạ của phi đoàn Tuấn cùng ông Thiếu Tá Hiển, Phi Đoàn Phó của Phi Đoàn 528. Đã thế số Tuấn còn mạt vận hơn khi về được tới Sàigòn lại bị nhốt ở Quân Vụ Thị Trấn hơn 5 ngày trong khi chờ sự vụ lệnh về Cần Thơ để tái phối trí đơn vị vào cuối tháng tư. Hãy nghe chính lời đương sự kể tiếp trong mục sau với tựa đề “Đà Nẵng Vào Cuối Tháng Ba” trong đoạn Ba Năm Lính.

                    “Trong khi Quân Đoàn I bỏ ngỏ dù rằng có lệnh tử thủ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, sau khi Thủy Quân Lục Chiến đã rút khỏi đèo Ải Vân ra tàu Hải Quân để về tái phối trí ở Cam Ranh thuộc vùng II Chiến Thuật thì phi trường Đà Nẵng bị địch gia tăng pháo kích. Lúc đầu chúng tôi còn tìm hầm trú ẩn, sau nghe quen đến độ cứ lăn xuống giường rồi dỗ giấc ngủ tiếp.

                    “Riêng Phi Đoàn Hổ Cáp 528 của tôi thì anh em bị kẹt lại đa số, tức là nhiều hơn so với các phi đoàn bạn như Hồng Tiễn 538 , Phi Hổ 516 , và Nhện Đen 550 . Lý do chính làm cho chúng tôi kẹt lại là vì chúng tôi muốn cương quyết chiến đấu. Hơn nữa, vì còn độc thân nên chúng tôi tự tình nguyện ở lại cho những anh em có gia đình được di tản chiến thuật bằng C-130 từ hai đêm trước để tránh pháo kích.

                    “Bởi đèo Ải Vân ở phía Bắc của phi trường là một cao điểm chiến lược quan trọng, sau khi Thủy Quân Lục Chiến đã rút khỏi rồi thì bọn Vẹm tha hồ dùng nó để pháo kích xuống phi trường. Vào tối ngày 29/3, các phi công có nhận được lệnh mang phi cơ vào đáp tạm thời ở phi trường Phù Cát thuộc Sư Đoàn 6 Không Quân để sẽ bay ra lại cố thủ Đà Nẵng sau đó. Ngay đúng vào lúc chúng tôi chuẩn bị cất cánh thì pháo địch gia tăng chưa từng thấy. Hơn nữa, có lẽ vì có đề lô của địch nằm lén trong phi trường điều chỉnh nên pháo rất chính xác. Phi đạo bị hư hại nặng đến độ có phi công phải cất cánh A-37 bằng taxiway. Có người cất cánh xong bị vertigo đã đâm vào vùng biển núi Sơn Trà tử nạn. Riêng tàu tôi chưa kịp rời hangar thì pháo đã tới sát bên nên phải bỏ tàu mà chạy để tránh pháo kích.

                    “Những phi công của Hổ Cáp chúng tôi như thế là bị kẹt gần hết, kể cả Thiếu Tá Hiển Phi Đoàn Phó quyền thay cho Phi Đoàn Trưởng là Trung Tá Hồ Viết Thanh đang học khóa Tham Mưu Cao Cấp. Khi nhận thấy tình hình hoàn toàn vô phương cứu chữa, Thiếu Tá Hiển đã cho phép anh em tự tìm đường thoát về miền Nam. Nhiều anh em kể cả tôi đã có ý định nếu vượt thoát thì sẽ lật đổ chính phủ. Sau tháng tư, cả Trung Tá Thanh lẫn Thiếu Tá Hiển đều bị bắt đi tù cải tạo miền Bắc. Tôi rất cảm phục tư cách chỉ huy công bằng và sự quan tâm của hai ông đối với thuộc cấp. Cấp chỉ huy trưởng của Không Đoàn 61 Chiến Thuật cũng đáng mến phục như vậy. Tôi đã may mắn được làm phi công thời chiến tại phi đoàn khu trục này, không phải vì hiếu chiến hay ngạo mạn, mà vì tình đồng đội san xẻ cho nhau trong những chuyến đi mây về gió đầy nỗi chết đe dọa để nhằm trấn giữ một mảnh đất địa đầu của miền Nam Tự Do.

                    “Trở lại hoàn cảnh hỗn loạn lúc đó, Thiếu Úy Thanh của Nhện Đen trong lúc sắp cất cánh di tản trên taxiway thì bị trúng pháo cháy phỏng hết thân thể. Chúng tôi đã cố gằng chở ông sang một phi đoàn trực thăng nhờ tải thương khỏi Đà Nẵng bởi Quân Y Viện Duy Tân ngoài phi trường đã bỏ trống và chiến xa của đối phương cũng đã đến gần. Sau này tôi nghe kể lại là chiếc trực thăng chở Thiếu Úy Thanh cũng bị nạn phải đáp khẩn cấp ở bờ biển và ông ta còn nằm kẹt lại trên đó một mình, không biết số mạng ra sao. Tôi cầu cho ông được an lành.


                    “Riêng phần tôi thì sau đó ở lại trong phi trường để nghe pháo dài dài. Bộ Tư Lệnh Không Quân có gửi C-119 lên vào buổi trưa nhưng không đáp được phải bay về. Chỉ có một chiếc trực thăng của Air Amercan đáp khẩn xuống được một taxiway nhưng lại vội vã cất cánh lên vì bị pháo. Sau đó có một chiếc Boeing 727 của một hãng hàng không dân sự, có lẽ là TWA, liều mạng đáp xuống bất ngờ trong lúc tầng mây overcasting thật thấp bên trên phi trường . Dân quân di tản trong kinh hoàng và hỗn loạn cứ rượt theo mà leo tràn lên vì máy bay không thể dừng lại vì sợ trúng đạn pháo. Có người bị bánh phi cơ cán. Một lần nữa cảnh vợ mất chồng con mất cha, con trẻ thất lạc bơ vơ kêu khóc lại xẩy ra trên mảnh đất quê hương khốn khổ. Pháo vẫn rơi liên tục khi chiếc Boeing cất cánh trên một taxiway, và người vẫn còn bị rớt xuống từ phi cơ mà chết. Đáng phục thay cho sự can đảm vì lòng nhân đạo của phi hành đoàn này!

                    “Không lâu sau đó thì một chiếc pickup Không Quân màu xanh dương của một toán an ninh phi trường đang tử thủ bị trúng đạn pháo nổ tan cách chỗ tôi nằm không xa. Chợt ngay sau lưng tôi có tiếng thét ‘Đề lô! Đề lô â!’ Tôi giật mình quay lại thì thấy từ bên trong một chiếc conex cạnh taxiway một tên đàn ông mặc thường phục chạy ra tay còn cầm máy Motorola. Theo sau là một chiến sĩ Không Quân tặng cho hắn một tràng M-16. Tự dưng tôi giơ tay chào anh bạn cơ hữu một cái theo quân cách. Vào giờ phút đó, chỉ còn tôi là một chiến hữu chứng kiến chiến công của anh, và tôi chỉ còn một cái chào để thưởng công anh. Lòng tôi tự dưng bình thản, giống như những lần lên phi cơ đi hành quân trước đó khi biết rằng mình đã quyết nắm chắc cái chết trong tay. Mỗi phi công thời chiến chúng tôi đều có một cách nào đó để tự trấn an tâm hồn mình trong những giờ phút sinh tử. Có như vậy thì mới không ‘lạnh cẳng’. Với khẩu P-38 còn lại bên mình, tôi đã tự nhủ rằng một viên cuối cùng để dành lại cho mình, phần kia thì dành cho anh Vẹm nào mà mình sẽ gặp .

                    “Sau khi tôi lần theo lối về khu cư xá sĩ quan phi hành thì gặp Thiếu Úy Toản trong cùng phi đoàn. Hai đứa tôi tự tìm đường thoát hiểm bằng cách băng ngang qua thành phố để ra biển sau khi tôi nghe hắn lý luận chí lý rằng, ‘Ê Tuấn, ở trong này cũng chết, ra đó cũng chết, nhưng dù sao ra đó cũng còn có hy vọng hơn.’ Thế là chúng tôi thay đồ dân sự và nhẩy lên một chiếc Vespa vô chủ chạy ra khỏi cổng phi trường. Ở bên ngoài thì súng đang nổ vang bên phía Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I. Chúng tôi chạy qua được khỏi cầu Delattre thì phải dùng tới khẩu M-16 để tự vệ, rồi chạy bộ ra bãi biển Mỹ Khê. Dọc theo bãi cát, và ngay cả dưới nước, tôi thấy rất nhiều chiến xa và quân xa đủ loại, có chiếc đang còn cháy dở. Thấy một chiếc ghe chở đầy người, lính và dân, phụ nữ lẫn trẻ em đang mắc cạn, chúng tôi mừng quá vội vác súng lên vai lội xuống đẩy phụ. Ngờ đâu lúc thoát khỏi chỗ cạn thì chủ ghe cầm súng chĩa thẳng vào chúng tôi đuổi đi. Buộc lòng chúng tôi phải lên đạn chĩa súng vào hắn vừa đe dọa vừa năn nỉ xin trả tiền. Lúc đầu hắn ngang ngạnh không chịu, sau nhờ mấy anh em bộ binh lên tiếng bênh vực tụi tôi, hắn mới lấy tiền và cho lên ghe.

                    “Khi ghe rời bãi biển chừng nửa cây số thì một tiếng nổ long trời từ trong đất liền dội ra và khói đen trong đó bốc lên cao ngất. Tôi đoán một là cầu Delattre bị giựt sập, hai là kho xăng bị pháo trúng. Dù đã thoát hiểm nhưng tôi thấy buồn vô tận. Đây là lần đầu tiên tôi nhận thức được rằng quê hương tôi đẹp nhưng tang thương quá. Cùng ở chỗ này mười năm trước , Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã đổ bộ lần đầu để mở màn cho một cuộc chiến có chính nghĩa trên mặt chủ nghĩa Tự Do nhưng thất bại về chính sách dùng Quân và Dân vì miếng mồi kinh tế cũng như sai lầm về chiến lược. Nixon và Kissinger đã đi cửa hậu hoặc “đi đêm” với Cộng Sản Tàu và Bắc Việt ở Bắc Kinh lẫn hòa đàm Ba Lê đã bán đứng miền Nam Việt Nam. Đã vậy còn cộng thêm việc các tướng lãnh giỏi và can trường như hai Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Đoàn II tức là Tướng Ngô Quang Trưởng và Tướng Nguyễn Văn Phú đã bị kềm chân bởi cấp trên của hai ông nên đã gây ra sự hỗn loạn và đưa đến chỗ miền Nam sụp đổ đầy chuyện vô lý, vì những kế hoạch 'di tản chiến thuật' vô tổ chức cộng thêm vào sự ngưng viện trợ của chính phủ và quốc hội Mỹ. Bài học tự lập tự chủ cho một chính thể có lẽ sẽ in đậm cho thế hệ lãnh đạo sau này của Việt Nam. Nhìn lại những mất mát của những chiến binh QLVNCH thật là quá sức tưởng tượng, có lẽ là không tiền khoáng hậu trong lịch sử. Họ vẫn còn chiến đấu và thắng trên nhiều mặt trận chiến thuật. Một thí dụ là mặt trận Long Khánh dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo. Ở nhiều nơi khác cũng thế, ngay cả sau khi Cộng Sản tràn chiếm miền Nam, người lính vẫn không hề hay biết là họ đã bị phản bội bởi Đồng Minh và cấp lãnh đạo của mình. Tôi muốn thắp trong lòng mình một nén nhang bất diệt và cúi đầu chào kính cẩn vĩnh cửu tất cả những anh hùng và tử sĩ mà tôi đã có cơ hội đứng cùng chiến tuyến.

                    “Như thế chưa đủ. Vận số tôi còn mạt hơn nữa về sau này khi tôi phải trải qua một lần nữa nhìn Tổ Quốc trong cùng một tâm trạng ngậm ngùi không kém.


                    “Sau khi rời Đà Nẵng, tôi cập Cảng Cam Ranh bằng tàu Hải Quân Việt Nam cùng lúc với Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến rút trước từ vùng I về. Sau khi chia tay, Thiếu Úy Toản đi ngược ra Nha Trang, còn tôi đi bộ về phi trường Phan Rang để trình diện. Trên đoạn này của Quốc Lộ số 1 tình hình vẫn còn yên tĩnh hơn phía Tây. Có một nhóm loạn binh chận chiếc xe cam nhông có tôi quá giang, nhưng tài xế không chịu ngừng vì sợ bị cướp. Đám loạn binh đã nhắm bắn vào xe nhưng may mắn không ai bị trúng đạn.

                    “Khi đến được phi trường, tôi đã ở lại đó một đêm, và đã có dịp thăm Đỗ Minh Hùng 72A ở Phi Đoàn 534 Kim Ngưu. Chàng này có một trái tim để yêu rất cuồng nhiệt, bất chấp hậu quả. Vì yêu mà Hùng bị kẹt lại sau tháng 4/75 và phải đi học tập . Lần sau đó chúng tôi gặp lại nhau là ở trong trại cải tạo suốt ba năm trời biền biệt. Thời gian này sẽ được kể sau.

                    “Ở Không Đoàn 92 Chiến Thuật, tôi được biết phi công Lý Tống của Phi Đoàn 548 Ó Đen đã nổi tiếng sát Cộng bị chúng treo giá đầu anh trên tần số liên lạc. Cuộc chiến đấu chống Cộng can trường của riêng anh vẫn tiếp tục với nhiều chuyện hy hữu sau này mà ai cũng biết đến. Lúc đó một phi công khác của Phi Đoàn 534 là Thiếu Úy Lộc Xích Lô vừa bị bắn rớt ở mặt trận Khánh Dương. Anh đã được các phi công trực thăng can trường, trong đó có một bạn 72A là Thiếu Úy Nguyễn Văn Bực, bất chấp lửa đạn bay vào cứu ra vùng an toàn. Bực à, tôi cám ơn và phục các bạn lắm. Tôi ví phi công trực thăng các bạn là những 'biệt cách hành' như Lôi Hổ của Bộ Binh. Trong các phi vụ anh hùng của các bạn, các bạn đã vừa 'gần đất xa trời' mà vừa còn thực sự đối diện địch quân.

                    “Lúc này ở vùng II, mặt trận Ban Mê Thuột và Khánh Dương ở hướng Tây Quốc Lộ 1 do Nhẩy Dù và Bộ Binh trấn giữ dưới quyền chỉ huy của Tướng Tư Lệnh Phạm Văn Phú cũng đang diễn ra ác liệt. Cũng như những tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng của Quân Đoàn IV, tướng Phạm Văn Phú sau này khi thất trận đã tự sát chứ không đầu hàng. Tổ Quốc và lịch sử sẽ vinh danh họ.”

                    Tiếp theo đây là đoạn 3 trong phần Ba Năm Lính của Nguyễn Hữu Thiện Tuấn. Phần này có tựa là “Thủ Đô Sài Gòn Vào Cuối Tháng Tư”.

                    “Từ Phan Rang, tôi về tới Sài Gòn vào giữa tháng 4/75. Tôi vào trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân và trong khi chờ nhận sự vụ lệnh vầ Cần Thơ tái phối trí đơn vị thì tôi lại bị Cu Xê của Bộ Binh chận xét ngay trước phi trường Tân Sơn Nhất và vô cớ chở đi nhốt vào nhà giam Quân Vụ Thị Trấn ở đường Lê Văn Duyệt mất 5 ngày. Sau đó Quân Cảnh Không Quân đến đón về lại cho tôi vào nhà giam của Sư Đoàn V Không Quân nằm thêm hai ngày nữa. Khi Thiếu Tá Hiển Phi Đoàn Phó 528 vào nhận lãnh tôi, hai thầy trò chỉ còn biết lắc đầu nhìn nhau chứ không còn ý kiến gì nữa.

                    “Tuần lễ cuối tháng 4/75 ở Sài Gòn chẳng khác gì Đà Nẵng vào tháng 3. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, phi công nội tuyến phản loạn Trung dùng F-5 dội bom dinh Độc Lập vào ngày 28/4, rồi phi trường Tân Sơn Nhất bị nhiều phi cơ A-37 lái bởi phi công Cộng Sản (có cả tên phản tặc Nguyễn Thành Trung) và hai phi công tù binh ở Đà Nẵng (tạm dấu tên) bị chúng cưỡng ép theo để xuất phát từ phi trường Phan Rang vào oanh tạc thì sự rối loạn càng lúc càng gia tăng. Sau khi được biết gia đình đã di tản khỏi Việt Nam trong khi người em trai đang theo đơn vị lính Nhẩy Dù của chàng, tôi yên tâm về Cần Thơ. Sau khi về Cần Thơ, tôi đã quay lại Sài Gòn và quyết định ở lại đó. Lại một lần nữa tôi đau thấu tủy khi chứng kiến cảnh thủ đô thất thủ sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.”

                    Đến đây là chấm dứt phần hồi ký Ba Năm Lính của Nguyễn Hữu Thiện Tuấn. Xin đón xem phần Ba Năm Tù ở chương sau.
                    Cùng trong đêm 29/3/75 tại Đà Nẵng mà Cộng quân pháo kích nặng nề vào phi trường đó, Mai Ngọc Trai và Lê Minh Bảo tức Bảo Nhí nằm trong hầm trú ẩn chờ trời sáng. Trong ngày hôm đó, Trai đã giúp cho gia đình cô bạn gái tên Lan gồm có Lan, mẹ, và và cậu em bẩy tuổi của Lan vô phi trường để xin theo C-130 chở thân nhân về Sài Gòn trước nhưng có tin sắp bị pháo kích nên phi vụ bị hủy bỏ. Những tiếng nổ long trời liên tiếp trong đêm đen mịt làm cho đêm kéo dài như bất tận. Khi ngưng pháo vào lúc bốn giờ sáng thì trên một chiếc Vespa, Trai đã đèo Bảo, Lan, và cậu em chạy lên phi đoàn. Khi tới nơi thì một đoàn người đã chờ sẵn tự bao giờ. Đó là những thân nhân của các chiến hữu Không Quân. Trong ánh lửa cháy lập lòe, nét mặt ai cũng đầy sợ hãi. Phi đoàn chỉ còn lại Thiếu Tá Vinh là Trưởng Phòng Hành Quân. Trong khi ông điểm danh từng người của phi đoàn thì Cộng quân bắt đầu pháo kích trở lại làm cho các thân nhân gào khóc vang lên và bỏ chạy tán loạn. Lúc đó Thiếu Tá Vinh yêu cầu mọi người ra phi đạo để tìm phi cơ mà đi kẻo trễ. Khi ra tới phi đạo thì Bảo tìm được một chiếc L-19 lành lặn là leo ngay lên. Trai vội đẩy Lan, cậu em, và mấy người nữa lên chiếc phi cơ đó, rồi Trai và Thiếu Tá Vinh chạy đi tìm chiếc khác. Khi Trai tìm được một chiếc L-19 nhẩy lên mở máy xong nhìn lại thì thấy có thêm năm người lính nữa trên tàu. Định taxi ra phi đạo nhưng thấy Bảo đã cất cánh và phi đạo đầy xe cộ do người ta chạy bỏ lại nên Trai bèn cất cánh ngay trên taxiway. Bình thường chiếc tàu chỉ chở có hai người bây giờ phải chở gấp ba, nó lăn bánh nặng nề chập chạp và gầm gừ mãi mới cất khỏi mặt đất. Tới cuối phi đạo Trai cho tàu quẹo trái lừ đừ bay, khi qua đèo Non Nước thì nghe một tràng tiếng súng liên thanh nhưng may mắn không trúng tàu. Khi ngoái nhìn sau lưng thì Trai thấy những anh lính còn mang theo lủ khủ nào là M-16, hành trang, cùng bao nhiêu thứ linh tinh khác. Trai nói họ vất bỏ xuống biển cho nhẹ, nhưng có người năn nỉ xin giữ lại túi gạo vì lý do là không có ai là thân nhân ở trong Sài Gòn cả, nếu vất đi rồi thì không biết lấy gì ăn.

                    Sau khi vứt bỏ bớt hành lý thì Trai cho phi cơ bình phi ở một ngàn bộ vì trần mây phủ kín. Tàu cứ theo bờ biển bay về hướng Nam. Dọc đường có tiếng gọi cầu cứu trên vô tuyến và có nhiều trực thăng đáp vì hết xăng nhưng Trai không thể làm gì giúp họ dù hết sức chua xót trong lòng. Vào tới Quảng Ngãi thì trời bắt đầu nắng tốt. Trai lên năm nghìn bộ thì thấy phi cơ của Bảo ở hướng 2 giờ. Trai bay đến gần và ra hiệu cho Bảo theo Trai về Nha Trang. Gần tới Ninh Hòa thì Bảo ra hiệu cần đáp vì hết xăng rồi từ từ hạ thấp rồi mất dạng sau màn mây. Trong khi Trai còn hoang mang chưa biết phải xử trí thế nào thì mấy người lính phía sau lên tiếng khống chế buộc Trai phải tiếp tục bay về Nha Trang chứ không thể đáp vì sợ bị Việt Cộng bắt. Sau khi đáp ở Nha Trang an toàn, Trai vào Không Đoàn Bộ Không Đoàn 62 và báo cáo phi cơ Bảo mất tích, hy vọng họ sẽ tìm ra Bảo và chị em Lan. Số phi cơ của hai phi đoàn 110 và 120 về đến Nha Trang hơn mười chiếc, với hơn phân nửa nhân viên của hai phi đoàn còn kẹt lại hay đã mất tích rồi. Đại Tá Lạc Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 62 tiếp đón và kêu gọi những người mới về trình diện để bổ xung quân số cho Phi Đoàn 114 tại đó, nhưng Thiếu Tá Hào Phi Đoàn Phó 120 nói nhỏ anh em ra kêu phi đạo đổ xăng để về Sàigòn. Trong khi Trai còn đang bồn chồn lo lắng thì Bảo tìm tới nơi xuất hiện và kể rằng may mắn sao khi phi cơ xuống thấp Bảo thấy phi trường Dục Mỹ và được tiếp xăng và cất cánh lại mà không bị trở ngại gì.

                    Sau khi đoàn tàu cất cánh trở lại thì Thiếu Tá Hào dẫn đầu về Sàigòn. Lần này thì chị em Lan cùng vài người nữa đã lên con tàu cũ kỹ nhưng chung tình của Trai. Đoàn tàu lấy hướng Tây Nam trực chỉ. Trai lên cao độ bẩy ngàn bộ, mắt luôn đảo nhìn các phi cụ và cầu mong cho không bị trục trặc gì. Hơn ba giờ sau thì Biên Hòa hiện ra trước mặt. Trai nhận rõ từng làng xóm của chính quê mình. Trên tần số 118.0 VHF, Trai gọi:
                    –Tân Sơn Nhất đây Tango Papa .
                    Khi nghe đáp “Tango Papa đây Tân Sơn Nhất”, Trai tiếp tục:
                    –Tango Papa chúng tôi cao độ 3000 cách 10 dặm hướng Đông Bắc xin chỉ thị hạ cánh.
                    –O.K. Chấp thuận hạ cánh phi đạo 25 trái gió êm.
                    –Tango Papa nhận rõ, cám ơn bạn.
                    Sau khi liếc mắt nhìn thấy người yêu bên cạnh thật gần đang nhìn mình thán phục, Trai chạm bánh nhẹ nhàng như một cánh bướm si tình. Sau khi cho phi cơ vào chỗ đậu ở sân vãng lai và thở phào nhẹ nhõm, Trai quay lại thì thấy hai chị em Lan đôi mắt đỏ hoe vì khóc. Hóa ra giờ này đến chỗ an toàn rồi hai người mới nhận thức ra cảnh biệt ly không còn bên bà mẹ.

                    Về Sàigòn rồi Trai mới biết rằng các vị chỉ huy nhà ta đã rời Đà Nẵng tự bao giờ. Họ mang theo vợ con, có người còn mang theo cả con chó, về Sàigòn bình yên. Chỉ có mấy thằng trẻ khờ khạo ở lại chiến đấu. Thấy vậy Trai mới kính phục Thiếu Tá Vinh đã lo cho đàn em tới giờ phút cuối.

                    Khi ra phố ngày hôm đó, Trai đã cẩn thận không đưa hai chị em về nhà mình vì sợ tai tiếng cho Lan mà đã đưa chị em Lan về nhà bà con của Lan ở Ngã Ba Ông Tạ. Sau khi trình diện phi đoàn tại Biên Hòa, Trai có gặp lại Lan mấy lần, và lần nào cũng bị trách là sao không đến thăm. Trai giãi bày là phải đi làm chứ đâu được nghỉ ở nhà, dù là biết mình bị giận vì bị cho là hờ hững. Lan hối thúc Trai đi xuống tàu để ra biển, nhưng Trai không cam lòng thà chịu chết chung với gia đình vì cha mẹ không đi, và vì thế mà tất cả đều kẹt lại.

                    Vào cuối tháng 3/75, Đặng Chấn Kỳ từ Phi Đoàn 213 Đà Nẵng về học Khóa 2 Giai Đoạn 2 Quân Sự loay hoay thế nào để khi các anh em khác đã lên C-130 về Sài Gòn hết rồi mà chàng ta còn ở Nha Trang. Kỳ đã vô trại Thiên Nga tìm xem có gặp ai quen không, nhưng thấy trại trống lổng không có một người nào lai vãng. May mà sau đó Kỳ gặp Lê Hoàng Lân và đã quá giang trực thăng của Lân về Phan Rang ngủ một đêm rồi hôm sau về Sài Gòn.


                    Sau khi về Sài Gòn thì Kỳ được lệnh về Cần Thơ tái phối trí cùng Phi Đoàn 213vào khoảng ngày 12/4. Một lần nữa, Kỳ lang thang thế nào đó mà lúc đi lại không có máy bay, và Kỳ đã ở Sài Gòn cho tới ngày 29/4. Chiều hôm đó khoảng bốn năm giờ, Kỳ vô Tân Sơn Nhất và tình cờ gặp Hạo bạn cùng khóa 3 HTTT và Chuẩn Úy Kim ở Trường Quân Sự. Ba người đi tìm được một chiếc máy bay của Ủy Ban Kiểm Soát Quân Sự Bốn Bên nằm trong một hangar. Khi giở nắp đầu máy lên thì không thấy bình điện, nhưng khi lên ngồi check thử thì máy quay, có lẽ là tàu có bình điện nằm phía sau. Thế là Kỳ và Hạo cất cánh chở theo bạn Kim.

                    Khi cất cánh lên rồi thì Kỳ và Hạo bàn nhau định bay hướng Nam để về Cần Thơ vì không biết các tàu Mỹ đậu ở đâu. Vừa lúc đó thì hai chàng thấy có trực thăng Mỹ cất cánh bên phía Hàng Không Việt Nam và bay ra hướng biển, và thế là hai chàng bay theo. Khi đến bờ biển gần Vũng Tàu nhìn ra khơi, Kỳ thấy có nhiều tàu lô nhô ngoài biển cách bờ cỡ hơn mười cây số. Xăng lúc đó đã gần hết nhưng hai chàng cứ phiêu lưu bay đại ra, và bảo nhau rằng có rớt xuống biển thì cũng ráng lết tới gần một chiếc tàu nào đó cho họ cứu.
                    Lúc ra khơi được một quãng thì Kỳ thấy có cả tầu chiến cũng như thuyền đánh cá lô nhô ngoài xa, trong số có hai ba chiếc hàng không mẫu hạm và rất nhiều khu trục hạm. Tàu của Kỳ đã đáp an toàn trên chiếc SS Hancock.

                    Mấy hôm sau chiếc SS Hancock đã sang tới Hải Cảng Cupi của Phi Luật Tân. Từ đó Kỳ đã được chở qua Vịnh Subic bằng tàu nhỏ. Lên bờ là Kỳ được phát một cây thuốc lá, sandwich, cùng một bộ quần áo dân sự và được cho một bao giấy dầu để bỏ bộ đồ bay vào cho tiện xách đi. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau là Kỳ được lên C-141 chở qua Guam mà không phải làm thủ tục giấy tờ chi cả.

                    Ở Guam, Kỳ lại một lần thứ ba vì cái tật lè phè không bỏ mà lỡ chuyến bay. Đêm trước ngày phải lên tàu về Camp Pendleton ở California, chàng ta đi lang thang về muộn ngủ quên mất nên sáng dậy thì đã trễ chuyến tàu. Một tháng sau, Kỳ đã lên một chuyến khác về Indianatown Gap ở Pennsylvania.

                    Trên chiếc tàu SS Hancock còn có Nguyễn Xuân Sơn. Rạng ngày 29/4, Sơn đã theo tàu Thiếu Tá Đào Bá Hùng di tản về Tân Sơn Nhất. Sáng 30 thì Sơn theo một chiếc khác bay ra đáp trên tàu Hancock lúc 10 giờ sáng. Số thứ tự của Sơn là 102 trong số 4 ngàn người lên tàu đó. Mấy ngày sau khi tàu về đảo Clark ở Phi Luật Tân, Sơn ngủ một đêm sáng sau lên Boeing 747 về Guam. Ở đó đêm không ngủ được, Sơn thường lên phòng hành chánh xem và thấy có một bà Mỹ da đen có vẻ rất tử tế. Sơn đến bảo với bà rằng mình là một cựu phi công, và bà thông qua giấy tờ cho đi ngay hôm sau. Sơn về lều báo cho mọi người lên xin và cùng được đi nhanh chóng. Sau đó Sơn về Camp Pendleton ở 22 ngày thì được sponsored về Georgia. Khi Đỗ Văn Bính sang sau này, một người bạn của ông sponsor của Sơn đã bảo lãnh Bính về Georgia luôn. Hai chàng đã vừa đi làm vừa đi học cho đến khi Bính về Dallas.

                    Sau đây là phần chuyện của Đinh Đông Định tự Gà Tây. Sau khi tốt nghiệp Khóa 1 Trực Thăng quốc nội, Định về phục vụ tại Phi Đoàn 221 Lôi Vũ, Biên Hòa. Phi đoàn này được biệt phái cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
                    Trong khóa 72A, Định có hai người bạn học cũ là Hoàng Đình Lai và Trương Tấn Phát, tức là Phát Rỗ. Hoàng Đình Lai, cùng ra trường Khóa 1 Trực Thăng với Định, về phục vụ tại Phi Đoàn 223, Biên Hòa. Phi Đoàn này được biệt phái cho Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Trương Tấn Phát thì tốt nghiệp Khóa 2 Trực Thăng, phục vụ tại Phi Đoàn 255 Cần Thơ.

                    Vào đầu năm 75, Định ra Nha Trang học Giai Đoạn II Quân Sự. Lúc đó có 3 khóa. Định và tôi thuộc Khóa 2. Định, Phát Rỗ, Tuấn Đầu Bò, Trọng Đen, và tôi đã mướn một căn nhà làm nơi tạm trú. Nhà bên cạnh thì có Lộc Sữa và Tuyển 72E ở trọ. Trong căn nhà đó có một người đàn bà trẻ tên Dung có đứa con trai nhỏ đang ở cùng với bà mẹ nữa.

                    Ngày 28/3 Định, Tuyển, và tôi được lệnh về trình diện đơn vị trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Phát Rỗ thì bị kẹt lại vì chưa có lệnh. Khi Định ra hậu trạm Nha Trang thì thấy có hai chiếc C-130 nhưng có tới cả 300 chàng hoa tiêu thuộc Khóa 2 và Khóa 3 Quân Sự đang chờ. Những chàng hoa tiêu này bị quân cảnh ngăn không cho lên tàu vì có những người đang bận rộn đưa ghế sô pha và tủ lạnh lên hai chiếc tàu đó.

                    Sau khi chờ đợi được vài tiếng đồng hồ thì một ông trung úy trong khóa 2 quân sự tuyên bố tan hàng để chạy. Không biết làm gì, Định và Chánh Lơ Xe bỏ ra trại gia binh nhậu. Ba tiếng đồng hồ sau khi hai chàng trở lại thì không thấy anh em đâu mà chỉ có Phát Rỗ đang dẫn một đứa bé trai ba bốn tuổi, lúc hỏi ra thì mới biết rằng đó là đứa con trai của bà Dung ở nhà bên cạnh nhờ Phát dẫn chạy về Sài Gòn dùm.

                    Ba chàng và đứa bé đứng chờ hồi lâu thì có mấy chiếc C-130 đáp xuống. Khi Chánh Lơ Xe leo lên được chiếc thứ hai thì dân chúng đã lên chật hết. Phát Rỗ bỏ đi hồi lâu trở lại kéo theo hai ông mang lon trung úy. Họ hỏi Định có phải là hoa tiêu trực thăng hay không, và khi Định xác nhận thì họ chở ra một chiếc trực thăng đang đậu trong hangar và bảo là mới kiểm kỳ xong. Khi Định check tàu thì thấy thiếu bình điện. Khi hai ông trung úy kia tìm được bình điện CPU lớn mang về quay được máy thì Định ngồi ghế pilot, Phát ngồi ghế copilot, và chở thêm được khoảng một tá lính nữa phía sau.

                    Khi cất cánh được rồi, Định bình phi ở 3000 bộ và cứ nhắm hướng Phan Rang mà bay. Khi đáp xuống phi trường Phan Rang đổ xăng xong vừa cất cánh lên lại thì một chiếc xe Jeep ở đâu chạy tới và mấy người trên xe nhẩy xuống chĩa súng vào tàu bắt đáp. Lúc đáp xuống thì mới biết cầm đầu mấy binh sĩ đó là Trung Tá Bút Không Đoàn Trưởng ở Pleiku di tản về.

                    Sau khi Định trình bày rằng mình thuộc quân số Biên Hòa thì Trung Tá Bút bảo ra phi đạo chờ tàu về. Sau đó thì Định gặp lại Lưu Khải Minh. Thế là Minh, Phát, Định, và đứa bé dẫn nhau ra phi đạo. Trên đường đi lại gặp hai đứa trẻ lạc cỡ 10, 12 tuổi dẫn theo luôn, tổng cộng là 6 người. Sau khi chờ hết khoảng 24 tiếng đồng hồ thì có máy bay vận tải của Mỹ đáp xuống, nhưng dân chúng quá nhiều nên anh em không lên được. Có những người lính chen lấn đạp lên những người khác để lên tàu. Thấy cảnh đó quá chướng tai gai mắt, Định và Phát nắm giò mấy tên kéo xuống dộng tơi bời. Một lúc sau thì có hai sinh viên sĩ quan đến bảo rằng có một chiếc trực thăng ai bỏ ngoài đầu phi đạo. Định ngần ngại vì cho rằng có lẽ đó là một chiếc tàu hư nên bị bỏ lại, nếu bay nó mà bị crash thì không biết tìm được ai để cứu mình.

                    Trong khi mấy anh em và ba đứa bé đang đi lang thang thì Định gặp một ông trung úy tên Đạm là staff pilot trước đó ở Đà Nẵng di tản về Sài Gòn và đang ra trở lại Phan Rang để tìm vợ và con. Định rủ ông ra chỗ chiếc trực thăng để xem nó còn bay được hay không nhưng ông từ chối vì tìm vợ con chưa ra trong những đám người hỗn độn trong phi trường lúc đó. Định kêu ông đưa hình vợ con cho Phát đi tìm, để ông ta và Định ra xem tàu.

                    Bởi đầu phi đạo cách đó khá xa mà trời thì đã gần tối, hai người ngần ngại vì sợ trong bóng tối đó mà lần ra đầu phi đạo thì bị an ninh phi trường bắn lầm. May sao vừa lúc đó có một chiếc xe quân cảnh có đèn chớp do một người lái tới đậu ở đó rồi bỏ đi để chìa khóa công tắc trong ổ. Định và Trung Úy Đạm nhẩy lên mở máy xe bật đèn chớp lái ra đầu phi đạo. Khi hai người tìm được chiếc tàu thì trời đã tối mịt. Trong bóng tối, hai người dùng tay sờ soạng thấy main rotor, tail rotor, cùng chong chóng đuôi còn đủ cả. Mừng quá, hai người quay trở lại chỗ cũ. Lưu Khải Minh vô phòng huấn luyện A-37 lấy được bốn chiếc nón bay có mặt nạ dưỡng khí loại dùng bay phản lực. Gặp lại Phát thì may sao hắn đã theo tấm hình mà tìm được vợ con của Trung Úy Đạm.

                    Cả đám lúc đó đã đói lả người nên dẫn nhau đi tìm thực phẩm. Trong một barrack bỏ không, họ đã tìm được gạo và bắp cải mang về cho bà vợ của Trung Úy Đạm nấu cơm ăn.

                    Sau khi cơm nước xong, cả bọn bàn nhau rằng đi ngủ để sáng mai đi sớm. Định cởi đôi giày civil để dưới chân nằm ngủ mới được nửa tiếng đồng hồ thì bị Phát Rỗ đá vào chân hỏi "giày mày đâu rồi?" Khi biết
                    rằng đôi giày của Định đã bị ai lấy mất, Phát chạy đi tìm một lúc thì thấy một anh lính đang mang bèn đòi lại và mang về cho Định.


                    Phi trường Phan Rang đêm đó bị pháo kích lai rai. Đám người ngủ chập chờn đến 5 giờ sáng thì cùng lên xe Jeep chở nhau ra đầu phi đạo. Leo lên chiếc trực thăng bỏ không lúc đó gồm có vợ chồng Trung Úy Đạm với 3 con, Định, Phát, Minh, một hoa tiêu L-19 thuộc khóa đàn em, hai đứa trẻ lạc, và đứa nhỏ mà Phát nhận mang dùm. Trung Úy Đạm ngồi ghế hoa tiêu trưởng và Định ngồi ghế phó. Tàu cất cánh xong xem lại thì thấy gần hết xăng chỉ còn cỡ từ 300 tới 400 pounds, tức là chỉ bay được cỡ 20 tới 30 phút là hết cỡ. Khi tới ụ đổ đầy xăng xong thì người lính giữ trạm xăng thấy lạ với những chiếc nón có mặt nạ dưỡng khí mà hoa tiêu trực thăng bình thường không dùng nên hỏi "mấy anh đi đâu?" Khi nghe nói rằng tàu đang đi về Sài Gòn thì hắn nói "cho em đi với". Thế là thêm một hành khách nữa.

                    Tàu vừa cất cánh lên trở lại thì đèn engine chips detector sáng lên báo hiệu có mạt sắt trong máy. Đây là một triệu chứng nguy hiểm, vì nếu mạt sắt nhiều gây cản trở cho sự chuyển động của các cơ phận thì máy tàu có thể bị nổ. Định nhấn tắt chiếc đèn này, và tàu hướng về miền Nam theo ven biển mà bay.

                    Thời tiết lúc đó rất xấu với mây mù nên tầm nhìn rất giới hạn. Đang bay tự nhiên Định có linh tính không lành bèn kêu Trung Úy Đạm hướng tàu ra biển. Vừa đổi hướng xong thì vừa vặn lúc nhìn thấy nguyên dãy núi Bình Tuy hiện ra bên phải thân tàu, nếu chậm trễ trong giây phút thì đã đâm vào sườn núi.

                    Sau khi vòng theo sườn núi đáp xuống Bình Tuy thì Định vô trụ sở quận hỏi lấy xăng. Dù bị hỏi phiếu xăng không có, phi hành đoàn đã được cho xăng để bay tiếp. Khi cất cánh lên lại, Định đã dùng tần số FM để gọi phi đoàn của mình, nhưng tần số đã đổi nên không còn gọi được nữa. Lúc đáp xuống Tân Sơn Nhất thì một đám hoa tiêu của Phi Đoàn 215 Thần Tượng thấy tàu sơn phù hiệu của phi đoàn mình đã ùa chạy ra coi ai đã bay về được trễ như vậy. Khi phi hành đoàn bước xuống, họ đã ngạc nhiên khi thấy Trung Úy Đạm mang phù hiệu Sư Đoàn I Đà Nẵng, Định mang phù hiệu Sư Đoàn III Biên Hòa, và Phát mang phù hiệu Sư Đoàn IV Cần Thơ. Thật là một phi hành đoàn hy hữu của Không Lực VNCH chưa từng thấy trước đó.

                    Sau khi thở một hơi dài, Định đã dẫn hai đứa nhỏ lạc ra đón xe xích lô máy bảo chở chúng về cái địa chỉ của thân nhân mà chúng giữ được trong người. Tắm rửa xong, Phát và Định chở đứa con của người đẹp Dung về giao cho bà nó ở Sài Gòn.

                    Sau khi về Sài Gòn được một ngày thì Định được gọi lên Biên Hòa trình diện. Cùng đi trình diện với Định có Trung Úy Khoa trong Khóa 3 Quân Sự và Đỗ Văn Bính.

                    Sau đây là những giòng của Nguyễn Văn Bực.
                    "Trong những ngày cuối tháng 4/75 Nguyễn Văn Hóa và tớ có cùng tâm sự giống nhau. Buồn nhất là chiều hôm ở phi trường Liên Khương Đà Lạt nhìn cảnh chạy loạn mà lòng tớ đau xót vô ngần. Hóa đã khóc làm cho tớ muốn khóc theo. Tớ đã không khóc liền khi ấy mà đã quay mặt đi nơi khác rồi mới khóc thật nhiều. Đó là lần cuối tụi tớ bay ở Vùng II đầy núi rừng trùng điệp.

                    "Những ngày tiếp theo là vào Biên Hòa, rồi Tân Sơn Nhất, rồi xuống Bình Thủy chiều 29/4/75. Gặp Đinh Đông Định và Liêu Huỳnh Phong ngồi trực tàu và ăn cơm, tớ có hỏi 'Sao mà còn ngồi đây?' Hai ông thần chẳng trả lời mà chỉ ngó tớ, không biết hai ông đang nghĩ gì. Tớ chạy ra phố Cần Thơ với Nguyễn Văn Hóa tìm mua được ổ bánh mì. Đó là ổ bánh chót mà tớ mua trước khi rời Việt Nam. Tớ giữ được ổ bánh đó cho đến khi đến Đệ Thất Hạm Đội.

                    "Trong khi tớ và Nguyễn Văn Hóa đang nổ máy tàu để ra khơi thì gặp Đinh Đông Định và một ông nữa. Vì mải check tàu không để ý nên tớ không nhìn rõ ông này là ai, nhưng có lẽ là Hứa Văn Bảo hay Liêu Huỳnh Phong gì đó. Nhìn thấy tớ hai ông liền tuột xuống, không hiểu tại sao. Khi nào có dịp gặp lại Đinh Đông Định thế nào tớ cũng sẽ hỏi."

                    Trở lại những ngày cuối tháng 3/75, lúc tôi trở lại Sài Gòn khi chưa kịp hoàn tất Giai Đoạn II Quân SựÏ ở Nha Trang thì được cho hay Phi Đoàn 112 Thanh Xà của tôi đã về đóng ở Tân Sơn Nhất. Ngày đó tôi không có thì giờ suy nghĩ nhiều về những sự việc xẩy ra, nhưng sau này nghĩ lại tôi thấy việc ra Nha Trang học Giai Đoạn II Quân Sự thật vô lý. Chiến cuộc ở khắp các vùng đang nóng bỏng mà tự dưng hàng trăm phi công lại được đưa ra Nha Trang để học mất cả mười sáu tuần lễ là nghĩa lý gì? Đêm đêm tôi ở trong căn cứ bị pháo kích đều đặn. Cũng như thời ở Biên Hòa trước khi ra Nha Trang học Giai Đoạn II Quân Sự, đêm nào tôi cũng thức dậy ở dưới hố trú ẩn sau khi viên đạn pháo đầu tiên đã nổ. Bây giờ thì có khác hơn một chút vì khi ở hố trú ẩn lục tục đi lên lầu các barracks để ngủ lại ngoài những phi công ra còn có vài người khác phái. Họ là vợ của những phi công khu trục vô phi trường chờ giấy lên C-141 đi ra nước ngoài. Trong số các phi công khu trục, có nhiều người đã có vợ con đi rồi. Họ rất hoang mang vì không biết vợ con họ đi đâu và sẽ ra sao.

                    Phi Đoàn của tôi lúc đó là rắn không đầu, bởi Trung Tá Phi Đoàn Trưởng đã lên Long Bình học Tham Mưu Cao Cấp. Đó lại là một chuyện lạ nữa, bởi trong khi chiến cuộc đang tồi tệ như thế thì các phi đoàn trưởng được gọi đi học Tham Mưu Cao Cấp để làm gì? Tôi không nhớ có thấy ông phi đoàn phó trong những ngày đó hay không mà chỉ nhớ ông Đại Úy Sơn Trưởng Phòng Hành Quân ngày ngày vẫn còn cắt các phi vụ cho chúng tôi bay. Trong những ngày này, Tân Uyên ở hướng Bắc Biên Hòa bị địch quân vây chặt. Trong khi dân chúng xuống ghe di tản về bờ phía Nam của con sông thì địch quân bám sát phía sau. Cứ hễ dân ra khỏi tới đâu là chúng tôi được chỉ thị cho khu trục dội bom tới đó. Tân Uyên có ba cái nhà thờ có mái cao. Thoạt đầu chúng tôi được lệnh khi cho khu trục đánh bom phải chừa ba cái nhà thờ đó ra vì có dân ở trong đó. Đến khi được lệnh thả bom vào nhà thờ luôn vì dân đã đi hết, tôi bàng hoàng chợt hiểu là Tân Uyên đã mất. Chỉ có trong vòng một tuần lễ mà một thành phố trù phú đã hoàn toàn thành bình địa. Khi chúng tôi rời Tân Uyên sau khi chuyến ghe di tản dân chúng cuối cùng tách bến thì ngay cả nhiều mảnh đất ngay bờ sông cũng đã bị bom sạt đi xuống sông luôn.

                    Ngoài các phi vụ ở Tân Uyên ra tôi còn bay ở Bình Dương và Củ Chi trong những ngày chót. Sau khi kho xăng của địch ở Củ Chi bị trúng bom, nó đã bốc cháy liên tiếp trong nhiều ngày trời với khói bay cao tới hơn sáu ngàn bộ. Đại bác phòng không của địch lúc đó đã được mang ra phô trương tối đa. Những viên đạn đại bác bắn không trúng máy bay nổ trắng trời như hoa trên tầm bay của L-19.

                    Chiều ngày 21/4, khi các phi công Việt Nam còn bay theo phi vụ lệnh ở trên không trung thì qua đài phát thanh họ đã nghe tiếng nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trách người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và từ chức nhường quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Tôi nghe bài diễn văn từ chức mà trong đó Tổng Thống Thiệu đã quy lỗi cho nước bạn đồng minh khi đang bay cho tiểu khu Bình Dương. Vì trời xấu mây nhiều không trông thấy gì, tôi nghe theo lời quan sát viên về bay ngay trên trường đua Phú Thọ. Tôi bay vòng vòng rút thuốc lá châm lửa hút, nhìn từng chuyến C-141 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất mà thấy dửng dưng không vui không buồn.

                    Một buổi chiều trong một ngày sau đó, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 23 Chiến Thuật Hoàng Thanh Nhã đã họp những hoa tiêu trong không đoàn, trong đó có tôi, cho biết rằng có những chiếc tàu hàng không Việt Nam đã qua đáp ở U-Tapao, và ông khuyên chúng tôi nên tự tìm hướng bay cho mình khi khẩn cấp. Tôi nghĩ rằng ông là một người đàn anh có lương tâm đã có lời nhắn nhủ đàn em dù không thể trực tiếp nói lên lời từ giã.

                    Ngày 28/4 chúng tôi lại nghe ông Trần Văn Hương từ chức và trao quyền lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Hôm đó thì hình như các chuyến C-141 đã đưa hết những người hành khách chờ ở phòng đợi cùng trong phi trường Tân Sơn Nhất nhưng được ra vào bằng một cổng riêng bằng những chuyến xe buýt xám của quân đội Mỹ.

                    Trong ngày 29/4 khi tòa đại sứ Mỹ bắt đầu di tản là đa số các phi công chiến đấu của Sư Đoàn 3 đã kéo về Cần Thơ. Tôi là thằng chậm chân nhất của phi đoàn 112. Sau khi nhìn tận mắt chiếc AC-119 bị bắn đứt đuôi chúi đầu xuống đất ngay phía bắc phi trường Tân Sơn Nhất , tôi vẫn còn lảng vảng ở ngoài sân phòng đợi hút thuốc vặt uống cà phê chờ lệnh gọi đi bay. Mãi đến gần giữa trưa, tôi mới ngạc nhiên sao chưa thấy ai điều động phi vụ của mình và vào phòng trực hành quân định hỏi thì mới vỡ lẽ ra là không còn ai ở đó cả. Tôi lấy chiếc xe gắn máy chạy ra chỗ tàu đậu thì thấy có những người lính cơ hữu chạy lanh quanh. Thấy một Thiếu Úy Quan Sát Viên khóa đàn em mà tôi nhớ mặt đang chạy lang thang, tôi gọi chạy theo tôi. Chúng tôi cùng một ông thượng sĩ lớn tuổi hơn nhẩy lên một chiếc tàu lành lặn nhưng khi mở máy thì bình điện đã hết. Trên nguyên tắc thì tàu hành quân bao giờ cũng trang bị sẵn sàng xăng nhớt và bình điện tốt, nhưng vào những ngày chót những người lính bảo trì ở phi đạo đã mang cất hết các bình điện tốt. Tôi dẫn hai người chạy qua từng tầu một trong suốt dẫy, và chiếc nào tôi mở cửa thò tay vào bật công tắc quay máy thì bình điện cũng chết. Cuối cùng khi gặp một chiếc quay được cánh quạt, tôi vội bảo hai người lấy chèn bánh và leo lên. Trong khi tôi taxi ra cất cánh thì một đoàn người cả đàn ông lẫn đàn bà chạy theo hai bên tàu, có một chị cứ vừa chạy theo vừa giơ một đứa trẻ sơ sinh về hướng tôi. Tôi biết là không thể dừng bánh được vì nếu cả đám người đó mà cùng tranh nhau lên tàu thì chắc chắn là chết cả. Khi ra tới phi đạo thì hỡi ôi ngổn ngang những bom đạn của vài thằng hèn chạy trước nào đó đã bỏ lại cho nhẹ cánh. Tôi đành cất cánh khẩn cấp, tức là đạp thắng và tống hết ga chờ cho cánh quạt quay hết tốc lực rồi mới nhả thắng cho mấy bay chạy và vừa thấy đủ tốc độ là nhấc tàu lên liền. Trong khi tàu đang gia tăng tốc độ trên phi đạo, tôi phải chạy ngòng ngoèo tránh miểng đạn pháo kích nằm đầy trên taxiway như một thằng điên, bởi sợ cán trúng bể bánh thì coi như là lúa luôn.

                    Sau khi đã quẹo rời phi đạo, tôi nhấn nút thả hết bốn cặp hỏa tiễn khói cho nhẹ tàu thì chỉ có hai cặp là chịu rớt, còn hai cặp thì treo tòng teng hai bên cánh. Lúc đó mới biết là chiếc tàu đã bị trúng đạn pháo kích rách tơi tả như một con cá phướng bị cá lia thia đá. Cũng may, bởi nếu tôi cũng hèn như mấy tên kia để thả mấy giàn rocket khói trên phi đạo thì mắc dây tòng teng kiểu đó chắc đã không cất cánh được. Tôi vừa lấy cao độ vừa nhắm chừng Cần Thơ bay tới. Trên đường đi thì hai cặp rocket khói sau khi đong đưa trong gió một thời gian đã lần lượt rơi mất tự khi nào. Khi đáp xong ở Cần Thơ kiểm điểm lại, tôi thấy còn nhiều khuôn mặt trực thăng và L-19 từ Sài Gòn về. Phần những phi công khu trục thì có lẽ đã trực chỉ U-Tapao.

                    Đinh Sỹ Hưng rời phi trường Biên Hòa bay ra đáp ở chiến hạm Hancock thuộc Đệ Thất Hạm Đội ở ngoài khơi Vũng Tàu vào khoảng sau 1 giờ trưa. Khi vào tới phòng tiếp tân dưới boong tàu, Hưng thấy gần hai mươi cái bàn dài phủ toàn khăn trắng. Trên mỗi cái bàn đó là bánh mì, bánh ngọt, thịt gà tây, cà phê nóng, thuốc lá thơm, và hàng chục chị y tá mặc đồng phục trắng đứng chờ giúp đỡ. Trên tàu lúc đó đã có nhiều phi hành đoàn bay ra trước. Ngày hôm sau, khi nghe tin đầu hàng, anh em đã khóc thảm thiết.
                    Tối hôm 29/4ù ở Cần Thơ, sau khi ăn chúng tôi còn họp lại nhận chỉ thị bảo phải ở lại chiến đấu cùng với anh em ở Sư Đoàn 4. Khi rời phòng họp ra về cư xá sĩ quan độc thân, tôi đã được bạn Đoàn Anh Thuấn bay A-37 ở Cần Thơ dẫn tới cư xá sĩ quan độc thân gặp Võ Văn Thừa cùng khóa 42 HTQS của tôi ngày xưa để kiếm bản đồ. Sau đó Thuấn mặc thường phục ra ngoài mướn phòng khách sạn ở để sáng sau về Sài Gòn. Thừa nhường phòng cho tôi ngủ, trong khi hắn thì lại chuẩn bị xe Honda rời căn cứ. Hỏi thì hắn bảo rằng có thương một cô giáo nhà cách phi trường 30 cây số, và hắn sẽ ra gặp cô. Tôi đã cố can gián nhưng hắn không nghe. Đó là lần cuối tôi được biết tin của hắn. Sau khi Thừa đi rồi, tôi tẩn mẩn xem mấy cái bản đồ không lưu dán trên vách nứa ngăn buồng của Thừa với buồng trong và tìm thấy một bản đồ có vẽ phi trường Cần Thơ và phi trường U-Tapao với khoảng cách chỉ vài phân nhưng cũng đủ cho thấy phương hướng. Lúc đó tôi mới thực sự biết U-Tapao nằm ở đâu trên quả địa cầu.

                    Khoảng 10 giờ rưỡi sáng ngày 30/4 thì ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Tôi và các anh em chạy về hướng phi đạo nhưng các đơn vị phòng thủ của Sư Đoàn 4 còn chăng kẽm gai không cho những ai không có phi vụ lệnh ra phi đạo. Một giờ sau đó những anh em này mới mở hàng rào kẽm gai cho vào, và những phi công chiến đấu cuối cùng mới cất cánh, kẻ thì đi U-Tapao, kẻ thì ra các chiến hạm Mỹ. Khi đáp xuống U-Tapao hôm đó với hai người khách “quá giang” ở ghế sau, tôi đã ngạc nhiên khi có hai thanh niên mặc thường phục đèo nhau trên một chiếc xe Honda chạy ra sơn mất lá cờ và số tàu. Khi được chở về nơi tạm trú, tôi càng hết sức ngỡ ngàng khi thấy đã có rất nhiều người ở trong mấy cái lều khổng lồ. Hỏi ra thì đã có ba ngàn người tời đó trước tôi.

                    Theo lời Võ Thanh Hà kể lại thì một tuần trước khi hạ màn là vợ con của các phi công ở Cần Thơ đã được cho vô phi trường để đi Mỹ. Trong cùng lúc đó một hôm trong một phi vụ mà Hà bay chiếc C&C với Trung Tá Không Đoàn Trưởng Nguyễn Kim Huờn, và Mai Thanh Hoàng đi cùng một ông Trung Úy. Sau khi cất cánh ở Cần Thơ vào lúc 11 giờ trưa được 15 phút thì tàu của Mai Thanh Hoàng bị bắn trúng rớt nằm trên ngọn của một đám cây dừa. Ông trung úy hoa tiêu chánh bị kẹt một cẳng dưới bảng phi cụ không rút ra được, trong khi Hoàng không biết làm sao mà leo ra tuột xuống một cây dừa được và bỏ chạy. Trong khi hai chiếc gun ships bay vòng vòng yểm trợ thì chiếc C&C đã đáp xuống nhưng không biết làm sao. Sau khi gọi về cầu cứu thì một chiếc Chinook tới, nhưng vì cánh quạt chiếc UH-1 đã gãy mất nên không có chỗ để câu. Cuối cùng những người dân địa phương đã hè nhau chặt giúp các cây dừa cho máy bay rớt xuống rồi mới kéo được ông trưởng phi cơ ra.

                    Sau khi mang được ông trung úy trưởng phi cơ ra rồi thì lại phải đi kiếm Mai Thanh Hoàng. Sau đó thì dân chúng báo là đã tìm được một ông phi công ngoài xa lộ. Khi mang được Hoàng về thì đưa thẳng vào nhà thương vì chàng bị gẩy chân. Vợ Hoàng đã từ Sài Gòn xuống lo cho Hoàng, nhưng xui xẻo sao chỉ một tuần sau đó là hạ màn, và bởi Hoàng còn trong nhà thương nên chắc đã bị kẹt lại.

                    Sáng ngày 30/4 Võ Thanh Hà bay cùng với Trung Tá Huờn trên một chiếc tàu biệt phái chở Đại Tá Bá Quân Đoàn Phó Quân Đoàn IV. Khi đài phát thanh tuyên bố đầu hàng thì phi hành đoàn có hỏi Đại Tá Bá nhưng ông tuyên bố sẽ ở lại vì nghe nói rằng một ông tướng cựu tư lệnh Không Quân sẽ về Vùng IV để tiếp tục chiến đấu. Ông Huờn sau đó đã cất cánh chở theo Hà ra Côn Sơn. Sau khi hạ cánh và cánh quạt chưa ngừng quay, ông và Hà đã leo lên một chiếc tàu dân sự lớn của Phi Luật Tân đậu sát bãi biển, nghe đâu của Mỹ thuê chở người Việt di tản. Tàu này chở cỡ năm ngàn người đi bẩy ngày thì qua tới Phi Luật Tân.

                    Ở tại trại tạm trú có quân đội Mỹ trấn đóng trong Subic Bay, mỗi người được phát cho một áo thung và một chiếc quần rộng thùng thình. Ở đó có một ngày thì Hà lên máy bay qua Guam. Nơi đây Hà đã gặp một bạn cũ có tới bốn năm cái quần tây, nhưng khi hỏi mượn một cái thì bạn đó đã từ chối.

                    Một bạn cùng phi đoàn với Hà và cũng ra Côn Sơn rồi qua Guam là Võ Thành Long Châu.
                    Sau đây là phần kể lại của SVSQ 72A KPH Hồ Đắc Tiến ở Không Đoàn 10 Bảo Trì Tiếp Liệu thuộc Sư Đoàn I Không Quân Đà Nẵng. Tối 28/3 ở Đà Nẵng bị pháo kích tơi tả tới nửa đêm thì Tiến rời đơn vị bảo trì F-5 về tư thất của ông anh rể là Trung Tá Mai Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 247 Chinook trong phi trường. Từ nửa đêm tới 2 giờ sáng, Tiến ngồi nghe tiếng A-37 và trực thăng cất cánh tránh pháo kích. Sau đó Tiến gọi lên xưởng bảo trì coi anh em cơ hữu ra sao thì có một anh em trả lời điện thoại và bảo rằng, “Giờ này mà ông còn lo gì nữa, tìm đường dzọt đi!” Tiến xách xe xuống Phi Đoàn 247 lúc 4 giờ sáng thì thấy cả phi đoàn vẫn còn đầy đủ ở đó. Khi Tiến hỏi Trung Tá Mai sao không đi thì ông bảo “Đang chờ lệnh của không đoàn.” Khi gọi lên không đoàn không thấy ai trả lời điện thoại, Trung Tá Mai mới ra lệnh cho anh em cơ khí phi hành ra check xăng nhớt và đưa các anh em phi hành hiện diện cùng gia đình lên 3 chiếc Chinook với mục đích là tạm thời bay đi lánh nạn pháo kích. Bay qua khỏi cầu Dalattre thì cả ba chiếc đáp xuống một bãi đất trống gần cầu để kiểm điểm lại thì thấy mỗi phi cơ có hàng trăm người, chưa kể hành lý và xe gắn máy. Trưởng phi cơ gồm có Trung Tá Mai chiếc thứ nhất, Đại Úy Bôi chiếc thứ nhì, và Trung Úy Mân chiếc thứ ba. Trong ba chiếc này chỉ có chiếc thứ nhì là còn đủ xăng để bay về Phù Cát. Khi bay trở lại phi trường Đà Nẵng lấy thêm xăng thì xăng bị khóa nên không lấy được. Tiến gặp một SVSQ KPH 72A lúc đó làm sĩ quan hành chánh tài chánh của Không Đoàn 41 và xin cho anh ấy lên tàu nhưng trưởng phi cơ từ chối vì tàu đã overloaded. Ông hỏi Tiến rằng “muốn 100 người sống hay là chỉ cứu thêm một người để chết cả?” Thông thường thì tàu nào cũng đầy xăng trong tình trạng ứng chiến, nhưng bởi tiếp liệu vừa bị cắt 300 triệu nên tiếp liệu bị cắt, và xăng bị đình động. Chỉ có A-37 mới luôn luôn có đầy xăng vì những phi vụ thả bom mà thôi. Không lấy được xăng, Trung Tá Mai đành ra lệnh cho cả ba chiếc bay ra đáp ở gần cầu Dalattre trở lại, nhưng khi vừa đáp xong có những người lính TQLC tan hàng đang ở đó. Sợ bị cướp tàu, Trung Tá Mai đã ra lệnh cất cánh lên lại. Trong khi Trung Tá Mai chưa biết phải xử trí ra sao thì chiếc của Đại Úy Bôi đã tách ra bay đi riêng. Còn lại hai chiếc, Trung Tá Mai đã làm liều quyết định bay theo Quốc Lộ 1, tức là đường núi, thay vì bay dọc theo bờ biển. Bởi tàu chở quá nặng nên phi cơ bay rất khó khăn. Lúc đó đã sau sáu giờ nên trời đã sáng. Tiến thấy Việt cộng di chuyển bên dưới nhưng chúng không bắn lên, có lẽ vì chúng biết rằng trước sau gì tàu cũng rớt và sẽ bắt sống được cả tàu lẫn phi hành đoàn. Khi đi ngang Sa Huỳnh thì thấy chiếc của Đại Úy Bôi đang ở dưới đất, có lẽ cả phi hành đoàn đã bị Việt Cộng bắt, nhưng không thể cứu được vì hai chiếc đang bay đều đang chở quá trọng tải. Khi đến Quảng Ngãi thì thấy đang do Việt Cộng kiểm soát nên cả hai chiếc hướng về Phù Mỹ bay tiếp. Khi đó thì đèn fuel flow của chiếc do Trung Tá Mai bay sáng đỏ lên, và chiếc kia cũng báo cáo tương tự. Cả hai chiếc phải đáp khẩn cấp xuống ruộng gần quốc lộ bên kia một trụ sở xã gì đó có treo cờ VNCH, may mà không lật tàu. Khi gọi liên lạc phi trường Phù Cát thì được cho hay là đang bị pháo kích nên không tiếp cứu hoặc lấy xăng ra được. Sau khi những người có súng trong phi hành đoàn ra nấp sau những nấm mộ thì thấy có một người cầm súng từ quốc lộ đi vào. Bởi sợ đó là Việt Cộng nên anh em phi hành đoàn đã lên tiếng đuổi đi. Sau khi người đó quay lưng đi thì trong vòng năm phút sau là đạn pháo kích đã rơi xuống trụ sở xã bên kia quốc lộ, và dân làng kêu lên ơi ới, có lẽ vì có người trúng miểng đạn. Tiến lột lon cùng phù hiệu F-5 và từ biệt trước với ông bà cụ rằng “nếu con có gì thì hãy theo xe đò trở lại Huế.” Vài phút sau thì có một chiếc UH-1 từ Phù Cát đáp xuống cho hai thùng đạn M-60 xăng JP-4. Đang loay hoay đổ xăng vào tàu của Trung Tá Mai thì đạn pháo kích vẫn rơi gần bên. Sau khi quay máy và cất cánh lên được tới 10 ngàn bộ thì tàu hết xăng và phải đáp khẩn cấp nhưng may sao đáp được trong phi trường Phù Cát trong khi phi trường đang bị pháo. Khi lấy xăng xong, Trung Tá Mai đã bay trở lại nơi chiếc Chinook kia còn ở lại để tiếp tế xăng cho họ. Sau khi chiếc thứ nhì về Phù Cát thì cả hai cùng bay về tới Nha Trang khoảng 2, 3 giờ chiều. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Lượng Chỉ Huy Trưởng Sư Đoàn II Không Quân đã gọi phi hành đoàn vào trình diện để bổ xung cho Pleiku, nhưng sau đó lại có lệnh của Trung Tướng Tư Lệnh Trần Văn Minh gọi ra bảo về Sài Gòn. Trên đường về khi ghé Phan Rang đổ xăng thì trời đã tối, và phi trường cũng đang bị pháo kích. Sau đó khi bay qua rừng Sát thì bị dưới đất bắn lên, và trên tàu thì các đại liên cứ theo hướng đạn đỏ mà bắn xuống cùng chuẩn bị sẵn flares để thả chống hỏa tiễn tầm nhiệt. Đến gần Biên Hòa thì lại bị low fuel, nhưng khi xin đáp thì Biên Hòa không cho vì cũng đang bị pháo kích. Thế là hai chiếc
                    Chinook bay về đáp khẩn cấp ở ngay đầu phi đạo Tân Sơn Nhất khoảng 8, 9 giờ tối.

                    Sau khi hai chiếc Chinook đáp xong thì có người ra bảo thừa lệnh Trung Tướng Trần Văn Minh ra đón “các anh hùng từ Sư Đoàn I về.” Anh em trong phi hành đoàn lúc đó bất mãn vì các ông lớn ra đi mà không cho hay. Các anh em phi hành đã được đưa vô trại tạm cư gần cổng Phi Long chờ tái phối trí. Trong thời gian anh em đang chờ ở đó thì các anh em từ Pleiku, Nha Trang, rồi Phan Rang lần lượt kéo về. Tiến được tin báo rằng có một bạn KPH 72A tên Hưng đi nhậu với Na ở Phan Rang bị bắn chết.
                    Trong thời gian chờ tái phối trí, bạn Hồ Đắc Tiến đã đặc trách phân phối các sĩ quan và binh sĩ về các Sư Đoàn III, IV, và V Không Quân. Nơi đây Tiến đã biết rằng trong số tất cả các sĩ quan bảo trì ở Đà Nẵng chỉ có một mình Tiến về được tới Sài Gòn. Trung Tá Bình Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 253 bị bắn rớt dọc đường Đà Nẵng Nha Trang nhưng được cứu thoát. Tiến nghe nói rằng từ Đà Nẵng trở vào Việt Cộng đã dàn sẵn phòng không dọc theo bờ biển để chờ tàu di tản, bởi vậy nếu tàu của Tiến mà bay theo đường đó thì chắc đã bị bắn rồi.


                    Tối 28/4 Biên Hòa thất thủ. Tất cả F-5 từ Biên Hòa đã về Sài Gòn trong tháng 4/75. Ngày 28/4 một phi công tên là Nguyễn Thành Trung đã thả ở khu F-5 và dinh Độc Lập mỗi nơi một trái bom. Tiến xuống khu F-5 gần phi đạo gặp Trung Úy Thanh thì ông ta đã khuyên Tiến rằng “nếu có chiếc F-5B hai chỗ ngồi nào đi thì đi theo đi, vì bởi gia đình vợ con các pilots đã được cho đi thì tất nhiên họ cũng sẽ đi hết.”

                    Chiều 28 Tiến về Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa ăn cơm với ông bà cụ rồi vào thì phi trường Tân Sơn Nhất tiếp tục bị pháo kích. Tiến theo ông anh họ là Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Trợ Lực Biên Hòa đi gặp Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên Tư Lệnh Sư Đoàn V Không Quân để xin giấy phép đi Côn Sơn lập trại gia binh để di tản gia đình Không Quân, vì ở Côn Sơn lúc đó đã có nhiều gia đình binh sĩ Không Quân di tản ra. Khi được sự vụ lệnh ra tới xe buýt thì Tiến bước lui vì không nỡ bỏ ông bà cụ và các em ở lại.

                    Sáng 29/4 khi phi trường tiếp tục bị pháo thì Tiến rời khu cư xá sĩ quan độc thân ở cổng Phi Long ra giao thông hào gần bệnh xá nấp tránh miểng đạn. Nơi đây Tiến đã gặp Đại Tá Thuật Tham Mưu Phó Kỹ Thuật, và hai người đã chứng kiến chiếc C-119 bị bắn rớt ngay phía Bắc phi trường. Theo như Tiến nghe nói sau này thì chiếc C-119 đó đã là phi vụ cuối cùng do phi hành đoàn tình nguyện đi đánh xe tăng ở hướng bắc của Sài Gòn trong khi nhiều chiếc khác đã bỏ đi hết. Tiến đã thấy hai người từ phi cơ nhẩy ra và đang cháy như hai bó đuốc khi rơi xuống. Tiến nhớ hình như có thấy phòng lái của chiếc C-119 đó rơi xuống. Khi hồi tưởng lại chuyện này, bạn Tiến đã ngỏ lời khâm phục sự can trường của phi hành đoàn.

                    Khi Tiến bỏ nơi trú ẩn để chạy thì khi qua khu nữ quân nhân đã nghe tiếng gào thét thê thảm vì họ đã bị pháo trúng. Trên phi đạo nhiều phi cơ trúng pháo đang cháy, và một chiếc C-130 bên Air Việt Nam đã bị đứt đôi. Tiến gặp Thiếu Tá Phương bay C-130 lái pickup chở vợ con đi qua. Tiến cùng ông ta kêu một ông thượng sĩ tình cờ ở gần đó đi check tàu. Khi mở máy xong thì Thiếu Tá Phương mở ramp cho khoảng bốn chục người nữa lên tàu.

                    Khi chiếc C-130 đã cất cánh lên không phận Sài Gòn thì Tiến thấy hai bộ đồ mình đang mặc gồm một bộ quân phục ở ngoài và một bộ dân phục ở trong đều ướt đẫm mồ hôi. Lúc đó Tiến ngồi trong phòng lái và được cho biết rằng tàu đủ xăng để bay tới Nam Dương nhưng Thiếu Tá Phương không biết nên bay đi đâu, vì ông không có chuẩn bị sẵn kế hoạch nào cả, mà liên lạc với Sài Gòn thì không được chỉ thị gì. Thiếu Tá Phương hướng ra Vũng Tàu và gọi U-Tapao thì họ chấp thuận cho đáp.

                    Khi tàu vừa đáp xuống U-Tapao thì có người ra sơn mất lá cờ Việt Nam trên thân tàu. Tiến thấy một chiếc C-47 đáp với một chong chóng. Riêng phần Tiến thì đến được đây là coi như đã ba lần thoát chết, ở Phù Mỹ, Phù Cát, và Tân Sơn Nhất.

                    Ở U-Tapao lúc đó mọi người vẫn còn đang chờ lệnh. Ai cũng còn đang lo lắng vì di tản không có lệnh sợ bị đưa về Việt Nam với tội trạng. Một ông tướng Không Quân Thái Lan đã xuống thanh tra coi tàu. Tới khoảng 3 rưỡi 4 giờ chiều thì có một xe canteen tới cho hamburgers và thuốc lá free muốn bao nhiêu thì lấy. Tiến đã lấy hai gói thuốc dằn túi. Sáng hôm sau là 30/4 thì Tiến ra C-141. Khi tàu này đáp ở Subic Bay ở Phi Luật Tân lấy xăng thì trời đã tối. Máy bay cất cánh bay tới Guam. Mọi người được cho vào một khách sạn dành cho Hải Quân Mỹ.

                    Sau khi đến Guam một tuần thì hồ sơ của Tiến được clear và Tiến được đưa về trại 8 của Camp Pendleton ở San Clemente gần San Diego. Đây là một trại của TQLC Mỹ. Trong trại Tiến đã gặp các anh em 72A KPH như Tân, Thạch, Quý ở Khóa 18 Bảo Trì, Nhượng làm về Tiếp Liệu. Ở đây gần một tháng thì Tiến được sponsored ra và về Sacramento, rồi sau đó thì tự sống lấy thôi.

                    Sau này Tiến nghe nói rằng Tướng Nguyễn Văn Khánh Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân ra hạm đội Mỹ họp và đã bị giữ luôn ở đó. Người chở ông ra đó là Cao Quang Khôi Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 213 cũng bị giữ lại. Sau khi được thả ra về Sài Gòn thì Đà Nẵng đã mất và vợ con ông đã bị kẹt lại ở đó và ông bị điên luôn. Sau 30/4 ông đã bị đi cải tạo hết 13 năm trời.

                    Trần Đôn Điền thì ở Sài Gòn đã chứng kiến cảnh sau đây.
                    Buổi sáng cuối tháng tư ở Sài Gòn mọi người chạy ngược xuôi y hệt cảnh bầy ong vỡ tổ. Những kẻ hôi của không bỏ lỡ cơ hội, và toàn thành phố giống như một bãi rác khổng lồ. Tôi và một người bạn đèo nhau chạy trên đường Trương Minh Ký về hướng Lăng Cha Cả. Khi gần đến lăng, tôi thấy mọi người chạy tán loạn nên vội tấp xe vào lề. Ngay lúc đó tôi nghe tiến trực thăng gần sát bên tai, khi ngước lên thì thấy có một chiếc trực thăng đang đáp xuống một sân thượng, có lẽ do một anh bạn nào đó của chúng ta đang về đón gia đình. Không may cho anh ta, khi đáp xuống được thì cánh quạt chém vào trụ bê tông của nhà bên cạnh. Máy bay thì không lên được nữa nhưng máy vẫn nổ, có lẽ cho tới khi hết xăng. Cả hai tháng sau đó có dịp đi qua, tôi nhớ vẫn còn thấy chiếc tàu chễm chệ nằm nguyên chỗ cũ.”

                    Tiếp theo là lời kể của Nguyễn Hữu Thiện Tuấn.
                    “Một phi công L-19 là Thiếu Úy Hiền Mắt Lồi, một hung thần khét tiếng trong thời gian huấn nhục 72A, đã phải làm một cái force landing xuống đường Nguyễn Hoàng gần trường trung học Petrus Ký. Sau đó tôi đã nhìn thấy chiếc tàu của anh gác cánh trên một cột đèn đường. Minh Voi, một niên trưởng bay L-19 khác, đã kể tôi nghe rằng Thiếu Úy Hiền đã may mắn leo ra được và đi về nhà. Chiếc phi cơ không bốc cháy có lẽ vì đã hết xăng.”
                    Để chấm dứt chương này, hãy nghe lời kể của Đỗ Minh Hùng.

                    "Trong mấy tuần cuối của tháng 4/75, dân chúng Sài Gòn nhốn nháo. Kẻ chạy ngược, người chạy xuôi. Không biết họ đi đâu, nhưng mình là lính, phải chờ lệnh cấp trên. Sau này mới biết cấp trên chạy mất đất từ lâu nên chờ mãi chẳng thấy có lệnh lạc gì. Phần gia đình thì tạm yên tâm, vì hai gia đình của tôi và Thiện Tuấn đã đi ra khỏi Việt Nam bình an.

                    "Tôi còn nhớ buổi chiều hôm đó, bố tôi tất tả chạy vào nhà với giọng bất thường: 'Cả nhà thu xếp lẹ, chỉ lấy những đồ dùng tối cần. Phải đi lên phi trường cho kịp chuyến bay.' Ông nhìn tôi dò hỏi. Tôi trả lời: 'Gia đình cứ đi trước. Con có máy bay, đi lúc nào chẳng được.'

                    "Người yêu tôi đứng chết trân. Nàng hết nhìn gia đình tôi rồi lại nhìn tôi. Tôi muốn đưa nàng đi, nhưng ngại mang tiếng vì chưa cưới hỏi. Vả lại, có lẽ Thiện Tuấn còn ở đâu đây. Mỗi ngày, tôi và Tuấn đều gặp nhau cà phê cà pháo. Có gì, Tuấn sẽ bàn với tôi. Tên này từng có kinh nghiệm chạy làng ở Đà Nẵng.

                    "Sáng ngày 29/4, tiếng súng đì đẹt khắp nơi như đêm 30 tết. Thiện Tuấn đi đâu mất tiêu từ mấy ngày qua. Tôi hay mượn chiếc xe Honda 90 mua bằng tiền đi Mỹ của hắn để lên phòng hành quân hay đi chơi với đào. Tôi mặc đồ bay chạy sang nhà người yêu mượn chiếc xe Honda dame của ông chú nàng. Cổng Phi Long mở ngỏ, người ra, kẻ vô. Súng lớn súng nhỏ quẳng đầy đường cùng quân phục, nón sắt, ba lô. Hơi quái chiêu.

                    "Tôi vào phòng hành quân phi đoàn. Không còn ai. Tôi chạy ra bãi đậu A-37 thì có anh bảo trì cho biết rằng các chiếc tốt đã cất cánh từ đêm trước, còn lại là những chiếc dởm. Bởi tay nghề mình giỏi quá nên không dám liều.

                    "Đang đứng tần ngần thì một chiếc L-19 taxi ngang. Anh phi công thò đầu ra hỏi: 'Đi không cha nội?' Đi thì đi, một phản ứng tự nhiên. Chưa kịp dọt lên thì ông Thiếu Tá Nghĩa phi đoàn phó phi đoàn tôi ở đâu tới chận lại: Chú Hùng ở lại đi chuyến sau nhé, gia đình anh tất cả đang ở Cần Thơ.' Tôi trả lời: 'Thiếu tá cứ đi trước đi, tôi sao cũng được.'

                    "Tôi chạy lang thang. Đi chẳng xong, ở thì chẳng biết phải làm gì. Một đám phi công chạy lại, trong đó có ông Đại Tá Thi, phi đoàn trưởng của tôi. Ông bảo ra cơ quan MACV sẽ có trực thăng Mỹ đến đón. Tới nơi thì thủy quân lục chiến Mỹ lên đạn không cho đến gần cửa. Chúng tôi đang đứng lảng vảng, bỗng vang một tiếng nổ chát chúa. Đám thủy quân lục chiến chạy cuống cuồng, la hét rầm rĩ. Sau này tôi mới biết quả đạn pháo kích đó làm tử trận hai anh lính Mỹ, hai người Mỹ cuối cùng chết 'cho chiến tranh Việt Nam'. Một hồi lâu sau thì các anh em phi công mới chui ra từ các hầm trú ẩn.

                    "Lúc này có thêm một mớ sĩ quan từ bộ tổng tham mưu nhập bọn. Có tiếng trực thăng vọng lại càng lúc càng gần. Rồi đáp xuống là một chiếc tàu mang cờ hiệu Việt Nam. Cả bọn chạy nước rút; tôi tới trước nhất nhẩy ngay vào giữa lòng tàu. Nhìn lên phía trước thấy phi công là một tên 72A là Tạ Hoàng. Tên này mới ở Mỹ về, không biết đã được check ride chưa. Dù sao nó lái được trực thăng còn mình thì không. Tôi hỏi hắn: 'Làm gì mà đáp lang thang ở đây?' Hắn trả lời rằng hắn còn ở đó vì vừa đưa một nàng chạy loạn trong phi trường về nhà xong trở lại. Tôi nghĩ thầm: 'Đúng là phe ta, tới giờ này thấy đàn bà con gái mà đầu óc còn tối thui'.

                    "Ông phi đoàn trưởng tôi ngồi ghế phi công phụ giúp kiểm soát đồng hồ phi cụ. Chiếc tàu lúc này đã đầy ứ người. Hai ba người ngồi lên cổ và lưng tôi. Tàu cất cánh lên được bốn năm thước rồi rớt uỳnh xuống như cục đá. Tôi thấy đau ở chân, bí tất đỏ thẫm máu. Một anh phi công kêu gọi những ai không biết lái máy bay đi xuống. Nhiều người cự nự. Anh giải thích: 'Các phi công đi được mới đem được thêm máy bay về cứu .' Thế là vài anh bỏ xuống.

                    "Cất cánh lần này nhẹ nhàng hơn, nhưng con tàu cứ quay vòng vòng. Tôi nghĩ chắc chết. Tàu rớt xuống đất. Các cánh quạt chém đất xoành xoạch. Mọi người nhẩy vội ra và chạy về hầm trú ẩn. Chiếc trực thăng nổ tung.

                    "Lúc này đám người chia làm hai nhóm đi riêng rẽ. Một bên là nhóm phi công, bên kia là bộ binh. Tôi đi theo thầy tôi. Bây giờ mới có thì giờ tỉnh táo nhìn chân dung các đấng phi hành. Đa số thuộc Phi Đoàn 534 Kim Ngưu. Thiên Lôi 524 và Ó Đen 548 bay mất tiêu từ đêm trước.

                    "Một chiếc C-119 đang taxi về hướng phi đạo. Chúng tôi lái xe chận đầu phi cơ lại. Phi công C-119 năn nỉ hãy để hắn ra phi đạo rồi hãy lên, chứ đứng chàng ràng là ăn đạn pháo kích một lũ. Chúng tôi thấy có lý nên để hắn đi và chạy theo sau. Tới phi đạo, chiếc tàu nhấn ga cất cánh không đón một ai. Chúng tôi nhìn theo hướng máy bay chửi thề ỏm tỏi, riêng tôi thấy mất mát thật nhiều. Bỗng về phía Hóc Môn có vài ngọn khói đen lằng ngoằng như con rắn hướng về chiếc C-119. Hình như là SA-7. Chiếc C-119 bị rắn cắn đâm nhủi về hướng Chợ Lớn. Chúng tôi thở phào. Thoát một lần nữa. Ở đời có khi cái họa liền với cái may. Cũng còn hên.

                    "Đói và khát, chúng tôi trực chỉ câu lạc bộ. Cửa có móc xích khóa hai ba vòng. Một tràng M-16 là
                    cánh cửa bật tung. Cứ như là trong phim mafia. Chúng tôi ăn mì gói sống, uống nước ngọt. Một phi công bước vào tuyên bố anh biết có một chiếc C-130 bay được. Anh cần người biết đổ xăng. May sao trong nhóm tôi có người biết. Mọi người nhào hết lên phi cơ, kể cả nhóm bộ binh, mà phi cơ vẫn còn dư chỗ.
                    "Tàu từ từ lăn bánh ra phi đạo. Tôi yêu cầu các hành khách ai có súng thì khóa chốt an toàn. Mọi người vui vẻ chuyện trò. Thiếu Úy Khôi khóa 69A trong cùng phi đoàn tôi tuyên bố có mang theo hơn 100 cây vàng. Qua Thái Lan anh em không sợ đói.

                    "Tôi nhìn ra cửa sổ về những hàng cỏ dài chạy ngược về sau. Tôi nhớ người yêu. Tôi tự hỏi không biết Thiện Tuấn ở đâu. Không có câu trả lời, nhưng sao ở tốc độ quá cao rồi mà máy bay chưa cất cánh. Bỗng máy bay thắng gấp, chòng chành chạy lạc ra khỏi phi đạo, rồi lật nghiêng. Lửa bắt đầu phùn phụt từ cánh trái. Thiếu Úy Sơn Đầu Bò của Khóa 74-08 Sheppard mở tung cửa nhẩy xuống. Tôi nhẩy theo, rồi co cẳng chạy.

                    "Hơi lửa nóng hừng hực. Tiếng khóc gào từ trong chiếc máy bay vọng ra. Tôi không thể diễn tả nổi cái kinh hoàng lúc đó. Thiếu Úy Sơn không biết nhẩy kiểu gì mà nằm luôn không nhúc nhích. Tôi đứng xa nhìn một cách bất lực. Sau này mới biết anh phi công đã chạy thật nhanh trên phi đạo chỉ để tránh pháo kích chứ chưa định cất cánh. Khi gần đến cuối phi đạo, anh thắng lại tính để đón gia đình anh và gia đình phi công trưởng.

                    "Chán quá. Thôi đi về. Dù sao vẫn còn người tôi yêu và cũng là người yêu tôi. Chùm bong bóng đỏ đã bay mất rồi. Chỉ còn người nằm chết rải rác. Một phi công tự sát nằm chết cạnh chiếc F-5. Tôi đi tìm chiếc Honda mà tôi đã mượn của chú người yêu tôi. Không thấy. Có một chiếc khác có chìa khóa sẵn. Kệ mẹ nó, ra khỏi phi trường rồi tính. Vừa nổ máy, một anh trung sĩ dọt tới: 'Thiếu úy ơi, xe này của em. Em có giấy chủ quyền đây nè.' Tôi trả lại xe, chẳng cần xem giấy. Khi đi bộ ra phía cổng mới nhớ mình có cái chân đau. Vừa khỏi cổng Phi Long thì một bà mẹ chận tôi lại cho tôi bộ đồ dân sự và bảo thay áo bay ra. Xin cảm ơn các bà mẹ Việt Nam.

                    "Tôi ghé nhà người yêu trước. Thấy tôi đi bộ vào là nàng biết chiếc Honda đã mất. Nàng lau máu và săn sóc vết thương ở chân cho tôi.
                    "Tôi đến nhà Thiện Tuấn và hy vọng hắn có đó. Y chang. Hắn đang cởi trần nằm nhìn nước chảy dưới dòng sông. Hắn nhìn tôi cười: 'Ông chạy làm chi cho mệt. Tôi chạy ở Đà Nẵng đủ rồi.'
                    "Tuấn và tôi chẳng nói gì nhiều. Pha cà phê, châm thuốc lá. Một lúc sau, em một thằng bạn chạy vào đưa tôi một cây súng ru lô. Tôi với Tuấn bàn chuyện tự sát, nhưng không biết thằng nào nên bắn thằng nào trước.

                    "Cuối cùng chúng tôi vất cây súng xuống sông. Không đi được. Không chết được. Thì phải sống."
                    Như thế là xong một màn. Kể ra thì khóa 72A có thể được xem là may mắn. Tính sổ lại thì tới cuối tháng tư 75 đó mới có bốn anh em chết: Nguyễn Văn Chiến tức Chiến Răng Vàng, Lê Minh Hải tức Hải Cải Lương, Nguyễn Thanh Quan, và Dương Hồng Sơn. Hình như còn Tuấn Babilac nữa, nhưng chuyện những người đã chết xin để dành cho một chương sau.

                    Last edited by hung45qs; 05-03-2011, 04:55 AM.
                    Hung45HTQS

                    Comment


                    • #11
                      Hậu Trường Sau Cuộc Chiến



                      Vào ngày 10/5/75, những người lính miền Nam không chạy kịp đã bắt đầu bị tập trung ra trình diện học tập cải tạo để bị giết lần mòn trong một cuộc trả thù tàn bạo của cộng sản. Trong tháng 6/75, cùng với số phận của tất cả các sĩ quan QLVNCH, Nguyễn Tiến Cường cùng ông anh ruột tên Dũng là cựu sĩ quan cán bộ trại Ngân Hà ra trình diện học tập 10 ngày tại trường Lê Văn Duyệt ở Dakao. Sau khi làm thủ tục nhập trường và đóng tiền cơm cho tiệm Á Đông, Cường lần mò quanh trường tìm người quen nhưng không thấy ai. Vào nửa đêm hôm sau thì Cường thức giấc vì tiếng ồn ào của các xe Molotova đến trước trường. Một tiếng sau thì những người trình diện được chia thành từng toán 30 người cho mỗi chiếc xe và được hai vệ binh canh giữ. Theo tiếng quát tháo của các vệ binh miền Bắc họ bị lùa lên xe chật ních như cá hộp, nhích được cái chân là một sự khó khăn vĩ đại. Thỉnh thoảng lại có tiếng chửi thề của ai đó khi bị người bên lấn áp. Xe chạy vòng vòng làm không ai đoán được là đang bị chở đi đâu. Năm tiếng sau thì xe ngừng cho tất cả xuống làm vệ sinh cá nhân. Lúc đó thì mới biết rằng đang ở trên quốc lộ đi về hướng biên giới Cam Bốt. Lúc này thì có lời bàn tán rằng chắc cả bọn đang bị đưa đi thủ tiêu như thời Khờ Me Đỏ chiếm Nam Vang giết các binh lính của chế độ cũ. Chạy thêm vài tiếng nữa thì những người đi học tập được bỏ xuống căn cứ Trảng Lớn Tây Ninh. Đây là một doanh trại lớn mà trong năm 72 quân đội ta đã làm nơi tập trung trước khi tiến đánh Cam Bốt, và cũng là nơi mà Đại Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn máy bay khi đang chỉ huy cuộc chiến.

                      Ở đó được một hai tuần rồi mà không thấy nói gì đến ngày về thì ai cũng hoang mang. Có người hỏi quản giáo thì chỉ được trả lời vẩn vơ. Sau ba tuần thì quân đội miền Bắc đến tiếp thu trại. Họ bảo: “Các anh nên đọc kỹ lệnh. Chỉ thị là mang lương thực cho mười ngày chứ đâu phải là học tập mười ngày!” Đó là kinh nghiệm đầu tiên của người học tập về lối chơi chữ tinh vi của người cộng sản. Họ bắt các người học tập xây cất nhà cửa với những thùng đạn pháo binh và tôn cũ của doanh trại. Một tuần sau thì có người tự tử mà không được cứu chữa, và chuyện này làm cho mọi người học tập hiểu rằng ngày về rất xa xôi.


                      Sau khi quân đội miền Bắc cai quản chia ra từng khối rồi tới đội thì Cường gặp lại nhiều anh em Không Quân trong đó có Đỗ Hữu Phương và Nguyễn Thiện Nhượng. Phương đã di tản bằng đường bộ từ Đà Nẵng về Cam Ranh bằng những chiếc xe gắn máy và xe đạp nhặt được trên đường. Vài tháng sau khi đi lao động trên trung đoàn thì gặp thêm Trần Thanh Liêm, Nguyễn Hữu Thiện Tuấn, Đỗ Minh Hùng, và Đoàn Anh Thuấn. Gặp nhau nhưng chỉ nhìn nhau cười thế thôi, vì cho đến vài ngày sau mới có dịp chia nhau được điếu thuốc lào thuốc rê trong những giờ giải lao. Trong tù thì chỉ có miếng ăn với điếu thuốc là quý. Khi lên trung đoàn đi lao động thì nhiều người tù chỉ mong nhặt tàn thuốc vấn lại hút cho đỡ ghiền, và nhiều khi chỉ vì những mẩu tàn thuốc mà xẩy ra chuyện cãi vã thật tủi hổ cho thân thế kẻ thất trận.

                      Đầu năm 76 thì Nguyễn Thiện Nhượng có tên trong danh sách đi ra Bắc, có lẽ vì bị xếp vào thành phần gia đình phản động vì bố Nhượng là mục sư và gia đình đi Mỹ trước ngày mất nước. Người bạn đáng thương này đã chết vào khoảng năm 81 trong một chuyến vượt biên thất bại trên sông Sàigòn khi bị công an bố ráp tàu.

                      Giữa năm 76 thì Phương bị chuyển đi Long Khánh, trong khi anh em Cường thì đi Phước Long. Trong một khu rừng già không nhà cửa dân chúng, sau mấy tháng đốn cây đã dựng xây nên một khu trại chứa khoảng 500 người tù. Vài cây số cách đó là sáu bẩy trại khác. Trong những dịp nghỉ, các anh em Không Quân cũ thường hay lén qua các trại khác thăm nhau cho đời bớt phần cô quạnh. Những khu trại này đã được bộ đội cho rằng không có tù nào thoát được, thế mà cũng đã có năm người trốn thoát.

                      Tết năm 77 thì Cường được thả về và đã gặp lại Nguyễn Hữu Thiện Tuấn, Đoàn Anh Thuấn, và Đỗ Minh Hùng tại Sàigòn. Nhà Cường lúc đó hai ông bà cụ ở, và chỉ còn một món khả dĩ ngon miệng là con vịt của thằng em kế nuôi từ trước khi đi vượt biên để lại nhờ bà già săn sóc dùm. Con vịt này hôm đó đã được bốn chàng cùng vài người bạn tù cũ khác săn sóc kỹ. Trong buổi say sưa đánh ngã nhiều chai đế, Thuấn đã hát bài Nghìn Trùng Xa Cách làm bà cụ của Cường rơi nước mắt vì nghĩ tới hai đứa em Cường đã đi vượt biên năm 76. Tuấn thì tự hát và khóc một mình. Hùng thì lả lướt vài đường bebop với vợ bằng tiếng đàn ghi ta dã chiến. Trong phút say sưa quên đời đó mấy anh em đã la rầm rĩ “See you in California” lúc chia tay, quên cả sợ công an bắt bớ. Ngày hôm sau thì mới hay là vì các cô nhân viên trụ sở phường ở căn nhà bên cạnh mết tiếng hát của các chàng cựu phi công hào hoa nên đã chở che cho. Có lẽ những cô em tốt bụng đó đã không ngờ rằng lời chào giã biệt của các anh sau đó đã trở thành sự thật.

                      Câu chuyện của Cường viết liên tục, mạch lạc, và đủ đầy chi tiết. Nó khác lạ bởi những năm sau 75 đó là khoảng thời gian nhạt nhòa mơ hồ rời rạc như những truyện dài đăng từng kỳ trên nhật báo mà tờ còn tờ mất. Quang Đen tự sát ngay sau khi miền Nam đầu hàng. Nguyễn Hữu Thiện Tuấn thì bị túm đi hơn 3 năm trời. Hãy nghe chính lời của Tuấn kể về Ba Năm Tù Cải Tạo của mình.
                      “Đỗ Minh Hùng ở Phi Đoàn Kim Ngưu và tôi cùng đi tù cải tạo lần thứ nhất tại phi trường Trảng Lớn thuộc tỉnh Tây Ninh. Tại trại này tôi có gặp Nguyễn Thiện Nhượng và Nguyễn Thanh Liêm.
                      “Nhượng là một trong 14 anh em đậu anh văn về Sài Gòn đầu tiên, một phi công mẫu mực và có chí khí. Là con của một giáo sĩ Công giáo, sau khi thoát trại đã tham gia chống chính quyền Cộng sản, và nghe nói là đã bị giết. Nguyễn Thanh Liêm thì chưa bao giờ tôi gặp lại. Riêng Nguyễn Tiến Cường thì tôi còn dịp gặp lại sau này tại Việt Nam và tại Mỹ. Cường là một thanh niên vừa có máu nghệ sĩ vừa có máu dân chơi đáng nể.

                      “Có lần bọn cán bộ bắt chúng tôi đi tháo gỡ mìn claymore và mìn 3 râu chống tăng gài ngoài vòng đai phi trường từ thời trước. Dụng cụ gỡ mìn thì chỉ có cuốc xuổng. Một tổ kế bên chúng tôi đã bị mìn nổ chết ba người và một số bị thương, và bọn tôi đã phải đi lượm từng cánh tay bàn chân về chôn. Có người bị miểng lựu đạn ghim vào mắt bị y tá Việt cộng móc mắt hư ra không thuốc tê kêu la thảm thiết. Sau khi móc mắt ra rồi thì chỉ có nước đun sôi để rửa chứ không có được rượu cồn hay thuốc đỏ sát trùng. Trong tình cảnh tuyệt vọng đó, có người đã treo cổ hoặc nhẩy đâm đầu vào đá ong dưới đáy giếng tự tử. Có người thất chí điên khùng đi lang thang vào nhà cán bộ bị chúng bắn chết. Giống như những xã trưởng ấp trưởng ở những vùng thôn quê thiếu an ninh trong thời đầu thập niên sáu mươi, nếu ai bị Việt cộng gọi đi ban đêm mà không thấy trở về thì coi như đã chết. Một anh bạn quen của tôi vì trốn trại bị chúng dùng cây đập chết rồi khiêng như quảy heo đi quanh trại để dằn mặt chúnh tôi. Một cựu sĩ quan thiết giáp lén vào chòi canh giựt súng của vệ binh bị chúng mang xử tử trước cả trại.

                      “Hùng và tôi có lần bị chúng gọi riêng để thẩm tra và bị ăn đấm rêm mình vì bị bọn cán bộ kết cho hai tội. Tội thứ nhất là làm phi công. Trên chiến trường chúng ghét và sợ quân đội VNCH theo thứ tự sau: Nhất Phi Nhì Pháo Ba Dù . Tội thứ hai chúng ghép cho chúng tôi là người của CIA được gài lại để hoạt động vì có gia đình đã rời Việt Nam. Vì thiếu dinh dưỡng và vệ sinh, dịch kiết lỵ hoành hành. Tôi cũng đã có lần bị đưa sang khu nằm chờ chết. Nhờ cơm cháy và số chưa tận, tôi hồi sức bình phục. Hùng thì bị sốt rét rất nặng nhưng cũng nhờ may mà thoát chết .

                      “Một năm sau thì Hùng và tôi bị dời đi trại Đồng Bang gần Ka Tum và núi Bà Đen cũng thuộc Tây Ninh sát biên giới Cam Bốt. Hôm chuyển trại, đoàn xe Molotova vừa rời khỏi cổng một quãng thì có những phụ nữ và trẻ em chạy xe gắn máy kè theo và ném đồ vào chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi tưởng là họ ném đá vì căm thù theo lời hăm dọa của bọn cán bộ cộng sản hăm dọa, ngờ đâu những thứ họ ném vào xe toàn là bánh trái. Tôi thấy hân hoan như được hồi sinh và biết ơn những nghĩa cử bất chấp hiểm nguy của họ. Niềm an ủi lớn nhất cho chúng tôi là quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã không thua cuộc chiến ý thức hệ trong lòng dân chúng.

                      “Trong một năm ở trại Đồng Bang, tôi tính chuyện trốn trại với Tâm, một cựu Trung Úy Đại Đội Trưởng Trinh Sát nhưng không thành. Sau này khi gặp lại anh ở Sài Gòn trong thời gian tôi lẩn trốn tìm đường giây kháng chiến, anh kể là đã trốn trại một mình và đã ám sát tên cán bộ xã ở quê anh để chứng minh cho ý định gia nhập tổ chức kháng chiến. Khi nghe ý tôi muốn anh móc nối cho tôi, anh đã khuyên tôi nên tìm cách rời Việt Nam vì tình hình rất khó khăn. Từ đó tôi mới nghĩ tới chuyện ra đi.

                      “Trại tù thứ ba mà Đỗ Minh Hùng và tôi đã ở là trại Bù Gia Mập cũng gần biên giới Cam Bốt trên đường đi Bù Đốp gần hai núi Ông Yểm và Bà Rá thuộc tỉnh Phước Long. Đây là vùng ngày xưa Pháp đã dùng để đầy tù nhân Việt. Trong trại này Hùng và tôi đã gặp những anh em 72A như Trần Thanh Liêm thuộc Phi Đoàn 534, Nguyễn Văn Dân Phi Đoàn 255, Hải Phú Quốc (Hải Mù), và Nguyễn Thiện Chí. Hùng, một bạn 72A khác, và tôi dự tính trốn nhưng không được.

                      “Sau một năm ở trại Bù Gia Mập, chúng tôi bị đổi từ trại cải tạo qua vùng kinh tế mới, tức là trong một hình thức quản lý khác của cộng sản. Hùng bị về tỉnh Minh Hải ở Cà Mau, còn tôi thì đi vùng Kinh Trà Cú gần Đức Hòa thuộc Tây Ninh cũng sát biên giới Miên. Từ đây tôi đã trốn qua lối Thủ Thừa, Long An, và sau đó rời Việt Nam vào tháng 8/78. Thế là ba năm lính được tính gọn bằng ba năm tù cải tạo.”


                      Theo lời Trần Văn Tỵ tự Tỵ Già Bắc kỳ thì năm 75 chàng lấy vợ xong mới được mười ngày thì đã vô tù. Đến năm 81 Tỵ mới về, sau cả Nguyễn Thanh Phương và Nguyễn Thiện Nhượng, mà người cuối
                      cùng là con một mục sư Tin Lành khu Xóm Chiếu. Lý do mà Tỵ bị tù lâu là vì nhà Tỵ ở Hố Nai được cai tù coi là một "trọng điểm chính trị" vì dân ở vùng này hầu hết theo Công Giáo. Hơn nữa, cả ba người vừa kể đều là dân du học ở Mỹ về.

                      Trở lại tối ngày 29/4/75, sau khi đã dẫn tôi tới gặp Thừa để kiếm bản đồ thì Thuấn mặc thường phục ra ngoài mướn phòng khách sạn ở để sáng sau về Sài Gòn. Tối đó Việt Cộng đã vô cần Thơ bắn súng ăn mừng. Sáng sau Thuấn đáp xe đò về với gia đình ở Sài Gòn. Một hôm Thuấn gặp Chu Văn Hùng đang chạy xe Honda trên đường Chi Lăng gần nhà Thuấn, và Hùng bảo mới lấy vợ. Sau đó không lâu thì Thuấn ra trình diện và sau đó bị cùng với những sĩ quan thuộc cấp úy khác đi Ka Tum vùng Tây Ninh học tập.

                      Ở Ka Tum chưa đầy bốn tháng thì Thuấn được thả về, tức là được về trong đợt sớm nhất. Một lý do là vì khi làm tờ tự khai Thuấn đã khai là "khóa sinh phi tuần viên", nên được coi là trường hợp nhẹ. Tuy nhiên, lý do chính mà Thuấn được về sớm là nhờ may mắn. Trong thời gian đó, chính quyền Việt Cộng đang cố gắng lấy tiếng với dư luận quốc tế là đối xử nhân đạo với các cựu quân nhân của miền Nam cũ nên họ đã thả ra một số nhỏ.

                      Sau khi được chở từ Tây Ninh về cùng 72A Lê Văn Cảnh tới trại Sóng Thần của TQLC cũ ở Thủ Đức, trong ngày những người tù được thả và có phóng viên báo chí ngoại quốc hiện diện, Trần Văn Trà đã lên nói với các người tù rằng "các anh học tập tốt và được chế độ khoan hồng". Lúc đó mỗi người tù phải có người thân lên lãnh thì mới ra được. Thuấn thì có gia đình ở Sài Gòn lên đón về. Lê Văn Cảnh thì không có gia đình nên đã nhờ Thuấn về Sài Gòn tìm dùm một cô bồ là sinh viên dược khoa lên lãnh. Người con gái ấy sau đó đã thành vợ Cảnh.

                      Gia đình Thuấn lúc ấy vẫn ở trong cư xá Chu Mạnh Trinh Phú Nhuận. Thuấn đã về ở đó và cứ mỗi tuần phải ra trình diện kiểm thảo và chờ đi vùng kinh tế mới. Sống trong cảnh bấp bênh được ít lâu đâm chán nản, Thuấn bỏ về Mỹ Tho là bên quê nội, nhưng một thời gian sau thấy không xong lại về ở Sài Gòn. Tình cảnh thật khó khăn, bởi ba của Thuấn trước 75 làm quản thủ thư viện cho đài phát thanh Sài Gòn và viết cho báo Tia Sáng nên thuộc thành phần bị theo dõi gắt gao. Hai cha con không thể ở Sài Gòn được nữa nên vào năm 78 đã cùng nhau lên làm ở công trường Sông Rây ở Long Khánh, là nơi làm ván lót sàn nhà.

                      Ông cụ của Thuấn là một người quảng giao và thích phiêu lưu. Thời trước 54 ông đã đi bộ từ Mỹ Tho ra tới Hà Nội để theo học trường Mỹ Thuật Hà Nội và đã tốt nghiệp ở đó. Ở Hà Nội, ông đã quen với hai thi sĩ Xuân Diệu và Huy Cận, cũng như trong Nam ông đã quen với Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc. Sau 75, hai người bạn cũ của ông từ xưa ngoài Bắc khi có dịp vô Nam đã ghé thăm ông. Bởi chính kiến khác nhau nên tình bạn cũ đã chỉ còn được một lần thăm đó.

                      Tại công trường Sông Rây, gỗ tươi đốn ở rừng về được xẻ ra thành từng miếng nhỏ bó lại để xuất khẩu. Chính vì những công trường loại đó mà chỉ sau vài năm rừng Việt Nam hầu như không còn gỗ.
                      Khi Nguyễn Hữu Thiện Tuấn và Đỗ Minh Hùng ra tù về thì Thuấn có gặp được một thời gian ngắn trước khi lên công trường. Ba thằng chơi thân với nhau, dù rất đói nhưng cũng thường ráng kiếm tiền đi uống cà phê để ngồi nói chuyện đời cho đỡ xuống tinh thần. Sau khi Thuấn lên công trường thì Tuấn đi vượt biên đầu tiên rồi tới phiên Hùng, và Thuấn là người đi sau chót.
                      Bây giờ hãy nghe Đỗ Minh Hùng kể chuyện vượt biên.

                      "Vợ chồng tôi vượt biên thất bại sáu bẩy lần. Lần mất nhiều lần mất ít, nhưng may là chưa phải tù tội. Có lần tôi đi một mình vì vợ sắp sanh. Đang nằm chờ giờ ra bãi ở Vũng Tàu, đuoc tin nàng sanh, tôi bỏ về Sài Gòn. Ngày 19/10/79 là ngày chào đời của Tiến Biên, đứa con đầu lòng của chúng tôi. Thằng nhỏ dễ nuôi, ít khóc vô cùng.

                      " Gia đình bên vợ tôi đã quen với cảnh chúng tôi sáng giã biệt, chiều gặp lại bao lần. Sau mỗi lần thua, chúng tôi cười xòa tự an ủi: 'Mình còn có nhau. Của đi thế người.'
                      "Có lúc thua hết không còn tiền ăn. Không ai tin chúng tôi có gia đình ở Mỹ mà lại túng thiếu như thế. Về nhà lục lọi, cái gì bán được là cho đi. Vợ tôi còn hai cái quần sì líp mới toanh từ bên Mỹ gởi về chưa kịp mặc, tôi đem ra chợ trời. Người mua ngó tới ngó lui sợ đồ giả hoặc mạc rồi. Cuối cùng bán được đi mua một ít khoai lang, và vợ chồng lại nhìn nhau hạnh phúc.
                      "Của đáng tội. Gia đình tôi bên Mỹ làm ngày làm đêm gởi tiền về cũng không bù kịp với những lần mất mát. Chúng tôi như chim bị tên, thấy cây cong là sợ. Có những chuyến đi họ tìm đến, chúng tôi bàn cho vui rồi quên, sợ lại thua rồi chỉ khổ cho gia đình.

                      "Cái tết năm 81 không vui như các năm trước, vì chúng tôi một lần nữa lại định ra đi. Lần này chuyến đi có vẻ thật, vì do anh em cột chèo bên vợ giới thiệu, và chắc vì có mua bãi. Cái không khí chia ly bao trùm những bữa cơm, hoặc những lúc gia đình họp lại chuyện trò. Tự nhiên vợ chồng tôi có linh cảm sẽ đi được.

                      "Giã từ gia đình vợ tôi xong, vợ chồng tôi đi thật le khỏi nhà. Cái trạng thái lâng lâng, buồn buồn khác với lần tiễn biệt gia đình tôi đi Mỹ tháng 4/75. Chúng tôi bế con mới hơn một tuổi lên xe đò hướng về Vũng Tàu. Trên đường đi, chúng tôi thoát qua nhiều trạm xét hỏi trong sự hồi hộp lo lắng. Đến trạm cuối, tôi phải để lại cái nhẫn cưới mới đi qua.


                      "Chúng tôi đến Vũng Tàu vào giữa trưa. Sau khi viếng thăm một gia đình họ hàng, tôi đi ra phố ăn uống với họ cho có vẻ người địa phương khỏi ai dòm ngó. Vợ tôi bồng con đi lang thang cho hết giờ. Về chiều, khi gặp lại, nàng khoe một tấm hình dưới tượng Phật hai mẹ con mới chụp chung. Tôi thầm hỏi: 'Sao chỉ có hai chụp hình, trong khi ba người cùng đi?' Tôi ghét mê tín dị đoan, nhưng cái điềm coi bộ không lành.

                      "Đến tối, chúng tôi được hướng dẫn tới bãi. Dù đã đấm mõm công an địa phương, chuyến đi cũng cần phải được giữ bí mật tối đa. Để giữ sự yên lặng, con tôi được chích một mũi thuốc mê để ngủ cho thẳng giấc.

                      "Tới giờ lên ghe, người ở đâu tuôn ra quá nhiều. Thì ra họ đã được phân tán mỏng trong các nhà lối xóm gần bãi. Xăng và lương thực được chuyển xuống. Chúng tôi được chỉ định ở dưới hầm máy. Tiếng máy nổ ồn ào cộng mùi xăng ngộp thở. Người lớn chịu còn không nổi, huống chi con nít. Con tôi tỉnh giấc òa khóc, dỗ sao cũng không nín. Một ông bác sĩ chích thêm cho nó một mũi thuốc mê nữa, nhưng thằng bé càng khóc to hơn. Có lẽ thuốc đã hết hạn không còn công hiệu. Con tôi bình thường không khóc, sao lại dở chứng lúc này!

                      "Ai nấy đều lo sợ. Trong cơn khủng hoảng, tôi dùng nắm xôi bịt miệng con tôi. Nó càng vùng vẫy, khóc lớn hơn nữa. Sau cùng, vợ tôi nói: 'Anh ơi, thôi đừng làm chết con. Để em bồng nó lên bờ.' Tôi nhìn mọi người chung quanh với cặp mắt thù hằn. Dù không trực tiếp, họ là những người ly cách chúng tôi.

                      "Ra khỏi hầm tàu, thằng bé nín khe, dựa đầu lên vai mẹ ngủ. Xăng nhớt và lương thực vẫn được tiếp tục chuyển xuống tàu. Tôi nhìn lên bờ thấy vợ vẫn nhẫn nại bồng con. Hình ảnh đó nhắc cho tôi nhớ rằng cả một đời qua, từ lúc quen tôi, nàng lúc nào cũng sống trong khắc khoải. Lo lắng trong những lúc tôi mặc áo bay lên ca, không biết có trở về. Lo lắng trong những đem tôi mải chơi về muộn Lo lắng lúc tôi đi cải tạo, không biết ngày nào ra. Lo lắng cho tương lai tôi sau khi cải tạo đã về...

                      "Lòng tràn ngập tình thương cảm, tôi bò lên bờ. Tên chủ tàu dí súng lục vào bụng tôi, gằn giọng: 'Bộ muốn phá hả?' Tôi lạnh lùng nhích mũi súng lên phía trái tim tôi: 'Anh muốn bắn tôi, làm ơn bắn ngay đây, chết cho lẹ. Nếu vợ con tôi không đi, tôi không đi nữa. Tiền bạc anh cứ giữ.'

                      "Không biết làm sao hơn, tên chủ tàu dịu giọng: 'Thôi anh xuống trước đi. Nếu cháu không khóc nữa, tôi sẽ để chị và cháu xuống tàu.'
                      "Tàu chuẩn bị rời bến. Chủ tàu ra hiệu cho vợ con tôi xuống tàu trở lại. Vừa xuống hầm tàu rầm rĩ tiếng máy, con tôi bật khóc. Không nói một lời, vợ tôi bồng nó lên bờ. Tôi vùng theo. Nàng nghẹn ngào trong nước mắt: 'Anh đi đi. Gia đình anh hy sinh quá nhiều rồi.'
                      "Như một người không hồn, tôi xuống tàu. Nếu cái chết có đến vào lúc đo thì có lẽ còn nhẹ nhàng hơn cho tôi.

                      "Tàu từ từ rời bến. Con tôi nhìn theo và nhoẻn miệng cười, hai tay vung vẩy. Bóng hai mẹ con nhỏ dần. Tôi bật khóc. Lúc đó tôi không tin có sự cứu rỗi hoặc niết bàn, có thiên đàng hay địa ngục, có Chúa hay Phật. Tôi chỉ thấy một niềm đau khó tả nên lời.

                      "Chuyến tàu ra đi khong có gì trở ngại. Bãi đi yên lành, thời tiết êm ả. Trời không gợn một áng mây. Chung quanh nhìn đâu cũng thấy nước.
                      "Đang đi, chuyến tàu bỗng dừng lại. Đám người dưới hầm tàu xôn xao lo lắng. Chủ tàu lên tiếng nói rằng tàu đã tới hải phận quốc tế nên ngừng lại chờ thương thuyền ngoại quốc vớt. Trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, tiếng nói của chủ tàu không gợi cho tôi ý tưởng gì, và tôi cũng không màng tới cái kế hoạch của hắn. Tôi chỉ thấy nhớ vợ con, và có lúc chỉ mong bị bắt để tôi đi về. Nếu tôi về lần này thì chắc sẽ không còn bàn tính gì thêm nữa. Cay đắng ngọt bùi ra sao cũng được, miễn chúng tôi có nhau trên đời. Mệt mỏi quá rồi cho một kiếp người.

                      "Tôi hỏi chủ tàu chừng nào thì đi tiếp nếu không có tàu nào vớt. Hắn trả lời tính chờ tới khi được vớt vì thực tình hắn không biết đường đi đâu.
                      "Tôi bảo chủ tàu rằng hãy cứ nổ máy đi tiếp, tôi sẽ chỉ hướng đi nếu có hải bàn. Hắn nhìn tôi ngờ vực. Sau khi điều tra lý lịch tôi qua thằng cháu, hắn cởi mở hơn rót cà phê châm thuốc lá mời. Dựa theo kinh nghiệm bay không hành, tôi lấy bút vẽ hướng đi. Chấm điểm mốc. Đo khoảng cách. Tính thời gian. Nhắm giờ tới điểm mốc.

                      "Đám tài công lẳng lặng nhìn tôi. Tôi không giải thích. Sự yên lặng của tôi mới đầu làm cho họ hoang mang, nhưng rồi cũng chính sự yên lặng đó làm cho họ tin tưởng. Tôi tự dưng trở thành có trách nhiệm phải đưa tất cả mọi người trên tàu tới bờ. Tôi thấy lòng vui vui vì nghĩ mình vẫn còn nặng với nghiệp hoa tiêu.

                      "Tàu nổ máy đi Nam Dương. Tôi vẽ một đường đi an toàn, tránh được tụi cướp biển Thái Lan, dù phải hơi xa một chút. Chỉ cần đi thêm một đêm nữa thì lỡ tàu có chết máy gió cũng sẽ đẩy trôi về Mã Lai, Tân Gia Ba, hay Nam Dương. Nếu gặp được thương thuyền ngoại quốc vớt dọc đường thì càng tốt.

                      "Khi tàu đến điểm mốc đầu tiên đúng theo giờ giấc tôi hoạch định, đám tài công bắt đầu tin tưởng tôi. Họ trò chuyện tâng bốc. Chủ tàu ân cần hơn. Tôi có chỗ ngủ riêng thoải mái trên boong. Ăn uống
                      thả dàn, trong khi hành khách chỉ được vài muỗng nước và một chén cơm mỗi ngày.

                      "Hơn 75 người đi. Chỗ nào ngồi yên chỗ đó. Ăn, ngủ, đái ỉa, tại chỗ. Vợ con tôi nếu đi chung chuyến này thì vui biết bao nhiêu. Cứ nghĩ tới đó là tôi phải dấu mặt ngăn dòng nước mắt tuôn trào.
                      "Ban ngày, mặt biển phẳng lặng như gương. Đàn cá heo lội đua theo tàu. Con tôi mà thấy cảnh này thì chắc nó vui lắm. Tôi nhớ hai cánh tay mũm mĩm dễ thương vùng vẫy khi ưng ý. Tôi nhớ nụ cười duyên dáng của vợ. Đó là nụ cười đẹp nhất trên đời. Trước ngày đi, chúng tôi đã tính toán, hoạch định sẽ làm gì khi tới Mỹ. Bây giờ, có lẽ nàng đang ôm con thầm khóc trong phòng.

                      "Về đêm, trong khi mọi người yên ngủ, tôi đốt thuốc lá chờ sáng. Tiếng máy tàu rì rì như tiếng vọng cổ ai oán. Lòng càng chùng xuống khi nghĩ đến vợ con. Nhớ nhất là những lúc mình không phải với vợ. Hối hận thì đã muộn rồi. Nước mắt tưởng rằng làm vơi những cái đau trong lúc khốn cùng, nhưng không. Trên đời có những nỗi đau không vơi theo nước mặt, và không có cái đau nào giống cái đau nào. Mỗi giờ phút là một nỗi buồn đau. Cái đau sau nặng hơn, thấm thía hơn cái đau trước. Càng khóc, ruột càng thắt lại.

                      "Sau ba ngày hai đêm, tàu đến đảo KuKu như tôi tính toán. Tôi đánh điện tín cho vợ hay. Hai tuần sau, tôi được chuyển qua đảo Ga Lăng, nơi có Cao Ủy Tỵ Nạn làm việc. Vì biết tiếng Anh, toi được cử làm cho Cao Ủy. Hết phỏng vấn, qua thông dịch. Cứ làm cho đến khi mệt nhoài tôi mới về nghỉ. Tôi theo dõi tin tức người vượt biên mỗi giờ mỗi phút qua hệ thống vô tuyến điện của văn phòng Cao Ủy. Mỗi khi có tàu cập bến Ga Lăng, tôi chạy ra tìm kiếm. Rồi thất vọng đi về.

                      "Chiều lại chiều, tôi ra bãi biển chờ mong, hy vọng chuyến tầu tới sẽ có vợ con. Nhìn bên kia đại dương về hướng Việt Nam, tôi hình dung ra hình ảnh vợ bồng con trông cửa đợi chồng về hằng đêm. Qua bao nhiêu nghịch cảnh, nàng đã luôn có một niềm tin sắt đá vô điều kiện rằng dù có đi đâu chăng nữa, rồi tôi cũng sẽ trở về. Tôi không phản bội được niềm tin đó. Chúng tôi chắc chắn rồi sẽ đoàn tụ, nhưng chưa biết bao giờ và ở đâu.

                      "Trong đầu tôi lại hiện lên hình ảnh Tiến Biên vùng vẫy hai cánh tay mũm mĩm rồi nhìn mẹ nhoẻn miệng cười. Thằng dễ nuôi chi lạ, không biết khóc là gì. Ai cũng nói như thế."
                      Năm 80 Thuấn về Sài Gòn làm phu khuân vác các bao cám và bao than từ xe vận tải vô các vựa ở Xa Cảng Miền Tây. Trong hoàn cảnh kinh tế đen tối ngay cả những con heo cũng bị ăn chận. Những tiệm bán cám nhiều lừa lọc xay vỏ trấu thành bột trộn vào cám. Vì thế mà heo ăn cám này vô là cứ bị ho. May sao hai ba tháng sau thì Thuấn tìm được việc làm trong Hợp Tác Xã Trường Sơn chế tạo bột giấy cách nhà chỉ một con đường.

                      Trong khi Thuấn về Sài Gòn làm phu khuân vác thì ba của Thuấn tiếp tục làm ở xưởng ván và thỉnh thoảng lại về thăm nhà. Trong một chuyến đi từ nhà lên xưởng, ông đã vô ý dùng một tờ báo Tia Sáng cũ để gói thức ăn mang đi. Khi công an khám thấy tờ báo cũ đó, chúng đã bắt ông đưa đi học tập hết một năm rưỡi ở vùng Bù Đốp.

                      Làm ở xưởng bột giấy được một năm thì Thuấn nghỉ để tìm đường vượt biên. Trong chuyến mạo hiểm đầu tiên vào tháng 5/84 cùng gia đình bạn Du 72C , Thuấn đã qua được ngay Nam Dương.


                      Như thế là thoát thêm được một anh em kẹt lại sau 75. Phần Mai Ngọc Trai thì bị du kích gõ cửa ngay đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4 bắt ra ngồi chung với một đám anh em sĩ quan khác nghe những lời phỉ báng hạ cấp của mấy tên du kích. Dù tức hộc máu nhưng trong đám không ai lên tiếng vì chúng đang là những kẻ thắng trận. Trong thời gian năm năm cải tạo Trai ít nghe tin Lan dù thỉnh thoảng Lan có ghé thăm ba mẹ của Trai. Dù quá khổ nhưng Trai không trốn trại được với lời khuyên tha thiết của gia đình nên đành thí mạng cho trời đất. Khi thấy mấy ông già mù hay què còn bị giam cùng, Trai không nuôi hy vọng gì được về sớm thì chợt một ngày vào tháng hai ở trại tập trung Gia Trung tại Pleiku Trai được tên thả về. Trai mừng như sống lại và chỉ biết tạ ơn trời vì trong nhà không có ai dính líu tới Việt Cộng cả.

                      Sau khi về nhà, Trai trở thành một anh thợ đồ gốm làm chén đựng nhựa cây cao su, chấp nhận ngày hai buổi làm công kiếm cơm rau luộc qua ngày. Thế rồi một hôm Lê Công Ngữ và gia đình Lan lên Biên Hòa thăm Trai. Ngữ ủng hộ mối tình của Trai và Lan và cứ đốc thúc Trai cưới Lan. Đám cưới đã cử hành không lâu sau đó trong sự chấp thuận của hai gia đình, nhưng hôn thú thì không có vì Trai đã bị tước quyền công dân.

                      Trần Đôn Điền đã ghi lại những giòng sau.
                      “Tôi gặp lại Mai Thanh Hoàng ở trạm xá K-83 trong trại cải tạo Trảng Lớn. Tôi nhập viện vì bị áp xe ở mông, còn Hoàng thì vì vết thương cũ làm độc. Số là khi Hoàng đi bay, hình như ở vùng IV, đã bị bắn rớt . Sau đó Hoàng đã bị cắt mấy khúc ruột nhưng không chết. Ngày 30/4 khi Hoàng còn đang nằm bệnh viện chưa bình phục nhưng sau đó đã bị đuổi về.

                      Trong trại cải tạo chúng tôi ở chung với nhau được mấy hôm thì Mai Thanh Hoàng xuất viện. Gia đình Hoàng trước ở trong khu gia binh của Biệt Khu Thủ Đô. Trong thời gian Hoàng đi tù thì gia đình đã bị đuổi ra khỏi nơi đó. Sau này khi về tôi có dò hỏi nhưng không ai biết tin gì của Hoàng nữa. Chuyện này không lạ, vì trong thời buổi khó khăn đó không có ai có thì giờ và còn sức lực đâu để biết đến những chuyện gì không phải của mình.”

                      Không phải chỉ có những thằng ở thành phố mới bị khó khăn sau ngày 30/4. Nguyễn Thanh Minh ở Mỏ Cày, Bến Tre, cũng không khá hơn là mấy. Thật ra thì ngày xưa chỉ nghe cái địa danh này là đã thấy ớn rồi, nếu Minh không phải dân địa phương mà bị bắt ở đó thì chắc là đã được cho đi mò tôm ngay. Trong tháng 4/75 thì Minh đang học điều chỉnh giai đoạn II quân sự ở Nha Trang, và chỉ số của Minh thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Sang Lackland tháng 10/73, Minh đã học bay A-37 trong khóa sau Đinh Quang Minh. Tới cuối tháng giêng năm 75 về nước là Minh về Bến Tre ở mười bữa lấy vợ rồi mới ra Nha Trang. Gần cuối tháng 3/75 thì có ba chiếc C-130 ra Nha Trang để rước những SVSQ đi Mỹ về nhưng khi mấy chiếc đó đáp xuống thì đàn bà con nít leo lên chật ních. Minh mặc một bộ đồ dân sự bên trong và đồ lính ra ngoài leo lên tàu về Sài Gòn trình diện ở Tân Sơn Nhất và được khẩu lệnh rằng cho thông qua giai đoạn II quân sự và lên thiếu úy luôn.


                      Sau khi “đứt bóng” ngày 30/4 thì Minh trở về lại Mỏ Cày. Cha mẹ Minh ở đó mà Minh thì không biết đi đâu nên đành về đó dù biết rằng sẽ không yên. Quả nhiên Minh bị bắt đi học tập vì hai tội. Tội thứ nhất là đi Mỹ có thể dính với CIA. Tội thứ hai là vì là lính Không Quân. Họ buộc tội rằng Không Quân dù không có quân nhưng vẫn đuổi gà bắt vịt của dân. Thế là Minh vác gói đi học tập hết ba năm. Sau khi được thả về là Minh lo đi vượt biên, đến lần thứ 12 mới đi lọt. May mà chỉ bị bể thôi chứ không bị bắt chuyến nào. Tới năm 88, tức là cả chục năm sau khi đi học tập về, Minh và gia đình mới qua tới Mỹ. Hiện thời thì Nguyễn Thanh Minh nhớ nhất là những người bạn nhỏ con cùng khóa như Nguyễn Đình Hồng, Út Small, Đinh Văn Vượng...

                      Trong lúc các anh em 72A bị kẹt lại đang nằm trong các trại học tập thì người dân trong các phố hằng đêm bị họp để kiểm thảo và học tập. Những khuôn mặt lạ bây giờ xuất hiện khắp nơi trên đường phố miền Nam tạo nên những hình ảnh không có gì tươi sáng cho lắm với
                      Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ,
                      Nón tai bèo che khuất tương lai.

                      Những con đường Sài Gòn lại một lần nữa thay tên
                      Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý,
                      Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.

                      Đường Genéral de Gaulle xưa đổi thành Công Lý sau 75 đổi thành Nguyễn Văn Trỗi rồi Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Catinat xưa được đổi thành Tự Do bây giờ thành Đồng Khởi. Đường Lê Lợi, tức Bonard cũ, thì may mắn còn giữ được tên dù là những chiếc xe Hoa Kỳ đuôi hỏa tiễn mạ kền bóng loáng chuyên cho những đám cưới thuê để rước dâu thì không còn đậu ở đó nữa. Nhà sách Khai Trí vẫn còn ở đó, nhưng những quyển sách về tự do kinh tế hoặc nhân quyền thì đã biến đi đâu hết sạch.

                      Để phá sản đồng bào miền Nam, Cộng Sản đã dổi tiền ba lần. Tháng 9/75 đổi tiền lần thứ nhất, và sau đó là hai lần nữa trong những năm 78 và 85. Trong thời gian đó thì bao gia đình bị đẩy đi những vùng kinh tế mới, nhất là những gia đình có người phục vụ trong quân đội VNCH trước đó. Những cô thiếu nữ rất lo sợ cho tương lai của mình khi các thanh niên miền Nam phải đi học tập cải tạo không biết khi nào về
                      Khoai lang chấm muối ăn bùi,
                      Lấy chồng bộ đội lấy (thằng) cùi sướng hơn.

                      Một câu hát phổ thông của bài Đất Đỏ:
                      Ai có qua miền đồng xanh đất đỏ,
                      Coi xe chở về thành phố khoai mì.
                      ...
                      Tổ quốc ơi ta nghe lời sông núi!
                      đã được đồng bào miền Nam thân mến đổi thành:
                      Cây cuốc cong mình mong cây cuốc gẫy,
                      Cây cuốc gẫy thời mình khỏi ra đồng.
                      ...
                      Tổ quốc ơi ăn khoai mì ngán quá!
                      Để ghi lại những đau buồn sau năm 75, nhà thơ Hoàng Phong Linh đã viết:
                      Thân bách chiến từng đi làm lịch sử,
                      Mà ngày nay còn lại những gì đâu?
                      Đã vùi thân nơi núi thẳm rừng sâu,
                      Hay gục chết trong lao tù cải tạo.
                      Sau những khổ nhục đã kể bên trên, Nguyễn Hữu Thiện Tuấn đã cảm khái với:
                      Tháng quốc hận, mệnh nước là mạng ta,
                      Trời đổ lệ, cũng chưa bằng ta khóc.

                      Last edited by hung45qs; 06-01-2011, 01:14 AM.
                      Hung45HTQS

                      Comment


                      • #12
                        Xóa Bàn Cờ Làm Lại - Phần 1


                        Trong cuối tháng 04/1975 những anh em 72A bay fixed wing may mắn đã bay được qua U-Tapao, Thái Lan. Những anh em bay trực thăng thì ra hạm đội Mỹ. Cũng có những anh em hoặc là theo tàu bay người khác lái hoặc đi ké tàu biển chạy được ra nước ngoài. Những người còn ở lại, hoặc vì không chịu đi, như Võ Văn Thừa bay L-19 ở Cần Thơ, hoặc vì kẹt lại vì chưa ra Phi đoàn, chưa checked out hành quân, hoặc không chạy kịp vì lý do nào đó. Ngay trong giây phút cuối, con tàu Trường Xuân đã đưa được gần bốn nghìn người ra khỏi Việt Nam.


                        Sau ngày 30/4/1975, người dân miền Nam đã làm một cuộc bỏ phiếu bằng chân lớn nhất trong lịch sử. Có người bảo rằng nếu các cây cột đèn ở miền Nam mà có chân thì chắc chúng cũng tìm cách để ra đi. Hai chữ "vượt biên" luôn luôn lảng vãng trong đầu những anh em 72A còn kẹt lại. Dần dà rồi bằng cách nầy hay cách khác, đa số anh em phi hành đã ra được nước ngoài. Phần lớn dĩ nhiên là ở Mỹ, nhưng có thể nói là ở năm châu thì có mặt hết bốn, chỉ trừ châu Phi thì... đen quá nên không dám tới mà thôi.

                        Những người chạy được ngay vào cuối tháng 04/1975 đã được đưa qua Hoa Kỳ chờ đi định cư ở bốn trại là Pendleton ở California, Fort Chaffee ở Arkansas, Eglin Air Force Base ở Florida và Indianatown Gap ở Pennsylvania. Từ bốn trại đó, người tỵ nạn đã được bảo lãnh đi khắp nơi trên nước Mỹ.

                        Võ Thanh Hà và Võ Thành Long Châu từ Guam đã được đưa sang Mỹ vào trại Fort Chaffee ở Arkansas vào ngày 11/05/1975. Sau đó thì Hà được bảo trợ về New Jersey. Bởi không có nghề ngỗng với số vốn tiếng Anh khiêm nhường, người bảo trợ của Hà đã tìm cho Hà một việc rất thầm lặng là quét lá khô. Mùa Đông năm đó đã được giao cho một chiếc xuổng để hốt là ở một ngôi nhà của YMCA.

                        Trong một ngày nghỉ lang thang ra phố, Hà đã gặp một người đàn ông tóc đen, mừng quá chạy lại hỏi thì ra là một cựu trung úy Hải Quân. Thế là Hà về ớ chung với ông ta và mấy người Việt nữa. Ông trung úy tốt bụng nầy đã dẫn Hà đi xin được một việc làm assembler sống qua ngày.

                        Một năm sau ngày tới New Jersey, Hà đã nhờ Hội Hồng Thập Tự tìm ra địa chỉ của Vũ Văn Ninh, lúc đó đang ở Atlanta. Thế là Hà về ở với Ninh trong một căn studio mà tiền thuê có 75 đô một tháng. Tối thì hai chàng đi rửa ly cho một nhà hàng, ban ngày thì đi học. Năm 83 sau khi ra trường Hà đã về ở San Jose và lập gia đình vào khoảng cuối năm đó. Hiện thời thì Hà đang ở gần nhà Ủ Văn Anh Dũng. Đây là một sự trùng hợp khá lạ lúng, vì ngày xưa khi hai chàng cùng học trung học ở Bình Dương, Dũng thì học trường Nông Lâm Súc trong khi Hà học ở Trịnh Hoài Đức cách đó vài phút đi bộ.

                        Nhắc tới bạn bè, Võ Thanh Hà có kể rằng Phan Văn Út đã hết lòng vì bạn cũ đền độ đôi khi bỏ phế vợ con. Có khi Út lấy tiền mua bia đãi bạn hết trong khi vợ Út không có tiền mua xà bông giặt quần áo. Võ Thành Long Châu cũng từ Guam sang Mỹ vào trại Fort Chaffee ở Arkansas váo ngày 11/05/1975. Ngược với Võ Thanh Hà, Châu ra Arkansas, qua Utah rồi về định cư ở Houston từ năm 1983. Sau đó, Châu đã được gia đình ở Việt Nam cùng với một gia đình khác có con gái ở Mỹ làm mai mối, và Châu đã thành hôn với người con gái đó.

                        Đặng Chấn Kỳ sau khi rời Indianatown Gap ở Pennsylvania đã về Texas. Ra trường năm 1982, Kỳ đã đi làm ở Texas hai năm rối theo việc làm về sống ở giữa vùng sa mạc cách Bakersfield cũng như Lancaster khoảng hai tiếng lái xe. Thời còn ở Texas, Kỳ có gặp Nguyễn Trọng Sơn tự Sơn chùa nhưng sau mất liên lạc. Kỳ cũng có gặp Huỳnh Văn Dũng cùng khóa 3 Hoa Tiêu Trực Thăng Đà Nẵng nhưng Dũng bảo rằng không muốn liên lạc với ai.


                        Đinh Sỹ Hưng từ Phi Luật Tân đã đi theo tàu Việt Nam Thương Tín qua Guam. Trước khi rời Guam để đi Mỹ, Hưng đã lên văn phòng trại báo rằng sẽ về California, không ngờ lúc đi thì trại tạm trú California chưa sửa soạn xong nên đã được đưa về Fort Chaffee ở Arkansas. Đến khi Hạnh vợ Hưng sang Guam sau khi nghe báo như thế bèn bề trại Pendleton ở California tìm Hưng không thấy. Hạnh nhờ một ông Linh Mục tìn hộ và cho biết rằng Hưng đã được bảo trợ sắp về Cleveland, Ohio. Thế là hai người cùng về thẳng Cleveland và gặp nhau ở đó. Sau một mùa đông lạnh giá, hai vợ chồng bồng con tìm về phương Tây nắng ấm. Ở San Diego được một năm, đôi uyên ương đã về định cư ở San Jose.

                        Trong số những người đi được năm 1975 có Võ Văn Tấn tự là Tấn Kều qua Pháp. Gần đó có Nguyễn Phước Tuấn sớm chiếu hủ hỉ. Gia Nã Đại thì có Tân Già, Thụy Sĩ có Lâm Chùa. Miền Bắc California ngay từ đầu thì có Nguyễn Tiến Cường, Ủ Văn Anh Dũng, Nguyễn Đình Hòe, Đinh Sỹ Hưng. Miền nam California thì có Trần Hớn Dân, Đinh Đông Định, Trịnh Khanh, Hoàng Đình Lai. Người đã làm một lỗi lầm lớn trong đời là Vũ Xuân Quảng leo lên tàu Việt Nam Thương Tín trở về lại. Về tới Việt Nam tháng 10/1975 là Quảng xách túi đi "học tập" tới 1980 mới về, và tới 1994 mới sang tới Mỹ.

                        Trong những năm từ 1975 tới 1980 của tôi ở Mỹ cuộc đời buồn như chấu cắn. Thỉnh thoảng hai ba thằng Mít ở một thành phố buồn hiu ở miền Đông Hoa Kỳ kéo nhau ra ngồi Denny's hoặc Sambo's gọi những món ăn chán phèo như trứng chiên, khoai rán và thịt ba chỉ muối nhai trệu trạo, mục đích chính là có chỗ ngồi uống ly cà phê lạt nhách, châm vài điếu thuốc ôn lai chuyện xưa². Còn đâu tiếng rao "xực-tắc" ³ đêm khuya, gánh xôi buổi sớm, hàng cơm tấm đầu ngõ, quán cà phê cuối đường. Có những đên hà về muộn ngửi thấy từ nhà hàng xóm mùi hoa thoang thoảng thơm nhưng lại gợi cho mình nhớ những mùi hoa sứ, dạ lý, ngọc lan, bạch huệ. Ôi những cánh hoa trắng đơn sơ của miền nhiệt đới, chúng tỏa hương làm sao mà dư hương khó thể phai mờ.

                        Sau năm năm ở miền Đông Hoa Kỳ chỉ nuôi một mộng ước về miền Viễn Tây nắng ấm tình người, năm 1980 tôi đã rời Blacksburg, Virginia để về San Jose sống. Ngày lên máy bay tôi có 15 đô trong túi. Đó là số tiền của một anh bạn mới quen cho tôi làm tiền ăn quà đi đường sau khi tôi để lại cho hắn những tập lab reports của tôi viết trong năm trước đó. Lúc giã từ tôi không hỏi địa chỉ hắn, mà hắn cũng không hỏi địa chỉ tôi. Có người đã từng gọi bạn của hắn là những người "bạn đời", tức là những người mà vì đời đưa đẩy gặp nhau mà thành bạn. Những người bạn tôi có trong thời gian đó cũng vậy. Về tới San Jose thấy thiên hạ, kề cả những người trai trẻ lành lặn, lãnh oăn phe đú đởn ăn nhảy tơi bời, tôi đâm ra ngán ngẩm và hết sức mặc cảm cho sự không hợp thời trang của mình.

                        Giáng sinh năm 1980 tôi tìm gặp lại được Đinh Sỹ Hưng, Vũ Đức Trọng, sau đó là Nguyễn Đình Hòe và Ủ Văn Anh Dũng. Trong lần đầu tiên tôi gặp lại Trọng và Hưng khi hai chàng lái xe đền căn chung cư hai phòng ngủ mà tôi ở trọ cùng với năm ba người khác, tôi ngạc nhiên khi khám phá ra rằng hai chàng dù ở cùng thành phố nhưng rất ít khi gặp nhau. Đó là cái khởi đầu của mối dây liên lạc của tôi với 72A.

                        Thánh 02/1981 tôi về ở với Trọng. Căn chung cư hắn với tôi thuê chung thường trống trải vì có mình tôi là hay ở nhà. Không lâu sau đó tôi được thư của Mai Ngọc Trai gởi sang từ bên đảo Panathnikhom, Thái Lan bảo rằng đã vượt biên thoátcu2ng vợ. Đức con trai đầu lòng của hai vợ chồng Trai là Mai Khôi đã được sinh trên đảo. Tôi gửi cho Trai một là thư mừng vợ chồng Trai đi được, và đồng thời tả oán ngược rằng tôi rách quá. Không lâu sau thì Lý Thái Hùng xuất hiện, lúc đó chàng đã lấy vợ, và đang bị vợ bắt đi học bả nuôi. Hình như cho đến ngày hôm nay Hùng đã lấy xong cái cao học về ngành điện toán.

                        Giữa năm 1982 tôi lấy vợ. Đám cưới cấp tốc ở Baltimore có Vũ Đức Trọng và Nguyễn Hữu Thiện Tuấn làm phù rể và có thêm Đỗ Minh Hùng tham dự. Khi tôi đưa vợ về lại San Jose thì vợ chồng Đinh Sỹ Hưng đã ký làm nhân chứng trong tờ giấy hôn thú của vợ chồn tôi. Hai chành phù rể của tôi hiện thời đầu có gia đình êm ấm. Tuấn thì lấy vợ một cách âm thầm ít ai hay biết. Ngược lại, đám cưới của vợ chồng Trọng năm 1992 ở San Jose có rất nhiều gia đình 72A tham dự. Như thế thì tôi đã trả ơn cho Trong nhưng vẫn cón nợ Tuấn.
                        Những anh em đi kịp thời thì tránh được nạm đói của thập niên 1980. Trong lịch sử Việt Nam, trận đói trước đó là trận đói năm Ất Dậu 1945 do quân Nhật gây ra làm chất cả hai triệu người dân Bắc Việt và Bắc Trung Việt.
                        Tầu cười, Tây khóc, Nhật lo,
                        Việt Nam chết đói nằm co đấy đường.

                        Trong vùng đồng bằng sông Mã sông Hồng, người chết ngoài đường la liệt. Ở Hà Nội tối tối có những chiếc xe treo đèn dầu tù mù do những người phu đói kéo đi nhặt xác người dọc đường phố. Trong bài thơ "chuyến xe đưa xác" mô tả cảnh bi thảm nầy ở phố khâm Thiên là khu phố có những nhà hát ả đào cho những "tao nhân mặc khách" lẫn những nhà chứa "đào rượu", Nam Cao đã bắt đầu với những câu sau:
                        Ngã tư nghiêng nghiêng đóm lửa,
                        Chập chờn ảo hóa tà ma.
                        Đôi dẫy hồng lâu cửa mở phấn sa,
                        Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục.

                        Vào thập niên 1980, nạn đói trở lại với dân Việt, và lấn nầy thì cả ba miền đều phải chịu. Ngay ở miền Nam là vựa lúa lớn nhất Đông Nam Á mà đa số dân chúng cũng phải ăn cơm độn với bo bo cả chục năm trời.
                        Trong khoảng thời gian năm 1975 và những năm sau đó bên ngoài Việt Nam cũng có nhiều biến cố. Năm 1974 vua Faisal của Saudi Arabia đã cầm đầu vụ tăng giá dầu hỏa của khối Trung đông làm thành cuộc khủng hoảng nhiên liệu kéo dài nhiều năm sau đó. Năm 1977 phim Star Wars ra đời. Năm 1979 những người Iran theo ông đạo Ayatullah Ruhollah Khomeini đã tấn công vào tòa địai sứ Hoa Kỳ ở Teheran và bắt giữ khoảng 60 người Mỹ làm con tin đòi giao trả vua Shah, trong khi ở Kăm Pu Chia hơn hai triệu người đã bị Khờ Me đỏ giết. Năm 1980 John Lennon của Tứ Quái đã bị bắn chết và năm 1981 thái tử Charles kết hôn với Diana.

                        Qua những biến cố đó thì những ngườiViệt trong nước lo tìm đường vượt biên, hoặc là bằng thuyến lao ra đại dương, hoặc bằng đường bộ Tây Ninh băng qua Nam Vang sang Thái. Trên những con đường đó là những câu chuyện hãi hùng, như chuyện đảo Kra ở miền Nam Thái Lan trong vịnh Thái Lan, hoặc chuyện trả thù của dân Miên đối với dân Việt. Trong số một triệu sáu trăm ngàn người vượt biên, có những anh em 72A sau khi ở tù ra đã âm thần nhưng tích cực tìm cách ra đi. Sai đây là một chuyện vượt biên do Đỗ Minh Hùng kể.
                        " Vợ chồng tôi vượt biên thất bại sáu bẩy lần. Lần mất nhiều lần mất ít, nhưng may là chưa phải tù tội. Có lần tôi đi một mình vì vợ sắp sanh. Đang nằm chờ giờ ra bãi ở Vũng Tàu, được tin nàng sanh, tôi bỏ về Sài Gòn. Ngày 19/10/1979 là ngày chào đời của Tiến Biên, đứa con đầu lòng của chúng tôi. Thằng nhỏ dễ nuôi, ít khóc vô cùng.


                        Gia đình bên vợ tôi đã quen với cảnh chúng tôi sáng giả biệt, chiều gặp lại bao lần. Sau mỗi lần thua, chúng tôi cười xòa tự an ủi: "Mình còn có nhau. Của đi thế người".

                        Có lúc thua hết không còn tiền ăn. Không ai tin chúng tôi có gia đình ở Mỹ mà lại túng thiếu như thế. Về nhà lục lọi, cái gì bán được là cho đi. Vợ tôi còn hai cái quần sì líp mới toanh từ bẹn Mỹ gởi về chưa kịp mặc, tôi đem ra chợ trời. Người mua ngó tới ngó lui sợ đồ giả hoặc mặc rồi. Cuối cùng bán được đi mua một ít khoai lang, và vợ chồng lại nhìn nhau hạnh phúc.

                        Của đáng tội. Gia đình tôi bên Mỹ làm ngày làm đêm gởi tiền về cũng không bù kịp với những lần mất mát. Chúng tôi như chim bị tên, thấy cây cong là sợ. Có những chuyến đi họ tìm đến, chúng tôi bào cho vui rồi quên, sợ lại thua rồi chỉ khổ cho gia đình.

                        Cái Tất năm 1981 không vui như các năm trước vì chúng tôi một lần nữa lại định ra đi. Lần nầy chuyến đi có vẻ thật vì do anh em cột chèo bên vợ giới thiệu, và chắc vì có mua bãi. Cái không khí chia ly bao trùm những bửa cơm, hoặc những lúc gia đình họp lại chuyện trò. Tự nhiên vợ chồng tôi có linh cảm sẽ đi được.
                        Giã từ gia đình vợ tôi xong, vợ chồng tôi đi thật lẹ khỏi nhà. Cái trạng thái lâng lâng, buồn buồn khác với lần tiễn biệt gia đình tôi đi Mỹ tháng 04/1975. Chúng tôi bế con mới hơn một tuổi lên xe đò hướng về Vũng Tàu. Trên đường đi, chúng tôi thoát qua nhiều trạm xét hỏi trong sự hồi hộp lo lắng. Đến trạm cuối tôi phải để lại cái nhẩn cưới mới đi qua.

                        Chúng tôi đến Vũng Tàu vào giữa trưa. Sau khi viếng thăm một gia đình họ hàng, tôi đi ra phố ăn uống với họ cho có vẻ người địa phương khỏi ai dòm ngó. Vợ tôi bồng con đi lang thang cho hth giờ. Về chiều khi gặp lại, nàng khoe một tấm hình dưới tượng Phật hai mẹ con mới chụp chung. Tôi thần hỏi: "Sao chỉ có hai chụp hình trong khi ba người cùng đi?" Tôi ghét mê tín dị đoan nhưng cái điềm coi bộ không lành.
                        Đến tối chúng tôi được hướng dẫn tới bãi. Dù đã đấm mõm công an địa phương, chuyến đi cũng cần phải được giữ bí mật tối đa. Để giữ sự yên lặng, con tôi được chích một mũi thuốc mê để ngủ cho thẳng giấc.
                        Tới giờ lên ghe, người ở đâu tuôn ra quá nhiều. Thì ra họ đã được phân tán mỏng trong các nhà lối xóm gần bãi. Xăng và lương thực được chuyển xuống. Chúng tôi đượ chỉ định ở dưới hầm máy. Tiếng may nổ ồn ào cộng mùi xăng ngộp thở. Người lớn chịu còn không nổi huống chi con nít. Con tôi tỉnh giấc òa khóc, dỗ sao cũng không nín. Một ông bác sĩ chích thên cho nó một mũi thuốc mê nữa, nhưng thằng bé càng khóc to hơn. Có lẽ thuốc đã hết hạn không còn công hiệu. Con tôi bìng thường không khóc sao lại dở chứng lúc này!
                        Ai nấy đều lo sợ. Trong cơn khủng hoảng tôi dùng nấm xôi bịt miệng con tôi. Nó càng vùng vẫy khóc lớn hơn nữa. Sau cùng vợ tôi nói: "Anh ơi thôi đừng làm chết con. Để em bồng nó lên bờ." Tôi nhìn mọi người chung quanh với cặp mắt thù hằn. Dù không trực tiếp, họ là những người ly cách chúng tôi.
                        Ra khỏi hầm tàu, thằng bé nin khe, dựa đầu lên vai mẹ ngủ. Xăng nhớt và lương thực vẫn được tiếp tục chuyển xuống tàu. Tôi nhìn lên bờ thấy vợ vẫn nhẫn nại bồng con. Hình ảnh đó nhắc cho tôi nhớ rằng cả một đời qua, từ lúc quen tôi, nàng lúc nào cũng sống trong khắc khoải. Lo lắng trong những lúc tôi mặc áo bay lên ca, không biết có trở về. Lo lắng trong những đêm tôi mãi chơi về muộn. Lo lắng lúc tôi đi cải tạo không biết ngày nào ra. Lo lắng cho tương lai tôi sau khi cải tạo đã về...

                        Lòng tràn ngập tình thương cảm, tôi bỏ lên bờ. Tên chủ tàu dí súng lục vào bụng tôi, gằn giọng: "Bộ muốn phá hả?" Tôi lạnh lùng nhích mũi súng lên phía trái tim tôi: "Anh muốn bắn tôi, làm ơn bắn ngay đây, chết cho lẹ. Nếu vợ con tôi không đi, tôi không đi nữa. Tiền bạc anh cứ giữ." Không biết làm sao hơn, tên chủ tàu dịu giọng: "Thôi anh xuống trước đi. Nếu cháu không khóc nữa, tôi sẽ để chị và cháu xuống tàu."

                        Táu chuẩn bị rời bến. Chủ tàu ra hiệu cho vợ con tôi xuống tàu trở lại. Vừa xuống hầm tàu rầm rĩ tiếng máy, con tôi bật khóc. Không nói một lời, vợ tôi bồng nó lên bờ. Tôi vùng theo, nàng nghẹn ngào trong nước mắt: "Anh đi đi. Gia đình anh hy sinh quá nhiếu rồi." Như một người không hồn, tôi xuống tàu. Nếu cái chết có đến vào lúc đó thì có lẽ còn nhẹ nhàng hơn cho tôi.

                        Tàu từ từ rời bến. Con tôi nhìn theo và nhoẻn miệng cười, hai tay vung vẩy. Bóng hai mẹ con nhỏ dần. Tôi bật khóc. Lúc đó tôi không tin có sự cứu rỗi hoặc niết bàn, có thiên đàng hay địa ngục, có Chúa hay có Phật. Tôi chì thấy một niềm đau khó tả nên lời.

                        Chuyến tàu ra đi không có gì trở ngại. Bãi đi yên lành, thời tiết êm ả. Trời không gợn một áng mây. Chung quanh nhìn đâu cũng thấy nước. Đang đi, chuyến tàu bổng dừng lại. Đám người dưới hầm tàu xôn xao lo lắng. Chủ tàu lên tiếng nói rằng tàu đã tới hải phận quốc tế nên ngừng lại chờ thương thuyền ngoại quốc vớt. Trong trạng thái nửa me nửa tỉnh, tiếng nói của chủ tàu không gợi cho tôi ý tưởng gì, và tôi cũng không màng tới cái kế hoạch của hắn. Tôi chỉ thấy nhớ vợ con, và có lúc chỉ mong bị bắt để tôi đi về. Nếu tôi về lần nầy thì chắc sẽ không còn bàn tính thêm gì nữa. Cay đắng ngọt bùi ra sao cũng được, miễn chúng tôi có nhau trên đời. Mệt mỏi quá rồi cho một kiếp người.

                        Tôi hỏi chủ tàu chừng nào thì đi tiếp nếu không có tàu nào vớt. Hắn trả lời tính chờ tới khi được vớt vì thực tình hắn không biết đường đi đâu. Tôi bảo chủ tàu hãy nổ máy đi tiếp, tôi sẽ chỉ hướng đi nếu có hải bàn. Hắn nhìn tôi ngờ vực. Sau khi điều tra lý lịch tôi qua thằng cháu, hắn cởi mở hơn rót cà phê châm thuốc lá mời. Dựa theo kinh nghiện bay không hành, tôi lấy bút vẽ hướng đi. Chấm điểm mốc. Đo khoảng cách, tính thời gian, nhắm giờ tới điểm mốc.

                        Đám tài công lẳng lặng nhìn tôi. Tôi không giải thích. Sự yên lặng của tôi mới đầu làm cho họ hoang mang, nhưng rồi cũng chính sự yên lặng đó làm cho họ tin thưởng. Tôi tự dưng trở thành có trách nhiệm phải đưa tất cả mọi người trên tàu tới bờ. Tôi thấy lòng vui vui vì nghĩ mình vẫn còn nặng với nghiệp hoa tiêu.

                        Tàu nổ máy đi Nam Dương. Tôi vẽ một đường đi an toàn tránh được tụi cướp biển Thái Lan, dù phải hơi xa một chút. Chí cần đi thêm một đêm nữa thì lỡ tàu có chết máy gió cũng sẽ đẩy trôi về Mã Lai, Tân Gia Ba hay Nam Dương. Nếu gặp được thương thuyền ngoại quốc vớt dọc đường thì càng tốt.

                        Khi tàu đến điểm mốc đầu tiên đúng theo giờ giấc tôi hoạch định, đám tài công bắt đầu tin tưởng tôi. Họ trò chuyện tâng bốc, chủ tàu ân cần hơn. Tôi có chỗ ngủ riêng thoải mái trên boong, ăn uống thả giàn trong khi hành khách chỉ được vài muỗng nước và một chén cơm mỗi ngày.

                        Hơn 75 người đi. Chỗ nào ngồi yên chỗ đó. Ăn, ngủ, đái, ỉa tại chỗ. Vợ con tôi nếu đi chung chuyến này thì vui biết bao nhiêu.. Cứ nghĩ tới đó là tôi phải giấu mặt ngăn dòng nước mắt tuôn trào.

                        Ban ngày mặt biển phẳng lặng như gương. Đàn cá heo lội đua theo tàu. Con tôi mà thấy cảnh nầy thì chắc nó vui lắm. Tôi nhớ hai cánh tay mũm mĩm dễ thương vùng vẫy khi ưng ý. Tôi nhớ nụ cười duyên dáng của vợ. Đó là nụ cười đẹp nhất trên đời. Trước ngày đi chúng tôi đã tính toán, hoạch định sẽ làm gì khi tới Mỹ. Bây giờ có lẽ nàng đang ôm con thầm khóc trong phòng.

                        Về đêm, trong khi mọi người yên ngủ, tôi đốt thuốc lá chờ sáng. Tiếng máy tàu rì rì như tiếng vọng cổ ai oán. Lòng càng chùng xuống khi nghĩ đến vợ con. Nhớ nhất là những lúc mình không phải với vợ. Hối hận thì đã muộn rồi. Nước mắt tưởng rằng làm vơi nhưng cái đau trong lúc khốn cùng, nhưng không. Trên đời có những nỗi đau không vơi theo nước mắt, và không có cái đau nào giống cái đau nào. Mỗi giờ phút là một nỗi buồn đau. Cái đau sau nặng hơn, thấm thía hơn cái đau trước. Càng khóc, ruột càng thắt lại.


                        Sau ba ngày hai đêm tàu đến đảo KuKu như tôi tính toán. Tôi đánh điện tín cho vợ hay. Hai tuần sau tôi được chuyển qua đảo Galang, nơi có Cao Ủy Tỵ Nạn làm việc. Vì biết tiếng Anh, tôi được cử làn cho Cao Ủy, hết phỏng vấn qua thông dịch. Cứ làn cho đến khi mệt nhoài tôi mới về nghỉ. Tôi theo dõi tin tức người vượt biên mỗi giờ mỗi phút qua hệ thống vô tuyến điện của văn phòng Cao Ủy. Mỗi khi có tàu cập bền Galang tôi chạy ra tìm kiếm. Rồi thất vọng đi về.

                        Chiều lại chiều, tôi ra bải biển chờ mong, hy vọng chuyến tàu tới sẽ có vợ con. Nhìn bên kia về hướng Việt Nam, tôi hình dung ra hình ảnh vợ bồng con trông cửa đợi chồng về hàng đêm. Qua bao nhiêu nghịch cảnh, nàng đã luôn có một niềm tin sắt đá vô điều kiện rằng, dù có đi đâu chăng nữa rồi tôi cũng sẽ trở về. Chúng tôi chắc chắn rồi sẽ đoàn tụ, nhưng chưa biết bao giờ và ở đâu. Trong đầu tôi lại hiện lên hình ảnh Tiến Biên vùng vẫy hai cánh tay mũm mĩm rồi nhìn mẹ nhoẻn miệng cười. Thằng dễ nuôi chi lạ, không biết khóc là gì. Ai cũng nói như thế."

                        Thế là Hùng đã đi thoát.
                        Last edited by hung45qs; 05-26-2011, 02:20 AM.
                        Hung45HTQS

                        Comment


                        • #13
                          Xóa Bàn Cờ Làm Lại - Phần 2


                          Thế là Hùng đã di thoát. Sau đây là Nguyễn Hữu Thiện Tuấn trong phần "Một Tâm Tình".
                          "Trong tâm trạng mất tất cả tứ: Quốc Gia, Gia Đình, bạn đồng ngũ, bạn cải tạo, tôi phải thay đổi chỗ ở luôn luôn, khi thì ở tạm nhà bạn bè, khi thì ở sạp chợ để tránh công an nghi ngờ. Trong những tháng ngày lẩn trốn đó tôi không bao giờ được ngủ thẳng một giấc ngon lành mà lúc nào cũng là những giấc chập chờn. Sau nhiều lần vượt biên thất bại ở Cà Mau, Phan Thiết và Lâm Đồng, tôi đã làm một chuyến ở ngay Bến Tre, tức nơi được mệnh danh là vùng thành đồng đất thép của Việt Cộng trong thời chiến tranh.

                          Đây là lần thứ hai và cũng là lần cuối tôi được nhìn ngắm quên hương gần gũi từ ngoài biển Thái Bình Dương. Lần nầy thì trên chuyến tàu vượt biên qua Mã Lai Á. Tại cửa sông nầy tôi có được một phút giây bình tâm để cho con tim mình được xúc động trong thoáng chốc. Cái giây phút đó đã có thể trở thành thiên thu, bởi ngày hôn nay tôi còn nhớ rõ.


                          Giây phút đó đã xẩy ra trong một quán ăn nhỏ dọc sông Tiên Giang. Tôi đang ngồi uống ly ca phe đen một mình chờ giờ vuợt biên. Trong quán ăn ngoài tôi ra chỉ có một thiều nữ ngồi quay lưng về phía tôi ở một bàn khác. Có thể nàng là một người khách, hoặc cũng có thể nàng là người nhà trong quán. Nàng vận áo bà ba lụa xanh rêu và quần sa teng đen, dáng dấp gọn gàng nhưng không kém không kém phần tha thướt. Tôi ngồi lặng yên ngắm nhìn từ đôi bàn tay trắng nhỏ đến chiếc cổ cao, vòng eo nhỏ và đôi chân dài, nhưng đặc biệt là mái tóc huyền óng mượt xõa sau vai. Thỉnh thoảng gió từ sông thổi nhẹ lất phất những sợi tóc tơ bên thái dương. Cái hình ảnh đơn sơ mộc mạc thuần túy của một cô gái miền Nam ấy sao mà đẹp quá. Tôi không dám lên tiếng hỏi thăm mà cũng mong nàng đừng ngoảnh lại, bởi tôi biết rồi đây với tôi hình ảnh mà tôi ghi được của nàng sẽ là biểu tượng của những thiếu nữ Việt Nam yêu kiều cũng như những người mẹ Việt Nam nhiều chịu đựng. Trong vẽ đẹp mong manh đó, tôi thấy một đoạn đời thơ ngây đã mất cùng những ân tình gián đoạn vì những thăng trầm khốc liệt của lịch sử của chúng tôi, những sĩ quan phi hành nói riêng và những người lính trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung. Lướt qua trong trí tôi là hình ảnh những chiếc quan tài của những phi công gãy cánh mà tôi đã đến gác, những người vợ trẻ con thơ bơ vơ, và những thân phận tù cải tạo. Một thanh niên không có quyền công dân như tôi không có quyền mơ một mái ấm gia đình.

                          Tôi nghĩ đến những đoạn đường mà mình còn phải bôn ba, mà mình sắp phải đặt chân lên mà chua xót:
                          "Áo lụa Tiền Giang. Tình thầm nhủ
                          Mượn gió sông kia vuốt tóc thề
                          Chất đắng chia phôi, sao khó nuốt.
                          Còn ai thấu hiểu mảnh tình quê.
                          Phút linh cầu mong em đừng để mất.
                          Mảnh tim côi anh gởi lại nơi nầy
                          Hồn ở lại chẳng đi cùng thân xác.
                          Đời loạn ly duyên chẳng hẹn ngày mai."


                          Sau nầy khi đã qua tới Mỹ, tôi càng thấy rõ rằng cộng sản sẽ phải tự hủy diệt khi những nhân quyền căn bản nhất cũng không được tôn trọng. Lịch sử đã chứng minh điều đó vào cuối thập niên khi nó sụp đổ ở Âu Châu và Liên Xô, và bây giờ chính là những ngày tan của cộng sản Trung Hoa, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn.

                          Ngày nay đã luống tuổi và vẫn còn đang vật vã với cuộc sống ở xứ Cờ Hoa nầy, trong những lúc hiếm hoi có dịp lắng lòng ôn dĩ vãng, tôi đã gom lại một kết luận cho tất cả cuộc kinh qua của bản thân mình như sau:
                          Chiến tranh là tội lỗi tàn tệ nhất của con người bắt nguồn từ chính sự bất an trong tâm hồn họ, và chiến tranh càng khốc liệt thì tình yêu càng nở đẹp tươi mạnh mẽ, như sen nở trong đầm lầy vậy."
                          Tôi đồng ý với kết luận của Tuấn, nhưng tôi không thể tránh tự hỏi rằng như thế thì tình yêu có còn hiện hữu hoặc có ý nghĩa gì hay không trong những năm sau nầy của anh em 72A, khi mà một phần lớn đã không còn ở trong hoàn cảnh gian khổ nữa?

                          Xin được trở lại với câu hỏi vừa nêu ra trong một chương sau, bây giờ hãy trở lại với giòng thời gian.
                          Năm 1983 bệnh Aids đã gây sợ hãi cho mọi người.
                          Sau khi mang lại sự ổn định cho Trung Hoa vào năm 1978 bằng cách xóa bỏ những tư tưởng cực đoan, năm 1985 Đặng Tiểu Bình đã bỏ những lý tưởng khuynh tả của Mao Trạch Đông để cải cách kinh tế theo chủ nghĩa tư bản.
                          Trong cùng năm đó, nữ ca sĩ Madonna nổi như cồn không phải chỉ do tiếng hát mà còn nhờ cách trình diễn táo bạo và phô trương thân thể.
                          Vào ngày thứ hai đen 19/10/1987, thị trường chứng khoán Hoa Kỳ bị khủng hoảng trầm trọng.
                          Năm 1989 ở Âu Châu bức tường ô nhục Tây Bá Linh đã bị san bằng.
                          Trong cùng năm đó ở Á Châu, hàng ngàn người, đa số là sinh viên, đã bị thảm sát ở công trường Thiên An Môn.
                          Vào tháng 09/1989, Tổng thông Ronald Regan đã ký đạo luật nhận hết những người từng bị tù cải tạo Việt Nam qua diện HO.
                          Ngày Chu Văn Hùng lên đường đi Mỹ theo diện ODP do một người chị bảo lãnh vào tháng 04/1984 thì Thuấn lên thuyền đi vượt biên. Thế mà Thuấn tới sau Hùng gần cả năm.
                          Tháng 01/1985 Thuấn qua Mỹ và vể tiều bang Washington. Khi xuống thăm vợ chồng Hùng thì Thuấn đã gặp lại một cô em gái của Hùng mà ngày xưa ở Việt Nam Thuấn đã có lần gặp trong mấy lấn tới nhà Hùng ăn cơm.
                          Vào tháng 07/1990 thì Thuấn và em gái của Hùng đã nên duyên trong sự hiện của rất nhiều anh em 72A từ khắp nơi xa gần đến dự.


                          Nguyễn Đình Nam trong một lần đi thăm bạn cũ còn nhớ chút kỷ niệm sau:
                          "Năm 1986 mỗ qua Cali thăm mấy thằng 72A, và trong lúc trà dư tửu hậu đã buột miệng nói: "Đ. M., ngày xưa bay ở trên trời, giờ nầy tụi bây thành lính thiết giáp hết" (ủi máy cắt cỏ). Riêng mỗ sau hai lần di tản, 54 và 75, hơn chục lần đổi nơi cư trú, lên voi xuống chó đã nhiều, nhưng còn rất 72A "không bỏ anh em, không bỏ bạn bè".

                          Ở đảo tỵ nạn là nơi nhiều anh em 72A khác đã gặp lại nhau. Sau đây là Nguyễn Hoàng Tân kể về Phạm Văn Lộc:
                          " Tao gặp lại Lộc Hố Bom ở trại tỵ nạn Pulau Tanga, Mã Lai trong năm 1978. Lộc đi cùng gia đình, sau cùng định cư ở Úc. Về Lộc Hố Bom thì có nhiều chuyện để nói lắm: đời sống cá nhân, bay bổng , văn nghệ, võ thuật, tình yêu, ở dơ, tếu lâm, nhậu nhẹt, ôi thôi hàng hà sa số trong con người của hắn. I.P. của Lộc đã tặng cho hắn danh hiệu là "Dirty Old Man".

                          Ở trại ty nạn, mỗi ngày Lộc thoát y 100% đứng tắm ở giếng nước, từ tốn thả từng gáo nước trên đầu như không có gì lạ cả, trong khi cả đảo la làng lên về chuyện đó. Có lúc tao nghĩ hay Lộc Hố Bom là hiện thân của Bùi Giáng chăng? Có lúc hắn cởi trần và mặc quần tà lỏn dài tới gối, vá cho cả hai tay vào quần đần cho đã rồi tự hỏi tại sao có lúc 10 có lúc 11?? Trong khi thiên hạ phá lên cười thì Lộc lặng lẽ lỉnh đi chỗ khác như không có chuyện gì xảy ra cả.

                          Có lần Lộc Hố Bom tâm sực với tao rằng: "Ngân Hà là một mái nhà chung nuôi dưỡng thời hoa niên của chúng ta, ở cái tuổi mà cái xấu nhất cũng sẽ là cái đẹp nhất. Những hình ảnh tầm thường nhất sẽ không tầm thường nữa sau một thời gian, nhất là khi tuổi đời và thời gian đã cố ý hay vô tình tô điểm thêm màu sắc, để những vết nhăn của quá khứ không phải là cái thẹo, mà là một vết son để đời". Bởi vậy hắn quyết gìn giữ kỹ niệm thời quân ngũ như là một báo vật, không phải trên giấy trắng, không phỉa là mảnh bằng treo tường, mà ở tận đáy lòng của hắn.

                          Lộc à! Mầy đã để lại trong lòng một số anh em vài kỷ niệm khó quên. Hồi xưa tao rất ghét cái thứ trò chơi ấy. Nhưng bây giờ khó mà tìm lại những cáo dơ dáy dễ thương khờ dại ngày xưa. Tao biết mình sẽ già đi (Tân già ơi, cụ đã già từ lâu rồi!), nhưng ngặt gì thân xác cằn cỗi nầy với trái tim vẫn còn rung động như thuở nào, để biết rằng có những cái bất khả đảo nghịch và không đồng điệu chút nào ở trong ta khiến cho mình tiếc rẻ thời đã qua."

                          Đa số những anh em về định cư ở vùng Bắc California đều theo kỷ nghệ điện tử, trừ Chu Văn Hùng làm cho xưởng giấy, Đoàn Anh Thuấn thì từ ngày rời Seattle về làm em rể Chu Văn Hùng trong năm 1990 tới giờ ít thấy gặp ai. Nguyễn Văn Bực thì vì vẫn còn bực mình chuyện bị một bạn 72A uýnh ngày xưa nên đã tập luyện thành võ sư, nhưng vì nay đã già lỏng gân nên không còn ham đấu nữa. Thật ra bạn Bực đã bắt đầu bị đau lưng sau một phi vụ hành quân ngày xưa:
                          "Anh em kính mến, tớ lúc nào cũng tôn trọng và quí mến anh em, nhưng anh em cũng đừng bắt tớ phải làm ông đạo gật. Những gì tớ nói ra, có lẽ anh em cũng đã từng muốn nói nhưng vì uốn lưỡi bảy lần rồi lại gật đầu.


                          Còn chuyện bay bổng, tớ cũng xin nói rõ cái ngày đổ toán với Sư Đoàn 22 Bộ Binh ở Phù Mỹ, Qui Nhơn. Tớ đã ngồi co-pilot cho Trung Úy Thiện hoàn thành sứ mạng của Phi đoàn giao phó, nhưng chẳng may tàu bị crash và tớ bị gãy đốt xương sống. Lúc về khám sức khỏe thì bác sĩ bảo rằng tớ hãy cẩn thận và cho tớ nghỉ vài hôm, nhưng khi về Phi Đoàn thì ông Trưởng Phòng hành quân cắt tớ bay tiếp. Tớ nghĩ nếu tránh bay lúc ấy có hai điều bất tiện. Thứ nhất vì muốn làm anh hùng, và thứ nhì là muốn lấy lại tiềng tăm lính lè phè. Nói tới chuyện lè phè, tớ lại nhớ lại thời còn ở Ngân Hà, cán bộ Trần Hớn Dân đã móc tớ ra khỏi hàng quân: "Ông Bực đó, ông lè phè!", và bắt tớ nhảy trăm cái xổm, tớ nghĩ giờ đây còn sợ. Nếu giờ mà cán bộ Dân bắt tớ nhẩy ở trên giường thì còn họa may, chớ xổm thì tớ chết mất. Hai đẩu gối của tớ lỏng rồi. Cũng như cám bộ Đặng Quốc Thuần đã gọi tớ là "ông hay làm nổi", và bắt tớ tự giác trăm cái hít đất, giờ nghỉ lại còn nổi da gà. Khiếp, đây là một giấc mộng. Tớ không biết còn nằm mộng nữa không, nếu có tờ sẽ lên sân khấu giúp vui bạn bè thêm một vài trống canh nữa..."

                          Trong thời gian làm võ sư có nghiên cứu về y thuật, Bực đã tự chữa cái lưng của mình bằng một trong mấy chục bài thuốc bí truyền của võ lâm, mà chàng đã cho phép sao chép lại dưới đây, để thân tặng anh em 72A dùng trong những năm sắp tới.
                          Thiện Đăng Thần Dược Tửu

                          Toa thuốc nầy của Đạo Sĩ "Thích Thiện Đăng", giúp người già cả, lớn tuổi và những người lao lực bồi bổ cơ thể, sức khỏe gia tăng, bớt đau ốm, sống ngoài trăm tuổi:

                          1. Sa Sâm 5 chỉ
                          2. Thục Địa 5 chỉ
                          3. Đương Qui 3 chỉ
                          4. Phục Linh 3 chỉ
                          5. Cam Thảo 3 chỉ
                          6. Xuyên Khung 3 chỉ
                          7. Bạch Thược 3 chỉ
                          8. Thục Đoan 3 chỉ
                          9. Trần Bì 3 chỉ
                          10. Đại Táo 3 quả
                          11. Bạch Truật 2 chỉ
                          12. Phòng Phong 2 chỉ
                          13. Tần Giao 2 chỉ
                          14. Khương Truật 2 chỉ
                          15. Đào Nhơn 2 chỉ
                          16. Cam Khởi Tử 2 chỉ
                          17. Độc Hoạt" 2 chỉ
                          18. Khương Hoạt 2 chỉ
                          19. Mộc Quả 2 chỉ
                          20. Nhục Quế 2 chỉ
                          21. Ngưu Tất 2 chỉ
                          22. Đại Hồi 2 chỉ
                          23. Đường Phèn 1-1/2 lượng

                          Ngâm 22 vị thuốc với 2 lít rượu đế trong 2 tuần lễ. Đường phèn 1-1/2 lượng nấu với 1/2 lít nước, để nguội đổ vào rượư thuốc. Uống ngày 3 lần bằng ly nhỏ, sáng trưa và tối. Lưu ý: "Thuốc kỵ thai"!!!

                          Đây là bài thuốc đầu tiên trong số 50 bài mà Bực có. Bài thuốc nầy đặc biệt có thể dùng bồi dưỡng nhưng người đã từng bị tù đày đánh đập, và có số tuổi từ 50 trở lên. Ngoài toa thuốc nầy, những toa thuốc còn lại của Bực có những công dụng khác nhau. Bạn 72A nào có cần xin liên lạc trực tiếp với Bực.

                          Trong năm 1991, Trần Văn Ty đã sang Mỹ theo diện HO-7 sau 10 năm sống lây lất ở Hố Nai từ lúc ra tù. Hiện giờ Tỵ làm cho Bưu điện và hài lòng về gia đạo bình yên "trong cuộc sống căn bản đạo đức Công giáo". Con trai lớn của Tỵ bây giờ dạy tiếng Việt ở nhà thờ dù đang bận rộn trong đại học.

                          Năm 1992 có Lê Văn Nguyên cùng gia đình qua Utah ở cho đến bây giờ. Khi Vũ Xuân Quảng sang Mỹ trong năm 1994 thì những tác phẩm trong nước đã tìm được đường ra bên ngoài cho đồng bào hải ngoại xem. Một điều là cho dân Mít tỵ nạn ngạc nhiên là những tác phẩm miền Bắc nổi tiếng như Nhưng Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương hoặc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh không mang tính chất tuyên truyền mà là những tác phẩm nói lên những thất vọng cay đắng lớn của người dân miền Bắc.

                          Nguyễn Hữu Tín đã sang Mỹ với diện HO cùng một vợ hai con. Để nuôi con, hai vợ chồng mỗi ngày bắt đầu từ hai giở rưởi sáng là đã thức dậy đi bỏ báo. Ban ngày thì Tín làm một thợ máy. Hai con của Tín đều ngoan ngoãn học hành giỏi giang không phụ lòng cha mẹ chúng. Tí có đôi lời vì cái tên mới của mình:
                          " Bởi tao qua Mỹ năm 95 nên cái quê mùa trong tao còn rõ nét, và Thi Bần đặt cho tao biệt danh Năm Ruộng. Thấy tụi bây ở đây văn minh tao phát ham, tao thì rặn mãi mới ra một câu tiếng Mỹ để rồi khi nghe xong thằng kia cũng chẳng hiểu tao muốn nói cái chi. Cám ơn Thi Bần nhiều vì đã cho tao cái biệt danh nầy".

                          Trong năm 1996, Nguyễn Hữu Thiện Tuấn đã được trao một bằng tưởng lục với nguyên văn như sau:
                          Certificate of Recognition
                          Tuan H. Nguyen
                          In recognition of your service during the period of the Cold War (2 September 1945-26 December 1991) in promoting peace and stability for this Nation, the people of this Nation are forever grateful.
                          Signed
                          William Cohen
                          Secretary of Defence
                          DOD Form 2774, 1 July 96

                          Khi nhận cái bằng nầy, Tuấn vừa thấy hãnh diện vừa thấy buồn. Mục đích của Tuấn khi trình nó với anh em không phải là để khoe cho bản thân mà mong nó là một biểu tượng của sự nhớ ơn của dân tộc Hoa Kỳ cũng như của thế giới tự do gửi cho những chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong đó có anh em 72A cho thấy rằng những nỗ lực của chúng ta đã không uổng phí.

                          Hai người bạn 72A sang Mỹ sau cùng là Võ Văn Di sang năm 1997 và Trần Đồn Điền sang năm 1998. Bạn Di thì sống một mình đi làm gởi tiền về lo cho gia đình. Bạn Điền vứa đi làm vừa đi học lại, còn phải lo cho vợ con. Thật là những gương can đảm đáng phục.

                          Cuối năm 1999 Nguyễn Hữu Tín có về Bình Dương sau khi một người anh vừa mất. Trong lần đó, người bồ cũ của Võ Thanh Hà và cũng là cô bạn học cũ của vợ Tín có đến nhà Tín đưa thiệp mời ăn đám cưới đứa con trai lớn. Cô ta kể cho Tín nghe rằng ngày xưa đã vì Hà mà cô ấy về Long An học sư phạm. Sáng 29/04/1975 cô đã ra đầu ngõ đứng và thấy một chiếc trực thăng định đáp xuống nhưng không có chỗ và đã bay đi. Cô nhìn thoáng trên tàu có một người mà cô tin rằng là Võ Thanh Hà tính bay về để rước cô mà không được.

                          Những thành công của những di dân mới tời Mỹ mà người ta thường đăng lên báo đã được gia đình các anh em 72A sang Mỹ trong những năm 1993, 1994 một lần nữa chứng minh là có thật. Vũ Xuân Quảng đang làm chủ một tiệm dán kinh xe. Nguyễn Na có công ăn việc làm khá giả, con cái ngoan ngoãn nên người, lấy chồng giỏi giang, tử tế.

                          Bộ ba Đinh Đông Định, Hoàng Đình Lai và Khanh béo thì vẫn bán đồ mộc dùng trong nhà. Đỗ TRONG Nhâm thì nay đã quyết một lòng chung thủy với vợ nhà, không còn đi rong nữa.
                          Last edited by hung45qs; 06-01-2011, 01:22 AM.
                          Hung45HTQS

                          Comment


                          • #14
                            Đoạn Cuối Một Cuộc Đời


                            Cuối năm 1979 tôi tình cờ gặp lại cô bạn ở đường Nguyễn Thông nối dài ngày xưa, và lại tình cờ vào giữa lúc nàng sắp chuyển hướng cuộc đời qua một khúc quanh mới. Ngân không còn là một cô gái ngơ ngác ngày nào vào Sài Gòn học trung học đệ nhị cấp nữa mà đã trở thành một người đàn bà sang trọng giũa thời xuân sắc. Trong đám cưới của một anh bạn học cũ ở Virginia tôi đã ngồi cạnh bàn Ngân hàng giờ mà không nhận ra nàng. Khi nàng rời ghế đứng lên đi dâu đó qua bàn tôi, tôi chỉ mơ hồ ghi nhận một chiếc áo nhung xanh rêu mặc bởi một người đàn bà đẹp như một chiếc hoa đã mãn khai, thế thôi. Ngân đã là người nhận ra tôi trước.


                            Trong buổi tối hôm đó chúng tôi chỉ trao đổi vội vàng một vài câu vắn tắt. Tôi cho Ngân biết rằng sau ngày 30/04/1075 tôi đã chạy ra khỏi nước, và khi công an khu vực vào gọi chú tôi ra phường trình diện thì ông đã treo cổ chết trên cây vú sữa trước nhà, bởi ông biết rằng những quân nhân từ ngoài Bắc di cư vào Nam năm 1954 khó lòng có thể sống sót trong lao tù cộng sản lần nầy, nhất là bây giờ ông không còn trẻ nữa. Khi tôi hỏi thăm về Ngân, nàng chỉ nói rằng đã sang Mỹ giữa tháng 04/1975, và hẹn rằng "trước sau gì rồi anh cũng biết".

                            Những gì tôi được biết về cuộc đời Ngân sau đó đã làm cho tôi bận tâm mãi tới những năm sau nầy, kể cà sau khi Ngân mất. Trong năm 1974, khi Ngân bắt đầu năm thứ ba trường Luật thì người tu sĩ của dòng Khổ Sai ở Hàm Tân ngày xưa có tìm đến từ giã "con mọi nhỏ" và cho nàng một chiếc thánh giá bằng vàng nho nhỏ trước khi ông lên đường sang học và phụng vụ ở Tòa Thánh Công Đồng Vatican. Ngân đã xin được một chân công chức do một người bạn học có gốc gác ở Sài Gòn giới thiệu. Hai người anh trai của Ngân đã mất trong chiến tranh, và cha mẹ nàng cũng vì chiến tranh mà phải bỏ vườn tược không còn trồng cấy nữa. Trong công việc mới nầy nàng không phải làm chi cực nhọc mà lại còn có tiền giúp đở mẹ cha. Sau một thời gian thì nàng đã được, hay bị, ông chủ lớn để ý tời, và tháng 04/1975 khi nàng đã có bầu sắp sanh với ông thì ông đã đưa nàng sang Mỹ cùng với hai con, bỏ bà vợ lớn ở lại.

                            Năm 1981 Ngân đã giã từ địa vị vợ bé với ông chồng già để ra ở với mẹ nàng vượt biên mới sang. Ba năm sau Ngân lấy một người Mỹ gốc Ý và dọn về mở một nhà hàng khá sang trọng tại gần Universal Studio ở miền Nam California.


                            Trong lần duy nhất tôi ghé thăm Ngân vào năm 1990, người chồng lịch sự hào hoa của Ngân đã tiếp tôi hết sức nhã nhặn, hơn là tôi có thể làm được trong địa vị của ông. Ông đã mở nhạc Ý cho tôi nghe, trong đó cái bản mà tôi biết lời Việt là Trở Về Mái Nhà Xưa do ca sĩ tài danh Toni Rosi gì đó hát. Trước khi ra về tôi có xin phép đàng hoàng để được nói tiếng Việt với người bạn cũ trong giây lát. Tôi đọc cho Ngân nghe mấy giòng thơ con cóc tôi viết sau khi tới California:

                            Tôi đã đi Nữu Ước
                            Và đến Cựu Kim Sơn
                            Nhưng lòng tôi còn ngập tang thuơng
                            của một lần dời đổi.
                            Tôi vẫn nhớ những nẻo đường tăm tối
                            Mà ngày xưa tôi đã đi qua
                            Những nẻo đường nay đã cách xa
                            Một nửa vòng thế giới.
                            Nơi chôn ấy là nơi tôi đã tới
                            Đã lớn lên và chịu đựng khổ đau
                            Nhưng khổ đau là liều thuốc nhiệm mầu
                            Nuôi mầm thương yêu nẩy nở.
                            Những người cũ bây giờ tôi vẫn nhớ
                            Những ân tình nay đã quá xa xôi
                            Dù đồng bào tôi có lúc đãi bôi
                            Tôi vẫn hằng chấp nhận.
                            Có những điều làm cho tôi uất hận
                            Lớn lên trong xã hội đảo điên
                            Nhưng cuộc sống nào chẳng có những ưu phiền
                            Khi lòng ta tha thiết.
                            Bài học cũ đã dạy cho tôi biết
                            Muốn làm người phải đứng thẳng lưng lên
                            Chớ ươn hèn cam làm kẻ cúi xin
                            Và phải giữ niềm tin không rạn nứt.
                            Trong khó khăn tôi vẫn luôn cố sức
                            Giữ trong tim nguyên vẹn một tình yêu
                            Bảo vật cuối cùng tôi được mang theo
                            Khi rời xa đất nước.
                            Tôi sẽ không mắc lỗi lầm của những người đi trước
                            Trả giá quá cao mua lấy thành công
                            Nhưng khi thành công mà đánh mất
                            Những tin yêu dành dụm ở trong lòng
                            Chỉ là khi thất bại.
                            Tôi hằng mong một ngày tôi trở lại
                            Đứng chân cầu nhìn lại nhánh sông xưa
                            Thả hồn trôi theo dòng nước lững lờ
                            Và tự nhủ "mình vẫn chưa thay đổi".

                            Trước khi tàn buổi tối ngắn ngủi, tôi đã hát cho Ngân nghe một khúc nói về Huyền Trân Công Chúa (đã được, hay bị, vua cha gả cho Chế Bồng Nga để giữ tình lân bang hai nước Việt Chiêm) trong Con Đường Cái Quan của Phạm Duy:
                            Nhưng ánh tháp vàng
                            Cây quế giữa rừng
                            Tàn một mùa thương
                            Thì hương thì sắc tàn
                            Tàn cả tình yêu
                            Vì hận còn gieo Non nước cháy theo
                            Với ngọn lửa thiêu.


                            Nghe xong Ngân đã khóc, và tôi vội vàng đứng dậy kiếu từ. Đó là lần cuối cùng tôi gặp người bạn nhỏ của tôi. Một năm sau đó nàng chết trong giấc ngủ khi ôm trong lòng đứa con trai hai tuổi. Người bạn đã cùng tôi chia vui xẻ buồn trong những năm bất an trước ngày vào quân ngũ của tôi đã ra đi rất nhẹ nhàng. Bây giờ sau nhiều lần chứng kiến cảnh người ta tử giả cõi đời, tôi đóan rằng Ngân đã buông xuôi. Chỉ khi người ta không còn muốn sống người ta mới chết dễ dàng như thế được.

                            Hung45HTQS

                            Comment


                            • #15
                              Hiện Tại


                              Một ly Tổ Quốc Không Gian
                              Ba mươi năm giấc mộng vàng chưa nguôi.
                              Hai ly xứ sở xa xôi
                              Con sông đời đã tách đôi giũa giòng
                              Ba ly tri kỷ tương phùng
                              Chuyện xưa, chuyện cũ xin cùng nhau trao

                              (thơ của SVSQ Lý minh Trung)

                              Sau hơn 25 năm xa xứ hồi tưởng lại cuộc sống thời hậu chiến, người ta khám phá ra nhiều chuyện lạ. Có những người có xe rất láng nhưng không có nơi nào để đi, quần áo đẹp nhưng không có dịp nào để mặc, hoặc có dịp mặc thì cũng không có ai ngắm. All dressed up and nowhere to go. Có một bà kia buôn bán thành công nên rất khá giả. Bà có nhiều tiền nhưng không tiêu xài. Không hẳn là bà hà tiện nhưng bà tìm thấy được một niềm vui mỗi ngày nhìn thấy con số trong trương mục của mình tăng lên đều đặn. Bà vui vì biết rằng mình có nhiều tiền hơn những người bạn đồng hương. Có người chê bà chỉ biết phục vụ đồng tiền chứ không biết để cho đồng tiền phục vụ mình. Tuy nhiên, họ không thể chối cãi được rằng bà rất hài lòng với số tiền mà bà sở hữu. Nếu hạnh phúc chỉ là những gì ngưởi ta cảm thấy thì người ta khó chối cãi là bà có hạnh phúc.

                              Có một ông kia thích uống trà tầu của Việt Nam, và hễ có ai về Việt Nam là ông nhờ mua hộ một ít. Mỗi khi có được một gói trà mới là ông lại cho vào hộp thiếc đề ngày tháng cẩn thận. Trà của ông thật ra không ngon, nhưng ông cho là ngon, và ông rất hạnh phúc với những hộp trà của mình.


                              Một ông nọ có bà vợ rất xấu nhưng ông không biết rằng bà ta xấu, và những trang điểm kệch cỡm của bà với ông lại là duyên dáng. Vì thế mà ông suốt ngày chỉ lo canh chừng bà vì sợ người khác cuỗm mất. Ông cho mình là người may mắn có được một người vợ khả ái như thế và ông ta có hạnh phúc.

                              Hạnh phúc của một người bình thường trong khóa 72A là gì? Có lẽ họ cũng như một người bình thường khác là cần biết vai trò của mình, và muốn có cảm tưởng rằng vai trò của mình là cần thiết.
                              Thế gian đã thay đổi quá nhanh trong hai mươi lăm năm.Vai trò của người đàn ông trong hậu bán thế kỷ hai mươi đã thu hẹp nhiều. Họ không còn là một người chồng, a husband, mà là một người hôn phối, a spouse. Họ không còn là một người cha, a father, mà là một kẻ thân sinh, a parent. Họ không còn là người nuôi gia đình, a bread winner, mà là một kẻ cung ứng, a provider. Với các anh em 72A, những mơ ước cũ của năm 1972 đã phai tàn. Họ không còn ở trong một cuộc sống mà những người khác phải trông cậy vào họ cho chính sự sống còn hoặc an vui của mình.

                              Hãy thử tưởng tượng một màn kịch ngắn sau đây:
                              "Trong khung cảnh thân mật của một gian phòng ngủ nhỏ ấm cúng, một người đàn bà và một người đàn ông trong tuổi sồn sồn đang nằm song song trên giường. Người đàn ông đưa cánh tay cho người đàn bà gối đầu và hát nhè nhẹ:
                              "Sợi buồn con nhện giăng mau
                              Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
                              Lòng anh mở với quạt nầy
                              Trăm con chim mộng về bay đầu giường
                              Ngủ đi em mộng bình thường
                              Ru em có tiếng thùy dương đôi bờ..."


                              Người đàn bà chợt trở mình chống tay lên má và uể oải nói:
                              - Anh hát bài gì nghe rầu quá. Cái máy lạnh mình hư tự hổm rày anh không lo kêu người ta sửa đi chớ nóng như vầy thì quạt mà ăn thua gì! Tháng sau valentine anh mua cho em bộ máy Bose để đầu giường tối em nghe nhạc cho dễ ngủ nha. Còn mộng của em thì rất bình thường. Em thích nghe tiếng sóng của Địa Trung Hải, hay kỳ sinh nhật em tới đây anh mua vé cho em đi Greece chơi đi anh. Em muốn tới thăm lâu đài của hoàng gia Monaco. Tội nghiệp bà Princess Grace chết trẻ quá!"

                              Những cái mode thời trang hình như ảnh hưởng tới gia đình những người đã ở ngoại quốc từ lâu, hơn là gia đình những người mới sang. Trong những năm gần đây hình như người ta có một quan niệm sống mới. Ngày xưa thì các bà Mít ta hay nói "trời cho sao để vậy". Bây giờ cái gì không thích thì đi sửa, bơm, đắp, cắt, nâng, thắt, cột... Đàn ông thì sửa lý lịch. Trung sĩ thành trung úy. Có những anh bần cố nông bỗng dưng xưng là con vua cháu chúa. Có kẻ đi thuê phòng chạy ăn từng bửa nhưng ra đường thì đóng veston và lái những chiếc xe sang trọng. Có người bi quan cho rằng những chuyện đó là hiện tượng báo hiệu đã sắp đến ngày tận thế. Có người tuyên bố đời là tạm bợ nên theo thầy cô đồng bóng quàng xiên.

                              Trong khóa 72A từ xưa ai cũng biết Trai Đầu Bò là ai, thế mà bây giờ Mai Ngọc Trai lại tự xưng là Mai Đẹp Trai, rồi lại còn giải thích ẩm ương rằng "ngày mai mới đẹp trai", cứ làm như là đẹp trai khi tuổi đã xế chiều là một điều đáng lưu tâm lắm lắm. Lê Văn Cảnh, người bạn tù được về sớm cùng với Đoàn Anh Thuấn, có lẽ nhờ trông giống người Ấn nên sau khi về không lâu đã lấy quốc tịch Ấn. Cảnh và cô bạn ngày xưa lãnh chàng ra đã thành vô chồng, và vài tháng sau khi hai người lấy nhau đã cùng đi Ấn Độ. Thuấn đã có lần nghe Cảnh kể rằng trong thời gian ở Ấn Độ, vợ chồng Cảnh nay đây mai đó từ Madras (Nam Ấn) đến tận thủ đô Tân Đề Li, và có những lúc đã "cắm trại" chung với các hippy đủ loại chủng tộc. Không biết với quốc tịch Ấn mà Cảnh làm cách nào để hai vợ chồng qua Mỹ được mới là tài tình. Trong thập niên 80, ba bạn Lê Văn Cảnh, Trần Ngọc Dương và Lê Hữu Thiện đã làm chung một hãng ở California.

                              Dù từ khi sang Mỹ tới giờ vẫn còn đang hết sức cố gắng chạy đua nước rút để hầu gỡ lại phần nào những năm trời đã mất, Trần Đồn Điền vẫn giữ được nụ cười tươi sáng:
                              "Các bạn có thể đang tự hỏi tại sao vào những ngày cuối trước 30/04/1975 tôi ở Sài Gòn mà lại bị kẹt lại. Tôi xin trả lời rằng nếu tôi đã không tần ngần khi nghĩ đến bố mẹ, các em, và đừng suy nghĩ nhiều về câu nói "đừng có vì mê gái mà quên gia đình" của bố tôi trong những ngày sanh tử đó thì đúng là hôm nay cuộc sống của tôi phải khác nhiều, có điều sướng hay khổ hơn tôi không thể nói được. Nếu biến cố tháng 04/1975 không xẩy ra thì có lẽ anh em chúng ta vẫn còn sống mãi với nghiệp bay bổng dù chưa biết giờ nầy ai còn ai mất.

                              Có người bạn đã hỏi tôi sao vẫn còn có thể cười thoải mái sau bao nhiêu biến cố thăng trầm. Để trả lời cho hết ý thì có lẽ sẽ dài dòng lắm. Tôi chỉ xin thưa rằng: "Nếu cứ nhăn nhó thở than thì cũng chẳng thoát cái vòng vây của những lo toan cơm áo gạo tiền. Thôi thì những cái lo lớn lao cùng cực trong đời đã trải qua rồi, bây giờ xin quẳng gành lo đi cho nhẹ bớt"."

                              Trở lại chuyện Hải Ác Tăng muốn trả ơn Út Small mà trả hoài không hết từ ngày đầu tới cổng Phi Long nộp đơn. Hải đã trả bằng cách nào?
                              "Xin thưa dễ hiểu thôi, cứ mỗi lần nhậu thì tôi gồng gánh cho Út. Có món ngon trong bàn nhậu thì tôi gắp cho Út nhiều hơn cho Nhuận Nhòe. Khi Hùng Đoi đem lính lên đánh thì tôi đở đòn cho Út, khi Út say nằm ngủ thì tôi kiếm chăn đắp cho nó. Như vậy kể ra tôi cũng biết ơn biết nghĩa và sòng phẳng đấy chứ."

                              Và Út Small đáp:
                              " Ác Tăng ơi, lúc xưa món nợ ân tình giữa tao và mầy chưa có nặng lắm, mới sơ sơ thôi... chứ bây giờ thì đã đong đầy. Ai nợ ai vay rồi chúng mình sẽ tính. Nhớ năm xưa tao đến xứ nầy (*miền Đông Hoa Kỳ), bạn bè tiếp đón nồng nàn và thân tình quá đi thôi. Có thằng Nhòe, Ác Tăng là mầy, Phương, Tùng Lèo. N.H.T.Tuấn, Lý Anh Dũng. 72A ơi, "một nhà thân ái", cố gắng mà giữ tấm chân tình nầy nha các bạn. Tình bạn bè, tình đồng đội, tình 72A sẽ sống mãi trong tao."


                              Về hiện tại, Hải Ác Tăng nói:
                              "Bây giờ gặp nhau, ngồi nhậu cứ nhắc chuyện ngày xưa và anh em cứ thường bảo nếu bây giờ bọn mình còn trong lính tệ lắm cũng là Trung Tá, nhưng tôi bảo có khi lên bàn thờ cũng không chừng, hay xuống Thượng Sĩ nếu có máu tham nhũng. Nếu đã có máu nầy thì không nên tính tới hàng tá hay tướng, có phải như vậy không? Riêng tôi thì chưa phân biệt được mình có loại máu gì nên không dám khẳng định.

                              Dù ngày nay thằng thì tóc bạc, thằng thì đầu hói nhưng khi gặp nhau cũng như ngày xưa, không màu mè không khách sáo. Món nào ăn thì ăn, món nào cúng thì cúng, chỉ có vậy thôi. Còn Vũ Nam Nhuận thì với tôi cũng là chỗ thân thích, mỗi lần nhậu anh em vẫn gọi là Nhuận Nhòe. Mỗi khi như thế thì Nhuận lại nhay nháy con mắt, có lẽ vì muốn anh em dấu giùm cái tên nầy với bà xã, nhưng anh em không hiểu ý cứ ngỡ là chàng có tật nhòe kinh niên. Nhậu với chàng nầy thì phải biết ý và ngồi vào phía trong cùng, nếu không thì chàng sai đi lấy bia lấy mồi."

                              Hải Ác Tăng đã có lần về thăm chốn cũ:
                              "Năm 1996 tôi trở về thăm lại Nha Trang, nơi đã cho tôi những kỷ niệm của một thuở vào đời. Bây giờ Nha Trang đông đúc rừng người, phố xá nhà cửa chen chúc khó nhận ra những dấu vết ngày xưa. Tôi về khách sạn Hải Yến đường Trần Phú (*tức đường Duy Tân cũ cạnh bờ biển) ngồi ngoài balcon uống chai bia lạnh châm thuốc lá trầm ngâm suy nghĩ mông lung. Nhìn ra mặt biển trong xanh với những lượn sóng chiều tung tăng, tôi thả hồn về những kỷ niệm và nhớ những người bạn thân trong quân ngũ. Ngày xưa trong những lần nghỉ phép bọn tôi cũng thường ra đó tắm biển, có khi phải trở về phạn xá ăn cơm vì không có tiền đi ăn tiệm. Tiền lương thì mỗi tháng mụ Trinh, đào thằng Trai, vớt gần phân nửa vì tiền ghi nợ, phần còn lại thì trả cho quán ông Tá, coi như không còn đồng xu dính túi. Bây giờ có ít đô la rủng rỉnh nhưng đâu có thèm khát thứ gì ngoài việc gặp lại bạn bè ngày cũ. Tôi định ra Huỳnh Thúc Kháng tìm lại Nguyễn Ngọc Phương, cô sinh viên Đại Học Kinh Doanh Đà Lạt một thời đã cùng tôi khám phá Nha Trang thơ mộng dễ yêu và dễ nhớ, nhưng lại sợ sự chao động của cơn gió chiều sẽ làm hoảng hốt những chiếc là cuối thu... Tôi sợ tình cảm yếu mềm rồi sẽ bị chết đuối trong vùng biển xa xưa đó và đã tự nhủ lòng rằng... thôi hãy để tất cả trôi về dĩ vãng..."


                              Những năm cuối cùng của thế kỷ đã qua đi trầm lặng hơn người ta nghĩ. Không có thiên tai, chiến tranh nguyên tử, cúp điện, máy tính hư hỏng, tận thế v.v... như nhiều người đã quả quyết. Trong khi đó thì các khoa học gia đã vẽ được bản đồ di tính thể mà họ hứa hẹn là trong tương lai sẽ được dùng để chửa bách bệnh cũng như để tái tạo những con người mới. Trong năm 1998 nhiều anh em 72A đã gặp được nhau ở Nam California trước khi Trần Đình Long tức Long Đui từ giã cõi đời. Trong năm 1999 Nguyễn Na đã gả con với sự hiện diện của nhiều anh em 72A. Trong năm 2000 khóa 72A đã họp mặt ở San Jose. Trong lần đó, anh em hơi ngạc nhiên với sự xuất hiện của Phạm Công Chiến Thắng, không biết mới tìm đường về với anh em từ đâu. Phần Bùi Văn Huynh thì dù xa quê hương đã khá lâu nhưng vẫn thích kiểu ngồi nước lụt là cứ phải thu hai chân lên ghế.

                              Trong năm 2000, Hoàng Hữu Khuê và Lý Minh Trung cùng làm việc cho hãng Lockheed Martin Aeronautics ở Fort Worth, Texas. Đỗ Văn Bính cũng có một thời làm cho hãng nầy khi nó còn cái tên là General Dynamics, nhưng sau đó thì Bính đã bỏ ra làm chủ nhân của một siêu thị tên là Việt Nam Plaza. Thiếu Tá Bé của Nha Trang xưa cũng đang cư ngụ tại Houston, Texas.

                              Cuối năm 2000 trước khi hết nhiệm kỳ hai, Tông Thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã sang thăm viếng Việt Nam. Nếu có đi qua chợ Bến Thành, có lẽ ông đã ghi nhận rằng hai bên mái của chợ là hai biển quảng cáo của Compad và Motorola. Gì chứ trên phương diện tiêu thụ thì cái nước Việt Nam bé nhỏ rách rưới kia bao giờ cũng có một thiều số nào đó rất nhiều tiền!

                              Trong năm 2001 anh em 72A lại có dịp gặp nhau ở San Jose. Nguyễn Duy Bình lên hát một bài giúp vui làm mọi người cười thoải mái, dù khuôn mặt chàng thì vẫn xa vắng và suy tư như là, dùng lời của Ủ Văn Anh Dũng, một "người của cõi trên". Trong dịp gặp nhau đó, Đinh Đông Định lúc nào cũng thấy bế con. Hình như từ ngày làm lại cuộc đời với vợ trẻ ít khi được phép đi đâu nên thấy có vẻ đứng đắn hẳn ra... Sau dịp vui đó thì Hà Tấn Thông tự dưng xuất hiện trên email sau bao nhiêu năm vắng bóng.

                              Trong những năm sau nầy, có một số anh em 72A đã về thăm lại Việt Nam. Sau khi bang giao Việt Mỹ được tái lập, có bạn bắt đầu nuôi hy vọng sẽ được về hưu ở một nơi yên tỉnh nào đó ở quê nhà. Nguyễn Hữu Thiện Tuấn còn nhớ một câu chuyện nhỏ trong thời còn đi "học tập cải tạo" ở Phước Long. Vào một buổi chiều kia sau khi đi lao động về thì Tuấn mệt lả ra và nằm lăn ra mặt đất mà ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy thì trời đã nhá nhem tồi, Tuấn thấy mặt mũi mình đang vùi trong đất và trong miệng thì đầy đất cát. Trong lúc định thần để tỉnh giấc, Tuấn đã ngửi thấy mùi đất xông vào mũi và cảm thấy một cảm giác đầm ấm thân thuộc. Mùi đó là mùi đất Việt Nam. nơi chàng sinh ra và trưởng thành. Cảm giác đó bây giờ Tuấn vẫn còn nhớ như in trong tâm khảm. Nó làm cho Tuấn có một ước muốn rằng khi nào từ giã cõi đời này thì được gởi nắm xương trong lòng đất thân yêu đó. Tuấn mong rằng Việt Nam sẽ sớm thoát khỏi sự cai trị của những bàn tay ngu dốt bạo tàn để được trở về. Tuy nhiên nếu ngày Tuấn "ra đi" mà tự do chưa có trên quê hương, thì dù chỉ có nắm tro tàn được trỡ vể cũng được phần nào hả dạ.

                              Khi ôn lại chuyện cũ, có lẽ để tự an ủi cái thân già, Tuấn đã nói:
                              " Cái đại nạn của miền Nam cũng có thể coi rằng cái phước vì cái thế "bất chiến tự nhiên thành"sau khi cái cảnh chết chóc, tan tác và những khó khăn của buổi giao thời đã qua. Đây cũng như ở trong võ thuật, các bậc tổ sư thượng đẳng không bao giờ phải xuất chiêu mà kẻ địch vẫn hàng phục vì sự phản tỉnh của chính họ (*bốn mức thượng thừa trong võ thuật là "thanh, khí, ý, tâm". Khi đạt đến trình độ nầy thì các võ sư không dùng quyền cước nữa. Ở mức cao nhất, một võ sư sẽ dùng tâm để cảm hóa địch thủ). Điều này đã được chứng minh vì sau năm 1975 dân chúng miền Nam đã vẫn có cảm tình với những cựu chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hơn là quân Cộng sản. Cũng có thể số trời đã định rằng Mỹ, Nga, Tàu phải nhả Việt Nam ra, bằng không thì chính họ sẽ bị thiệt hại thê thảm hơn cả trong chiến tranh nguyên tử không chừng."

                              Sau khi đọc những giòng email cãi nhau chí chóe về cuốn sách 72A, Nguyễn Đình Nam đã nói:
                              "Dù mỗ chưa trực diện với bọn Cộng để thỏa chí phi hành nhưng cũng hãnh diện vì 72A đã có những anh em từng góp phần bảo vệ đất nước, nhất là những người vị quốc vong thân. Mỗ xin nghiên mình đốt nén hương lòng tri ơn các anh em đó.

                              Bây giờ mỗ vui khi thấy anh em 72A lại góp tiếng với đời. Dù người ở Pháp, kẻ ở xứ Kangaroo hoặc xứ Cà Na, anh em đang ngồi lại với nhau ôn chuyện huấn nhục, cải tạo, bay bổng, thậm chí còn đem nhau ra chế diễu, để tìm lại một chút thoải mái ở các xứ tạm dung nầy."

                              Nguyễn Văn Bực thì ít khi ngọt ngào nên đã làm ngay mấy câu thơ về tình đời:
                              "Tình đời chát chua ai mua tớ bán
                              Rao bán cho đời không dáng người mua
                              Bán mua là chuyện bông đùa,
                              Không mua tớ quảy chát chua đem về."


                              Qua tất cả những biến cố thăng trầm, Nguyễn Ngọc Châu Phòng hiện thời vẫn còn bay. Đây là một chuyện đặc biệt, bởi dù rằng nhiều anh em vẫn còn tiếc nuối nghiệp bay, chỉ có Phòng là còn hành nghề phi công kiếm sống. Hơn nữa, không phải là bay mấy chiếc cessna con con mua vui, mà là bay Boeing cho hãng UPS hẳn hòi. Theo tờ Việt Mercury là ấn bản tiếng Việt của tờ San Jose Mercury News ra ngày 08/12/2000 thì hiện thời có bốn phi công gốc Việt bay cho các hãng hàng không Mỹ, và tất cả đều là phi công quân sự của Không Lực Việt Nam trước năm 1975. Hãy nghe Phòng nói về nghề bay của chàng:
                              "Tôi viết để xin cùng đóng góp với các bạn những kỷ niệm của cuộc đời bay bổng. Những gì tôi có được ngày hôm nay là nhờ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và các bạn 72A. Không Quân đã cho tôi cơ hội học thành pilot, và các bạn đã khuyến khích, giúp đở tôi. Sau khi mãn khóa huấn luyện chuyên môn tại Hoa Kỳ, tôi cùng các bạn trở về để hy vọng làm được một cái gì cho quê hương với những chuyên môn học được ở xứ người, nhưng rủi thay vận nước đổi chiều, và một lần nữa chúng tôi lại ra đi.

                              Lần thứ hai qua xứ Cờ Hoa này không giống như lần trước, bởi trong lần nầy mọi việc bắt đầu từ con số không. Tôi cũng như các bạn vừa đi làm vừa đi học để may kiếm được một công việc phù hợp với khả năng và sở thích. Như các bạn, tôi cũng đã cắp sách trở lại trường học. Tôi đã trở thành một chuyên viên bảo thì phi cơ, hay còn gọi là một Aircraft Technician. Sau chín năm rưởi cầm kềm búa, vặn bù loang, đẩy máy bay ra taxiway, kéo máy bay vào ụ sửa thì đùng một cái hãng khai phá sản.

                              Khoảng ba tháng trước đó, tôi đã có ý định chuyển nghề. Tôi lần mò ra phi trường nhỏ ở gần nhà để bắt đầu lại nghiệp bay. Trong lần thi lấy lại bằng bay để tạm kiếm sống, tôi đã ở nhà của Nguyễn Văn Hải tự Hải Mù ở Dallas.
                              Sau năm năm ngồi ở ghế flight engineer, rồi ghế co-pilot, vào năm 1992 tôi đã đi thụ huấn khóa trưởng phi cơ đầu tiên tại xứ nầy trên chiếc Boeing 727. Liên tục sau đó, tôi đã học bay A300-600 và MD-11.

                              Khi đi làm, ai cũng có cấp bậc tùy theo công việc, và phần tôi cũng thế. Đối với các bạn bè thân thương, lúc nào tôi cũng tự hào làm một Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân như ngày cũ, một thành viên của khóa 72A. Các bạn cùng tôi không nhiều thì ít đã trải qua những kỷ niệm từ trong đời quân ngũ, những kỷ niệm đó trong tâm khảm tôi lúc nào cũng ghi nhớ và quý trọng. Ngược lại trong công việc làm, những người cộng sự phải xưng hô với tôi bằng cấp bậc Captain mà tôi mang. Chữ Captain dùng cho dân sự có nghĩa là Trưởng Phi Cơ hoặc Thuyền Trưởng. Trong đia hạt quân sự, danh từ Captain của quân đội Mỹ được dùng trong hai trường hợp. Trong Bộ Binh, chữ Captain có nghĩa là Đại Úy. Với Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến, chữ này có nghỉa là Đại Tá, tức là cấp bậc của một vị thuyền trưởng.

                              Trong những chuyến bay tôi thường suy nghĩ vẩn vơ khi nhìn quê hương thanh bình đẹp đẽ bên dưới cánh, và tự hỏi tại sao tôi không đang ở trên vòm trời Việt Nam cùng với phi hành đoàn cùng một tiếng nói với tôi? Khi dừng cánh nghỉ ngơi ở bất cứ nơi nào trên xứ Mỹ này mà có bạn 72A cư ngụ tôi đều cố gắng gọi điện thoại thăm hỏi và gặp gỡ tâm sự. Những lúc có dịp thuận tiện để dẫn bạn đến thăm chiếc phi cơ mà tôi đang bay và giới thiệu với phi hành đoàn rằng "Đây là bạn cùng khóa của tôi tại Quân Trường đào tạo Sĩ Quan của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa", phi hành đoàn bao giờ cũng không quên đứng nghiêm chào. Những người bay chung với tôi phần lớn là các cựu Sĩ Quan trong quân đội Hoa Kỳ với ít ra là 20 năm trong quân ngũ.

                              Có ai đó đã nói về phi công rằng: "Mỗi đường bay là một cánh hoa rơi". Với nghiệp bay ở xứ nầy thì hoa không rơi mà hoa rụng thì đúng hơn. Kỷ niệm bay bổng thì nhiều, tôi chỉ xin chia xẻ với các bạn vài mẩu chuyện nho nhỏ sau đây.
                              Trên chiếc B-727, một phi hành đoàn có ba người, còn A300-600 và MD-11 thì chỉ có hai. Bay trong đêm khuya hết nơi nầy đến nơi khác đôi khi cũng buồn, nên khi hãng bắt đầu mở đường bay cho hành khách đi các trung tâm du lịch trên thế giới trong các charter flights thì tôi cũng dự tranh đi cho biết mùi nước hoa vào trong phòng lái.
                              Các phi vụ nầy thường có ba tiếp viên phi hành, phần lớn là nữ. Trong một chuyến bay, vì bận làm ít giấy tờ nên tôi là người lên phi cơ sau cùng. Khi tôi tới cửa phòng lái thì một cô tiếp viên phi hành xinh xắn hỏi: "Xin lỗi. Ông đi đâu?" Tôi chỉ vào phòng lái và nói: "Tôi đi làm." Cô ta vội vã tránh đường cho tôi và chào mừng rối rít. Sau khi làm xong các thủ tục thường lệ trong phòng lái, tôi gọi interphone và mời các tiếp viên phi hành vào gặp tôi để tôi giới thiệu phi hành đoàn và dặn dò những điều cần thiết khi khẩn cấp. Tưởng cũng nên nói rõ rằng phi hành đoàn là người của hãng tôi, còn tiếp viên phi hành là người của hãng khác nên chúng tôi chưa biết nhau. Cô tiếp viên gặp tôi lúc nẩy đã ân cần xin tôi dạy cho cô cách phát âm họ Nguyễn của tôi để cô ta giới thiệu với hành khách trong safety briefings. Khi thấy cái tên lạ tai của trưởng phi cơ, hành khách đã yêu cầu được nghe giọng nói của tôi, và tôi đã chìu ý họ. Khi đã bình phi, cô tiếp viên mang lên trao tôi một mảng giấy nhỏ trong có ghi: "Captain, I like your accent. This is my phone number..."

                              Một kỷ niệm khác xẩy ra tại Madrid, Spain. Sau khi ký giấy tờ, một cô nhân viên ở dưới đất có chuyện trục trặc và đã đến nói chuyện với anh Co-pilot nhờ giải quyết. Anh ta chỉ lại tôi và nói: "Ông đó mới có thẩm quyền". Cô nhân viên đã xin lỗi tôi vì đã sơ ý không nhìn thấy cấp bật đeo trên vao áo của tôi. Sau khi giúp cô giải quyết vấn đề xong, tôi từ biệt cô và cho phi cơ chuyển bánh. Hai tuần lễ sau, khi tôi trở lại cùng trạm đó thì tôi đã quên khuấy mất mẩu chuyện be bé trước đó, không ngờ cô ta lại tìm đến gặp tôi. Vừa bước xuống máy bay, tôi thấy cô ta đã đứng chờ tự khi nào với cả một rỗ trái cây trên tay. Khi cô trao rỗ trái cây cho tôi và ngỏ lời xin lỗi, tôi cảm ơn, bảo cô đừng bận tâm, và hỏi cô có rảnh thì tối nay đến khách sạn đi ăn cơm Tây Ban Nha với phi hành đoàn. Tưởng nói cho qua chuyện thôi, không ngờ tối đó cô ta dẫn thêm hai cô bạn gái đến đón chúng tôi đi ăn thật.

                              Trên đường bay đi Á Châu, muốn qua Thái Lan phải liên lạc trên tần số với đài kiểm soát không lưu Viêt Nam. Khi bay ngang Việt Nam, hôm nào trời tốt thì tôi thấy rõ ràng Đà Nẵng, Vịnh Cam Ranh, Nha Trang, là những nơi tôi có những kỷ niệm buồn vui. Trong giây phút đó, tôi hay thầm nghĩ không biết giờ này các bạn bè còn ở lại, cũng như những người đã phân tán khắp nơi có còn nhớ đến những hình ảnh xưa cũ mà tôi đang nhìn thấy."

                              Trong suốt nhiều năm qua, Hoàng Văn Trung đã và đang tham gia rất tích cực những sinh hoạt chính trị, biểu tình chống cộng ở địa phương chàng sống. Trung đã xuất hiện trên báo chí Việt và Mỹ cũng như trên vô tuyến truyền hình Mỹ. Đặc biệt là trong những dịp sinh hoạt như thế, anh chàng 72A nầy thường xuất hiện trong trọn bộ kaki vàng với alpha, biểu chương và nón kết y như thời còn ở Nha Trang. Đến bây giờ mà bộ đồ tiểu lễ của Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân vẫn còn xuất hiện.

                              Bây giờ hãy để cho Hoàng Văn Trung kết chương nầy:
                              "Mỗi lần ôn lại thời bay bổng, tôi lại nghĩ đến những người bạn 72A của tôi. Có những người đã không bao giờ thực hiện nổi giấc mơ nầy! Có bao nhiêu người ôm hận về nước mà không có cánh bay trên ngực. Một Lâm Ngọc Tuấn học trực thăng bên Alabama, solo bị rơi gẫy chân phải về nước. Một khóa T-37 cuối cùng có Diệp Phước Ngà bị kẹt lại Shepperd trong ngày 30/04/1975. Khóa đó đã nổi loạn dàn trận với quân cảnh Mỹ tại Sheppard trong những ngày uất hận 30/04/1975. Cả khóa đã không có được cánh bay.

                              Một Nguyễn Văn Chiến tự Chiến Răng Vàng đi đón biệt kích bị bắn nổ tàu. Một Nguyễn Văn Bực của Thần Tượng lao vào lưới phòng không bốc một phi công A-37 bị trúng SA-7 rơi ở Khánh Dương và đem phi công an toàn trở lại căn cứ. Một Huỳnh Đình Chí được đặc san của Không Quân Mỹ lên trang nhất bên cạnh chiếc T-38 vì đã solo với thời gian thực tập ngắn kỷ lục, chỉ vỏn vẹn 15, 16 tiếng đồng hồ.

                              Khóa 72A chúng tôi có thể là khóa trẻ nhất của Không Quân để có và đã có những người hy sinh trong cuộc chiến. Chúng tôi vẫn không quên ơn của các vị đàn anh ở mọi cấp bậc trong mọi quân binh chủng đã đi trước chiến đấu và hy sinh để giữ cho thế hệ chúng tôi được hưởng một chút gì còn sót lại của hai chữ tự do và sáu chữ son vàng kiêu hãnh: "Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa".

                              Xin trân trọng với những hy sinh mất mát của thế hệ đàn anh. Thề giữ trọn danh dự người lính Việt Nam Cộng Hòa, không bao giờ làm chó săn cho Việt Cộng phản bội quê hương."

                              Last edited by hung45qs; 06-05-2011, 10:09 PM.
                              Hung45HTQS

                              Comment



                              Hội Quán Phi Dũng ©
                              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                              website hit counter

                              Working...
                              X